Mật Mã Maya

Chương 39 - Chương 39

trước
tiếp

Tên vệ sĩ cho tôi uống ít nước. Hắn đấm bóp cho tôi một cách thô bạo – cơ thể Chacal lại quen với cái kiểu này – và đỡ tôi ngồi thẳng lên. Cuối cùng hắn cho tôi ít bột sô-cô-la nhão không đường đựng trong cái cốc nhỏ và chắc tôi phải liếm dần. Tôi liếm. Tôi đoán trong đó có một lượng ca-phê-in bằng năm tách cà phê espresso. Sọ Đá Quý 2 khom người bước qua cánh cửa và đến ngồi bên kia bàn thờ, chỗ Răng Ngạnh 7 đã ngồi. Ông ta vẫn ăn vận như lúc trước, vẫn đeo những chuỗi ngọc bích và vỏ ốc xà cừ, nhưng hình như vừa tắm gội xong. Có thể là tắm hơi. Tôi nghe thấy tiếng ai đó, có lẽ là một tên vệ sĩ khác, đến ngồi bên cạnh tôi, nhưng phép lịch sự của tôi đã tiến bộ và tôi không ngoái ra nhìn.

– Vậy đây là lần đầu tiên Muối Mặn Già đến với ngươi, – Sọ Đá Quý 2 nói.

Tôi ra hiệu “vâng”.

– Dấu hiệu tốt đấy.

Ông ta nói thêm rằng đa phần những người khác không tận dụng được sự giúp đỡ của Muối Mặn Già tốt đến thế trong lần đầu. Cũng như hầu hết các loại ma túy khác thôi – tôi nghĩ – nếu không, khi quen mui sẽ còn đến mức nào? Tôi cược rằng nếu được chơi cùng LEON với thứ thuốc này, chẳng mấy chốc tôi sẽ tìm ra được tên doomster. Mà đấy là tôi mới dùng nhiều lắm một phần tư liều thôi đấy. Không phải là nó không suýt giết chết tôi, nhưng vẫn còn tốt chán.

Sọ Đá Quý 2 lấy ra một điếu xì gà mới, châm nó vào một hòn than và rít.Tôi ngồi nhìn. Đột nhiên, và rất ngạc nhiên, ông ta mời tôi một điếu. Tôi lịch sự nói mấy câu cảm ơn. Ông ta cũng lịch sự đáp “không có gì”. Ông ta châm nó vào hòn than và đưa cho tôi.

Tôi khó khăn lắm mới đưa được tay lên nhận. Rõ ràng dư chấn đặc trưng của Bụi của Muối Mặn Già chính là cảm giác như vừa rơi bộp từ trên cao xuống, hay như vừa bị tiêm vào máu sáu mươi pound chì nén nhỏ lại. Tuy nhiên, tôi vẫn xoay xở tìm được điếu xì gà và đưa vào miệng- tôi biết nên nhập gia tùy tục, nhưng tôi không thích hít bằng mũi – và hít vào một hơi khói. Nó có hương vị tự nhiên rất đậm, thêm vị sô-cô-la và thoảng mùi bạc hà, mùi đá lửa khen khét và cuối cùng là mùi xơ vải. Mẹ kiếp, ngon thật. Cơ thể của Chacal nghiện thứ này điên cuồng.

Ừ thế có nghĩa là lão già Sọ Đá Quý 2 này cũng có tí ấn tượng với mình, – tôi nghĩ. Tôi đã hạ gục cái người tên là Răng Ngạnh 7 kia khá ngoạn mục, phải không? Có điều đừng mở mồm nhắc đến chuyện ấy, – tôi tự nhủ. Đừng xúc phạm người đếm mặt trời của ông ta, dù lão có kém cỏi thật.

– Chúng ta từng có một người đếm mặt trời “tám sọ” nhưng hắn chết rồi, – Sọ Đá Quý 2 nói, rõ ràng ông ta đọc được ý nghĩ của tôi.

Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì hay nên đáp thế nào. Có lẽ ông ta muốn nói đến người đếm mặt trời cũ của ông ta có thể chơi với tám viên đá. Nếu thế thật, người đó hẳn phải khá thông minh. Tôi ra hiệu “tôi hiểu”, mặc dù chả hiểu gì.

– Răng Ngạnh 7 chỉ là người đếm mặt trời ba sọ, – Sọ Đá Quý 2 nói, – chúng ta đang tìm cách có được một người đếm mặt trời bảy sọ: Đổ Trời. Nhưng hình như nhà Vẹt Đuôi Dài cũng đã mời hắn.

Tôi gật đầu. Vậy là giữa hai nhà đang diễn ra một cuộc ganh đua để có một người đếm mặt trời giỏi nhất. Cũng như hồi tôi còn nhỏ, ở Alta Verapaz, các làng tranh nhau để mời được ông thầy lang mát tay nhất.

Một kẻ hèn hạ không được phép đặt câu hỏi với bề trên, nhưng có lẽ tôi nên thử liều xem sao. Ông ta đang cởi mở với mình mà, – tôi nghĩ. Chúng tôi có một mối liên hệ đặc biệt mà, phải không?

– Vậy theo ngài, ở trên tôi, ai là người đếm mặt trời giỏi nhất? – tôi hỏi.

– Gió Lốc 11 là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix, – ông ta đáp, – ngoài ra chỉ còn ba mươi mốt người đếm mặt trời chín sọ mà thôi.

Qu sự tiu ngỉu trong giọng nói, rõ ràng ý ông ta là cả thế giới chỉ có ngần ấy mà thôi. Ông ta nói Gió Lốc 11 đã được thu nhận vào nhà Mèo Rừng từ khi còn nhỏ, cách đây hơn sáu mươi năm, và bây giờ quyền năng của lão ta đã như huyền thoại. Thực tế, trong lúc chúng ta đang nói chuyện đây, lão có thể đã nhắm vào tôi. Và chả mấy chốc nữa, lão sẽ đoán ra được cuộc săn hươu chỉ là làm trò. Lão sẽ xác định được tôi ở đâu bằng một ván cờ Hiến tế và nhà Mèo Rừng sẽ cử một đội quân đến túm cổ tôi.

Tôi hỏi vì sao nhà Ocleot vẫn còn tức giận với chúng ta – tôi lại thầm nhấn mạnh từ chúng ta trong đầu – nếu chúng ta đã đền bù cho họ bằng chuyến săn hươu. Vừa hỏi dứt mồm, tôi đã thấy hối tiếc. Câu hỏi vừa khó chịu vừa ngu xuẩn. Ăn nói cẩn thận đấy, – tôi nhắc nhở mình.

Nhưng nếu câu hỏi đó có làm Sọ Đá Quý 2 bực mình thì ông ta cũng chả tỏ thái độ gì. Ông ta trả lời rằng vì một lý do: có thể hầu hết người thị tộc Mèo Rừng ngờ rằng chúng tôi cố gắng phá họa lễ hiến sinh trên đỉnh kim tự tháp. Nhưng căn nguyên sâu xa thì bắt nguồn từ rất lâu rồi. Mèo Rừng đã đóng vai trò thị tộc đứng đầu thành Ix kể từ khi nó mới ra đời, được cho là ngày Chúa tể 9, Ngụm rượu 3, 8.0.0.0.0.0. Ngày hôm đó, Mèo Rừng 1 đã tuyên bố giữ lại cho mình các hang nước trong núi của ông ta và chia những vùng đất đai xung quanh ngọn núi đó cho các thành viên trong gia đình và bốn ahau cho bốn thị tộc cao quý khác, trong đó có Đại Bàng 1.

Hiển nhiên, nếu Mèo Rừng 1 đã từng tồn tại thật đi chăng nữa thì Chim Ruồi Có Nanh 9, ahau của các ahau đang trị vì hiện nay, cũng không phải hậu duệ chính tông của ông ta như mọi người vẫn tin. Tuy nhiên, không ai định phản đối quyền chiếm giữ các nguồn nước ngọt (tức là hệ thống tưới tiêu, nắm giữ nó cũng có nghĩa là kiểm soát gần hết nông nghiệp của Ix) mà ông ta được thừa hưởng, hay độc quyền của ông ta đối với nô lệ, nó đến từ thực tế rằng ông ta là người Ix duy nhất được phát động chiến tranh. Nhà Mèo Rừng cũng quản lý các phận sự của toàn bộ thành Ix, tức là các nghi lễ, và các bạn có thể gọi nó là quyền giáo hội. Họ còn có độc quyền săn bắn một số loài động vật nhất định ở hầu hết mọi nơi, quyền đòi lữ khách dâng tặng lễ vật – tức là thu thuế cầu đường – quyền phân chia chiến lợi phẩm thắng trận, độc quyền mua bán ngọc bích, vân vân và vân vân. Cứ một unial (tháng gồm 20 ngày) họ lại sở hữu một ngày, thêm năm ngày mỗi tun (năm dương lịch 360 ngày). Và quan trọng nhất, họ có độc quyền đối với các loại ma túy của cờ Hiến tế, một loại hàng hóa không thể thiếu, được những người đưa tin Hậu Duệ Bướm Đuôi Nhạn mang về từ Mexico.

Ái dà, – tôi nghĩ – vậy ra đây là chuyện buôn bán ma túy.

Sọ Đá Quý 2 nói còn có một loại ma túy thứ hai của trò chơi mà Răng Ngạnh 7 chưa bao giờ được thử, gọi là Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

– Nếu ngươi gặp Người Chèo Xuồng Già, ngươi sẽ thấy ông ta thậm chí còn già hơn cả Muối Mặn Già, – ông ta nói, – ông ta già đến mức da chuyển sang màu xám đen. Ông ta đứng phía sau xuồng, với mái chèo dài trên tay.

Theo tôi hiểu thì Muối Mặn Già là tên nhân cách hóa của một loại ma túy gây xáo trộn không gian – tức là nó làm anh mất cảm giác về không gian. Và có lẽ, việc kết hợp hai loại này sẽ cho hiệu quả tương hỗ.

– Những người đếm mặt trời nói nếu ngươi có cả hai, họ sẽ ban cho máu ngươi nhiều chớp đến mức ngươi sẽ nhìn vào được cả lòng đá, như thời tổ tiên, cụ kị chúng ta.

Tuy nhiên, Sọ Đá Quý nói, ngay cả với độc quyền mua bán ma túy của trò chơi, nhà Mèo Rừng vẫn không phải bất khả xâm phạm. Thị tộc đó đã lung lay từ vài k’atun trở lại đây. Quá nhiều k’iik nhà Mèo Rừng có lối sống xa xỉ mà chả có mấy tí việc để làm. Họ ngày một nghèo túng đi. “Các uay của họ còi cọc đi”, đó là cách nói của Sọ Đá Quý 2. Nó tương tự như ở Châu Âu thời xưa người ta nói máu của họ loãng dần đi. Vì một số lý do nào đó, những thế hệ gần đây của hoàng tộc Mèo Rừng có xu hướng không bình thường, bị đẻ non hoặc gặp trục trặc tương tự. Chim Ruồi Có Nanh 9 là một thằng lùn bẩm sinh, và chưa ai ngoài người thân trong gia đình được nhìn thấy bộ mặt ông ta lúc không đeo mặt nạ. Nguyên nhân chắc chắn không phải vì họ ăn bằng đĩa đúc từ chì của người La Mã cổ, nhưng chắc chắn họ đang làm gì đó không phải lối. Và thời gian gần đây, họ quản lý đất đai rất tồi, tiêu phí tiền của vào hội hè và xây dựng. Trong lễ hội vừa rồi, để ăn mừng “chiến thắng”trong trận bóng hông được dàn dựng trước, họ đã dùng rồi đốt bỏ lông của bốn mươi ngàn tám trăm con chim ruồi xanh tai tím, mỗi chiếc trị giá hơn một tháng công lao động của một tên nô lệ. Mà đó mới chỉ là một trong số hai mươi loại lông họ đã sử dụng.

Trong khi đó, thị tộc Đại Bàng và thị tộc Vẹt Đuôi Dài lại giàu lên, cả thị tộc Itz’un nữa, tuy có kém hơn một chút. Họ đã tổ chức những chuyến đường thông thương ngày một dài, chạy suốt từ Sonora đến tận Panama. Sọ Đá Quý 2 điều hành việc buôn bán sô-cô-la của đất nước này chẳng kém gì một tơ-rớt. Các nông dân trồng và thu hoạch ca-cao là nông nô nhà tròn thuộc quyền cai quản của ông ta. Hàng chục người làm nghề xát vỏ, lên men, phơi khô và rang hạt ca-cao – chế biến sô-cô-la cần rất nhiều công đoạn – đều được cai quản bởi những thành viên thuộc gia đình lớn của ông ta. Các thương nhân đường dài đều ít nhiều có quan hệ máu mủ với ông ta. Và ngay cả những hàng hóatrao đổi được đem về từ nước ngoài, như muối và đồ dùng bằng đá vỏ chai, cũng được cất trữ tại một trong những khu làng của Sọ Đá Quý 2 trong khi chờ ông ta quyết định nên bán ở đâu và bán vào lúc nào.

Gần đây, nhà Đại Bàng đã trở thành chủ nợ lớn nhất của nhà Mèo Rừng, và cũng như tất cả mọi hoàng tộc trên thế giới, các Mèo Rừng liên tục vỡ nợ. Mặc dù Sọ Đá Quý 2 không dùng khái niệm ấy, dĩ nhiên. Cách gần nhất để thể hiện nó trong tiếng Ix là nhà Mèo Rừng đã trở nên “không được chào đón”. Tức là họ không được dâng tặng lại quà cáp nữa. Thay vì nhượng lại một phần tài sản gốc, như một vài quyền lợi đối với nguồn nước chẳng hạn, họ lại càng ngoan cố giữ rịt lấy, Chim Ruồi Có nanh 9 đã bắt đầu yêu sách “lễ mừng”, tức là thuế bổ sung đối với các loại hàng hóa thậm chí chỉ đi qua đường của nhà Mèo Rừng.

Tôi hỏi về ba dòng họ quý tộc khác của Ix, Sọ Đá Quý 2 cho biết hai trong số đó, nhà Vẹt Đuôi Dài và nhà Itz’un,cũng ghét nhà mèo Rừng không kém gì nhà Đại bàng. Nhưng cũng như nhà Đại Bàng, họ có quan hệ họ hàng với nhà Mèo Rừng thông qua gả bán và nhận nuôi. Ông nội của Sọ Đá Quý 2 là anh rể của ông chú của Chim Ruồi Có Nanh 9. Chị gái của Chim Ruồi Có Nanh 9 là cô của tộc trưởng nhà Vẹt Đuôi Dài. Tộc trưởng của nhà Itz’un đã nhận nuôi hai đứa con trai của cháu gái của Chim Ruồi Có Nanh 9.Cứ thế, vân vân và vân vân. Và các dòng họ này đang hưởng rất nhiều quyền lợi xuất phát từ quan hệ họ hàng với thị tộc cai trị. Tấn công nhà Mèo Rừng cũng có nghĩa là đi ngược lại với lề lối xã hội, cũng như giết người trong gia đình thì tội lỗi hơn so với giết người lạ. Nó sẽ làm mọi thứ rối tung lên đến mức các gia đình khác cũng quay sang hận thù nhau. Và dĩ nhiên, anh không thể đụng vào bất cứ thứ gì thuộc về những người họ hàng đang “ở trong” họ Mèo Rừng.

Ngay cả khi, bằng cách nào đó, những điều khó xử trên tan biến thì Chim Ruồi Có Nanh 9 vẫn là một vị thần sống. Là tộc trưởng của thị tộc mèo cũng như làm giáo hoàng ở Ý vào thời phục hưng. Bất kể giáo hoàng là một thằng thộn đến mức nào, người ta vẫn tin là lão có đôi tai của Chúa. Ngay cả những tên lính đánh thuê dám nhúng tay vào bất cứ việc gì cũng sẽ không tấn công ông ta. Nếu anh muốn hạ bệ ông ta, tốt nhất anh nên đảm bảo rằng chính anh sẽ trở thành giáo hoàng, và phải thật nhanh chân vào. Nếu Sọ Đá Quý 2 tiến tới quyền lực ngày một vững chắc, nhà Mèo Rừng sẽ bị buộc phải đưa ông ta lên đỉnh núi của họ và thừa nhận ông ta là người thừa kế hợp pháp. Họ sẽ dựng lên một phả hệ nào đó “chứng minh” Sọ Đá Quý 2 là hậu duệ trực hệ của Mèo Rừng 1, rồi tổ chức một cuộc bầu chọn vờ vịt tại popol na, tức là nhà hội đồng, để “chọn ông ta làm ahau. Nhưng theo lời Sọ Đá Quý 2, chuyện đó không có cơ xảy ra.

Hiển nhiên, ngay cả trong một xã hội chưa xuất hiện tiền tệ, của cải vẫn làm nên quyền lực, và có lẽ, nếu mọi chuyện được tiếp tục diễn biến theo đà này thêm vài k’atun nữa, nhà Đại Bàng sẽ giàu đến mức thuê lính đánh thuê để chọi lại nhà Mèo Rừng, hoặc có thể chiếm đoạt dần qua hôn nhân, hoặc có thể lôi kéo tất cả các thị tộc khác về phe của họ, hay gì đó. Nhưngnhà Mèo Rừng sẽ không để mọi chuyện đi theo đà như thế. Họ muốn sửa sai ngay lập tức, trước khi nhà Đại Bàng mạnh thêm, và họ đang soi mói hòng moi ra được một sự phạm thượng để gây hấn. Họ đã suýt moi được khi tôi phá hỏng lễ tái đăng quang của Chim Ruồi Có Nanh 9. Sau hôm đó, họ đã nghĩ ra một trò còn đáng sợ hơn.

– Nhà Mèo Rừng đã thách chúng ta có một trận bóng hông lớn, và ta đã chọn mặt trời này: Chảy Xiết 1, Sum Họp 0.

Tức là còn một trăm lẻ sáu ngày nữa. Theo Sọ Đá Quý 2, những trận bóng hông lớn chỉ diễn ra vào dịp “năm mới lớn”, tức là bốn năm một lần. Lần cuối cùng đội nhà Mèo Rừng đấu với nhà Đại Bàng cách đây đã tám năm. Thời xưa, nhiều k’atun trước, những trận bóng hông lớn nhất thường được tổ chức giữa 1 ahau vĩ đại và tù binh quý tộc bị bắt từ những thành phố khác. Đó là cơ hội để vị ahau chứng tỏ mình còn đủ sức trị vì. Các trận đấu khác thường là đấu tay đôi giữa các anh em, các con trai hoặc con rể của ahau để giải quyết những mâu thuẫn có thể dẫn đến nội chiến. “Nhưng đến cái b’ak’tun suy đồi này của chúng ta”, theo cách nói của Sọ Đá Quý 2, các chúa tể thường để những người chơi bóng hông chuyên nghiệp của nhà, như tôi – Chacal, thay mặt cho họ. Đôi khi thị tộc bị thách thức có thể tập hợp cả một đội toàn ngôi sao mượn hoặc thuê từ các thành phố khác. Nhưng lần này, nhà Đại Bàng không thể làm như vậy mà không mất mặt với người đời. Vì đội Mèo Rừng sẽ toàn người trong nhà họ nên đội đối phương cũng buộc phải gồm toàn k’iikĐại Bàng.

Thường thì thế cũng chẳng sao. Đội bóng của nhà Đại Bàng đã chơi tốt trong suốt ba mùa chiến tranh gần đây. Họ cũng là nguồn thu lợi lớn cho Sọ Đá Quý 2 bằng cách mang về tiền thắng cá độ và khuếch trương các thương vụ. Nhưng mùa này, đội nhà Mèo Rừng sẽ chơi tốt ngang ngửa hoặc hơn. Và, Sọ Đá Quý 2 nói, việc Chacal ra khỏi hàng ngũ chẳng phải điều có lợi gì.

Xin lỗi, – tôi nghĩ thầm.

Sọ Đá Quý 2 kể tôi hay – ông ta dùng rất ít lời nhưng nhiều ẩn ý – rằng trên danh nghĩa, được mời tham dự một trận đấu với hoàng tộc là một vinh dự lớn, nhưng thực chất đó thường là tai họa. Theo thông lệ, đa số thành viên của mỗi thị tộc đều muốn đặt cược một phần lớn tiền bạc của mình vào trận đấu. Sọ Đá Quý 2 sẽ phải chịu sức ép mang hơn nửa tài sản ra đánh cược cho đội nhà. Tổng cộng số tiền đặt cược của các đồng minh, phe cánh dưới trướng và những người ủng hộ thậm chí còn nhiều hơn thế. Nếu đội nhà Đại Bàng thua cuộc, họ sẽ mất mát một lượng tiền của khổng lồ, nhưng bù lại được sống sót và không phải chịu cảnh nô lệ, ít nhất là trong một thời gian. Còn nếu nhà Đại Bàng thắng ở phút cuối, nhà Mèo Rừng sẽ đổ cho họ ăn gian. Nhà Đại Bàng sẽ phản đối, và ngay tức thì, nội chiến sẽ nổ ra. Hoặc cũng có khả năng nhà Mèo Rừng dàn xếp được một trận đấu ngay từ đầu bằng cách chỉ định trọng tài hoặc vài mánh khóe nào đó khác. Như thế họ hoặc sẽ chiếm đoạt được tài sản, hoặc sẽ gây chiến ngay nếu nhà Đại Bàng phản đối. Dù theo cách này hay cách khác, nhà Đại Bàng vẫn chết kẹt. Đây là một trò lừa đảo lộ liễu, nhưng cũng chẳng làm thế nào được. Anh không thể từ chối lời thách thức. Ở đây, mất mặt là mất hết.

Khốn kiếp thật, – tôi nghĩ. Thôi, chí ít tôi cũng hiểu ra được một điều mà lúc trước tôi chưa hay, đó là nhà Đại Bàng đang phải chịu áp lực ghê gớm. Nếu là thời điểm khác, tôi đã có thể thực hiện dự án “bàn xoay thợ gốm” hay gì gì đó. Nhưng ở đâu cũng vậy, các bố già mafia như Sọ Đá Quý 2 và Chim Ruồi Có Nanh 9 luôn sẵn sàng tư thế cho cuộc chiến tranh giành tiền bạc. Và sau vụ thất bại trên đỉnh kim tự tháp của tôi, Chim Ruồi Có Nanh 9 đang tìm cớ để ra tay. Và ông ta sắp sửa thành công.

Thật vô phương cứu chữa, – tôi thầm nghĩ, – mình về nhầm phe rồi. Tôi nên chuồn khỏi đây và chạy sang nhà Mèo Rừng thì hơn. Chỉ có điều, một: tôi không thể qua được cái cửa này chứ đừng nói đến những cánh cửa khác; và hai: họ sẽ không hiểu được tôi như Sọ Đá Quý 2. Nếu họ tha không tra tấn trước khi ăn thịt đã là may cho tôi lắm rồi…

U…ồ…

Tôi có cảm giác rợn tóc gáy là Sọ Đá Quý 2 đang dò xét ý nghĩ của tôi, ý tôi là về chuyện chạy sang hàng ngũ bên kia.

Thoạt đầu, tôi nghĩ mình đang chờ ông ta ra lệnh giết tôi. Nhưng càng nhìn, tôi càng nhận ra mình cảm thấy gần như thân thiết với ông ta. Có lẽ đó chỉ là hội chứng Stockholm (Hội chứng Stockholm: Hiện tượng tâm lý đôi khi xảy ra với con tin bị bắt cóc, theo đó nạn nhân tỏ dấu hiệu đồng cảm với kẻ bắt cóc mà không tính đến hoàn cảnh nguy hiểm hay rủi ro của mình) thôi.

Hoặc chỉ là, khi anh ở vào một hoàn cảnh đáng sợ, anh thường bám lấy người nào đó ưa mình nhất, kể cả khi người đó muốn bắt giam anh.

Biết đâu ông ta cũng không đến nỗi tệ. Biết đâu ông ta có quá nhiều tôi trong đầu đến mức cảm thấy gần gũi với tôi…

Ấy, từ từ đã. Dừng cái sự dễ chịu ấy lại. Ông ta đã đãi mày những giờ phút khốn khổ nhất trong đời đấy. Nhớ không?

– Hãy nhốt uay của ngươi trong chuồng vào ban đêm, – Sọ Đá Quý 2 nói. Câu ấy có nghĩa là: “Đừng có giở trò gì đấy”. Nhưng ông ta nói với giọng có tí xíu đùa cợt.

Phù. Được thôi. Đổi đề tài vậy.

– Tôi muốn chơi một ván nữa, – tôi đề nghị. Tôi nói tôi muốn thử lại Bụi của Muối Mặn Già thêm một lần nữa, muốn tìm hiểu xem có thực là Gió Lố 11 đang sắp lần ra tôi hay không, nhà Đại bàng nên làm gì tiếp theo và nên làm gì với trận đấu bóng hông. Tôi không nói là tôi giỏi hơn Răng Ngạnh 7, nhưng hiển nhiên là tôi nghĩ thế.

Sọ Đá Quý 2 nói tôi chưa nên thử liều thứ hai trong vòng vài ngày tới. Ngươi phải “Đánh bóng mình” với nó, – ông ta nói. Nghĩa là ngươi phải tăng dần liều lượng qua nhiều năm. Nhưng ngay cả khi tôi tăng được sức chịu đựng thuốc,tôi cũng sẽ không thể bằng Gió Lốc 11. Có những điều bí ẩn liên quan đến trò chơi mà những người đếm mặt trời sọ thấp không được phép biết và những người sọ cao thường không truyền đạt lại. Các vị ahau không muốn người đếm mặt trời nhà mình đào tạo quá nhiều người học nghề vì một trong số đó có thể rơi vào tay kẻ thù. Phần lớn những người đếm mặt trời, ngay cả những người xuất xứ từ các thành phố Maya, đều được huấn luyện tại Tamoan, và mỗi k’atun chỉ có một vài người rời khỏi thành phố đó.

Tamoan à? – tôi thắc mắc. Tôi không biết cái tên này, nhưng nó gợi cho Chacal một sự liên tưởng, một bộ ba kim tự tháp khổng lồ.

Sọ Đá Quý 2 nói trong số ba mơi hai người đạt đẳng cấp chín sọ hiện còn sống mà ông biết, mười tám người đang ở Tamoan. Mười bốn người còn lại sống rải rác tại nhiều thủ phủ khác nhau của Mesoamerica, mỗi nơi chỉ có một, hoặc tối đa hai người. Và trừ phi tôi được học một người trong số đó, tôi sẽkhông bao giờ lên được đẳng cấp chín sọ. Mà đằng nào tôi cũng chẳng lên được trình ấy vì tôi lớn quá tuổi rồi.

Tôi thở dài tỏ ý rằng tôi hiểu. Mẹ kiếp.

– Và ngay cả khi ngươi thuyết phục được một người trong số họ dạy ngươi, ngươi cũng chưa chắc học được gì – ông ta nói. Vì cứ một người đạt được chín sọ thì có đến bốn trăm kẻ khác không tiến xa được đến thế.

Nhảm nhí, – tôi nghĩ, – tôi sẽ làm được . Nhưng tôi không nói ra.

Và ngay cả khi ngươi té ra là một thằng sáng dạ – ông ta nói tiếp – thì tôi cũng chưa thể chơi được một ván với chín viên đá nếu chưa qua nhiều năm luyện tập. Trong ba mươi mốt người chín sọ, rất ít người dưới bốn mươi tuổi. Tuy nhiên – ông ta nói thêm – cũng có những người đếm mặt trời nữ giới ít tuổi hơn.

Tôi hỏi vì sao.

– Vì Muối Mặn Già thân thiện hơn với phụ nữ, – ông ta đáp, – đấy là người ta nói thế.

Phải, – tôi nghĩ, – hoặc thế, hoặc đơn giản là phụ nữ giỏi trò đó hơn.

Ngoài ra, – ông ta nói – ông ta cũng chỉ còn lại có một ít, và chúng sắp hỏng rồi. Dùng nhiều hay ít chưa hẳn quan trọng, quan trọng là thuốc còn tốt hay không. Và thứ thuốc này không tốt dần lên theo thời gian. Trong khi đó, nhà Ocelot sẽ không để ông ta có được thêm tý nào nữa. Có vẻ như chính họ cũng không còn đủ dùng.

– Ngoài tất cả những điều đó ra, – ông ta nói, – Gió Lốc 11 sẽ tìm thấy ngươi trước. Ngươi phải là một chín sọ mới hòng lừa được một chín sọ.

Nghe thật muốn nản lòng, nhưng tôi phải công nhận rằng những lời ấy ít nhiều có lý. Cũng giống như trong môn cờ vua hay cờ vây, việc xếp hạng phản ánh trình độ chính xác đến mức hiếm khi gây được đảo lộn bất ngờ. Thí dụ, trong cờ vây, anh mới đạt một đẳng thì xác suất anh đánh bại được một kỳ thủ chín đẳng chỉ là một phần ba mươi. Và dù tôi có cảm giác phi thường trong ván cờ tay đôi vừa rồi thì đó cũng chỉ là chơi với một viên đá. Tôi chưa tưởng tượng ra được chơi với bốn viên đá sẽ thế nào, chứ đừng nói đến chín viên.

Hừm. Nói đến đây mới nhớ, tôi định hỏi chuyển gì đó… À phải rồi.

– Thưa, Gió Lốc 11 co thực sự là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix không? – tôi hỏi. – Còn người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch,ahau-na Koh thì sao?

– Ta đã nhìn thấy bà ta trong cuốn sách trong con sâu bọ của ngươi, – Sọ Đá Quý 2 đáp, – k’aana’obol – tức là ông chú lớn nhất đằng ngoại – của công nương Koh là e’ta’taxoco’ obo l’ta’taxoco của ta.

Có nghĩa là ông ta là anh em cùng cha khác mẹ với ông ngoại của người anh họ thứ hai của Sọ Đá Quý 2. Rất mừng là ta đã làm sáng tỏ được điều này, – tôi nghĩ.

Ông ta nói thêm công nương Koh ra đời cách đây hai mươi tám năm tại một ngôi làng cách Ix hai ngày đường về phía bắc. Gia đình bà ta là một nhánh của hoàng tộc ở Lakamha, tức Palenque (Palenque: Một khu di tích của người Maya thuộc bang Chiapas của Mexico) ngày nay, và họ có quan hệ máu mủ với cả nhà Mèo Rừng lẫn nhà Đại Bàng ở Ix. Bà ta có những đặc điểm dị hình của người đếm mặt trời bẩm sinh. Một trong số đó là bàn tay của bà ta có mười một đứa con, tức là mười một ngón. Khi bà ta lên bảy, nhà Ocelot đã sắp xếp gửi bà ta cùng một vài đứa trẻ khác thuộc gia đình Maya quý tộc tới đền Rắn Chuông Sao ở Tamoan. Đồng thời, cũng ngần ấy đứa trẻ thuộc các gia đình tu’nikob’ – nghĩa là thầy tư tế – có đẳng cấp của đền Rắn Chuông Sao được đưa đến các thành phố Maya. Tôi đoán đó là một dạng trao đổi con tin, hay trong trường hợp này, nghe có vẻ giống chương trình trao đổi sinh viên. Hầu hết những đứa trẻ Maya đến Tamoan đều không đạt yêu cầu và phải quay về sau vài năm, nhưng riêng Koh lại trở thành một trong bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới thuộc Giáo Hội Rắn Chuông Sao. Cùng thời điểm đó, ngôi làng của bà ta bị những người Ti’kal chiếm đóng và gia đình bà ta bị bắt đi. Sọ Đá Quý 2 không biết liệu họ đã bị hành hình chưa, hay vẫn làm con tin.

– Cuốn Thư tịch nói bà ta đang ở tại Ix, – tôi nói.

Sọ Đá Quý 2 nói điều đó không đúng. Ông ta đã đọc cuốn Thư tịch trong ký ức của tôi, và nó chỉ nói rằng bà ta đến từ Ix.

Tiên sư nó, – tôi nghĩ. Ừ, xét cho cùng, những ký tự đó cũng hơi mơ hồ thật. Chết tiệt, lại thêm một thất bại nữa sau cả một chuỗi liểng xiểng. Vậy mà Michael Weiner cho rằng bà ta chỉ ở quanh đây. Đúng là thằng xuẩn.

– Thưa, vậy còn ván chơi trong cuốn sách đó thì sao? – tôi hỏi.

– Ta có một bản sao, – Sọ Đá Quý 2 nói Mặc dù ván đó bà ta chơi cho nhà Mèo Rừng.

Hay nhỉ, – tôi nghĩ bụng, – thì ra đây là một cuốn sách bán chạy à?

Tuy thế, tôi nghĩ chuyện này cũng có thể hiểu được. Ý tôi là, nếu một ngày nào đó trong tương lai, anh dạo quanh đống đổ nát của thành phố Orlando và bới từ đống rác lên được một cuốn sách cổ nhàu nát, liệu đó sẽ là một cuốn sách như thế nào? Một bí ẩn phi thường, đặc biệt chăng? Hay chỉ là một cuốn sách tầm thường dớ dẩn nào đó?

Tôi hỏi ông ta rằng ván cờ đó đã diễn ra ở đâu. Ông ta trả lời rằng Koh đã chơi nó ở Tamoan để làm quà dành tặng cho những người thân ở phía đông nam.

– Thưa ngài, ở dưới chân tôi, – tôi hỏi, – Tamoan có phải là tên gọi của Teotihuacán không?

– Ta không biết cái tên đó, – ông ta đáp.

Tôi giải thích rằng đó là một thành phố vô cùng lớn, với ba kim tự tháp khổng lồ và hàng trăm ngôi khác nhỏ hơn. Tôi nói nó nằm cách đây khoảng ba mươi nhăm k’in – tức là ba mươi nhăm ngày đường, nếu mỗi ngày đi bộ khoảng ba mươi dặm – về phía tây – tây bắc.

Sọ Đá Quý 2 tặc lưỡi, cử chỉ đó có nghĩa là “Đúng rồi”.

Hừm, – tôi thầm nghĩ.

Teotihuacán là cái tên theo tiếng của người Aztec. Nhưng người Aztec, những người nhìn thấy thành phố ấy lần đầu vào thế kỷ mười bốn, chỉ biết nó là một đống đổ nát khổng lồ; họ không biết, và cũng không ai biết tên thật của thành phố đó vào thời xa xưa. Người ta nói đó là nơi Mặt Trời Thứ Tư và Mặt Trăng Thứ Ba ra đời. Như tôi đã nói, nó từng là thành phố lớn nhất tây bán cầu, với tối thiểu hai trăm ngàn dân, khoảng bằng dân số thành London năm 1750.

Sọ Đá Quý 2 nói rằng Teotihuacán – chúng ta cứ gọi thế cho thống nhất – chỉ cách nơi thời gian bắt đầu, tức là ngày Chúa tể 4, Bóng tối 8, 0.0.0.0.0 hay ngày 11 tháng 8 năm 3113 trước Công nguyên, có một ngày đường. Vào ngày hôm đó, hai thủy tổ là Đầm Lầy Xanh và Cuồng Phong đã xây dựng một thành phố tên gọi là Tola, với những thác nước đẹp mê hồn chảy xuống từ các ngọn tháp san hô đỏ và những quảng trường lát thạch anh tím và ngọc bích. Những người dân đầu tiên đã sống ở đó cho đến ngày Chúa tể 4, Rừng 18, .0.0.1.0 – tức là ngày 25 tháng 6 năm 353 trước Công nguyên. Ngày hôm đó, Prank – Người Nuốt Mặt Trời đã phá hủy thành phố bằng một cơn lốc xoáy mang theo những lưỡi dao nóng bỏng. Một trăm tám mươi người sống sót ẩn nấp trong một hang động, sau đó theo dấu một con kền kền tới vùng đất của dòng sông huyền bí cách đó có ba mươi dặm về hướng đông. Sau hai mươi ngày không có mặt trời, vào ngày Chúa tể 11, Thu mình 18, họ tìm thấy một thành phố mới, thành phố Teotihuacán.

Toàn bộ những người sống sót tự cắt máu – nghĩa là họ thề – rằng tại thành phố mới này, không kẻ nào được phép làm điều tự đắc, tức là những việc có thể khiến Prank và bất cứ người khói nào khác nổi giận. Không ai được tự phong mình làm ahau. Thay vào đó, thành phố thuộc quyền quản lý của một hội đồng tộc trưởng đại diện cho hai nửa của thành phố. Toàn bộ người dân đều thuộc một trong hai nửa: nửa đỏ – lo các sự vụ chiến tranh – hoặc nửa trắng – lo các công việc hòa bình. Không ai trong số các tộc trưởng được tự đề cao tên tuổi mình, kể cả trong diễn văn trước công chúng hay trong các văn tự ghi chép, thực tế, thời đó, chữ viết vẫn là một nghệ thuật không được phổ biến. Vào mỗi buổi sáng sớm hay giữa trưa, tất cả người dân sinh sống trong thung lũng sẽ ra ngoài trời và dâng khói cho những người khói. Người ta không bao giờ phá bỏ cái lệ đó, bất kể vì chiến tranh, thời tiết, bệnh tật hay lý do nào khác, cứ thế liền một ngàn không trăm mười bảy năm nay.

Đế chế ở Teotihuacán có ảnh hưởng rộng khắp. Họ sở hữu thứ gần nhất với quân đội chính quy ở tây bán cầu, với bộ binh hành quân theo đội hình và dùngatlatl (Một dụng cụ dùng lực đòn bẩy để tăng tốc lực cho mũi tên hoặc lao, mác) bắn hàng loạt tên. Các thủ lĩnh của Teotihucán đã chiếm nhiều thành phố Maya như Ti’kal và Kaminaljuyú rồi thành lập vương triều của mình tại đó. Mỗi năm, hàng trăm thành phố và hàng ngàn đô thị phải gửi tới thành phố này những “quà tặng” theo thỏa thuận trước. Teotihuacán cái quản việc buôn bán đá vỏ chai khai thác từ các mỏ gần đó, chính vì vậy, trong một số phương ngữ, đế chế này còn được gọi là K’Kaalom K’sic – Vùng Đất Của Những Lưỡi Dao. Ngoài ra nó còn bán quặng sắt đỏ, muối mỏ, nô lệ bắt được từ miền bắc và hàng tá những thứ khác. Và nó độc quyền đối với Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

Tuy nhiên, trong hai thế kỷ trở lại đây, biên giới của đế chế này có phần suy yếu. Mỗi năm một nhiều những kẻ – tôi nghĩ chúng ta có thể gọi là những kẻ mọi rợ – ở phía bên kia biên giới lăm le hòng xâu xé một phần. Bất chấp lính bộ binh, hầu như mỗi ngày đều có một tiền đồn bị đột kích. Tệ hơn nữa, các đô thị mới phất thuộc đế chế lại không chịu cống nạp, lờ tịt những người thu thuế và hạ bệtầm ảnh hưởng của hội đồng giám sát việc buôn bán. Chẳng hạn như lẽ ra Teotihuacán cai quản toàn bộ việc mua bán muối, nhưng gần đây, người Ix và dân các thành phố khác đã mua muối biển trực tiếp từ các làng ven biển. Và chính thành phố Teotihuacán đang ngập chìm trong cái mà ở thế kỷ 21 người ta gọi là “những vấn đề đô thị” như quá đông đúc, bệnh lao, kinh tế sa sút, sự bất mãn của những người ở nông thôn, và gần đây là vấn đề tôn giáo, hay theo cách diễn đạt của Sọ Đá Quý 2 là “những tiếng la ó và ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao”.

Nó sẽ không tồn tại lâu nữa. Hình như tôi đã đề cập điều này đâu đó ở đoạn trước, các nhà khảo cổ học đã xác định thời điểm chết của thành phố vào khoảng từ năm 650 đến 700 Công nguyên. Nhưng bất chấp những tiến bộ trong ngành khảo cổ đã xác định niên đại, nào xác định ADN phấn hoa, nào xác định đồng vị phóng xạ và hàng tá kỹ thuật xác định khác, đến năm 2012, người ta vẫn chưa thu hẹp được khoảng cách ước đoán trên.

Nhưng thành phố đó không hẳn đã rơi thẳng vào lãng quên.Khoảng năm 1000 Công nguyên, xã hội của người Toltec trở thành nền văn minh lớn nhất cao nguyên Mexico, và tuy chưa rõ liệu họ có quan hệ gàn gũi với những người ở thành phố Teotihuacán hay không, nhưng có lẽ cũng công bằng khi nói rằng phần lớn tập tục của họ có nguồn gốc từ Teotihuacán. Và ba trăm năm sau nữa, tộc người được gọi là Aztec tiếp quản những gì còn lại của hệ văn minh Toltec và phát triển nó thành một đế chế mà đến năm 1518 đã lớn mạnh gần bằng đế chế Teotihuacán vào thời điểm này.

Tóm lại, điểm chính yếu ở đây là rõ ràng đế chế đó lúc này chưa sụp đổ. Sọ Đá Quý 2 nói ông ta cho rằng nguyên nhân chính là vì hai Popol của Teotihuacán – ừm, có lẽ trong trường hợp này, chúng ta nên dịch Popol là “hội đồng tôn giáo” vì vai trò của họ lớn không kém gì vai trò phi tôn giáo – có thể ngừng bán Bụi của Muối Mặn Già và Bụi của Người Chèo Xuồng Già cho bất cứ khách hàng nào không ủng hộ nó. Mạng lưới những người đếm mặt trời, giống như một tổ chức xuyên quốc gia, có thể hoạt động cầm chừng một chút, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ hết thuốc và lại cần đến nguồn cung cấp. Ông ta ngờ rằng “giáo hội” mới đây đã cắt giảm lượng bán vì họ muốn gây những cuộc chiến nho nhỏ giữa các thành phố Maya nhằm làm chúng suy yếu đi. Hơn hết thảy những vai trò khác, cờ Hiến tế là cá nhân gìn giữ hòa bình. Khi một chính quyền không đoán trước được điều gì sắp xảy ra, họ sẽ trở nên hoang tưởng và đó là lúc chiến tranh lan ra.

Và dĩ nhiên – Sọ Đá Quý 2 nói – cứ sau một mùa hòa bình, những người đếm mặt trời lại có bụi mới, đó là lý do vì sao họ bảo vệ được thành phố an toàn lâu đến thế. Họ có thể nhìn thấy những mối đe dọa sắp đến khi chúng còn ở rất xa, về cả thời gian lẫn không gian. Nhưng điều đó sẽ không kéo dài bao lâu nữa.

Sọ Đá Quý 2 ngừng lời. Và khi ngừng lời, ông ta im lặng hoàn toàn. Dù bộ ngực ông ta bị lấp kín dưới đống trang sức phô trương, tôi vẫn nhìn thấy hơi thở ông ta phập phồng.

Tôi ngồi yên. Tôi hít một hơi dài. Khiếp thật, nó nặng thật đấy. Phù. Hừ, nó có thể khiến anh làm khối việc điên rồ đây.

– Tôi, kẻ dưới chân ngài, có một thắc mắc, – tôi nói, – có đúng là người ta chưa đoán được mặt trời cuối cùng của Teotihuacán?

Sọ Đá Quý đáp rằng theo ông ta biết thì chưa.

– Nhưng ta có thể nhìn thấy trong con sâu bọ của người, rằng thành phố đó sẽ không tồn tại thêm quá hai k’atun nữa.

Tôi tặc lưỡi.

– Khi đế chế đó biến mất, nhà Mèo Rừng sẽ khốn đốn, – Sọ Đá Quý 2 nói, – nhưng vẫn là quá muộn đối với chúng ta.

Thật ấy chứ, – tôi nghĩ. Tôi chỉ còn khoảng bảy tháng trước khi bộ óc tôi nát nhoét như kem bơ lạc.

Lại một sự im lặng khó chịu nữa. Hai chân tôi tê cứng đi cho dù đã được rèn luyện. Có lẽ tôi nên hỏi thêm câu nữa.

– Thưa ngài, ở trên tôi, vì sao lại có việc ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao?

Sọ Đá Quý 2 trả lời rằng ông ta không biết chính xác. Nhưng chuyện bắt đầu từ lâu rồi. Rắn Chuông Sao thuộc một tầng lớp không phải người thường, thậm chí không bắt nguồn từ một tổ tiên nào cả. Tôi nghĩ ta có thể gọi họ là thần thánh, nhưng cũng không hẳn. Tổ tiên cũng là thần thánh, những người có quyền lực còn sống cũng vậy. Thực tế, tôi đã có lần nghe ai đó nói rằng trong mọi thứ quanh ta đều có thần linh. Có lẽ, cái tên chính xác hơn dành cho Rắn Chuông – cho cả nữ thần Cóc Đất, bốn thần mưa Chac và một loạt thần núi non, sông hồ khác – là “linh thần”. Mỗi vị đều có một đền thờ, các thầy tế và những người sùng bái mình ở mọi thành phố lớn. Nhưng vào thời điểm này, năm 664, hệ thống đền thờ Rắn Chuông đang mở rộng nhanh hơn đền thờ của bất cứ linh thần nào khác.

Và, hẳn các bạn cũng biết, sau này, nó vẫn tiếp tục mở rộng. Von Humboldt đã gọi Rắn Chuông là Rồng Maya. Morley gọi nó là Rắn Lông Chim và Salman Rushdie (Tiểu thuyết gia người Anh gốc Ấn) gọi nó là Chim Rắn. Kukulkan, cái tên theo tiếng Yucatec của Rắng Chuông đã trở nên khá quen thuộc còn Quezflcoat, tên tiếng Nahuatl, thì nổi tiếng đến mức được dựng thành nhân vật trong Warcraft. (Warcraft: Loạt sách và trò chơi điện tử nổi tiếng của Mỹ)

Bởi mình Rắn Chuông chính là dải ngân hà nên giáo hội thờ cúng nó không bị ràng buộc với bất cứ thị tộc hay màu sắc nào. Về mặt lý thuyết, nó đeo dính lấy tất cả. Vì vậy, hệ thống sùng bái này có tính quốc tế hóa khiến nó phần nào hơi phá cách. Nhưng nó vẫn được ngưỡng mộ nhiệt thành. Ở Ix, và tôi cho là ở mọi thành phố Maya khác, bất cứ người có của nào cũng đều là thành viên của một vài giáo hội thờ cúng khác ngoài giáo hội của tổ tiên họ. Và hiển nhiên, toàn bộ năm dòng họ quý tộc của thành Ix đều thờ cúng Rắn Chuông. Kim tự tháp của Rắn Chuông Sao ở Ix tuy nhỏ nhưng cổ kính, đỏm dáng và giàu có.

Nhưng ở Teotihuacán, Rắn Chuông là cả một vấn đề lớn. Nó ngày một trở nên chướng mắt đối với những cộng đồng đã bám rễ lâu đời hơn. Hai hội đồng tôn giáo của Teotihuacán, sở hữu hai kim tự tháp khổng lồ mà những người Aztec sau này gọi là Kim Tự Tháp Mặt Trời và Kim Tự tháp Mặt Trăng, vẫn cho phép hệ thống thờ cúng Rắn Chuông hoạt động, nhưng đặt ra nhiều ngăn cấm, hạn chế. Vậy mà hình như mỗi ngày, những đứa con của Rắn Chuông lại dâng cúng thêm nhiều đồ lễ, tức là hoa – và tin tức này đã bị bưng bít khoảng hai mươi ngày. Chắc đó chính là nguyên nhân dẫn đến xô xát. Sau vụ việc đó, bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới của Rắn Chuông đã trở thành tù nhân chính trị, vĩnh viễn bị giam cầm trong đền thờ của họ ở đầu phía nam thành phố.

Hừm, – tôi ngẫm nghĩ.

– Thưa, công nương Koh có trung thành với nhà Mèo Rừng không? – tôi hỏi.

Lại im lặng. Nó cứ kéo dài mãi như sợi pho mát kéo ra từ miếng pizza nóng. Đột nhiên, ông ta cười to lên. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy ông ta cười, tiếng cười thực sự dễ thương, như tiếng ông già Nô-en vậy. Và tôi cũng cười.

– Bà ta gần gũi hơn với nhà Mèo Rừng, – ông ta đáp, – Thế nhưng, họ đã đưa bà ta đến Teotihuacán trong khi bà ta không muốn.

Ừ, có lẽ điều ông ta muốn chính là thử một cách tiếp cận gián tiếp, tấn công nhà Mèo Rừng từ bên ngoài.

Nào, Jed. Cố lên. Ông ta hẳn cũng cảm thấy mày có thể làm nên trò trống gì đó, một điều gì đó hết sức quan trọng, điều gì đó có thể cứu thoát tất cả chúng ta. Nếu không, ôn ta giữ lại cái mạng mày làm gì? Ông ta không thể đi, nhưng mày có thể.

Tôi liền đề nghị với Ahau Sọ Đá Quý 2 rằng tôi, kẻ dưới chân ông ta, có thể đến Teotihuacán.

40

Vào giờ phong lan thứ chín – tức là phiên gác đầu tiên, ngay sau khi mặt trời lặn – Sọ Đá Quý 2 đưa tôi tới trình diện trước Đoàn Lữ Hành Rắn Vipe 11 của nhà Đại Bàng. Đó là một tổ chức – hay các bạn có thể gọi nó là hội ái hữu hoặc thậm chí tập đoàn – mới thành lập, trên danh nghĩa là để thực hiện một thương vụ đột xuất, nhưng mục đích thực sự là đưa tôi đến Teotihuacán.

Chúng tôi ngồi trên những tấm thảm lông chim, trên đỉnh một quả đồi tròn, thấp, được đốt quang, nằm khuất giữa hai vách cao hơn của dãy núi. Chúng tôi vẫn đang ở khá gần làng Cacao – đó là tên họ đặt cho thủ phủ của Sọ Đá Quý 2 – đủ để thoáng ngửi thấy mùi sô-cô-la trong không khí. Tôi ngồi hướng mặt về phía đông nam. Mười chín k’iik khác các đoàn – các k’iik thường đi thành từng k’at, nghĩa là một nhóm hai mươi người – ngồi quây thành hình bán nguyệt đối diện tôi, hai chân, hai tay khoanh lại. Rất lâu sau này, những người thổ dân Oglala Sioux trong vở kịch “Miền Tây hoang dã” của Buffalo Bill cũng ngồi theo lối tương tự và nó được gọi là ” kiểu ngồi thổ dân”. Nhưng khi những người này ngồi, đó không chỉ là tư thế ngồi, mà là tư thế sẵn sàng bật dậy, như một cái lò xo trong trạng thái nén. Sọ Đá Quý 2, Bacab của miền Đông, tộc trưởng của thị tộc Harpy, tên đao phủ của thằng đần Jed DeLanda, cái bánh mì thịt toàn thiện toàn mỹ, ngồi bên tay “đàn ông”, nghĩa là tay phải tôi. Sên Xanh 3, lão thầy tế lùn, lật đật đi qua đi lại trước mặt ông ta, sắp xếp gói này bọc nọ trên chiếc thảm cúng. Lão nói bằng cái giọng không ra già không ra trẻ của mình:

– Như chúng ta, những kẻ dưới chân ngài,

Được biết:

Thủ lĩnh của chúng ta,

Tấm gương của chúng ta,

Người xua tan mây mù,

Sọ Đá Quý 2

Sẽ ban cho chúng ra đôi lời.

Chúng ta lắng nghe

Dưới chân ngài,

Chúng ta

Cúi mình chờ đợi.

Sọ Đá Quý 2 nói: – Ta, ở trên các ngươi, muốn hỏi.

Tất cả, trừ tôi, đồng thanh trả lời: – Chúng tôi, ở dưới chân ngài, xin trả lời

– Các ngươi có nhận món quà này?”

Gánh vác trách nhiệm này?

Sọ Đá Quý 2 hỏi. Giọng ông ta không to hơn những người khác, nhưng dường như nó vang xa hơn và vọng lại từ một vách đá xa tít ngoài tầm mắt. Tôi vẫn biết ông ta nổi tiếng về tài hùng biện, nhưng đến giờ tôi mới hiểu tại sao.

Các k’iik yên lặng một chốc để quan sát tôi. Tôi cũng giương mắt nhìn họ. Trao đổi ánh mắt là một kiểu thách thức ở đây. Nếu anh làm thế, hãy sẵn sàng mà oánh nhau. Họ chằm chằm nhìn tôi. Hun Xoc và thằng em trai, Tay 2, ngồi cạnh nhau, phía ngoài cùng bên tay phải. Đó từng là hai hậu vệ số một và số hai của Chacal, cũng là hai người đã để mắt canh chừng cho tôi trong chuyến săn hươu. Hun Xoc và Tay 2 là hai trong bốn người duy nhất trong đoàn biết láng máng chuyện gì đã xảy ra, nghĩa là biết tôi từng là Chacal nhưng bây giờ tôi đã là người khác. Các k’iik khác cũng từng xem Chacal chơi bóng, nhưng chưa từng thấy anh ta ở khoảng cách gần, và đến lúc này, chưa ai có ý nghi ngờ gì. Người đứng tuổi ngồi cạnh họ tên là Mưa Chết 18, là Người Quản Lý Nợ của chúng tôi, chức danh này từa tựa như giám đốc tài chính vậy. Lão tròn trĩnh, da dẻ hãy còn căng và xem ra tốt tính. Gã dần dần ngồi bên trái ông ta là một người ghi nhớ, nhưng không phải gã trong hang của Sọ Đá Quý 2. Hắn thấp bé, mảnh khảnh, với cặp mắt lồi và hoá trang kiểu con khỉ. Và phía ngoài cùng bên tay trái là một lão già người dong dỏng, đôi mắt sâu đỏ rựng và làn da săn chắcvì dai nắng, tên là Cá Sấu 12. Lão là anh chồng của cháu gái Sọ Đá Quý 2 và chức danh chính của hắn là Người Quản Lý Tay Dài. Căn bản, nó có nghĩa là “chủ nhân của những cánh tay”, thủ lĩnh trong chiến trận. Lão cũng đồng thời là nojuchil, người dẫn đầu đoàn. Lão có bộ răng khấp khểnh chẳng mấy ưa nhìn, hai cục u lồi lên hai bên vai nơi những mảnh sót lại của mũi lao đá hẵng còn cắm sâu trong thịt. Hai bên mình lão lấm chấm những hình xăm tưởng niệm một người anh có vị trí tồn quý đã chết trong một trận đột kích ở Motul. Người ta đồn rằng lão có thể nhìn thấy trong bóng tối đen như mực bởi ông nội lão là một con lửng. Lão là người già nhất trong đoàn. Tiếp đến, bên phải lão, là một k’iik ít tuổi hơn, khắp mình tô vẽ những màu sắc dành cho thầy mo, tên là Hun Aat, hoặc ngắn gọn là Aat, nghĩa là “Dái”. Hắn là phụ lễ cho Sên Xanh 3, cũng là người thứ tư biết chuyện về Chacal. Hắn sẽ giữ vai trò thầy hành lễ kiêm người đếm mặt trời chính thức của đoàn chúng tôi. Hắn thạo cờ Hiến tế đến mức nào nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ. Có khi chưa chắc đã bằng Răng Ngạnh 7. Giời ạ, cả một lũ kém cỏi. Rồi, còn ai…mẹ kiếp, cái phút im lặng này kéo dài hơi lâu đấy. Có lẽ họ sắp lại gần, chọc ngoáy tôi, tìm ra yếu điểm nào đấy để từ chối tôi. Tất cả những trò này sẽ chẳng đi đến đâu. Đếch gì…

Đột nhiên, các k’iik đặt tay phải lên vai trái, tỏ ý chào mừng và nói, gần như đồng thanh:

– Chúng tôi, những kẻ dưới chân ngài,

Không xứng với một món quà như vậy,

Nhưng chúng tôi sẽ giữ gìn,

Sẽ bảo vệ anh ta.

Phù, – tôi nghĩ, – rất mừng là chúng ta làm rõ được điều đó.

Sọ Đá Quý 2 quay sang nói với tôi:

– Vậy từ nay,

Đây là những người anh của ngươi,

Những người em của ngươi,

Hãy đi theo họ,

Nghe lời họ,

Đừng hèn nhát,

Đừng làm ta hổ thẹn,

Tôi đáp:

– Tôi, kẻ dưới chân ngài

– Sẽ vượt qua thử thách.

– Ngươi được chấp nhận, chúng ta đã quyết định xong, – Sọ Đá Quý 2 tuyên bố.

Tôi đứng lên và xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, trình diện với năm phương rồi quỳ xuống, cúi đầu chạm đất, hai tay đặt dưới trán, ra mắt gia đình mới. Cá Sấu 12 bước lên trước tiên và đưa tặng tôi một chiếc ống xì đồng. Cảm ơn, đúng cỡ của tôi. Tiếp đến, tôi nhận được một wi’kal, một loại áo khoác lửng may bằng vải bông chần, rất oai vệ, mới tinh và được ướp hương bạc hà. Người ta mặc nó khi trời lạnh. Gọi là áo choàng poncho (Loại áo choàng khoét lỗ ở giữa để chui vào) thì không chính xác lắm, vì loại áo này hoặc tròn, hoặc có hình bát giác, có đường xẻ chạy dọc từ cổ xuống chân áo. Gọi là áo choàng không tay thì nghe kiểu cách quá mà người ta lại tưởng nó có mũ chum. Thôi, tôi cứ gọi nó là áo choàng manta (Loại áo choàng của phụ nữ Hopi (một dân tộc bản xứ châu Mỹ), chỉ là một mảnh vải khoác lên người) vậy. Chiếc của tôi được viền những đường trang trí hình móng vuốt lồng vào nhau, màu đỏ và đen, giống áo của tất cả các k’iik khác nhà Đại Bàng. Cái khung bên trong làm bằng một loại tre nào đó, nhưng bên ngoài thì được quấn một lớp sợi da hươu dệt thành chữ tên tôi và các ký hiệu phả hệ. Bác thợ cả của Cá Sấu 12 đã phải thức trắng hai đêm để làm khâu ấy. Sau đó, các k’iik còn lại, mỗi người đều đứng lên tặng tôi một thứ gì đó: một đôi dép đế cao su tinh xảo, một đôi khuyên tai hình ống, một bộ dây đai bằng da hươu, một chiếc vòng tay phải màu đen, một bộ hai mươi mũi tiêu dùng cho ống xì đồng, đầu gắn những quả thông non nhỏ xíu để tránh tai nạn, một chiếc mặt nạ đi đường, một lọ thuốc độc ngoài da, một lọ thuốc độc nữa – loại này phải uống, một cái túi để tôi đựng những vật dụng cá nhân lặt vặt, một tấm chăn trơn, nói chung là tất tần tật đủ thứ, chỉ thiếu có con chim đuôi seo đậu trên cành lê gai nữa thôi. Cuối cùng, Sọ Đá Quý 2 trao cho tôi một cây lao có gắn lông đại bàng ở mối nối mũi lao, điều đó có nghĩa rằng tôi không chỉ là một lính thổi ống xì đồng, tôi còn là thành viên đội vệ sĩ của gia tộc. Hai người phu kiệu bước vào giữa vòng tròn, nâng Sọ Đá Quý 2 lên vai, quay khắp bốn hướng rồi khởi hành theo hướng đông, xuống đồi. Ngay khi họ đi khuất tầm mắt, chúng tôi sẽ được tuỳ ý giải tán. Các k’iik đứng dậy và chỉnh trang lại. Thằng đầy tớ riêng của tôi tiến lại chỗ tôi và cúi gập người như một quả bóng, quỳ lạy. Đây là lần đầu tiên tôi gặp nó, nhưng tôi biết cái tên tạm thời trước khi chính thức trở thành k’ikk của nó là Cứt Ta-tu. Nó mười ba tuổi. Có lẽ tôi nên gọi nó là cận vệ thay vì đầy tớ – chỉ có điều gọi thế nghe cứ như tôi đã được phong tước tương tự hiệp sĩ haysamurai rồi, mà có phải đâu. Chưa thôi. Có lẽ tôi nên gọi nó là phụ tá riêng, nhưng gọi như thế lại không thể hiện được phận sự mua vui của nó. Ừm… thực ra, tôi thấy hơi ngại nên không muốn dùng cái tên mà ở đây người ta gọi nó và những thằng đầy tớ khác. Nhưng vì chúng ta đã đi được cùng nhau đến đoạn này của câu chuyện rồi nên tôi nghĩ tôi có thể huỵch toẹt ra. Chúng được gọi là các a’anat – “bọn liếm dương vật”. Nguyên nhân là khi tham gia một trận đánh, hay một chuyến đi săn, haynhững sự kiện tương tự, anh không được phép quan hệ tình dục với bất cứ ai hay bất cứ thứ gì vì chuyện đó có thể làm xẹp mất sự đàn ông của anh, và tệ hơn, mùi của nó có thể dẫn đường cho các uay đi thám thính của kẻ thù, và tệ hơn nữa, nếu anh để lại tinh dịch quanh “lỗ” của một người lạ, kẻ thù của anh có thể vớ được và dùng nó để reo rắc ghẻ lên người anh. Thế nhưng, hầu hết các k’iik tham gia đánh trận, hay đi săn, hay theo đoàn lữ hành thường là đàn ông, tuổi từ mười bốn đến hai mươi. Cho nên các bạn có thể hình dung được cái luật lệ kia đối với họ thật hà khắc. V́ vậy, thỉnh thoảng, những thằng bé tập sự này phải chăm sóc thú vui xác thịt cho chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi giữ được những thứ không nên dây ra ngoài. Và đó là một trong những cái gọi là bí mật của Hội Chiến Binh.

Phù, tôi nhẹ cả người khi trút được cái bí mật ấy khỏi ngực.

Cứt Ta-tu thu vào túi tất cả số của cải mới kiếm được của tôi, cả đến đôi khuyên tai cũng không bỏ sót. Cá Sấu 12 ra hiệu cho tất cả đứng lên. Các k’iikhướng về phía ngôi làng của tổ tiên họ để chào tạm biệt và tôi cũng bắt chước họ, cảm giác ngượng ngập cứ như ngày đầu tiên đến trường, rồi theo họ bước qua cổng lễ dựng tạm.

Không trao đổi với nhau lời nào, chúng tôi kéo nhau rời đỉnh đồi xuống sườn phía đông bằng phẳng. Một hàng dài lính hầu – hay có thể gọi là người giúp việc – hành lý gọn ghê, đứng chờ sẵn sàng trên con đường mòn mới tưới nước, theo đội hình hành quân:

– Sáu trinh sát tiền trạm

– Bốn người canh chừng rắn, xách theo bầu tưới nước, lục lạc và những cây chổi lớn giống như chổi cời lá

– Hai người đưa tin với cây sáo gỗ dài buộc vắt qua vai

– Bốn trinh sát cánh.

– Mười phu kiệu vác sau lưng những cái giá lớn đan bằng liễu gai, nhìn như những cái địu trẻ con to tướng

– Chín phu khuân vác phụ trách ba chiếc xe cáng

– Năm phu khuân vác đi riêng lẻ, mỗi gã đeo trên lưng một cái thúng lớn hình trụ tròn, được giữ bằng một sợi dây quàng qua trước trán. Họ vác những đồ dự trữ khẩn cấp, phòng khi chúng tôi mất những chiếc xe cáng

– Hai gã – hai anh em – đến từ một thị tộc nhỏ, nói một thứ tiếng xa lạ khó hiểu, có nghề cha truyền con nối là mua, mang vác, làm sạch và phân phát nước uống

– Một “hàm nhai”, tức người kiêm công việc nấu nước, nếm đồ ăn và bào chế thuốc

– Hai tên dắt chó, mỗi tên phụ trách mười lăm con chó thịt và mười con chó săn

– Bốn tên tiện dân cực kỳ thấp hèn mà tôi xin gọi là “bồi”, hay “bồi xua rận” thì chính xác hơn, vì công việc chính của chúng là xua rận rệp.

– Một thợ may, hoặc gọi là hầu phòng cũng được

– Một thợ làm dép

– Một thợ làm mặt nạ. Hắn phụ trách toàn bộ y phục chứ không chỉ là mặt nạ

– Hai thợ làm vũ khí, hoặc có thể gọi là thợ rèn lao, phục vụ cho Cá Sấu 12

– Một tên hầu nhóm lửa, mang theo những viên đá lửa, dũa và một giỏ than hồng ủ sẵn

– Một thợ làm dép riêng cho bọn người dưới

– Một đầu bếp riêng cho bọn người dưới

– Bốn tên tiện dân hạ đẳng. Hai tên dắt theo hai mươi con chó, chuyên hót phân. Nhiệm vụ duy nhất của những con chó này là ăn hết phân chúng tôi thải ra để kẻ thù không thể vớ được và dùng nó để nguyền rủa chúng tôi. Hai tên còn lại là nacam – một dạng thầy tế – chúng đứng tách riêng sang bên cạnh, như hai con quạ đứng chờ đàn kền kền bỏ đi để ăn nốt cái xác thối. Chúng sẽ làm mọi công việc giết chóc cần thiết, kiêm dọn dẹp xác chết. Bốn tên này, và phu khuân vác của chúng nếu có, sẽ phải ngồi riêng thuyền khi qua s ô ng hoặc đi cách chúng tôi bốn mươi bước, hơi dẹp sang một bên để khỏi làm ô uế đường đi

– Chín tên lính lưu tinh. Bốn trong số đó là lính hầu chạy việc vặt. Năm tên còn lại là “người đưa tin bốn ngày”, tức là những người đưa tin bí mật, đặc biệt giỏi, có nhiệm vụ mang tin tức và Bụi của cờ Hiến tế từ Teotihuacan về cho Sọ Đá Quý 2. Họ nói năm gã đó có thể chạy liền bốn ngày bốn đêm, cứ hai người ngủ thì được những người còn lại thay phiên cõng trên lưng. Tuy nhiên, tôi chắc chắn đấy chỉ là sự phóng đại.

– Cuối cùng là một toán vệ sĩ gồm bốn người. Ba người sẽ đi lùi hẳn phía sau để canh chừng những cái đuôi bám theo. Người còn lại đi áp sát đoàn hơn để đảm bảo rằng không ai đánh rơi thứ gì, dù chỉ là một hạt cườm gài tóc. Hắn cũng sẽ rải ớt bột sau lưng chúng tôi để xoá dấu vết, việc này có tính chất nghi lễ, nhưng cũng phần nào xoá bớt mùi khiến kẻ thù không thể đánh hơi.

Tổng cộng một trăm hai mươi cái đầu, không kể chó. Tính ra, mỗi k’iik có tới năm mươi người giúp việc, mà họ thực ra cũng chưa phải quý tộc hạng nhất gì. Nhưng Sọ Đá Quý 2 muốn phải đi một đoàn đủ đông để chặn kẻ địch từ xa cho tôi có cơ hội chạy thoát nếu bị tấn công, nhưng cũng không quá đông như một đội quân kẻo nhìn chết khiếp.

Tất cả im bặt. Hàng ngũ như xiết chặt lại.

Mưa Chết 18 ra hiệu. Mười chín k’iik và tôi – hay tôi nghĩ tôi có thể hãnh diện mà nói rằng “hai mươi k’iik chúng tôi” – lặng lẽ vào vị trí của mình ở giữa hàng, đi đầu là Cá Sấu 12 và đi cuối là k’iik cấp thấp thứ 2 từ dưới đếm lên. Tôi là k’iik cấp thấp nhất nhưng được phá lệ đứng giữa, sau Hun Xoc và cạnh Tay 2. Hai mươi mốt thằng đầy tớ riêng xếp hàng sau chúng tôi.

Được rồi, – tôi nghĩ bụng, – biến khỏi chỗ này và bắt tay vào chiến dịch thôi. Ta cùng đi trên con đường vàng đến Tamoan nào.

Cá Sấu 12 ra hiệu cho một tên lính lưu tinh. Hắn chạy lên phía trước. Rất lặng lẽ, không một tiếng xôn xao, đoàn người chuyển động và tiến lên phía trước êm như một con tàu điện từ lướt ra khỏi ga, đến một tiếng hơi nước phun xì xì cũng không có. Đàn chó chạy lon ton bên cạnh cũng không một tiếng ủng oẳng. Ngay cả lũ chó non cũng không nghĩ đến chuyện sủa trừ khi được lệnh canh gác. Chỉ có vài tiếng kẽo kẹt của những chiếc xe cáng và một hai tiếng cót két phát ra từ một trong hai trăm bốn mươi chiếc dép xăng đan đã được tra dầu. Chúng tôi đi xuống một loạt dốc núi được đẽo bậc thang, thẳng hướng đông bắc tới một thung lũng được cấy cầy. Nhịp chân nhanh gần như chạy bộ. Thực ra, chúng tôi còn có thể đi nhanh hơn, nhưng cần phải tỏ ra bình thường.

Con đường chạy men theo bờ phải của một lòng suối cạn gần đến đáy, cứ đi được bốn mươi sải tay, chúng tôi lại phải nhảy qua một rãnh nước tưới tiêu dẫn vào một cánh đồng ngô mới đốt, thửa đất cháy đang há cái miệng khát khô chờ mưa. Hai thửa ruộng bị bỏ hoang từ những vụ trước, rồi lại một thửa được đốt. Thỉnh thoảng, trên các cánh đồng, cũng bắt gặp những kho chứa thóc tạm mới dựng dở được cái khung. Một vài thửa vẫn còn đang cháy âm ỉ, nhưng cây cối trong những dải vườn nuôi tằm xen giữa các cánh đồng ngô vẫn được giữ nguyên bộ lá, không có dấu hiệu nào chứng tỏ ngọn lửa vượt quá tầm kiểm soát. Việc đốt ruộng đã xong xuôi mà không gây tai nạn đáng kể nào cho các khu làng Đại Bàng. Đó là một điềm, một dấu hiệu tốt đẹp cho thấy, bất chấp những rắc rối đang gặp phải, Sọ Đá Quý 2 vẫn điều hành công việc hết sức trôi chảy.

Hình như chúng tôi đang đi xa dần khỏi thành phố. Tôi thấy thoải mái. Có lẽ mọi chuyện đang ổn thoả dần. Dù sao chúng tôi cũng có trong tay một kế hoạch, hay ít ra cũng là mấy cái gạch đầu dòng của một thứ gọi là kế hoạch. Ngay khi thu xếp ổn định ở Teotihuacan, tôi sẽ tìm cách diện kiến với công nương Koh. Sọ Đá Quý 2 và tôi đã nhất trí rằng tôi sẽ không nói thật với bà ta tôi là ai – tức là không tiết lộ về Jed (chuyện ấy thì đằng nào bà ta cũng không tin), thậm chí không nhắc gì đến Chacal, nếu tôi có thể kìm được. Thay vào đó, tôi sẽ cố giản lược câu chuyện nhưng vẫn phải được thu hút được sự chú ý của bà ta. Tiếp đến, tôi sẽ thuyết phục bà ta rằng tôi biết Teotihuacan chẳng mất chốc nữa sẽ sụp đổ và bà ta nên để chúng tôi đưa đi khỏi thành phố. Hoặc nói theo ngôn ngữ của ngành hành pháp và nghề gián điệp, tôi sẽ phải khiến bà ta quay sang phe mình. Ngay khi bà ta cho chúng tôi biết các thành phần của chất ma tuý dùng trong trò chơi, và ngay khi tôi ghi lại được cách pha chế, tôi sẽ phải đội đưa tin bốn ngày gửi về cho Sọ Đá Quý 2. Đổi lại, ông ta sẽ chôn giúp tôi một chiếc hộp đá niêm phong kín, đựng một mẩu ma tuý và những ghi chép của tôi về cờ Hiến tế. Chiếc hộp sẽ nằm chính tâm một hình chữ thập bằng sắt từ để đội của Marenac có thể tìm thấy. Đến lúc đó, tôi có thể coi nhiệm vụ của mình đã căn bản hoàn thành. Các dữ liệu sẽ được chuyển về năm 2012 và nhóm Chocula sẽ nâng cấp trò chơi, xác định tên doomster và thế giới sẽ quay về nhịp sống bình thường và thiên hạ sẽ được sống cho đến ngày cuối đời.

Tất cả mọi người, trừ tôi, vì tôi sẽ vẫn kẹt lại ở đây. Tuy nhiên, đó chính là lý do vì sao có giai đoạn 2. Khi tôi trở về Ix, Sọ Đá Quý 2 sẽ dùng việc sản xuất ma tuý dùng cho trò chơi làm con bài để mặc cả. Nếu ông ta kiểm soát được nguồn cung cấp thứ thuốc này, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ sẽ phải đến với ông ta. Và nếu ông ta chế được một mẻ thuốc hiệu nghiệm hơn. Răng Ngạnh 7 sẽ có thể đấu lại được Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Mặc dù tôi không chắc lắm chuyện đó, vì tôi cho rằng Răng Ngạnh 7 chẳng tài giỏi đến mức ấy. Có lẽ ý của Sọ Đá Quý 2 là ” ngay cả Răng Ngạnh 7 cũng có thể đấu lại được”. Dù sao, nếu Sọ Đá Quý 2 có thể tự đưa mình lên ngôi K’alomte’, hay chí ít là xua tan mối đe doạ từ phía nhà Mèo Rừng, và nếu tôi kịp trở về, chúng tôi sẽ thực hiện lại một việc, có điều phải dùng một cái hộp đá lớn hơn và tinh xảo hơn, vì cái xác tôi cũng sẽ nằm trong đó.

Đương nhiên, tôi không rõ vì sao Sọ Đá Quý 2 nghĩ tôi có thể làm nổi việc này. Có lẽ một khi rời khỏi Ix, không bị kìm kẹp nữa, tôi có thể phát huy tốt nửa kia của mình. Chắc Sọ Đá Quý 2 cho rằng nếu tôi đã làm được đến thế – đến được đây, thậm chí chui được cả vào đầu ông ra – thì ông ra cũng nên cho tôi một cơ hội. Và ông ra biết tôi có động cơ trong sáng. Ngoài việc gửi những thứ cần thiết về năm 2012, tôi không hề có tham vọng cá nhân nào khác ở đây, vì tôi cũng không còn sống được bao lâu nữa. Và cũng chẳng còn nơi nào khác để đi. Tôi nằm trong tay ông ta. Hơn nữa…

�cái gì thế kia?

Cặp mắt tôi tự động đảo quanh, như tai loài hươu, để rà soát động tĩnh. Chỉ là mấy con sóc trên cành cây. Tiếng chim bắt muỗi kêu o o. Con đường thu hẹp lại thành một vệt đường mòn. Lúc này, chúng tôi đã cách xa khu làng mạc, nhưng vẫn còn trong khu vực săn bắn dành riêng cho các k’iik của thị tộc Đại Bàng. Lối mòn mỗi lúc một ngoằn nghoèo hơn, uốn vòng quanh những thân cây khổng lồ. Ngay cả cặp mắt của Chacal cũng chẳng nhìn được mấy tí dưới ánh sao lờ mờ này, nhưng hai bàn chân tôi vẫn tự tìm được đúng vết mà chân người đi trước đã dẫm lên. Bất cứ kẻ nào bám theo chúng tôi cũng sẽ không xác định nổi chúng tôi có bao nhiêu người qua những vết chân. Và bất cứ ai trong khu rừng này – thợ đặt bẫy thú, tên buôn lậu hay gián điệp, ví dụ thế – nếu không tình cờ đi thật gần con đường thì sẽ không nghe thấy một tiếng động nào hết. Hấp. Hấp. Qua lần da hươu, cói đan rồi đến cao su của đôi dép săng-đan mới hãy còn cứng đơ, tôi có thể cảm thấy cỏ lau bị xéo nát dưới chân. Chúng tôi đi qua ba ngôi làng nhỏ xíu, tất cả đều nằm dưới sự cai quản của thị tộc tôi. Sau khi qua ngôi làng thứ ba, Hun Xoc đi tuột lại phía sau và kéo tôi ra khỏi hàng. Hai trong năm k’iik vóc người bằng tôi và ăn mặc giống tôi để đảm bảo an toàn (ý tôi là an toàn cho tôi) cũng đi chậm lại. Hun Xoc thì thào với tôi rằng đầu gối tôi vẫn cần thời gian để lành lại sau khi tải các mép trai. Tôi đáp rằng chúng ổn rồi. Nó sờ thử đầu gối phải. Máu đang rỉ ra. Nó bèn ra hiệu cho mấy tên phu khiêng kiệu. Bốn tên bước ra khỏi hàng và quỳ xuống. Bốn người chúng tôi leo lên ngồi trên những chiếc ghế nhỏ, chân quặp quanh hông tên phu kiệu. Tên khiêng tôi đứng lên, đưa tay giữ lấy đầu gối tôi, ép nó chặt vào hai bên lườn hắn và chạy nhanh lên phía trước, tìm lại vị trí của tôi trong hàng và hoà cùng nhịp bước của cả đoàn.

Sau mười tám dặm tính từ điểm xuất phát, con đường rẽ về hướng bắc, ra khỏi vùng cao nguyên, xuống bãi cây bụi hoang vu và chạy thẳng vào một bức tường cây lá tối om. Có tiếng ầm ì phía trước, tiếng ngáy của Ông Bác Đường Vàng, dòng sông chảy về hướng bắc, tới sa mạc mặn mặn và rìa trắng của thế giới.

41

Chúng tôi nối đuôi nhau xuống đồi, lọt vào một thung lũng tối đen nơi con sông cuộn chảy ào ào. Đoàn người đi chậm dần và tập họp lại gần nhau. Tôi là một “gói ngọc bích”, nghĩa là “người cần bảo vệ”, cho nên có tới năm k’iik vây kín lấy tôi, nhưng qua khe hở giữa họ, tôi vẫn còn thoáng thấy những căn lều của người chèo đò in bóng xuống một dải nước xám đục. Con sông này về sau sẽ có tên là Río Sebol, còn bây giờ, nó được gọi là Ka’nbe – Đường Vàng. Ở quãng này, sông rộng chưa đầy ba mươi sải tay, và chỉ cao hơn mức nước cạn vào mùa đông một chút, xem ra chỉ đủ cho rất ít thuyền bè qua lại, thế nhưng, bờ bên này neo tới gần bốn mươi chiếc thuyền mười người. Trong vòng chưa tới ba mươi phút, đám người hầu đã tháo dỡ xong đồ đạc trên xe cáng, bọc chúng vào những tấm vải tráng cao su và theo chỉ dẫn của những người lái đò, chất chúng xuống lòng thuyền. Không có lấy một ánh đuốc. Nhưng tôi đoán họ có thể làm xong việc này ngay cả khi mắt mũi bị bịt kín.

Đám phu khuân vác đập nát những chiếc xe cáng. Chúng tôi tháo dép xăng đan. Cá Sấu 12 dâng cúng một gói lễ vật cho một tảng đá lớn được coi là nơi trú ngụ của uay của con sông. Những người chèo đò đỡ chúng tôi xuống thuyền. Các k’iik ngồi trên năm chiếc đi gần cuối, cách hai chiếc chặn hậu khoảng mười thân thuyền. Mỗi chiếc chở tám người, bốn k’iik và đầy tớ riêng của họ ngồi giữa chủ thuyền – hắn đứng trên một mảnh ván chìa ra trước mũi thuyền với một cây sào dài trong tay – và người đứng lái ở cuối thuyền. Họ xếp tôi ngồi trên chiếc thuyền áp chót, là vị trí an toàn nhất. Khi tôi bước vào, lòng thuyền lún xuống dưới chân tôi. Nó không được đóng bằng gỗ mà được đan, hay đúng hơn, được bó bằng thân sậy. Rất nhiều cảm giác thay đổi trạng thái khi bước xuống một không gian nổi bập bềnh với những định luật cơ học riêng. Chúng tôi tách bến bơi xuôi dòng. Những ngôi sao mờ dần khi mây kéo tới, và chúng tôi chìm trong bóng tối mờ ảo, có phần đáng sợ hơn. Tuy thế, những người lái đò vẫn không thắp ngọn đuốc mà họ thường cắm ở mũi thuyền, cứ dựa vào cảm giác và ánh le lói thi thoảng lóe lên từ những đám nấm gỗ phát sáng và những con đom đóm để chống thuyền lướt đi. Những cặp mắt sáng lóe chớp chớp giữa những thân cây vô hình, mắt khỉ, mắt gấu trúc, mắt cú, và người ta có thể tưởng tượng ra cả mắt báo nữa. Thuyền chúng tôi bơi qua những tiếng rột roạt khe khẽ nhưng râm ran, và tôi nhận ra đó là tiếng lũ sâu bướm đang nhai lá cây, qua những quãng phát ra âm thanh ken két chói tai của hàng trăm loài bọ cánh thẳng, át hết những tiếng động khác, rồi qua nơi bầy ễch ương nghiến răng, hệt như những chiếc máy kéo cổ lỗ sĩ chạy bằng dầu đi-ê-zen rít lên ầm ầm mà vẫn không khởi động được, thứ âm thanh này, trong ký ức thời thơ ấu của tôi, tức là của Jed, mang một thông điệp vô cùng hân hoan rằng “SẮP MƯA RỒI”, và nhắc đến chuyện này…

Chính nó rồi. Nó chính là thứ mà tôi cảm thấy thiêu thiếu khi ở đây cùng Marena vào năm 2012.

Chúng tôi không thể tuyệt chủng được, – tôi nghĩ thầm, – phải vậy không?

Cũng có thể đấy. Cái thứ PAH (Một nhóm chất độc gây ô nhiễm môi trường) ấy cũng độc lắm chứ chẳng phải vừa. Mẹ kiếp.

Ngay cả giữa những tiếng ồn này, đôi tai của Chacal vẫn nghe thấy điều gì đó không ổn. Có lẽ nó hơi quá ầm ĩ. Hoặc âm sắc không đúng. Hoặc do thiếu tiếng cú kêu. Loài cú khá tinh khôn. Chúng rất nhạy cảm với thời tiết, chúng biết vụ phun trào đã làm đảo lộn điều gì đó.

Các k’iik chắc cũng cảm nhận được điều ấy. Trong bước chân của họ có sự căng thẳng bất thường… và không chỉ với tôi. Cũng không chỉ vì căng thẳng chính trị. Ai nấy đều thực sự âu lo hơn bình thường. Vụ động đất khiến mọi sinh vật cũng lo lắng. Những cơn địa chấn! Vào thời này, chúng được coi là những con quái vật khổng lồ dưới lòng đất.

Khi dòng sông mở rộng hơn, chúng tôi gặp các đoàn thuyền khác, vài thuyền có thắp nến bấc ở đằng mũi, và trước lúc trời hửng sáng, chúng tôi đã hòa vào một dòng thuyền buôn tấp nập ngược xuôi. Chúng tôi bơi nhanh hơn và vượt vài tá thuyền khác. Thỉnh thoảng, tôi lại nghe tiếng Cá Sấu 12, ngồi trên chiếc thuyền gần đầu, quát những người đánh cá thu lưới ở giữa dòng lại. Trời vừa rạng là lúc Đường Vàng gặp Đường Xám – dòng sông sau này được gọi là Río San Diego – tại thành phố Quảng Trường Luôn ồn ã mà tàn tích của nó được biết đến với cái tên Tres Islas. Cũng như Tyre (Một thành phố của Libăng), đô thị nhỏ này phát triển quá mức, tràn ra cả ngoài bán đảo, những ngôi nhà mới xây vươn thẳng lên từ dưới mặt nước. Tôi mường tượng ra những đốm lửa không bao giờ tắt trên ô cửa cao của các kim tự tháp nhỏ và cảnh những người quét rác lui cui trên quảng trường chợ không một bóng cây, được thắp sáng bởi những ngọn đuốc treo cao hệt như đèn đường. Dưới ánh nắng ban ngày, nước có màu sắc và vẻ thô ráp như tấm vải lót sàn tã nát trên con tàu chiến, hai bên bờ nối tiếp những vườn cây ăn quả sapote (Từ trong tiếng Nahuatl dùng để chỉ chung các loài hoa quả như trứng gà, hồng xiêm và một số loài cây ăn trái bản địa Trung và Nam Mỹ khác) xanh non đơn điệu, xen lẫn các halach yotlel – những vựa thóc kê cao và giá phơi – nửa đóng nửa đan bằng cành cây. Đến giờ một-phần-mười-ba thứ hai trong ngày. Đường Vàng hòa vào một con sông rộng và chảy xiết hơn, sông Ayn Be – Đường Cá Sấu – sau này là sông Río Paisión. Xa xa thấp thoáng mộtt thành phố có tên Chakha’, nghĩa là “Nước Đỏ”, tức El Ceibal ngày nay. Vô số lâu đài và nhà kho một màu trắng xóa, nằm chen chúc trên một quả đồi hình khom khom, chẳng khác gì một đống đường thỏi chồng chất hỗn độn khiến người ta khó mà phân biệt được ngôi nào là xây, ngôi nào là đẽo thẳng vào đá nguyên khối. Thành phố biến mất khi con sông uốn khúc chạy về nam. Khi bắt đầu nghe thấy tiếng nước xiết sủi bọt phía trước, những người lái đò cho thuyền dừng lại bên một bờ sông được lát đá, một tốp phu dỡ đồ xuống, nâng những chiếc thuyền lên quá đầu và chạy theo con đường dọc bờ sông. Khi các phu kiệu nâng tôi lên và chạy theo họ, tôi thoáng nhìn thấy một thác nước giữa những túp lều và những ngôi nhà lớn có hàng cột, nó chảy thành từng dòng đều đặn một cách kỳ lạ trên những nề đá vôi được chạm khảm. Hun Xoc nói đó là tháp hiến tế mà những người bùn đã xây dựng vào mặt trời thứ ba. Chúng tôi lao nhanh qua một quãng nước xiết, đến khúc sông mà chúng tôi gọi là Đường Trắng Của Khỉ Rú Lớn, chính là Río Usumacinta ngày nay.

Người ta gọi Río Usumacinta là sông Nile của người Maya. Nhưng sông Nile chảy tương đối thẳng, qua những vùng sa mạc phẳng phiu và dâng lũ theo chu kỳ khá đều đặn. Trong khi đó, Usumacinta chảy vòng vèo quanh núi non, qua nhiều hang hẻm, sau đó mới mở rộng ra và chảy chậm lại khi băng qua vùng đất thấp, uốn thành những khúc dài. Dù vậy, ở một vùng đất không bánh xe, không ngựa, thậm chí không lạc đà như thế này, nó vẫn là lựa chọn duy nhất để chuyên chở.

Bình minh lại lên, chậm chạp ì ạch mãi với một màu tím hoa cà thẫm đục. Màu sắc đó có nghĩa rằng những đám mây trên đầu chúng tôi không phải là mây như ngày thường. Đó là tro từ núi lửa San Martín. Một-phần-mười-ba thứ hai, Pa’Chan – “Đổ Trời” – tức Yaxchilán, xuất hiện bên tay trái chúng tôi. Thành phố trải rộng trên một triền dốc nằm chính giữa điểm uốn khúc của con sông, vì vậy, giống như Constantinople, nó được nước vây kín ba mặt, mặt thư tư được củng cố vững chãi. Mặt tiền của các tòa lâu đài hướng ra sông để trưng ra sự giàu có của các thị tộc. Năm dãy bậc thang rộng chạy theo hình zích-zắc lên một vệ thành gồm năm kim tự tháp nằm trên đỉnh quả đồi lớn nhất. Vị trí này thật hoàn hảo bởi người lạ có thể lại gần, có thể đi thăm quan một vòng men theo khúc quanh nhưng không thể dễ dàng tấn công từ trên mặt nước. Nước ở quãng này chảy quá xiết để cập bờ. Ngay cả khi có chỗ cập bờ thuận tiện và nếu có người dám thử, họ vẫn có thể quăng lưới xuống nước, chặn hai đầu và nhốt những kẻ xâm nhập ở giữa.

Thuyền chúng tôi men theo đường cong cuối cùng của dãy đồi và trôi vào gầm halach be, cây cầu treo lớn dài sáu trăm feet, riêng nhịp ở giữa dài hai trăm lẻ ba feet, với hai trụ cầu hình vuông khổng lồ cao sáu mươi feet, bề ngang chân trụ rộng ba mươi sáu feet. Vào năm 664 này, nó là cây cầu treo dài nhất thế giới; và ở châu Âu không hề có một công trình nào dài đến vậy cho mãi đến năm 1377 khi người ta xây xong cây cầu Charles ở Prague. Ngay phía trước cầu, dọc bờ sông được lát đá, có một dãy bốn mươi tên tù trần trụi, vàng ệch, bị treo trên những cây sào dài nom hệt như bù nhìn giữ dưa. Khi đến gần, tôi mới nhìn rõ đó chỉ là những bộ da được nhồi căng lên, vẫn còn đầy đủ chân tay, nhưng đầu được làm giả, có lẽ bằng vỏ bầu, và chúng có màu vàng như vậy là do được tẩm nhựa cây. Chân tay của những cái xác căng mọng lên và mất hết đường nét, nhìn không khác gì cây xúc xích. Tôi đoán chúng được nhồi bằng phấn hoa ngô, Hun Xoc nói bốn trong số đó là các k’iik của thị tộc Dơi Quỷ ở Ix bị bắt sau một cuộc đột kích bất thành cách đây sáu năm. Trong lúc đó, chiếc thuyền dẫn đầu đoàn chúng tôi đã rẽ vào bờ, và một trong số các k’iik của Cá Sấu 12 nhảy lên. Hắn lội đến chỗ bờ đắp đất cao, leo ba bậc thang xếp bằng thân cây, chạy tới chỗ bốn anh bạn nhà Dơi Quỷ, thêm một gói đồ lễ của chúng tôi vào đống đồ lễ vật chất cao như núi dưới chân họ rồi quay lại, nhảy lên chiếc thuyền cuối cùng đúng lúc nó sắp bỏ lại hắn. Các k’iik khác huýt gió thật to để hoan hô tán thưởng. Cái đồ phô trương.

Khi chiếc thuyền chở tôi đi vào dưới gầm cầu, tôi thấy như có tuyết rơi xung quanh. Tôi ngẩng đầu lên. Quãng này, lòng cầu cao hơn đầu chúng tôi mười lăm feet và rộng mười feet, được giữ bởi một sợi chão đôi dày phải đến sáu inch. Một dãy đàn ông và một nhóm thiếu nữ quý tộc – điều này rất khác thường – đang đứng trên đó quan sát thuyền bè qua lại. Một cô gái khác lắc lắc chiếc giỏ trong tay, rải xuống những chiếc thuyền bơi qua bên dưới một thứ màu trắng cuốn theo gió thành một đường xoáy dài. Hun Xoc liều lĩnh nhoài người ra khỏi mép thuyền, bắt được một bông và ăn lấy may. Đó là bỏng ngô.

Bên tay phải chúng tôi, những tòa nhà lớn dần lên và rốt cuộc, tôi nhận ra chúng tôi đang nhìn thấy kẻ kình địch lớn nhất của Yaxchilán, thành phố Yokib’. Người ta còn gọi bằng cái tên “công chúa của các thành phố châu báu”, và rất lâu sau này, nó sẽ được gọi là Piedras Negras, Yokib’ có nghĩa là “Lối vào” hoặc “Ngưỡng cửa”, nơi được cho là có lối hang dẫn xuống thẳng sân bóng hông lớn của thế giới âm phủ Xib’alb’a. Màu của Yaxchilán là màu hồng đào, Ix – màu xanh ngọc bích, còn Yokib’ là màu vàng. Thực tế, cả thành phố này là một màu vàng rực gay gắt, gần giống hệt màu vàng cam Bloxx, lại được viền những dải màu đen khiến nó rất khó nhìn, ngay cả ở dưới ánh sáng nhợt màu tro, có độ khuyếch tán rộng như thế này; một thung lũng được họa theo hình khối với những ánh sáng bóng và nhoáng ướt như được họa bởi bàn tay của Bridget Riley (Họa sĩ người Anh, một trong những người đi tiên phong trong nghệ thuật ảo thị). Kim tự tháp lớn nhất tuyền một màu vàng, một bề mặt dốc nhô ra giữa khoảng sáng lập lòe, trên đó, những người thợ lui cui bò toài, dùng những mảnh giấy sáp ong dính như vữa xi măng để trát lại các bức tường. Tôi phỏng chừng lớp tường ngoài cùng của kim tự tháp được xây cách đây một k’atun, bằng vôi nghiền từ xương của hàng ngàn tù nhân họ bắt được khi làm cỏ tận gốc hai thành phố thù địch, tương tự Lâu Đài Máu Và Bùn ở Dahomey (Tức cộng hòa Benin, một nước thuộc châu Phi ngày nay). Tôi đếm được năm mươi tư cái đầu lâu bày ở cửa sông. Con số đó không nhiều nhặn gì, vả lại nhìn còn mới đến mức tôi đoán chúng được làm giả bằng gỗ. Nhưng, khi đi ngang qua, tôi mới thấy những cái cũ hơn, đặt trên các ngăn giá thấp hơn, đã nhăn nhúm lại. Như thế có nghĩa chúng là thật, nhưng đã được làm sạch, ngâm muối, căng trên khung bằng đất sét, phết dầu, trang điểm và thậm chí được che đậy khi trời mưa. Tên tuổi và ngày bị bắt của từng người được xăm trước trán, có lẽ từ lúc còn sống; chỗ miệng bị khâu kín được làm phồng lên sao cho giống với người sống thật; con ngươi được thay thế bằng đá trắng tinh, vì vậy, nom cứ như chúng đang nhìn trừng trừng vào anh vậy. Có lẽ óc, lưỡi và các bộ phận khác đã bị rút ra ngoài qua đỉnh đầu, để chúng khỏi thối rữa, ít ra nhìn chúng cũng không rúm ró như cái đầu ở Yaxchilán, hay như những cái họ vứt cho giòi bọ ăn ở Temple Bar (Khu vực được bảo tồn từ thời trung cổ ở thành Dublin, Ireland) và cứ nằm phơi ở đấy cho tới tận năm 1746.

Ngoài những lúc lên bờ đi bộ qua những đoạn không bơi được, chúng tôi không hề rời thuyền nghỉ đỗ, dù chỉ lấy nước uống. Các thuyền bán hàng rong bơi lại gần, chúng tôi mua những thứ cần thiết và lại đi. Nước tiểu được bọn hầu hót phân đổ ra ngoài thuyền còn phân thì cho lũ chó ăn. Chúng có vẻ thích món ăn này. Có lẽ chúng thuộc một loài đặc biệt, có thói quen lạ bẩm sinh. Tiếp đó, cứt chó lại được bọc vào lá tai voi và chuyển sang thuyền của những gã làm nghề hót phân trên sông, chúng luôn được họ tống bởi hàng đám mây ruồi. Mấy tên lính lưu tinh cứ phải chạy hộc tốc lên bờ, trước đoàn thuyền, để đảm bảo luôn có một tốp phu trực sẵn ở đoạn nước xiết tiếp theo. Ở thế kỷ hai mốt, người ta lúc nào cũng ca cẩm, nào là “ôi chao, chẳng còn lấy một tí thì giờ”, nào là “cuộc sống hiện đại nhanh đến chóng cả mặt”, nào là “không như những ngày xưa, khi chưa có điện thoại di động, chưa có TV”, vân vân và vân vân. Nhưng nếu tôi có học được điều gì ở quá khứ thì đó là ở đây người ta cũng không thư thả gì hơn. Kể cả anh có là cô tiểu thư quý tộc hoang tưởng, anh cũng luôn phải vội vã chuẩn bị để sẵn sàng trước khi ai đó đưa anh đi chơi. Hạn chót luôn là hạn chót. Như tôi nghĩ tôi đã nhắc đến một đoạn nào đó, rằng vào ngày mồng 1 tháng 5 theo cách tính của chúng ta sẽ có hiện tượng nhật thực. Sọ Đá Quý 2 nói những người Teotihuacán có thể sẽ phong tỏa biên giới từ trước đó năm ngày, vào ngày Chết 6, Nai đực 14, tức là chỉ còn hai mươi ngày tính từ hôm nay. Vào ngày đó, toàn thể dân chúng của Teotihuacán Lớn sẽ bắt đầu cử hành việc “im lặng”, không ai được vào hoặc ra khỏi thung lũng cho đến khi mặt trời quay trở lại chu kỳ bình thường của nó. Hóa ra, trái với quan niệm thông thường, nhật thực không phải hiện tượng chỉ có giới quý tộc được biết. Mệnh lệnh được ban ra, và khi ngày đó tới gần, mọi người dân cùng tổ tiên của mình đều sẵn sàng thực hiện nghi lễ. Thành phố sẽ đóng băng. Dịp này giống một lễ vọng hoặc nghi thức canh đêm hơn là lễ hội.

Nói tóm lại, vấn đề là Sọ Đá Quý 2 nói chúng tôi sẽ đến được Teotihuacán trong vòng hai mươi bảy ngày, còn tôi thì cho đó là một kế hoạch hão huyền, ý tôi là, chặng đường dài những 658 dặm. Vì chúa! Mà đấy là nếu anh bay được theo đường thẳng như chim đây. Chứ nếu đi bằng ôtô, quãng đường sẽ là 1250 dặm, chỉ tính trên đường cao tốc. Và vào thời này, chúng tôi không có ôtô, đến cái bánh xe cũng chẳng có. Con ngựa gần nhất thì tận Ireland. Tôi nhớ mang máng một chuyện rằng quân đội của Napoleon từng hành quân được 275 dặm trong vòng hai mươi ba ngày trên đất Áo và đó đã được coi là kỳ tích. Tuy nhiên, quan đội thì không có phu khuân vác tiếp sức. Những tay lính bộ binh Pháp đáng thương đó phải tự lo lấy từng inchđường đi bằng hai bàn chân của chính mình. Và bất kể vị hoàng đế kia lùa họ đi gấp đến mức nào thì mỗi đêm họ vẫn phải cắm trại nghỉ, chí ít là một chốc. Còn chúng tôi chắc sẽ đi ngày đi đêm, ngủ nghê, ăn uống (chủ yếu là sên sống, thịt gà tây khô và ch’anac, một loại bột ngô trộn với máu chó đóng lại thành bánh), bắt rận, đi vệ sinh và những gỉ những gì nữa có trời biết ngay trên lưng lũ phu khiêng kiệu. Người ta đồn rằng những người đưa tin Inca có thể chạy tiếp sức để đưa thông điệp từ Cuzco (Thủ phủ của đế chế Inca, nằm tại Peru ngày nay) đến Quito ở Ecuado trong vòng chưa đến năm ngày, và quãng đường đó khoảng một ngàn dặm. Phải không nhỉ? Nhưng họ thì nhanh hơn chúng tôi nhiều. Tuy nhiên, nếu một người đi bộ giỏi, mang theo hành lý nhẹ có thể đi được hai mươi dặm một ngày thì chắc chắn chúng tôi sẽ đi được năm mươi nếu đổi được phu khuân vác liên tục. Rồi đến đường thủy… Ờ… đi thuyền hai mươi dặm một ngày là xuất sắc lắm rồi. Nhưng đó là với loại thuyền hai người. Thuyền càng dài đi càng nhanh. Vì vậy, nếu đổi được người chèo thuyền mới từ bờ vào chúng tôi sẽ đi được gần năm mươi dặm một giờ, ngay cả đi trên biển. Cứ tính dư cho chắc, quãng đường chúng tôi phải đi là 1600 dặm. Nếu vậy, lịch trình trên không hẳn đã là không thể, nếu không có trở ngại gì về thời tiết hay những trục trặc khác. Tuy cũng có vẻ hơi vội. Nhưng những anh chàng này quá quen với việc ấy rồi, – tôi nghĩ. Phải vậy không? Và dù sao, Sọ Đá Quý 2 cũng chẳng có lý do gì để lòe tôi chuyện này. Có lẽ chúng tôi sẽ làm được.

Tại một thành phố tên là Nơi Luộc Rùa Cạn 3 – sau này là phế tích Aguas Calientes – chúng tôi bắt gặp đoàn lữ hành đầu tiên của một thị tộc kình địch. Đô thị này dày đặc những công trình đa tầng nằm san sát hai bên bờ sông, với hai cây cầu treo bắc ngang qua đầu chúng tôi và một kim tự tháp của thị tộc cai trị nằm phía bên tay trái, hình dáng kỳ cục, được phủ kín những con búp bê bằng gỗ cao bằng nửa người thường. Tôi đoán chúng là đồ lễ được dâng trong một dịp đặc biệt nào đó. Tất cả đều được chạm khắc rất công phu và mặc đồ sặc sỡ đến mức khiến người ta nhìn rối cả mắt. Một đoàn thuyền lớn và lộng lẫy đang đậu bên một bậc cầu thang dẫn xuống sông ngay dưới kim tự tháp. Hun Xoc nói màu vàng và xanh lục trên cờ hiệu cho biết chúng là tàu của các cháu trai của K’ak Ujol K’inich, ahau của thị tộc Báo Đốm ở Oxwitzá, tức Caracol ngày nay, những kẻ nuôi mối thù truyền kiếp với năm thị tộc lớn của Ix từ hơn bốn k’atun nay.

Mệnh lệnh được truyền khắp cả đoàn rằng các lái thuyền cứ tiếp tục chèo và tất cả phải vờ như không nhìn thấy các Oxwitzá, trừ khi họ hỏi han chúng tôi trước.

Cho đến lúc này, không ít thì nhiều, chúng tôi chào hỏi tất cả các đoàn thuyền đi ngang qua. Những người chèo thuyền vẫy người quen của họ, khi thì rối rít vui vẻ, cũng có khi chỉ là một cái nhún vai phải khe khẽ, tương tự một cái gật đầu. Rõ ràng đoàn buôn của chúng tôi là khách thường xuyên của tuyến đường này, chỉ là lần này hơi vội vã bất thường và trái mùa một chút.

Nhưng thuyền của nhà Báo Đốm lại vẫy chúng tôi nên chúng tôi đành đi chậm lại và lượn đến gần để làm như cũng định chào hỏi họ từ trước. Đến chỗ nước nông, những người chèo thuyền quay đầu mái chèo và biến chúng thành cây sào. Tôi có thể cảm thấy các k’iik trong đoàn đang gồng hết cả người lên, bàn tay của Hun Xoc dịch thêm một inch tới gần những chiếc ống xì đồng và chùy mà nó đã treo dưới mép thuyền. Có gì đâu nhỉ, – tôi nghĩ, – họ bốc mùi thân thiện và chúng ta cũng vậy mà. Nghĩa là thế này, mỗi con thuyền đều có một bức phù điêu hình đầu thú vật gắn ở đầu mũi néo buồm, đó là vị thần bảo trợ cho con thuyền, và từ lỗ mũi của nó thường tỏa ra khói thơm. Mùi nhựa cây keo hoặc bột thuốc lá cháy mang thông điệp rằng “chúng tớ không hề có ý định ẩu đả”. Khi chúng tôi lại gần, tôi nhận ra thủ lĩnh của họ đứng trên chiếc thuyền cuối cùng. Hắn đội trang phục hình đầu mèo cao ngất ngưởng, thân mình tô đen, mặt vẽ trắng xóa. Hắn quan sát chúng tôi một lượt bằng cặp mắt sâu hoắm. Tôi và năm k’iik đóng giả tôi cùng đội mũ rơm hình tròn, rộng vành, giống chiếc nón lá của người Việt Nam. Tôi nghiêng đầu xuống, cố giữ sao cho tư thế không bị dịch chuyển. Chacal từng chơi một trận với đội bóng hông Chuột Lang của Oxwitzá và đánh bại họ. Thể nào chả có một vài trong số những con mèo này xem trận đấu ấy.

Sẽ ổn thôi, – tôi tự nhủ, – không ai để ý đến mày giữa đám này đâu. Giống như mọi cầu thủ bóng hông khác, cả khi chơi bóng lẫn khi lên nhận giải thưởng. Chacal đều đội một cái mũ hình đầu thú che khuất đến hơn nửa khuôn mặt. Ngoài ra, ngay cả trên bức tượng tạc hình anh ta giống nhất, nét mặt nhìn cũng mơ hồ. Với mớ tóc nuôi dài, kiểu ăn vận khác, đầu gối không vết chai sần và sụt cân đến gầy nhom như thế này, không ai có thể nghĩ tôi từng là một người chơi bóng hông, và hy vọng không người ngoài nào nhìn tôi mà liên tưởng ra được Chacal. Sọ Đá Quý 2 muốn tôi tỏ ra ốm yếu và lờ đờ đến mức không ai dám bắt chuyện nhiều. Và dĩ nhiên, tôi không nên nhìn vào mắt ai cả.

Thầy hành lễ của Cá Sấu 12 hát một bài chào mừng. Một người đưa tin nhảy xuống nước, đến trao cho cận vệ của gã mặt trắng một cái gói đỏ đựng thuốc lá, ngọc bích và món bột sô-cô-la đặc sản của chúng tôi.

Im lặng. Nhiều năm qua, Ix đã mất hàng trăm k’iik dưới tay của những gã này trong chiến tranh, một cuộc chiến chỉ như sợi tơ nhỏ trong cái mạng nhện vĩnh cửu của sự trả thù báo oán tồn tại để làm cho thế giới này cứ ì trệ mãi không khá lên được. May thay, nó chỉ là một cuộc chiến giới hạn giữa các cá nhân với nhau chứ chưa lôi kéo tất cả vào cuộc. Chỉ là anh phải để ý đề phòng nếu có kẻ thề sẽ tóm cổ anh, hoặc nếu anh nhỡ giẫm chân lên đất của bọn kẻ cướp. Hay giống như hai băng đảng đi trên phố giữa ban ngày, khi gặp nhau thì một phe tự rẽ sang lề đường bên kia để tránh đụng nhau. Hay có thể nói ở đây giống như Trung Đông, nơi có thể, hay nói đúng hơn là lúc nào cũng có một cuộc chiến tiếp diễn nhưng đồng thời vẫn có những chuyến bay thương mại liên tục cất cánh và hạ cánh, những hàng dài xe du lịch xếp hàng gần biên giới và những người dân đi lại nhộn nhịp ngay giữa vùng tranh chấp.

Nhưng đường đi lại trên sông cũng là một kiểu nhà thờ, bãi chợ hay sàn giao dịch chứng khoán. Chúng là thứ tài sản trung thực sự duy nhất từ một ngàn năm nay. Khi ở trên mặt nước, anh nằm dưới sự bảo trợ của Phù Thủy Ngọc Bích, người đã đào con sông từ những ngày của mặt trời thứ ba, trước cả khi Vẹt Đuôi Dài 7 xuất hiện. Rất hiếm khi xảy ra những cuộc tấn công trên mặt nước và chúng bị coi là vô cùng hèn hạ, không kém ǵ chúng ta khinh vụ gia đình Pazzi (Một gia đình quý tộc ở Florence, đã ám sát Giuliano de’ Medici, ngươi cai trị xứ này vào thế kỷ 15 và được coi là người bảo trợ nghệ thuật) tấn công Giuliano de’ Medici ở Duomo. Bất cứ kẻ nào có hành vi bạo lực cũng có thể bị xé xác, không chỉ bởi những người dân địa phương luôn để mắt canh chừng, mà còn bởi chính những người đồng hành của anh ta. Ngoài ra câu nói khách sáo rằng “bước vào một ngôi làng giàu truyền thống cũng như bước vào phòng khách riêng của một nhà” hoàn toàn đúng ở xứ này. Bất kể anh đang ở đâu, anh cũng là khách của một ai đó, anh và họ bị rằng buộc bởi sự hiếu khách với nhau. Thay vì xuất trình hộ chiếu, tiền vé hay quà hối lộ, anh phải tặng quà và nhận lại những món quà rẻ tiền hơn. Nếu quà của anh không đủ hậu hĩnh, hoặc nếu như anh gây ra bất cứ rắc rối gì, người ta sẽ nhớ cái bản mặt anh và anh sẽ nhận lại đủ, có khi còn tồi tệ hơn.

Cuối cùng, ai đó trên một trong những chiếc thuyền của phe Báo Đốm cũng hát đáp lại hồi khúc của bài hát chào mừng, một người khác đưa cho chúng tôi một gói đựng thứ khỉ gió gì chả biết và chúng tôi lên đường.

– Hắn nhìn anh đấy, – Hun Xoc nói với tôi qua bờ môi khít rịt hầu như không động đậy. Khi chúng tôi ra khỏi tầm mắt họ, thằng bé giúp tôi đeo một chiếc mặt nạ mỏng, năm người đóng giả tôi cũng làm tương tự. Tôi thấy đeo mặt nạ như thế này cứ kỳ cục làm sao ấy. Nhưng thực tế, ở châu Âu, cho đến tận thế kỷ mười chín, người ta vẫn còn đeo mặt nạ. Cả đàn ông lẫn đàn bà cũng đeo mặt nạ khi đi đường, một phần để tránh bụi trên đường, một phần để tránh nhiễm bệnh tật, như mặt nạ phòng độc thời nay, nhưng chủ yếu là để tránh phiền nhiễu. Ngay cả ở Mỹ vào những năm 50 của thế kỷ trước, rất nhiều phụ nữ thường dân vẫn còn đội mũ mạng che mặt. Phải vậy không? Việc này chẳng có gì quá đáng. Vả lại, khái niệm về sự cải trang không phổ biến ở đây. Nếu anh đeo một cái mặt nạ, điều ấy không có có nghĩa là anh đang muốn che giấu chuyện gì mà chỉ là anh muốn bày tỏ lòng kính trọng hoặc muốn làm hiện thân của hình thù trên chiếc mặt nạ. Mặt nạ làm nên con người anh hơn cả chính bản thân anh.

Bị phát hiện chưa phải nguy hiểm lớn nhất, nguy hiểm lớn nhất là một phần của đoàn lữ hành bị chia tách, bị phục kích, bị lợi dụng hoặc cả ba, khi ấy, ai đó sẽ trao thứ gì đó cho kẻ thù và thứ đó cuối cùng sẽ rơi vào tay nhà Mèo Rừng. Hiển nhiên, tất cả các k’iik trong đoàn và một vài người hầu cận của họ biết Chacal không bị giết trong cuộc đi săn hươu. Nhưng họ biết hai trong số cái gọi là vía của Chacal, tức uay và tên bí mật của anh ta, đã rời khỏi cơ thể sau buổi làm phép. Bây giờ, chỉ còn hơi thở của Chacal ở lại, hai vía kia đã được thay bằng vía của tôi.

Sọ Đá Quý 2 đã xoay phắt câu chuyện sang chiều hướng tốt đẹp, đúng kiểu của ông ta, rằng Thằn Lằn Chân Lùn 10 từ đỉnh núi của nhà Đại Bàng đã đến trước khi được hạ sinh để cảnh báo cho thị tộc rằng họ đang bị nguy hiểm rình rập và giúp họ vượt qua.

Gã chỉ huy toán vệ sĩ chờ sẵn chúng tôi ở chặng đi bộ tránh nước xiết tiếp theo. Cá Sấu 12, Mưa Chết 18 và Hun Xoc tách ra để gặp riêng hắn. Họ không cho tôi tham gia và thì thầm với nhau bằng ngôn ngữ đi săn mà tôi không hiểu. Nhưng khi chúng tôi quay xuống thuyền, Hun Xoc kể cho tôi nghe rằng toán vệ sĩ thông báo có một tốp khoảng hai mươi người đang bám theo chúng tôi, đi bằng thuyền và có lẽ có cả phu khuân vác đi theo bằng đường dọc bờ sông nữa. Họ không biết những kẻ này từ đâu tới, và qua vài lời nghe được, chỉ biết chúng nói thứ tiếng Ix dùng trong mua bán. Gã chỉ huy nói hắn nghĩ trang phục đội đầu của chúng cho thấy chúng là người của thị tộc Cá Trê ở Xalancab, gần Kaminaljuyu, một thị tộc trung lập, không đứng về phe Đại Bàng, cũng chẳng đứng về phía Mèo Rừng. Tuy nhiên toán vệ sĩ không nhận ra bất cứ ai quen mặt trong đám đó nên rất có thể đó chỉ là giả trang. Thị tộc Cá Trê chẳng được mấy ai biết đến nên là đối tượng dễ bị đóng giả.

Hun Xoc kể thêm rằng Cá Sấu 12 đã hỏi chúng có đi lại hay ra hiệu giống bọn săn khỉ hay không. “Bọn săn khỉ” ở đây nghĩa là “bọn săn người” hoặc “bọn ám sát”. Tên vệ sĩ trả lời rằng hắn không chắc, nhưng chắc chắn chúng muốn đi sau chúng tôi một đoạn. Cá Sấu 12 hỏi liệu chúng có biết chúng tôi đang đi đâu không, hay chỉ bám theo thôi, nhưng tên vệ sĩ cũng không biết.

– Nếu tôi phải đặt cược vụ này, tôi xin cá một ăn hai rằng chúng là bọn Búa Lớn, – Hun Xoc nói. Tôi nghĩ là tôi đã nói rồi, Búa Lớn tức là người nhà Mèo Rừng. Họ có biệt hiệu này bởi họ được quyền dùng một loại búa lớn đặc biệt trong chiến trận.

Hun Xoc nói rất có thể Chim Ruồi Có Nanh 9 đã phát hiện ra chúng tôi khi ông ta lảng vảng rình mò quanh trong lốt uay ban đêm của mình. Có lẽ ông ta đã ngờ rằng Chacal vẫn còn sống. Nếu nhà Mèo Rừng bắt được chúng tôi, điều đó sẽ chứng tỏ nhà Đại Bàng phạm tội lừa dối báng bổ, và Chim Ruồi Có Nanh 9 sẽ thâu tóm được toàn bộ những gì thuộc về thị tộc Đại Bàng như người, hàng hóa, quyền lợi đối với đất đai và nguồn nước mà không thị tộc nào dám phản đối.

Tôi không biết nói gì. Đừng có đổ lỗi cho tôi nếu các người không chắc – tôi nghĩ. Tôi suýt định hỏi liệu những kẻ đang bám theo chúng tôi có phải do chính Sọ Đá Quý 2 phái đi hay không, nhưng may sao kịp ngậm miệng đúng lúc. Nếu có thế thật thì Hun Xoc hoặc không biết, hoặc sẽ nói dối tôi.

Vả lại, cũng tốt nếu những gã này tưởng tôi thân cận với Sọ Đá Quý 2. Họ đang cho tôi tham gia một số việc, cho tôi ngồi cùng bàn với những anh chàng có máu mặt trong bữa trưa, nhưng tôi vẫn có cảm giác… hừ, thôi cứ nói toẹt ra rằng họ nhận được lệnh để mắt canh chừng tôi mọi lúc. Tôi chưa lần nào tỉnh giấc mà không thấy một gã đang ngồi nhìn tôi. Tôi chưa từng bước được một bước khỏi toán k’iik mà không có Tay 2 hoặc Cứt Ta Tu chạy vượt lên trước để kèm tôi. Và tôi cũng nhận thấy họ không bao giờ để tôi gần nước, thức ăn và dép xăng-đan dự trữ.

Thực ra, Sọ Đá Quý 2 lo đề phòng là đúng. Dĩ nhiên, tôi phải tin ông ta. Tôi tham gia vào vụ thỏa thuận này vì nó là thỏa thuận duy nhất. Có điều, sự thực là ông ta đã tra tấn tôi cứ khiến tôi mơ hồ ám ảnh. Và bất chấp việc tôi được ông ta nhận làm con nuôi một cách long trọng, bất chấp mối liên hệ giữa chúng tôi, bất chấp việc một kẻ xa lạ trên một vùng đất xa lạ như tôi muốn có một gia đình đến mức nào, tôi vẫn phải thành thật thú nhận rằng tôi không có bất cứ lý do gì để tin những việc ông ta làm cũng vì lợi ích của tôi. Mục đích của ông ta khác tôi. Ông ta chỉ cần cái công thức bí mật của món thuốc đặc biệt kia. Nếu ông ta có thể phá bỏ được thế độc quyền của những người Teotihuacán về món thuốc ấy, ông ta sẽ có thể tự tung tự tác. Nhưng, nói đến viễn cảnh của riêng tôi… nếu tôi nghĩ tôi có thể chạy khỏi những gã k’iik này, tìm đến một ngôi làng hẻo lánh, dùng vài mánh gì đó để lôi kéo người dân về phía mình, thành lập một đội quân chuyên đánh phục kích, tóm lấy vài người đếm mặt trời của một thành phố nhỏ nào đấy – hình như có ít nhất bốn mươi nhăm người đếm mặt trời chín sọ trên khắp vùng Mesoamerica, ngoài khoảng bảy mươi người gì đó ở Teotihuacán – lấy vài mẫu thuốc, chôn xuống đất cho nhóm Chocula (họ chẳng cần nhiều hơn một hoặc hai miligam mỗi loại để xét nghiệm) và thế là tôi… hừ, nghĩ đến đây mà muốn nản. Nhưng vấn đề là chuyện ấy hoàn toàn có thể, và Sọ Đá Quý 2 hẳn cũng lo tôi sẽ thử làm điều đó.

Vì vậy, tôi đoán rằng, nếu tôi bỏ chạy, hay thậm chí tỏ ra có ý định bỏ chạy thôi, tôi sẽ thấy mình bị trói gô lại như con ngỗng Giáng sinh chỉ trong vòng một giây.

Tuy nhiên, – tôi nghĩ, – có lẽ mình làm việc này là đúng. Đừng quên rằng công nương Koh chính là tác giả của ván chơi được ghi lại trong cuốn Thư tịch. Đúng không nào? Ngay cả khi bà ta không phải là người đếm mặt trời có tiếng tăm nhất ở đây – theo Sọ Đá Quý 2, người giỏi nhất là Gió Lốc 11 của thị tộc Ocelot ở Ix, hoặc Heo Vòi Luộc, người đang phụng sự Pacal vĩ đại ở Palenque – nhưng bà ta vẫn là người thích hợp nhất để chúng tôi lôi kéo về phe mình. Có lẽ bà ta thực sự đặc biệt, một trong những người đếm mặt trời vĩ đại mà theo tôi lời Sọ Đá Quý 2, cả một b’akt’un mới xuất hiện một người. Có lẽ, nếu tôi gặp được bà ta, mọi việc sau đó sẽ xuôi chèo mát mái. Có lẽ bà ta biết mọi chuyện và sẽ giúp chúng tôi giải quyết ổn thỏa. Có lẽ bà ta sẽ chỉ ngay ra được tên doomster. Tôi chỉ việc gửi cái tên đó về cho nhóm Chocula và thế kỷ 21 sẽ yên lành. Có khi bà ta còn mách nước cho tôi vài món chứng khoán nên mua nữa, và khi hoặc nếu trở về được, tôi sẽ giàu hơn cả hoàng tử Alwaleed Bin Talal Bin Abdulaziz (Một hoàng tử của hoàng tộc A-rập Xê-út).

Vì thế, cứ tiếp tục theo họ đi, Jed, ít nhất là lúc này. Đừng có nghĩ ngợi quá.

Tôi liền hỏi liệu có phải những kẻ đang bám theo chúng tôi đến từ Teotihuacán chăng. Hun Xoc trả lời rằng có thể ai đó ở đó đã thuê chúng, nhưng làm thế để làm gì. Và công nương Koh, hay theo cái cách gọi của Hun Xoc là Con Gái Thứ Hai Mươi Hai Của Nhện Dệt Cầu Vàng – nó gọi thế để tránh nhắc đến tên thật có thể khiến uay của bà ta bị đánh động – cũng sẽ không thuê chúng vì bà ta là một người đếm mặt trời chín sọ, bà ta có thể đã thấy chúng tôi đang đến qua một ván cờ.

Tôi đáp rằng phải. Nhưng trong bụng thì nghĩ khác. Dù bà ta có vĩ đại đến đâu chăng nữa thì cờ Hiến tế cũng không phải là một quả cầu pha lê…

Biển.

Đó là cái mùi cổ xưa của muối biển, hay đúng hơn, mùi của những sinh vât ưa mặn. Tôi quay sang nhìn những người xung quanh. Qua cách họ rảo bước, tôi có thể chắc chắn họ cũng ngửi thấy. Chúng tôi đang đi gần tới rìa của thế giới cạn. Ngày mai, chúng tôi sẽ lênh đênh trên mặt biển, trên tuyến đường dẫn đến Vương Quốc Của Những Lưỡi Dao và Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh.

42

Hai chiếc thuyền đi biển, đội phu chèo và những người đi tiền trạm của chúng tôi đã chờ sẵn tại địa điểm hẹn trước trên bờ biển, một bãi cát kín đáo nằm cách cửa sông ba dặm về hướng bắc. Chắc nó cũng chẳng lấy gì làm bí mật vì có phải đến ba trăm người lôi thôi lốc thốc đứng vây quanh trên một dải cát vàng mịn như bơ, lốm đốm những mỏm dung nham đen sì và xác một con cá mập chanh lềnh phềnh trong vũng nước nông. Chuyến hành trình của chúng tôi bị trì hoãn đôi chút khi các chủ thuyền nói sau vụ núi lửa phun trào, những người chèo thuyền của họ sợ bị nữ thần Cóc Đất luộc chín và ăn thịt nên chúng tôi sẽ phải bơi ở khoảng cách xa bờ hơn bình thường. Và vì thế, họ bắt chẹt chúng tôi số tiền cao hơn mức họ vừa đồng ý trước đó có vài giờ. Ngoài ra, chúng tôi còn phải thuê thêm một k’al maac có tiếng ở vùng này. Hắn từa tựa như người mà ở châu Phi họ gọi là inyanga, thầy lang nước; hắn sẽ giữ cho thuyền chúng tôi khỏi chìm bằng cách liên tục khấn vái, đổ dầu xuống nước khi biển động và những trò tương tự. Lúc đầu tôi nghĩ hắn chẳng qua chỉ là một loại bịp bợm, nhưng sau này, có lần tôi thấy hắn chơi một ván cờ Hiến tế kỳ quặc và hết sức giản lược để xem thời tiết biển. Mưa Chết 18 lo việc mặc cả và rốt cuộc chúng tôi cũng được lên thuyền. Toán vệ sĩ của chúng tôi ở lại trên bờ. Họ canh chừng xem chúng tôi còn bị bám đuôi hay không và sẽ đuổi theo sau. Chúng tôi cúng máu cho Người Đưa Nôi của hướng Tây Bắc rồi khởi hành.

Tôi nghĩ việc nhét hơn hai trăm người lên hai chiếc thuyền có vẻ không khả dĩ lắm, nhưng hai chiếc thuyền này không phải loại nhỏ. Tôi áng chừng mỗi chiếc dài khoảng chín mươi nhăm feet. Đây là loại thuyền được đẽo, hay đúng hơn, được đốt từ thân cây gỗ gụ, to phải bằng cây Luna (Một cây tùng già gần nghìn tuổi ở bang California), nữ hoàng của những cây tùng. Chiếc đi đầu có cái cổ dài vươn ra ở mũi thuyền với cái đầu bé tí khiến nó giống hệt một con khủng long cổ dài, còn chiếc thứ hai, có tôi ngồi trên đó, được gắn cái đầu như đầu tôm hùm với hai sợi râu. Thân thuyền màu đen khắc những ký tự màu trắng và da cam, được đánh bóng bằng mỡ lợn biển. Chúng còn có cả mái vòm nên nhìn không khác gì thuyền rồng của nữ hoàng Cleopatra, nhưng Cá Sấu 12 đã bắt phu chèo thuyền dỡ chúng xuống để chạy cho nhanh. Không hề có lá buồm nào. Hay mình dạy họ làm một cái nhỉ, – tôi nghĩ bụng. Thôi đừng. Đừng gây sự chú ý.

Sau khi qua khỏi vùng sóng mạnh gần bờ một cách an toàn, các k’iik có vẻ nhẹ nhõm. Cuối cùng họ cũng có thể tán gẫu một chút, lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi rời làng Cacao.

– Ac than a puch tun y an I pa oc’ in cabal payee tz’oc t pitzom?- giọng một ai đó hỏi. (Anh có nhớ cái lần chúng ta chơi ở đây và anh đánh lòi cả mắt một tên tiền đạo không?)

Phải mất một giây tôi mới nhận ra câu ấy là dành cho tôi.

– B’aax? – người đó hỏi tiếp. Nó đại để giống câu: “Này, Thằn Lằn Chân Lùn 10, tỉnh mộng đi nào”.

Đó là Tay 2, em trai Hun Xoc. Nó ngồi phía sau tôi, còn Hun Xoc ngồi đằng trước. Hai nhân vật quan trọng khác ngồi cùng trên chiếc thuyền này là Bướm Đêm 3 – người ghi nhớ – và Lưỡi Cưa 4, một trong năm người giả dạng tôi. Đầy tớ của ai ngồi bên trái người ấy. Tôi quay lưng lại.

– Ma’ax ca’an, – tôi đáp. (Đó không phải là tôi).

– Hắn ngã xuống và anh đánh quả bóng đập vào sau đầu hắn mà. Cái khăn giữ cho hắn khỏi vỡ đầu nhưng một bên mắt hắn bật ra. Tay 2 to béo và vuông chành chạnh với khuôn mặt hăm hở, nó kéo mí mắt phải lên và cố làm cho con ngươi lồi ra hết mức. – Hắn vẫn nhìn được bằng con mắt bên kia nên cố thử nhét con mắt bị lòi vào hốc mắt nhưng không được, thế là, chẳng biết làm gì nữa, hắn biết mình sắp ngỏm và không muốn chúng ta lấy được nó, hắn liền ăn nó.

– Tôi không nhớ chuyện đó, – tôi đáp.

– Mày nên ăn một bát bột sắn thật to đấy. – Hun Xoc bảo Tay 2. Đó là một câu thành ngữ, ý nói: “thôi ngay”. Chacal đang trải qua quá trình giống như “cắt đứt” với cuộc sống, và việc hỏi han về những chuyện xảy ra với anh ta trước khi cái xác được chuyển sang cho tôi rất dễ dẫn đến việc vi phạm điều cấm kỵ: đó là cái tên cũ của tôi không được phép nhắc đến nữa. Nhưng Tay 2 không để tâm đến những chuyện như vậy.

Tôi nghe thấy Lưỡi Cưa 4 cố nén một tiếng rúc rích.

– Chuyện xảy ra như thế thật à? – tôi hỏi.

– Không hẳn thế đâu, – Hun Xoc nói.

– Chính xác là như thế đấy, – Tay 2 cãi. – Anh còn nhớ Vảy Ghẻ 22 không? – nó hỏi tôi.

Tôi lắc đầu.

– Hắn là một trong những tên làm vườn của Bóng 3, – Hun Xoc chen ngang, – mặt hắn đầy mụn cơm và rất khó coi. Hắn luôn đi tắm hơi một mình. Nhưng có một lần, Rắn Chuông 22 bất chợt bước vào và nhìn thấy đầu chim hắn bị cắt cụt. Và hắn không chịu kể cho chúng ta chuyện ấy xảy ra như thế nào.

– Anh có nhớ chúng ta đã phát hiện ra chuyện đó như thế nào không? Với Tóc Cứt ấy? – Tay 2 hỏi.

– Cậu hỏi tôi à? – tôi hỏi lại.

Nó gật đầu.

Tôi lắc đầu. Tôi quan sát Tay 2 qua tấm mặt nạ. Nó tin câu chuyện đó đến mức nào nhỉ? – tôi nghĩ ngợi, – chuyện tôi quên mình là ai ấy mà. Rõ là nó không nghĩ tôi đã thành một người hoàn toàn khác, tuy nó vẫn hơi e dè. Và tất cả những người ngồi trên con thuyền này, tất cả những người tham gia chuyến hành trình này nữa, họ tin câu chuyện đó đến mức nào? Liệu họ có tin tất cả những gì Sọ Đá Quý 2 nói, hay chỉ chấp nhận thế thôi? Họ có phải lũ đần đâu. Nhưng mặt khác, ở đây người ta cũng không có nhiều ý niệm về sự nghi ngờ tôn giáo. Có lẽ mỗi người trong số họ suy nghĩ một khác. Người thì tin, người thì nghĩ các vị thủ lĩnh của mình đang phóng đại mọi chuyện.

Và đương nhiên, ngay cả khi họ có tin đi chăng nữa, họ cũng vẫn tức giận tôi vì đã làm hỏng việc của Chacal. Hẳn là Sọ Đá Quý 2 có giải thích với họ chuyện này, ông ta nói tôi đến cũng là để cứu Chacal nữa… song thể nào cũng còn chút oán giận. Và có lẽ cả sợ sệt nữa. Họ không chắc tôi có phải là người hay không.

Thôi, đừng có hoang tưởng nữa. Mọi chuyện có phải chỉ xoay quanh mày đâu.

Tay 2 nói tiếp:

– Ờ, trên đường thi đấu ở đây về, chúng ta đã nghĩ lại ở cái làng mọi này. Có một k’aak – tức là một con bé mọi – nó muốn ngủ với tất cả chúng ta, tất cả những người chơi bóng hông. Nó có mớ tóc dài với những vệt màu nâu. Lúc nào nó cũng luẩn quẩn xung quanh và họ gọi nó là Tóc Cứt. Anh nhớ không?

– Không, – tôi đáp. Thực ra tôi cũng thấy gợi gợi lên chút gì đó trong đầu, nhưng phải cần thêm gợi ý thì mới nhớ ra được.

– Thế anh cũng không nhớ lúc anh đang ngủ thì Bướm Đen 1 xát c’an aak’ot vào chim anh à?

Tôi lại ra hiệu “không”.

– Thế chuyện gì xảy ra? – Lưỡi Cưa 4 hỏi.

– À, Cha… À… anh này tỉnh dậy, – Tay 2 nói, – anh ta nhảy dựng lên, nắm cái ấy, nhảy tưng tưng và gào lên: “Nó căng quá! CĂNG QUÁ!!!” – Chắc c’an aak’ot là một loại ma tuý nào đấy gây ảo giác kích thích dương vật – Anh ta chạy cuồng lên quanh sân và nhìn thấy Tóc Cứt. Anh ta kêu lên: “a ha!”, tóm lấy con bé và “ấy” vào lỗ đít nó. Thế là, một lúc sau, anh ta thấy thoải mái, ngồi lau sạch cái của quý của mình, nhưng lại đến lượt Tóc Cứt nhảy tưng tưng lên. Nó gào: “Ui, ui, ui, ui, ui, ui!”.

Chắc các bạn cũng hình dung ra Tay 2 vừa bắt chước các giọng kêu, vừa đùng đùng diễn lại động tác đó làm chuyển cả con thuyền.

– Thế là nó ngồi xổm xuống và ị. Cứt tuôn ra và tất cả chúng tớ đứng nhìn. Lát sau, con bé ỉa ra cả ruột. Và cứ thế lòng ruột tuôn ra từ đít nó, cuộn thành một đống dưới đất, một con chó chạy đến, đớp lấy một đầu và chạy đi, làm chỗ lòng bị lôi tuồn tuột tiếp ra. Nó bắt đầu ăn, lòng ruột cứ thế bị lôi ra, Tóc Cứt mặt nhăn nhúm lại như thế này này, và một đoạn lòng có một cục lồi lên. Thế là anh này – ý nó nói tôi – giật chỗ lòng ra khỏi miệng con chó, đẩy cái cục kia ra đằng đầu ruột đã bị nhai nát. Nó rơi xuống đất. Một thứ khẳng khiu, nhăm nhúm và đầy mụn cơm. Đó là cái đầu chim của Vảy Ghẻ 22! Thế là anh này hét lên: “Cái chim này có ở đâu thì tao cũng nhận ra! Nó là của Vảy Ghẻ 22! Thằng nào đi tìm nó về đây đi! Chúng ta tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!”.

Mấy thằng đầy tớ phải cắn chặt môi để nén tiếng rúc rích. Bướm Đêm 3 và Lưỡi Cưa 4 thì cười rũ ra. May mà những người chèo thuyền không hiểu thứ tiếng riêng của nhà chúng tôi.

– Tôi không biết chuyện này đấy, – tôi nói. Và tôi cũng lăn ra cười. Có lẽ nó cố tình làm thế. Các bạn mà được ở đó thì…

– Đủ rồi, – Hun Xoc nói, – thôi đi. Bọn Búa Lớn có thể ngửi thấy mùi chúng mày đang căng cứng lên đấy.

Không biết tôi đã nhắc tới chuyện này chưa, nhưng chúng tôi không được phép sa đà vào bất cứ thể loại nào liên quan đến tình dục trong chuyến đi này. Một chuyến đi dài cũng được coi giống như một chuyến đi săn thiêng liêng. Anh thậm chí không nên “dựng lều” nếu có thể nén được, bởi, như Hun Xoc nói, nó sẽ khiến kẻ thù ngửi thấy mùi chúng tôi, giống như đánh động con mồi trong chuyến đi săn. Nhưng dĩ nhiên, đám k’iik này phần lớn vẫn còn là trẻ con, và dĩ nhiên, là giống đực.

– Chúng ta phải là sac kanob, – Hun Xoc nói tiếp. Sac kanob nghĩa là rắn mũi thương. Câu đó ý nói rằng hơn tất cả các loài rắn khác, rắn mũi thương nhanh, khó phát hiện, và đặc biệt là lặng lẽ.

Tay 2 bèn ngồi yên.

– Hơn nữa, – Hun Xoc nói, – mày thêm thắt cũng quá đấy. Có một đoạn ngắn tí bị lòi ra thôi.

Nó ngả người ra và nhét một nhúm thuốc lá nhai vào miệng. Trời đã sập tối. Không còn chút ánh le lói nào. Sau khi đi qua một đống lửa hội mừng ở Comalcalco, chúng tôi rẽ về hướng tây bắc – hướng của thần chết – lái thuyền chạy vuông góc với hai ngôi sao của Teotihuacán, ngôi Kền Kền Cái và Vết Thương Của Kền Kền Cái; đó chính là ngôi sao mà ngày nay chúng ta gọi là Thuban và vệ tinh màu đỏ của nó: Alpha Draconis. Vào năm 3113 trước công nguyên, năm bắt đầu của hệ thống lịch Long Court, Thuban chính là ngôi sao nằm ở vị trí sao bắc đẩu. Tôi chưa từng nhìn thấy màu đỏ của nó rõ đến thế, kể cả qua kính viễn vọng. Hun Xoc nói chúng tôi đang tiến đến gần hai ngôi sao đó, gần đến mức có thể nghe thấy tiếng chúng kêu xèo xèo khi chạm vào mặt nước. Tôi có thể nghe thấy âm thanh mà thằng bé ám chỉ. Tiếng động đó nghe như tiếng xèo xèo của đầu mẩu thuốc lá rơi xuống vũng nước mưa, nhưng dĩ nhiên đó chỉ là tiếng sóng biển. Đám vi khuẩn phát sáng lập lòe theo mỗi nhịp mái chèo nhúng xuống nước, hệt như tia sáng bắn ra theo nhịp đập đá lửa. Trước lúc bình minh, thời khắc thích hợp nhất để tập trung, tôi ngả người qua mạn thuyền – cố tránh nhìn vào cái bóng của khuôn mặt mới vì nó luôn làm tôi hoảng hồn – và thử điểm danh các loài lưỡng tính. Có tôm bạc hà, những con nhuyễn thể bơi thành từng dải dài đỏ quạch, những con sứa khổng lồ và một loài có hình phiến lá oải hương nhìn như sứa răng lược nhưng tôi không nhận ra là loài nào. Có lần, tôi nhìn thấy một con mà tôi biết chắc chắn chưa từng được mô tả, nhưng khi tôi thò tay xuống định tóm lấy nó thì trong nước đầy nọc sứa làm tay tôi ngứa ran, thế là hụt.

Toán vệ sĩ bắt kịp chúng tôi vào buổi trưa. Họ đi trên một chiếc thuyền thân hẹp giống thuyền đua với mười người chèo và mười người nghỉ chờ tiếp sức. Hun Xoc và các k’iik khác đã đặt tay lên cây lao, nhưng chiếc thuyền được quấn những tràng hoa giấy mang màu sắc của thị tộc Đại Bàng, và khi đó đến gần thì họ nhận ra. Thuyền chúng tôi đi sát vào bờ và đậu vào chỗ khuất gió của một bãi cát nổi.

Gã chỉ huy leo lên thuyền của tôi và đi ra phía cuối thuyền. Người ngồi lái rời khỏi vị trí, hắn cùng những người khác đi ra mũi thuyền để năm chúng tôi, lần này có cả tôi, bàn chuyện.

Có một toán đông đang bám theo chúng tôi, gã vệ sĩ nói, ít nhất là mười hoặc mười lăm người, chính là những kẻ đã theo chúng tôi trên sông.

Chúng tôi không cưỡng được cái quay đầu nhìn về hướng đông. Trên mặt nước có vô số thuyền bè, nhưng hắn nói chúng còn cách quá xa nên chưa thể nhìn thấy.

Cá Sấu 12 ra lệnh cho lính trinh sát lên bờ, thuê hai chiếc thuyền nhỏ hơn và theo dõi những kẻ đang theo dõi chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi sẽ vượt thật xa chúng. Nếu chúng biết chúng tôi đang đi đâu, chúng sẽ không rời khỏi mặt nước, bằng không, chúng sẽ đỗ lại ở tất cả các cảng để kiểm tra xem chúng tôi có đi qua đấy không.

– Và đừng quay về đoàn khi chưa phát hiện chắc chắn chúng là ai – ông ta dặn.

Kết cục là, thay vì lên bờ hôm nay, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, ra xa ngoài khơi, đi chếch về hướng bắc thay vì tây bắc và thưởng cho những người chèo thuyền món đầu tiên để họ tăng tốc. Đêm nay, chúng tôi sẽ đổi hướng một lần nữa về phía tây để cắt cái đuôi lẵng nhẵng đằng sau. Đội lính gác quan sát chân trời phía sau chúng tôi, dùng những tấm da cuộn lại như ống nhòm, nhưng sương mù mỗi lúc một dày, hay đúng hơn là mờ mịt nên họ không phát hiện được điều gì khả nghi.

Sáng ra, mặt nước gợn vết mỡ loang óng ả từ xác cá voi và lều phều những con cá chép trương phềnh. Chúng tôi không nhìn thấy, cũng không cảm thấy bụi rơi xuống người, nhưng ai nấy đều xám đen đi, và nếu có người quết một miếng giẻ ướt lên mặt chúng tôi thì nó sẽ đen sì đi lập tức. Xác cá chết thu hút những con mòng biển từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Tôi không nói quá đâu. Chắc chắn thế đấy. Có những con chỉ nhỏ bằng con quạ, nhưng cũng có những con to phải bằng loài khủng long có cánh. Khi chúng tôi đi qua cái xác trắng bị rỉa nham nhở của một con cá heo – tôi đoán thế – thì vô số mòng biển cất cánh bay lên, nhiều đến mức những người chèo thuyền tưởng chúng được ấp nở ra từ trong xác con cá. Ruồi nhặng nữa, đông đặc, đến gió biển cũng chẳng đủ để xua bớt đi, thế nhưng Cứt Ta Tu rất chịu khó, nó liên tục dùng túm phất trần tết bằng tóc phủi người cho tôi, vài giờ mới đổi tay một lần cho đỡ mỏi. Khổ thân thằng bé.

Đêm thứ chín kể từ khi rời Ix, biển bắt đầu trở gió. Họ dùng những tấm ván dài nối hai chiếc thuyền lại với nhau để tạo thành một kiểu thuyền đôi. Chúng tôi buộc phải bơi xa bờ hơn nữa để đề phòng gió mạnh có thể đẩy chúng tôi về phía vách đá. Bão rồi, – tôi nghĩ, – chúng ta thành mồi cá mú mất. Thôi rồi lũ chim biển. Chúng tôi sẽ đâm phải chúng trước tiên. Nhưng cái cơn phải gió ấy cũng qua đi và áng chừng khoảng ba giờ sáng, mặt trăng to lớn, đỏ quạnh hiện ra từ sau những đám mây, nhìn hệt như nửa viên thuốc Valium 5 miligam, rơi tõm xuống mặt nước. Hôm sau, chúng tôi cập cảng một thành phố tiền đồn của người Teotihuacán có tên là Nơi Chúng Bị Mù Mắt, nằm bên bờ bắc của một hồ nước sau này được gọi là Laguna de Alvarado. Nó thực ra chỉ gồm những con đường đắp bằng bùn dẫn xuống một cửa sông nước nông, đậu chật kín nào thuyền, nào xà lan với những đội chèo thuyền nói năm mươi thứ tiếng khác nhau. Có cả một khu trại lớn nơi những người thợ ướp muối ướp thịt chuột đầm lầy và cá phèn, dù đã có gió xua bớt nhưng ở đây vẫn ám mùi thối của cá ươn và không khí nói chung có mùi khó chịu.

Trong khi các ông lớn mặc cả, Tay 2 và Cứt Ta Tu đặt tôi ngồi vào một thứ dạng như cái lều di động đan bằng cành liễu, tựa như cái xe tắm (Một loại xe dành cho người đi tắm biển, thịnh hành vào thế kỷ 19. Chiếc xe chở người tắm ra đến mép nước và người tắm từ trên xe lội thẳng xuống nước để tránh phải đi một quãng đường dài trước mắt thiên hạ trong bộ đồ tắm). Tôi lấy ra một tập giấy gấp mới với cái bìa còn trắng tinh. Tôi định dùng một mẩu than chì nhưng Bướm Đêm 3 đã kiếm được cho tôi vài mảnh quặng sắt đỏ có thể vạch nét khá rõ trên nền đá phấn, không kém gì trâm bạc. Thế là sẵn sàng.

Tôi viết thêm một bức thư gửi về nhà dưới dạng mã hoá như sau:

(đã giải mã)

TỪ KHÓA MỚI: AWHNNBAGHSDDLPFSETQHYTAHBDSZ

Jed DeLanda

Viết tại: Tacoanacal Pana’ Tonat (Alvarado)

Gửi: Nhóm Chocula

Tại: Phế tích Ix, Alta Verapaz, Guatemala.

Khoảng 11 giờ sáng, thứ Tư, ngày 31 tháng 3 năm 664 Công nguyên.

Marena, Taro, Jed và mọi người thân mến,

Chắc mọi người cũng nhận thấy, trong bức thư đầu tiên, tôi đã định thử mô tả một số nét đặc trưng của địa phương nhưng lại thôi. Trong phần này, tôi sẽ chỉ tập trung vào vấn đề chính. Như tôi đã nói, nhiệm vụ đầu tiên của tôi khi đến Teotohuacán là tìm cách diện kiến người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg, Ahau-na Kor. Sau đây là những gì tôi tìm hiểu được về bà ta, cho đến lúc này:

Bà ta sinh, hay chính xác hơn, được đặt tên vào ngày Đỉnh núi 1, Ngỗng trắng 1. 9.10.13.13.13, tại một thành phố nhỏ ở B’aakal tên là Mía ủng, thuộc quần thể bao quanh Lakama, Palenque. Bà ta là người thuộc gia tộc cai trị thành phố đó, những người được coi là hậu duệ của loài chim chứ không phải loài mèo, và là con cháu của bà ngoại Sọ Đá Quý 2. Từ khi lên năm tuổi, bà ta đã bộc lộ năng khiếu và một người đếm mặt trời ở Hội Rắn Chuông Lakamha đã dạy bà ta chơi cờ Hiến tế. Bà ta chơi xuất sắc một cách khác thường, và sáu năm sau, Hội Rắn Chuông đã gửi bà ta đến Teotihuacán để học tiếp với Nhện Dệt Cầu Vàng, một dạng giống như nhà tu kín dành cho nữ giới phụng sự trong dòng tu thờ Rắn Chuông ở đó.

Tôi nghĩ tôi nên nhắc tới điểm này, ngay cả khi nó làm câu chuyện trở nên rối rắm: Nhện Dệt Cầu Vàng – nó được lấy theo tên loài nhện dệt cầu vàng có tên khoa học là nephila clavipes – là một bộ phận thuộc cái gọi là Kền Kền, hay Trắng, hay Thời Bình, chính là một nửa Giáo hội của Teotihuacán.

Mục đích của việc này có lẽ là để củng cố mối quan hệ giữa Lakamha và Teotihuacán. Mặc dù Kor phải chính thức tuyên bố từ bỏ quan hệ với gia đình để gia nhập dòng tu thờ phụng Rắn Chuông, nhưng mối liên hệ đó vẫn có lợi ích chính trị đối với gia đình bà ta, nhất là nếu như sau này bà ta quay về. Sọ Đá Quý 2 có nói rằng khi công nương Kor rời nhà, thủ lĩnh của tất cả các thị tộc họ chim trong vùng đã gửi quà biếu. Sọ Đá Quý 2 tặng bà ta một người làm trò uốn dẻo rất giỏi tên là Nhím 0, và hình như đến giờ hắn vẫn là tên hề được bà ta sủng ái nhất. Ở Teotihuacán, bà ta là một trong số rất ít phụ nữ trở thành người đếm mặt trời chín sọ, một trong những người biết cách sử dụng, và có thể biết cách pha chế các loại ma tuý của trò chơi. Người ta đồn rằng bà ta có thể nói chuyện với ruồi và sau mỗi mùa hòa bình lại thay da một lần. Giống như một vài thành viên Maya khác trong dòng tu, Kor hoặc đã quyết định không trở về vùng đất của người Maya, hoặc đã bị ngăn trở bởi những khúc mắc căng thẳng giữa đạo thờ Rắn Chuôngvà các thị tộc cai trị. Người ta còn đồn đại nhiều chuyện khác nữa, nào là áo quần bà ta mặc được dệt bởi những con nhện, nào là bà ta nhớ được cả lúc nằm trong bụng mẹ, nào là bà ta có thể tự lột bỏ da. Hội Rắn Chuông Sao của Teotihuacán được sáng lập bởi một ahau lai dòng máu Maya tên là Xc’ux Tsuc 11(nghĩa là Rắn San Hô 11), người đã đưa gia tộc của mình đến định cư tại thành phố này vào ngày mùng 9 tháng 8 năm 106 Công nguyên. Nó lớn mạnh một cách vững chắc qua nhiều thế kỷ. Trong khi đó, hội đồng của thành phố vẫn bị chi phối bởi hai thị tộc Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn. Nhưng từ tám năm trước, hai thị tộc lớn này và các dòng tộc chi nhánh của họ lên tiếng đòi lại vị trí thống trị tôn giáo cho các vị thần bảo trợ của họ là Bão Lốc, hay còn gọi là Ông Già Nhăn Nheo, và Koatalatcacalanako, nữ thần nước có nanh mà họ gọi là Phù Thủy Ngọc Bích. Hội Rắn Chuông bị hạ bệ và bị buộc phải xây một bức tường chắn tầm nhìn của Kim Tự Tháp Rắn Chuông xuống quảng trường chợ thiêng liêng của Teotihuacán, nơi trước đó do họ cai quản. Do vậy, Nhện Dệt Cầu Vàng có thể đang bị chèn ép và có lẽ họ sẽ sẵn sàng thỏa hiệp với tôi để thoát khỏi tình thế đó. Chúng ta sẽ chờ xem.

Tôi vẫn chưa có kế hoạch nào khả dĩ hơn. Phải thú nhận rằng tôi đã tính đến chuyện chuồn đi và dựng lên một nhân vật tựa như Jim – Chúa tể rừng xanh. Biết đâu tôi có thể chiếm được cho mình một cái làng hẻo lánh chết toi nào đó, huấn luyện họ bắn cung rồi dẫn quân về Ix và lật đổ cái thành phố ấy. Nhưng để làm được việc ấy, phải cần đến rất nhiều thời gian mà tôi không có.

Tôi cũng tự hỏi liệu còn cách nào khác để giải quyết chuyện này. Chẳng lẽ không có người đếm mặt trời chín sọ nào ở gần Ix hơn để chúng tôi có thể bắt giữ và ép khai ra cái bí mật kia?

Nhưng khi tôi đề xuất việc này với Sọ Đá Quý 2, ông ta đưa ra ba lý do phản đối rất hợp lý.Thứ nhất, những người đếm mặt trời của thị tộc mèo kia thà chết chứ không bao giờ để bị bắt. Cái chết đối với họ chẳng là gì sất, anh chỉ cần nhìn họ với ánh mắt hơi là lạ thôi là họ sẽ tự vẫn ngay. Và ngay cả khi anh bắt được một người và giữ hắn không tự tử được đi chăng nữa thì cũng chẳng có cách nào khiến hắn nói thật cho anh bất cứ điều gì. Người ta luôn cho rằng chẳng ai có thể chịu đựng được mãi dưới những ngón tra tấn lành nghề, nhưng điều đó không đúng, chí ít là ở đây. Theo lời Sọ Đá Quý 2, anh có thể khiến một người kêu gào suốt hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần trong hai mươi năm liền nhưng cũng đừng hòng hắn cho anh biết bây giờ là mấy giờ. Thứ hai, những người đếm mặt trời ở vùng này chỉ có một lượng nhỏ thuốc đã pha chế sẵn. Còn thứ mà Sọ Đá Quý 2 muốn là công thức chế biến trọn vẹn, cây cỏ hoặc bất cứ thứ gì nằm trong thành phần thuốc nếu tôi có thể mang chúng về nguyên vẹn.

Nhân tiện, Sọ Đá Quý 2 cũng nói luôn vì sao chúng tôi không thể đánh cắp thuốc của nhà Mèo Rừng. Như chúng ta đã thấy qua ra-đa, có cả một mạng lưới hang động ăn sâu vào dãy núi phía sau kim tự tháp của nhà Mèo Rừng. Vào lúc này, hình như họ đang đào hầm mộ cho Chim Ruồi Có Nanh 9 trong một trong những cái hang đó. Người ta đồn dưới ấy có cả một làng thầy tế chẳng bao giờ ló mặt ra ngoài, chỉ ở đó để giữ chặt số thuốc. Thậm chí nếu chúng tôi có tìm ra số thuốc nằm ở đâu, họ cũng sẽ nuốt chửng hết và tự tử trước khi chúng tôi lấy được. Cũng phải công nhận rằng việc hối lộ thường không có tác dụng đối với những người thuộc giới quý tộc. Không tài nào mua chuộc được họ.

Bốn mươi năm trước, nhà Mèo Rừng đã ám sát toàn bộ những người đếm mặt trời giỏi nhất của các thị tộc khác. Sọ Đá Quý 2 mới chỉ đạt bốn sọ, vậy mà ông ta đã là người đếm mặt trời cấp cao kiêm ahau của nhà Đại Bàng. Người đếm mặt trời tám sọ của ông ta đã chết nhiều năm trước, và hiện nay, người duy nhất đạt trên đẳng cấp bốn sọ còn lại ở Ix là Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Nói đến đây, như mọi người đều biết, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ ở ngoài Teotihuacán điều phục vụ cho các thị tộc báo đốm.

Giữa những người đếm mặt trời nam và nữ cũng có một vài mâu thuẫn. Chuyện kể rằng, vào thời xa xưa, hầu hết người đếm mặt trời là nữ giới và những người đếm mặt trời nam giới phải tự thiến mình để chơi tốt hơn. Có người nói người đếm mặt trời nữ giới dự đoán chính xác hơn nhưng họ đã bị phe nam giới hất cẳng. Hình như hội của Koh đã phải biến mình thành nam giới để tránh rắc rối. Nghe đâu Koh vànhững người đếm mặt trời nữ giới khác của Hội Rắn Chuông có cả vợ, những người vợ, hay nàng hầu gì đó. Nhưng đó cũng có thể chỉ là những lời đồn tục tĩu.

undefined

Sọ Đá Quý 2 nói nếu tôi đem về được những thứ như dự tính, ông ta sẽ biếu một lượng lớn thuốc cho thủ lĩnh của các thị tộc không thuộc dòng dõi Mèo Rừng ở Ix và tuyên bố rằng việc ông ta chế ra được thứ thuốc này chứng tỏ ông ta, chứ không phải Chim Ruồi Có Nanh 9, mới là người được Mèo Rừng 1, người sáng lập ra thành Ix theo truyền thuyết, lựa chọn để cai trị thành phố. Việc này sẽ khiến nhà Mèo Rừng mất uy thế, đủ để Sọ Đá Quý 2 nhận được sự ủng hộ của các dòng họ quý tộc khác ở Ix. Khi họ đã hoàn toàn đứng về phe ông ta, ông ta sẽ tìm một cái cớ nào đó để hủy trận đấu bóng hông. Lý tưởng hơn, các thị tộc lớn sẽ phế truất nhà Mèo Rừng và tôn Sọ Đá Quý 2 làm ahau. Sau đó, nếu sống được đủ lâu, ông ta sẽ rời Ix, lập nên một thành phố riêng ở đâu đó về phía đông. Bởi theo các chứng cứ khảo cổ, dòng tộc của Sọ Đá Quý 2 có thể duy trì quyền lực tại một thành phố khác thêm ít nhất hai trăm năm nữa.

Sọ Đá Quý 2 hứa với tôi rằng nếu tôi đưa được Koh hay một người đếm mặt trời chín sọ nào đó về, cùng với phương thức pha chế các món thuốc, ông ta sẽ đảm bảo sao cho tôi được táng cùng với toàn bộ số thuốc và thông tin ghi chép được trong một hầm mộ không bị ai để ý, với những viên đá nam châm sắp xếp theo đúng cách. Dĩ nhiên, tôi cũng nhận thức được rằng những điều này đa phần chỉ là dự tính. Ông ta liệu có thực lòng với chúng ta không? Hừ, đương nhiên tôi sẽ ngầm để ý theo dõi ông ta. Nhưng tôi nghĩ, bất chấp mọi chuyện đã xảy ra, sau những cuộc luận bàn bí mật giữa hai chúng tôi, tôi và Sọ Đá Quý đã trở nên khá thân thiết. Chúng tôi hiểu nhau. Và theo như tôi thấy, đến giờ, ông ta chưa hề nói dối tôi.

Tôi gửi kèm theo sau đây năm mươi sáu trang giấy ghi chép những điều tôi mới tìm hiểu thêm về cờ Hiến tế. Các vị sẽ thấy trong một thời gian ngắn trước khi tôi rời Ix, Sọ Đá Quý 2 đã dạy tôi vô khối những chiến thuật và quy tắc chơi mới (đối với chúng ta thôi). Ông ta cũng huấn luyện tôi các nghi thức mà, theo lời ông ta, sẽ khiến tôi đủ tư cách đấu với bất cứ người đếm mặt trời Maya nào.

Chắc các vị cũng thắc mắc liệu Sọ Đá Quý 2 có dạy hết cho tôi những gì ông ta biết về trò chơi không. Chính tôi cũng băn khoăn điều này. Bởi một lẽ, tôi hiểu về trò chơi đủ để khẳng định rằng ngay cả khi học đến mười năm với Sọ Đá Quý 2, may mắn tôi cũng chỉ chơi được với sáu viên đá. Và như thế hiển nhiên còn xa mới so được với chín viên. Tôi có bỏ ra hàng năm luyện tập cũng không thể nhìn xa được quá một k’atun, chứ đừng nói gì đến tám mươi. Vì thế, hoặc tôi phải tìm được một ông thầy chín sọ, hoặc LEON phải được cải tiến thật nhanh, hoặc món thuốc phải vô cùng hiệu nghiệm, nếu không chúng ta sẽ xôi hỏng bỏng không. Còn về chuyện Sọ Đá Quý 2 có giấu nghề với tôi hay không, hoặc ông ta có sai người đếm mặt trời của mình làm xáo trộn ván chơi một cách cố ý hay không thì …hừ, tôi không dám nói chắc. Tôi không nghĩ ông ta làm thế. Nhưng các vị cũng biết đấy, tôi có bao giờ giỏi xét đoán người khác đâu.

Sọ Đá Quý 2 đã hứa nếu tôi không thể đích thân đưa những mẫu ghi chép này về, ông ta sẽ chôn nó trong hầm mộ cùng mọi thứ liên quan đến trò chơi mà ông ta có thể kiếm được và đặt những viên đá nam châm theo đúng cách chúng ta đã bàn, sát vị trí định trước hết mức có thể. Mặc dù tôi không quá lạc quan về số phận của Sọ Đá Quý 2 sau trận bóng hông… nhưng tôi vẫn có dự cảm tốt lành về việc sẽ đến Teotihuacán kịp lúc và bắt đầu một giai đoạn thành công hơn trong chuyến hành trình lần này.

Một lần nữa, xin cảm ơn sự tin tưởng của các vị.

Xin chúc mọi điều tốt lành,

JDL,

Xin xem tài liệu đính kèm.

43

Người ta gọi thác nước Nacouintan là “Xcaracanat” – “Nơi Khai Thiên Lập Địa” – bởi nữ thần Cóc Đất đã bị xẻ xác ở đây sau khi sáng tạo ra thế giới, mắt thần hoá thành các hồ nước, sông suối, hang động, và đại dương trở thành vũng máu nơi thần hấp hối. Mưa Chết 18 nói thần có miệng ở cả khoeo chân, khoeo tay, cổ tay và vô số các khớp khác, và những cơn núi lửa phun trào chính là tiếng kêu đòi máu và thịt để có thể tiếp tục sống với những vết thương. Lão trao cho các thầy tế ở đó một tên phu nô lệ mà chúng tôi không hài lòng. Các k’iik ngồi chờ dưới một mái che dành cho khách qua đường và mặc cả mua bán với bọn hàng rong. Hun Xoc từ ngoài đường quay về, ngồi xệp xuống cạnh tôi.

– Chúng ta vừa phải nhận thêm mười tám con rùa đất hai chân – nó bảo tôi. Nghĩa là chúng tôi vừa phải mua thêm nô lệ và chúng có vẻ không thạo khuân vác cho lắm.

Tôi ra hiệu “ừ”.

– Không phải là tiếc tiền, – thằng bé nói tiếp, – nhưng có quá ít phu khuân vác chuyên nghiệp. Thà rằng cứ dùng một toán nô lệ chưa biết gì, khi nào chúng kiệt sức thì bán đi hoặc cứ vứt lại bên lề đường rồi thuê người thay thế trên đường còn hơn.

Tôi ra hiệu “chí phải”, tức là ra hiệu “ừ” hai lần để nhấn mạnh. Từ đây đến Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh vẫn còn tới hai trăm bốn mươi dặm nữa, gần như thẳng hướng táy. Nếu đi liền hai mươi tiếng một ngày, chúng tôi có thể đến nơi vừa hay trước lúc đóng cổng giới nghiêm. Nhưng đường xá cứ mỗi lúc một đông.

Hun Xoc nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại.

– Tôi đang nói chuyện với Chacal hay Thần Lằn Chân Lùn 10 thế? – Nó hỏi. Một câu hỏi vu vơ, nhưng nó biết cách tóm được anh lúc không đề phòng.

– Chacal đi rồi, – tôi đáp, – tên thật của tôi là Jed DeLanda.

– Jed DeLanda? – Nó lặp lại.

– Đúng thế, – tôi đáp. Thằng bé phát âm từ đó rất chuẩn xác. Nó vốn là thợ săn và thường xuyên luyện tập cách bắt chước tiếng kêu của động vật.

– Vậy thì Jed, bên cạnh tôi, anh từ đâu đến?

– Tôi đến từ một nơi gần Ix, – tôi đáp.

– Anh đến từ thời gian nào?

– Từ b’ak’tun thứ mười ba.

– Tôi chắc Sọ Đá Quý 2, ở trên chúng ta, không nghĩ chúng tôi cũng biết điều đó.

– Phải.

– Ờ… – nó nhìn nhanh vào mắt tôi rồi lại quay nhìn phía trước, – ở đó như thế nào?

– À, chúng tôi biết rất nhiều thứ, – tôi đáp, – và người ta xây dựng rất nhiều thứ, các thành phố lớn hơn cả Teotihuacăn… Ở b’ak’tun thứ mười ba, chúng tôi không đi bộ như ở đây, chúng tôi lướt đi trên những cái xe cáng lớn đặt trên bánh lăn, chỉ có điều, những cái bánh lăn chạy theo cùng xe nên không phải chuyển sang bánh lăn khác. Và chúng tôi đi nhanh hơn thế này rất nhiều.

– Ờ. Thế anh đã tới thành phố Lưỡi Dao rồi à?

– Rồi, nhưng ở b’ak’tun thứ mười ba, nó chỉ là những khối đá rỗng thôi.

– Thế anh, ngồi gần tôi, biết xa hơn về phía tây bắc của Teotihuacán có gì à?

– Phải.

– Ở đó có gì?

Tôi trả lời rằng ở đó còn rất nhiều đất đai nữa, rồi đến biển, rồi lại thêm đất đai ở nửa kia của trái đất hình tròn như quả bóng. Tôi nói rằng chúng ta không văng khỏi mắt đất là nhờ quả bóng đó giữ chúng ta lại, giống như hai viên đá nam châm hút nhau. Tôi nói rằng trái đất quay quanh mặt trời, là một quả bóng to hơn nhiều, cháy sáng.

– Nhưng lớp vở thứ không cũng có lửa cháy mà.

Tôi đáp rằng đúng, trái đất cũng nóng ở phần giữa.

– Nó nằm dưới Xib’alb’a à?

– Không có Xib’alb’a nào cả, – tôi đáp. Hình như tôi hơi cáu kỉnh thì phải.

– Tôi biết là có mà, – Hun Xoc nói, – tôi nhìn thấy nó rồi.

Richard Halliburton, người từng đi khắp thế giới và quay trở về hai lần, kể rằng người ta đã rất ngạc nhiên khi hỏi ông đất nước nào đẹp nhất và nhận được câu trả lời “đó là Mexico”. Nhưng đối với người dân Mexico và những vùng lân cận thì điều đó hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên, dù từ bấy đến nay, nó đã bị xén tỉa đi rất nhiều, theo đúng nghĩa đen. Và rất nhiều người sẽ khẳng định rằng con đường cổ xưa dẫn từ Veracruz đến Puebla (Veracruz và Puebla là hai bang của Mexico) là con đường đẹp huy hoàng nhất Mexico. Song nếu ai đó muốn lập một kỷ lục đi bộ ở đây thì người ấy chắc chẳng còn hứng thú đâu mà ngắm cảnh. Chúng tôi đi chen lấn và khó nhọc.

Đường luôn có xu hướng dốc lên. Chúng tôi đi qua nhiều làng mạc vô danh tới mức đếm đến 455 thì tôi bị lẫn. Các bạn chỉ cần hình dung ra cụm từ hết làng nọ đến làng kia với một cái gạch ngang trên đầu để thể hiện rằng nó lặp đi lặp lại không bao giờ dứt. Mỗi ngôi làng đều có một hoặc hai kim tự tháp nhỏ xoàng xĩnh nằm chính giữa những túp lều quây thành một vòng tròn. Hàng bầy trẻ con còi cọc và những đám hạ lưu chăm chăm xoáy đồ của khách bộ hành, nhất là những người có vẻ đơn độc, không ai giúp đỡ. Chiều tối, khi chúng tôi đang chạy – nói cho đúng thì những người khiêng kiệu của chúng tôi chạy còn chúng tôi thì chen lấn nhau – giữa hai dãy núi thấp, không có đoàn khách bộ hành nào khác trong tầm nhìn, tôi nghe thấy tiếng một đàn chim từ hướng bắc bay về phía chúng tôi. Điều kỳ cục là xét qua tiếng kêu, đàn chim này dường như bao gồm tất cả các loài khác nhau, mòng két, sáo đá, cú quạ, tất tần tật bay chung một đàn, mà điều này thì không thê. Khi chúng bay ngang qua đầu, tôi nhận ra đó là một đàn gồm hàng trăm con vẹt đuôi dài, giống chim to cồ cộ, pha đủ màu sắc xanh,đỏ,đen, trắng, vàng, không khác gì những con tinh tinh đu bay trong bộ trang phục hề nhưng lại có cái đuôi dài to tướng. Hun Xoc, người đi trước tôi có vài bước chân, nhảy xuống khỏi lưng gã phu khiêng kiệu, bước ra ngoài, khum tay lên miệng và hát to lên với đàn chim:

“Ah yan, yan tepalob’ ah ten Ix tz’am!

Ah ten popop u me’enob nojol…

Hỡi đàn vẹt đuôi dài kiêu hãnh

Hãy đến Ix của chúng ta ở phương nam,

Nói với người già và người trẻ,

Đàn ông và đàn bà,

Hãy hát trong vườn,

Hát trước ngưỡng cửa,

Rằng hãy đợi chúng ta trở về,

Kiên nhẫn và can đảm,

Đợi chúng ta trở về, trở về, trở về…

Đàn chim bay tản ra rồi xúm lại gần nhau, lượng vòng hình bán nguyệt trên đầu chúng tôi, cánh vỗ san sát. Cơn lốc màu sắc khiến màu trắng của trời như bị xé nhỏ ra thành từng mảnh. Vài cục phân chim rơi xuống, suýt chúng người tôi, nhưng rơi thẳng vào ngực Cứt Ta Tu, ừ thì nó ở đó để làm việc ấy mà, – tôi nghĩ. Lũ chim nghe lời bài hát của Hun Xoc và nhai lại với cái giọng khàn khàn nhưng nghe khá rõ, láy đi láy lại và nhỏ dần khi chúng bay khuất về phương nam: “Tu men, t’u men, đợi chúng ta trở về, trở về, trở về…”

Tối hôm đó, Cá Sấu 12 cho đoàn giảm tốc độ, chúng tôi đi bộ thong thả cho thư giãn chân cẳng. Cách đi này giống cách đi trước đây của các hướng đạo sinh, cứ đi bộ ba mươi bước lại chạy ba mươi bước, chỉ có điều, số bước của chúng tôi là suýt soát mười ngàn. Khi đến Những Bàn Tay 31, một nơi gần Córdoba (Một thành phố thuộc bang Veracruz của Mexico ngày nay), chúng tôi thấy Chtlatépetl hiện ra trước mắt . Đó là ngọn núi lửa lớn nhất ở Mexico. Sau này, nó được đặt tên theo tiếng Tây Ban Nha là Orizaba, còn Cá Sấu 12 thì gọi nó là “Nơi Lão Ghẻ Nhảy Vào Lò Bếp”. Một làn hơi mờ mờ bốc lên từ đỉnh núi, nhưng tôi đoán đó chỉ là mây. Theo những gì tôi nhớ được thì lần phun trào cuối cùng của nó cách thời điểm này đã hai ngàn năm và không còn lần phun trào nào đáng kể nữa cho đến tận năm 1687.

Một cái bóng sẫm đổ xuống ngang đường; giây đầu tiên, tôi nghĩ đó là cơn bão sắp ập tới, hoặc một cuộn khói nham thạch đến từ đỉnh núi lửa nào đó đang phun trào quanh đây, nhưng sau tôi nhìn rõ đó là những con chim, chính xác là chim bồ câu; một vài con sà xuống gần chúng tôi, tôi phân vân không biết chúng là giống bồ câu gì bởi chúng có cái ức sáng bóng như thiếc với thiếc màu đỏ nóng lạ lùng, rồi tôi nhận ra đó là bồ câu di cư. Bầy chim nhất loạt đổi hướng và cả bầu trời như biến thành một rừng cây dương hoặc dương lá rung khi có gió bất ngờ thổi tới, những phiến là ngửa cái mặt dưới bàng bạc của mình lên, và đợt sóng sống khổng lồ ấy cuốn thẳng về hướng tây, về phía Nacananomacob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Một giờ đồng hồ sau, vẫn còn những con tụt lại cuối đàn bay qua. Thật khó tin là chúng lại có thể tuyệt chủng, nhưng khó tin hơn là sẽ đến một ngày, chỉ còn lại duy nhất một con và nó sẽ chết vào lúc 12 giờ 30 phút trưa ngày mùng 1 tháng 9 năm 1914. Đến giữa trưa, chúng tôi buộc phải đột ngột dừng lại ở Topacanoc, tức “Đồi Mũi”, vì một sự kiêng kỵ “lối đi”. Hay tôi nên nói là kiêng kỵ “hướng đi”. Sự tình thế này, khi anh đi theo một hướng nhất định nào đó tức là anh đang đặt mình dưới sự bảo trợ của một vị thần nào đó, ngụ trong một quả núi nào đó và anh phải tôn kính vị thần ấy. Trong trường hợp này, Hun Zotz, nghĩa là Dơi 1, vị thần của hướng tây, sẽ khó ở cho đến khi trời tối. Họ không muốn nói cho tôi biết có chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác rằng ông ta là một nữ thần và vừa mới đi qua bầu trời. Thật điên ruột. Đừng nổi nóng, – tôi tự nhủ, – không quan trọng đích đến cách bao xa, miễn là luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa ta đến đích.

Giờ một-phần-chín thứ năm của đêm, Người Nuốt ánh Sáng Đỏ xuất hiện. Đó là hiện tượng nguyệt thực một phần. Người ta cho rằng mắt của Người Nuốt ánh Sáng Đỏ tựa như mắt cú, có thể phát hiện ra chuyển động trong bóng tôi. Và ông ta yêu quý nhà Ocelot. Vì thế, chúng tôi phải dừng chân hạ trại tại chỗ, trên một đồng cỏ hoang um tùm ngay sát đường cái. Những tiếng la hét dậy lên, hầu hết từ phía xa vọng lại, nhưng cũng có những tiếng gần hơn so với mong muốn của chúng tôi. Người ta đang ra sức doạ cho cái bóng biến đi. Những giọng nói già nua nhai nhải một thứ tiếng ngọng theo lối cổ nào đó của người vùng này, những từ ngữ địa phương xa lạ của khách bộ hành và người chạy lánh nạn tạm trú ở Choula, thậm chí cả chó, khỉ sóc nuôi trong nhà và mèo rừng cũng hùa theo, chúng sủa, rú, rít và phun phì phì. Tôi trèo lên vài Cứt Ta Tu và nhìn qua đám cỏ cao về hướng thành phố đang chết dần đó. Năm mươi hai vòm cửa trên mặt tường quay về phía tôi của toà kim tự tháp cổ đắp bằng đất sáng rực lên bởi những đống lửa mà các thầy tế vừa nhóm.

Cái bóng màu gỉ sắt đã chạm tới vùng tối Vaporum (Một vùng tối rộng 55.000 km2 trên mặt trăng, có thể quan sát khá rõ từ trái đất) của mặt trăng. Một chuỗi hợp âm bảy rờn rợn mà đôi tai của Chacal nhận ra là tiếng những cây kèn dài và mảnh, dùng để cầu hồn ở Mexico. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình chúng tôi nghe thấy âm thanh này, nó khiến chúng tôi bất giác rùng mình. Tám trăm năm mươi tư năm sau, những người Aztec đã dùng chính nó để doạ đuổi đội quân của Cortés. Toà kim tự tháp cháy sáng và toả khói như một quả núi lửa. Rốt cuộc, cái bóng đỏ của Người Nuốt ánh Sáng cũng biến đi – theo đúng lịch trình quỹ đạo của nó, tôi đã định bảo cho họ biết điều này, nhưng lại thôi vì muốn tỏ ra khiêm nhường. Những tiếng hò hét reo mừng cuối cùng cũng lắng xuống, chỉ còn bốn hoặc năm tiếng kèn toe toe nhức óc, hỗn độn chen lấn nhau trong một bản hoà tấu nhai đi nhai lại không biết mệt. Thần Thỏ Cái (Tức là mặt trăng) lại toả sáng trên đỉnh kim tự tháp đỏ xám, hơi lưỡng lự một chút, như thể phân vân chưa biết chọn bên nào để hạ xuống. Tôi không ngủ được nữa, nhưng cũng chợp mắt lơ mơ.

Rạng sáng, tốp trinh sát của chúng tôi quay trở về và thông báo có bạo loạn ở Nơi Tổ Tiên Trú Ngụ – đâu đó quanh San Martín Texmelucan (Một thành phố thuộc bang Pueblu, Mexico) ngày nay – ngay trên con đường phía nam gần nhất dẫn lên cao nguyên, qua đèo Cortéz. Con đường leo hết dốc này đến dốc khác, hệt như những bậc cầu thang của người khổng lồ bị mài mòn. Chúng tôi đi qua hàng trăm mẫu đất rừng mới được đốt quang, lác đác những lò nung vội toả khói nom như cái tổ ong khổng lồ. Một quãng sau, ngay cả những thân cây lá rộng mà ở quãng trước được giữ lại vài cây vì lý do tín ngưỡng cũng không còn. Những bụi thông pifion (Một loại thông ở Mexico, cho quả ăn được) và cỏ hoang mạc chiếm hết các dốc núi. Dân vùng này sống trong những ngôi nhà xây bằng đá sỏi cuộn và trồng một loại ngô đen bắp nhỏ xíu. Hàng đống mảnh đá vỏ chai lóng lánh giữa các tảng đá cuội. Đá vỏ chai đối với Teotihuacán cũng như thép đối với nước Anh hay Đức trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Ở đâu người ta cũng có nhu cầu vô hạn về nó, và cũng như thép, nó chính là vật truyền bệnh quân phiệt hoá. Hết lối mòn này đến lối mòn khác hoà vào con đường lớn. Bốn bề ngợp mùi cây tuyết tùng, nhưng không phải từ cây sống, mà từ những đoàn chở gỗ về từ các cánh rừng miền đông bắc. Ban đêm, nhiệt độ hạ xuống còn bốn mươi độ(Tức 400F, tương đương gần 50C), và với chúng tôi, nó chẳng khác nào bắc cực. Bầy chó xua gà gô trắng và giẽ giun bay nháo nhác khỏi những bụi cây bách xù, và thật tài tình. Tay 2 hạ được một con gà gô bằng một mũi lao phóng bằng tay. Để phạt thằng nhãi vì tội phá hàng, Cá Sấu 12 bắt nó đem con gà cho mọt người dân địa phương. Hai đầu gối tôi đã đỡ nhiều nên tôi thử chạy, nhưng khi các đỉnh núi hiện ra trước mắt, tôi cũng đứt hơi như những người khác và phải ngồi phịch xuống một cái ghế kiệu. Cứ để bọn vô sản lo việc này. Tôi mệt đến nỗi chẳng còn hơi sức đâu mà tìm từ lịch sự nữa.

Các đỉnh núi mà tôi nói đến ở đây là Itzaccihuatl và Popocatépetl bên tay trái và núi lửa Volcán Tláloc ở phía xa bên tay phải. Tên người ta gọi chúng vào thời này là Nhà Của Hunahpu 1, Nhà của Hunahpu 7 và Anh Bạn Sôi Sùng Sục. Hầu hết các miệng núi lửa quanh đây đều đã tắt từ kỷ Băng Hà, chỉ có Popo là còn chút dấu hiệu hoạt động với những đám bụi lơ lửng bên sườn phía đông, có lẽ để ủng hộ San Martín. Song tôi nghĩ trận phun trào này nhỏ thôi, chắc chỉ khoảng 1,5 độ VEI (Viết tắt của Volcanic Explosivity Index – chỉ số hoạt động núi lửa, được chia làm 7 cấp độ). Nếu đây là năm 1345, 1945 hay 1996 thì chắc chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn.

Ngày thứ hai mươi của cuộc hành trình, trời nắng, mây rải rác bay về phía đông. Đến giữa trưa, chúng tôi vượt qua đỉnh cao nhất của con đèo, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh, chính là Vùng hồ Mexico sau này, trải rộng dưới chân chúng tôi, cách 4,770 feet theo đường thẳng đứng, được bao bọc trong một địa thế hình hạt hạnh nhân nằm giữa hai dãy núi chạy theo đường vòng cung. Từ đây, có thể thấy nó rộng và tính lặng, xung quanh bờ được viền những ụ đất và miệng núi lửa nhỏ khum khum như hình vỏ sò, sát mép nước xanh thẫm một màu cói và bèo tấm, màu xanh càng lan xa càng nhạt dần thành mặt nước phẳng lặng và lóng lánh như hồ thuỷ ngân. Điểm xa nhất của bờ hồ bên kia cách khoảng bốn mươi dặm. Thung lũng này có người ở, quanh các bờ hồ rải rác làng mạc, chằng chịt những con đường đất đắp nổi; xuồng, thuyền mui và những chiếc bè mảng tròn khổng lồ đông san sát.

Ờ, – tôi nghĩ bụng, – ít ra thì bây giờ mình cũng hết băn khoăn tại sao nơi này lại được gọi là Nacananomcob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Hàng bầybach haob’ và halach bach haob, tức diệc bạch và cò quăm trắng, hàng đàn kuba’ob’, hay diệc cọp, lội bì bõm sát bờ, xa hơn ngoài mặt nước là những con bich ha, sếu đồi cát, lượn vòng quanh với cái dáng cứng đơ theo hàng lối chỉnh tề như đoàn lính bộ binh bị sương giá làm cho tê cứng của Napoleon. Một bầy két cánh đỏ hoảng hốt cất cánh bay lên với tiếng kêu nghe như tất cả các cánh cửa nhà kho ở Old Midwest (Khu vực bao gồm các bang Illinois, Indiana, Michigan, Ohio và Wisconsin của Mỹ) cùng rít lên một lúc trên bản lề han gỉ, và trong vài giây, người ta chỉ có thể thoáng thấy một vài vệt xanh xanh của bầu trời qua khe hở giữa những con chim lúc nào cũng căng thẳng ấy, trước khi chúng cùng đồng loạt đổi ý và lại hạ cánh xuống.Đúng là Nacaranomacob – tôi nghĩ. Nephelococcygia.Thật là thiên đường.

Chúng tôi xuống đèo, đi vào một vùng không khí mà người ta thường thấy ở những vùng hồ trên cao, nó ẩm ướt đến mức tối đa có thẻ, nhưng không khí lại quá loãng nên chẳng tích được bao nhiêu nước. Khi xuống thấp hơn, tôi bắt đầu thấy nơi đây sầm uất đến mức nào. Trên những hòn đảo đẹp hơn, nhà cửa được xây dựng nhiều đến mức kín đặc không khác gì đảo Mont Saint Michel. Người ta buộc phải xây lều ra xa ngoài mặt nước, trên các đống đá, trên các cột chống, thậm chí nhìn như trên không-gì-cả. Nhân tiện nhắc đến chuyện này, Teotihuacán Lớn, cũng như mọi thành phố lớn khác, có đến 95 phần trăm là ổ chuột. Cá Sấu 12 kể rằng rất nhiều người hoặc các hội cứu tế. Hình như Hội cứu tế Rắn Chuông là lớn nhất. Họ phát chuẩn những chiếc bánh vặn thừng dài bằng bột sắn, tựa như bánh bột rán churro ngày nay, mua bằng tiền đóng góp của người đi lễ và tiền thu được qua việc hành nghề xem bói. Khi còn cách khu hồ khoảng hai trăm feet tính theo chiều cao, chúng tôi lọt vào một vùng đẳng áp và quang cảnh bỗng sinh động hẳn. Một con chim cắt mà ở đây gọi là kos lao bổ vào ba con mòng két xanh đứng túm tụm gần nhau, nhưng chúng đập cánh, rẽ lên và bay mất. Một bầy bói cá xanh nhặng xị nhiếc móc con non. Một con chim ưng biển đâm nhào xuống, lùng sục sủi tăm dưới mặt nước hồi lâu rồi ngoi lên với cái mỏ rỗng không. Một đôi cò nhiệt đới halach pocob đầu đen, thân trắng với cái cổ đỏ loè, nom hệt như hai bà xơ dòng thánh Dominic bị cắt họng, sục sạo trong đám cói sậy với vẻ bình thản như thể chúng biết hình phạt dành cho kẻ nào dám sát hại chúng là thiến đến chết. Những con bồ câu Inca lù khù; những con chim cu lười lẫm gấp ba. Ở đây có nhiều thứ nằm trong danh mục những thứ tôi chưa từng nhìn thấy, và đó không phải là trại cải tạo thanh thiếu niên hay bộ lông chim vào mùa sinh sản, hay những thứ vớ vẩn đại loại như thế. Nói chung, nó đủ khiến David Allen Sibley (Nhà điều cầm học người Mỹ) lên một cơn đau tim. Chắc không thể đưa tất cả những thứ này vào danh mục được, – tôi thầm nghĩ, – bộ nhớ không đủ chứa mất. Một đám đông đang hò hét bên dưới, khi đi ngang qua, chúng tôi mới biết rằng người ta đang chơi một trận bóng giải trí, bất chấp bầu không khí lo âu căng thẳng. Họ dùng một loại gậy cong như gậy chơi bóng của người Ai-len để đánh những quả bóng gỗ lớn. Chúng tôi bỏ đám chơi bóng lại phía sau và chạy xuống theo những con dốc thoai thoải, giữa một biển người che mặt, vừa đi vừa lầm rầm cầu khẩn, hầu hết đều xách theo một cái giỏ đựng xương. Đó là những người đang đưa hài cốt cha mẹ đến đặt trong hầm mộ ở thành phố vĩnh cửu để họ được hầu hạ tổ tiên cao quý của dòng tộc mình. Chim chóc thì vẫn nhan nhản xung quanh. Dân ở đây chắc chẳng bao giờ bị đói. Anh chỉ cần chìa tay ra bất cứ chỗ nào mà tóm lấy bữa tối từ trong không khí. Và cứ lấy đi một ngàn của bất cứ thứ gì thì sẽ có mười ngàn khác đến bù lại, ít nhất thì đấy cũng là ý nghĩ của các cư dân thuộc giống người.

Chúng tôi đi qua hàng trăm xưởng thợ ngoài trời, nằm trong sân trước những căn nhà kho mái thấp, trát thạch cao trắng, và cứ ba xưởng thì hai xưởng là xưởng làm lông chim. Thợ đánh bẫy dốc những con chim sống ra khỏi lưới, vặn cổ chúng rồi phân loại thành từng đống, cứ mỗi con, viên kế toán lại thả một cái thẻ đếm vào một trong mấy cái bình và theo dõi tổng số bằng các nút thắt trên một sợi dây. Một người phụ nữ moi ruột và lột da, rồi một người khác vặt lấy lông, gột rửa và phân loại. Hệt như dây chuyền sản xuất tiền công nghiệp, trong đó mỗi người chỉ thực hiện một vài công đoạn nhất định. Một vài gia đình chuyên vặt lông sống những loài không được phép giết, và tất cả những gì anh nghe thấy khi đi qua chỗ họ là tiếng kêu rít đau đớn tột độ của chim diệc và gà chachalaca. Chúng tôi trông thấy hàng ngàn con trụi thùi lụi, loạng choạng đi trong sân, rỉa cá chết, ngô vụn và đập đập đôi cánh nhìn như những cánh tay dị tật vì chẳng còn lấy một sợi lông. Đây là một nền văn minh dựa vào lông chim, không khác gì nước Anh dựa vào gỗ. Thế mà chúng tôi còn mang thêm đến cho họ hai xe cáng đầy lông. Nhưng lông chim của chúng tôi có màu mà ở đây họ không có. Họ có rất nhiều lông màu đen, trắng, xám, đủ sắc độ nâu, vàng nâu, xanh da trời sáng, hồng và đỏ. Còn chúng tôi mang đến màu của rừng sương mù, xanh tím, đỏ tươi, xanh da trời thắm, xanh ngọc lam và xanh lục vàng.

Những toán dân đen lân la lại gần chúng tôi. Phần lớn trong số đó là loại người mà tôi cho là ma’ala’ba’ob, hạng thấp kém hơn cả cái lòng bàn chân của anh. Tôi tuy cố tỏ ra bình đẳng, nhưng phân biệt đẳng cấp lại là một phẩm chất tốt ở đây.

Chúng tôi tiếp tục tiến lên. Đôi lúc, qua dãy đầu người phía trước, tôi chỉ trông thấy những tấm lưới đánh cá chăng phơi trên những cây sào cao có chạc, kéo dài đến hàng dặm. Hun Xoc thì thầm với tôi rằng Bị Thương 14 sẽ ra đón chúng tôi ở bên kia hồ. Họ mới biết tin chúng tôi đến cách đây bốn ngày qua những người đưa tin – chúng tôi không có bồ câu đưa thư, và mặc dù dọc đường từ bờ biển đến đây cũng có hệ thống báo tin bằng lửa báo hiệu nhưng chúng tôi không muốn dùng – song chừng ấy thời gian cũng đủ để họ chuẩn bị sẵn sàng.

– 14 làm như mình là Vẹt Đuôi Dài 7 ấy, – Hun Xoc nói. Câu ấy có nghĩa là “Hắn tinh tường lắm”.

– Ừ, – tôi ra hiệu. Tôi nheo mắt nhìn về phía trước. Có một dãy thứ gì đó nom như những cái cổng chào lễ hội chắn ngang lối dẫn lên một con đường rộng màu trắng đắp cao, dài chừng hai dặm, chạy cắt ngang qua một đoạn hồ hẹp, gần giống như cửa sông đổ vào hồ nước lớn. Khi nhìn gần hơn, cái mà tôi tưởng là cầu tàu té ra là những cái giá bày sọ người. Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, – thứ này khiến chúng tôi thành ra như những kẻ đê tiện. Chúng tôi, tức là người Maya chúng tôi ấy mà. Ở nhà, chúng tôi chỉ trưng bày đầu của vài nhân vật đình đám và thi thoảng là đầu của những thằng vô lại. Còn ở đây, hình như họ choảng tất cả những kẻ nào nhìn mình với vẻ là lạ rồi giữ gìn từng cái đầu một như của quý. Những chiếc nằm cuối dãy về phía tây biến dạng đến mức khó mà tin được đó là đầu người. Những gã này chẳng có tí tao nhã nào cả, – tôi nghĩ bụng.

Chúng tôi tặng quà, hoặc có thể gọi là biếu xén, để được đi qua con đường đắp nổi. Ở bán đảo tiếp theo,đám dân đen lao dịch trên bờ hồ đưa chúng tôi xuống hai chiếc bè mảng lớn, mỗi bè có bốn mươi người chèo, đưa chúng tôi sang bờ đông bắc, đến Tamoanatowacanac, nghĩa là Cảng Hồ Của Teotihuacán. Chúng tôi bơi ngang qua một hòn đảo được trưng dụng làm một cánh đồng sản xuất muối khổng lồ. Nhưng tên nô lệ tóc ngắn cụt kéo nước từ dưới hồ lên bằng những cái cần trục đối trọng giống cần kéo nước của người Ai Cập và đổ vào các khuôn ruộng bám mảng trắng rộng hàng mẫu. Một con cò quăm đỏ nhìn tôi như thể nó biết nhiều thứ hơn cả tôi. Thoth (Vị thần tượng trưng cho nghệ thuật và sự thông thái của người Ai Cập, được khắc hoạ với cái đầu của loài cò quăm) cơ đấy, – tôi nghĩ bụng, – Thế ở mày là thứ thần thánh gì?

Bờ hồ được đắp đê và bao một bước tường tạm thời màu xanh lá cây và xám, xếp bằng hàng ngàn thân cây bị đốn hạ, cành lá quay ra phía hồ để những kẻ muốn tấn công phải vướng víu vì nó. Chúng tôi cập bờ tại một khoảng trống giữa bức tường và lấy đi dáng điệu hiên ngang hết mức có thể – điều này không dễ khi bước ra khỏi thuyền – đặt chân lên thành Babel (Ý nói một thành phố huyền thoại).

44

Các bạn có biết những thành phố như Marrakesh (Thành phố từng là thủ phủ của nhiều đế chế tại Ma-rốc) hay Benares (Thành phố thánh của đạo Hinđu ở Ấn Độ) duyên dáng đến mức nào khi xem qua kênh truyền hình du lịch? Nhưng khi ta thực sự đặt chân đến, cái mùi hôi hám và sự bẩn thỉu của nó khiến ta chỉ ước được quay ngay về Tenafly hay bất cứ nơi nào mà ta từ đó tới, bất kể là nơi nào? Tamoanatawacana giống hệt như Benares, chỉ không có tiếng nhạc filmi (Thể loại nhạc thình hành trong phim ảnh Ấn Độ). Đứng đây thôi, tôi đã trông thấy phải đến tám ngàn người lăng xăng chạy đi chạy lại trên bờ hồ để đến đâu đó. Tôi sai phu kiệu nhấc bổng tôi lên để có thể quan sát đám đông từ trên cao. Chúng tôi đang đứng trong một nơi giống như khu thành khép kín, rộng chừng một ngàn sải tay, nằm giữa những bức tường ven bờ hồ sau lưng chúng tôi và một hàng rào chắn cao ở phía đông với những tháp canh xiêu vẹo. Mọi thứ ở đây đều mang một không khí chung của sự chuyên biệt hoá khiến người ta có cảm giác đây là một công viên từng rất đẹp bị cải tạo thành khu căn cứ quân sự, những đám người rách mướp trú tạm trong lều, trong lán, dưới chăn, dưới người nhau và dưới không-gì-cả. Từng tốp hai mươi lính vệ sĩ của nhà Bướm Đuôi Nhạn chậm chạp rẽ lối đi giữa đám đông dân thường, tay giơ những cái néo làm bằng xơ cọ lên đe nẹt những kẻ tỏ vẻ quá hung hăng. Cuối mỗi tốp có một k’iik cầm cây sào dài chừng ba mươi feet với một cái khiên tròn lớn tết bằng lông chim treo cách đỉnh sảo khoảng năm sải tay. Mỗi chiếc khiên mang một hoạ tiết khác nhau mà theo tôi đoán là dấu hiệu nhận biết riêng của từng tốp. Thêm nữa, trên đỉnh sào còn treo bộ da đã thuộc kỹ của một kẻ nào đấy hẳn đã bước chân vào nơi mà hắn không nên vào, hoặc làm điều gì đó mà hắn không nên làm, nó phất phơ lờ đờ như một tấm băng-rôn ướt trước cửa viện bảo tàng.

Trong thế giới này, trang phục chính là giấy thông hành, và một toán vệ sĩ giúp rẽ lối cho chúng tôi đi qua đám dân thường. Đặc quyền đấy, – tôi nghĩ. Chúng tôi lách qua vô số đám động tụ tập xúm xít. Đến lúc này, tôi đã có thể phân biệt được các thị tộc và sắc tộc qua cách ăn vận và dáng vẻ; thêm vào đó, coi như điểm thưởng, là sự liên tưởng đầy vẻ miệt thị của Chacal cũng vào cuộc. Chẳng hạn, cái thứ như váy đàn bà màu da cam mà đám người lùn tít, bẩn thỉu kia đang mặc chứng tỏ chúng là người Cacaxtlan, và đằng kia, một lũ mọi tong teo, dài thườn với…chết mẹ, tôi đang dùng từ ngữ thật xúc xiểm, ở đây, nó là cách xử sự được đánh giá cao, nhưng ở thế kỷ 21, như thế là rất, rất, rất, tệ… những gã tong teo, da dẻ nứt nẻ vì nằng, báo trước bệnh ung thư kia là người Chanacu, thuỷ tổ của người Mixtec sau này, đến từ vùng núi quanh Zempoaltépetl. Mấy gã cao nhẳng, còm nhom, bị trói chẳng lại với nhau, với những mụn ghẻ mới nổi và túi cát đeo vào mắt cá chân để tự hành xác sám hối này không phải là nô lệ mà chỉ là người Yaxacan, đến từ nơi xa xôi nhất về phía tây bắc của thung lũng để chuộc lại một món nợ ô nhục nào đó. Còn một lô trắng nhởn, bé xíu, lấm lét, gần như trần trụi với những cái khuyên môi to tướng và mớ tóc xén hình bát úp trát bùn kia đến từ phương nam rất, rất xa, có khi từ tần Costa Rica để bán những con ếch và côn trùng bé xíu rên bằng vàng, một thứ kim loại còn rất mới lạ ở đây. Một tiểu vương người Zapotec, khắp mình lanh canh những mảnh vỏ sò màu vàng, đi ngang qua chúng tôi, cưỡi trên vai một tên khổng lồ mắc hội chứng hypertelorism (Một hội chứng làm dãn khoảng cách giữa hai bộ phận của cơ thể một cách dị dạng, thường là giữa hai mắt), cao phải đến bảy feet. Có hai tộc người với vẻ ngoài giống người phương tây, đó là người Taxcan đến từ ven biển Thái Bình Dương và một tộc người nữa mà tôi không nhớ ra được là người gì, một kiểu dân chài vận đồ da lươn và đeo răng cá mập; bốn gã đang ngồi chồm chỗm trên một hình chữ thập vạch xuống mặt đường, chơi một ván cờ Hiến tế đơn giản có tính chất cờ bạc, những gã còn lại đứng vây xung quanh, bàn tán xôn xao. Trò chơi thật ngu xuẩn, – tôi nghĩ thầm trong bụng. Sự khác biệt giữ cờ Hiến tế và thứ mà họ đang chơi cũng tương tự như khác biệt giữ bài bơ-rít chuyên nghiệp và trò “đi đêm”, nhân thêm một trăm lần. Hun Xoc chỉ cho chúng tôi một toán người phương bắc cao lớn, quê mùa, mặc đồ da hươu, được cho là đã đi mất nhiều năm qua những vùng sa mạc phía bắc để đến đây từ một trong những đế quốc mới hình thành dọc bờ sông Mississippi, đoạn chảy qua Ohio – điều này khó tin, nhưng cũng có thể. Họ bán một loại đá xanh lam mới có, đắt vô cùng và chưa từng được biết đến ở những vùng đất của người Maya: ngọc lam. Phía trước chúng tôi, có tiếng ai đó đang bị đánh đập. Bên trái thì có một gã “chiếu rong”, hạng người chuyên đứng ra bán đấu giá con cái của những người từ xa đến để chao mẹ chúng có tiền vào thành. Hắn xách một thằng bé bốn tuổi trần truồng, giơ lên cao quá đầu để rao hàng, thằng bé bị xách bằng một sợi thừng buộc vào bàn chân, đầu kia buộc vào cổ tay gã bán hàng, vì thế, nó cứ chúc đầu xuống, ré lên ầm ĩ. Một nhóm k’iik Maya đứng cạnh chúng tôi; những gã vận quần áo bằng thứ vài tồi tự dệt lấy ở nhà nhưng lại để kiểu tóc chơi trèo quá lố này là người Yucatecan; còn mấy anh chàng có vết khắc nung hình hoa lá trên nửa trái cơ thể thì là người Coliman, họ đến đây để bán đồ gốm cho từng nhà, người ta cấn chúng để thay thế cho những đồ gốm sẽ bị đập nát trong thời gian “Im lặng”. Hình như – tôi chưa chắc điều này lắm – họ cho rằng bất cứ thứ gì không có linh hồn, tức là những vật dụng như vũ khí, dụng cụ hay thậm chí làm mâm bát, đều có thể bị ma ám vào lễ vọng và quay ra tấn công chủ nó. Tôi liền hình dung ra cảnh một bà nội trợ to béo xua tay loạn xạ trong bóng tối, kháng cự lại một đoàn quân nồi niêu bát đĩa bằng đât nung hung hãn. Nói tóm lại, anh phải đập vỡ hết những thứ đó và mua đồ mới. Có khi đây chỉ là một mánh khoé kinh doanh để người ta bán được nhiều hàng hơn cho nhau. Thay vì chiến lược xoá xổ những cái lỗi thời, tức là phải thường xuyên đưa ra mẫu mã mới, thì người ta chỉ việc xoá xổ tất tần tật.

Chúng tôi chen lấn để đi về phía hàng rào chắn. Dẹp ra nào. Các VIP đây. Có vẻ không dễ mà vào được. Một dãy k’iik của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn với dáng điệu uể oải nhất có thể của lính thời bình đứng chắn lỗ hổng duy nhất trên bức rào. Phía sau họ, qua đám mây hơi nước bốc lên từ hàng trăm thùng tắm hơi, có thể trông thấy một con dốc đắp cao, san sát những căn nhà kho mới lợp cùng hàng đống cây gỗ đã chặt bỏ cành lá và đẽo nhọn. Tôi đang lan man nghĩ đến chuyện có khi chúng tôi đi cả chặng đường đến đây mà chả được việc gì thì chợt nhận thấy mọi người rục rịch sắp hàng để đón nhận sự hiếu khách của chủ nhà, và Cá Sấu 12 đang được chào mừng bởi năm k’iik Maya chẳng biết từ đâu thình lình xuất hiện. Hun Xoc chỉ cho tôi một người: Bị Thương 14 lừng danh, cháu nuôi của Sọ Đá Quý 2.

Hắn ăn vận xem ra hơi đẹp quá mức cần thiết cho một dịp như thế này, nhưng người thì lùn hơn so với chiều cao trung bình của quý tộc Maya và bộ mặt bên dưới chiếc mặt nạ che mũi thì hoàn toàn nhạt nhẽo. Hắn là người đứng đầu cái mà các bạn có thể gọi là phái bộ thương mại của thị tộc Đại Bàng ở Teotihuacán. Thực ra, nó hơi phức tạp hơn như thế một chút vì nhà Đại Bàng là thành viên của tổ chức tựa như liên minh các thị tộc hậu duệ chim ưng, và gã này có quan hệ làm ăn với rất nhiều vụ làm ăn ở vùng đồng bằng và mặc dù không phải công dân của thành Teotihuacán – bản thân định nghĩa này khá dễ thay đổi – hắn vẫn có rất nhiều mối quen thân quyền cao chức trọng ở đây.

Bị Thương 14 đứng giữa bốn k’iik vây bốn góc quanh hắn. Đó là mấy thằng nhà quê ở Ix lang bạt, có thể là chạy tị nạn đến đấy, và bằng cách nào đó được thu nhận vào thị tộc này. Tuy khuôn mặt là của người Maya nhưng ở họ vẫn toát ra vẻ gì đó của bọn ngoại tộc, vói cái áo choàng xếp nếp cứng đờ và bộ da bóng loáng mỡ chó nhuộm đó. Cả bốn cùng đeo tanasac, một loại khuyên hình mào gà xâu qua cái lỗ giữa vách ngăn mũi, đu đưa phía trên miệng. Chúng tôi gợi nhớ đến những bộ ria mép hình móng ngựa thời Victoria, nghiêm trang thì có nghiêm trang, nhưng cũng đầy hăm doạ. Chúng khiến khuôn mặt trở nên khó xét đoán một cách đáng kinh ngạc. Lý do người ta đeo chúng có lẽ là vì ở một thành phố bề ngoài phi bạo lực thì việc nhe răng doạ nạt bị coi là quá hung hãn. Người ta cho rằng miệng người phả ra những cơn gió thổi mang theo ghẻ lở. Xét ra thì điều đó cũng chẳng cách xa sự thật là bao. Nó cũng tựa như bùa mê từ cặp mắt quỷ, chỉ khác rằng ở đây là miệng quỷ. Và nếu tanasac của anh bị tuột ra, anh phải đưa tay lên che miệng như phụ nữ Nhật Bản khi họ cười khúc khích vậy.

Không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng người dẫn đầu đoàn chúng tôi cũng nắm được quyền chỉ huy và dẹp được một khoảng trống nhỏ giữa đám đông.

– Hãy để chúng tôi thiết tiệc các vị, đừng từ chối miếng bánh của chúng tôi, – 14 nói bằng cái giọng của người hút thuốc lâu năm nhưng hãy còn ngọt. Tôi không quan sát được nhiều khuôn mặt hắn, nhưng cặp mắt hắn có vẻ gì đó như thằng hề.

– Đa tạ các ngài đã cho phép chúng tôi nương nhờ, – Cá Sấu 12 kính cẩn đáp. Hun Xoc trải ra một tấm chiếu lễ vật và Cá Sấu 12 đặt lên đó một bó xì gà hảo hạng nhất vùng cao nguyên chúng tôi.

Chúng tôi nhảy một điệu chào mừng ngắn. Bị Thương 14 đặt tay lên vai hắn, chào tôi lịch thiệp nhưng cũng không kém phần trịnh thượng, kiểu như “Ê, chào thằng em”. Hắn đã từng tiếp đón Cá Sấu 12 và hai k’iik khác trong đoàn. Nhưng hơn hai mươi năm rồi hắn chưa về Ix, và phúc tổ, hắn cũng như gia quyến của hắn chưa từng nhìn thấy Chacal. Tôi cũng chào lại, coi như hắn là người bề trên. Đây không phải lúc để tự ái về chuyện tôn ty trật tự. Trong lúc đó, bọn phu khuân vác lọ mọ đi đằng sau đã bắt kịp chúng tôi, lục tục trình diện, quây quanh vòng tròn k’iik như sợi thừng quấn quanh cái xô. 14 nói hắn rất nóng lòng muốn chia sẻ khó khăn với chúng tôi và rằng nhà Bướm Đuôi Nhạn đã quyết định chặn các ngả đường sớm hơn dự định nên chúng tôi phải nhấc chân lên thôi. Phải rồi, – tôi nghĩ, – thế suốt bao nhiêu ngày nay chúng tao làm gì? Nằm ườn ra ăn kẹo bon bon à? Thằng xuẩn.

Thành thạo không kém gì một đội nghi thức, chúng tôi xếp lại hàng ngũ theo đội hình “họp mặt với khách lạ mặt khá quan trọng”. Nói đơn giản là cáck’iik xếp thành hình nửa vòng tròn. Cá Sấu 12 đứng chính giữa, những người tham dự đứng thành ba hàng phía sau, theo thứ thự giảm dần theo phẩm cấp. Họ đặt tôi ở cuối hàng, gần vị trí thấp kém nhất để tôi khỏi phải mở miệng câu nào.

Ở đây, mọi thứ dường như đếu có tính hậu trường. Anh buộc phải có một vài mối quan hệ nào đó. 14 đã dàn xếp trước với nhà Bướm Đuôi Nhạn. Bức tường rào k’iik từ từ tách ra rồi lại khép lại sau lưng người cuối cùng, như một con trùng a-mip nuốt trùng bánh xe. Nếu đây chỉ là bức rào bình thường chứ không phải hàng rào người thì đã có vài tên du côn lẻn được vào. Lúc này, chúng tôi đã đứng trong một khu đất thô kệch nằm giữa bức tường rào và một con đèo dẫn lên đồi, dài chừng một sải tay. Củi đun chất thành từng đống cao ngất và áo choàng bông chăng đầy trên dây phơi, không khác gì cái sân chung sau khu nhà tạm của dân da trắng. Trong này trống trải hơn bên ngoài và chúng tôi tìm được một khoảnh đất sạch. Đám phu khuân vác lúc nào cũng kè kè cái giá chở hàng cao quá đầu, cuối cùng cũng được cởi bỏ và đặt sang một bên. Họ có vẻ lo lắng khi phải xa người đồng hành thân thiết của mình. Xiềng xích của ta và ta đã trở nên gắn bó (Một câu trong bài thơ “Người tù ở Chillon” của thi hào Byroe). Một đoàn những nhân vật có vẻ ngoài kì dị, đến từ một trong các thị tộc của Teotihuacán, gọi là thị tộc Sếu, giữ chức vụ tựa như thanh tra thuế, lôi hàng ra kiểm tra. Cá Sấu 12 và người đứng đầu đám người của thị tộc Sếu chọn ra một món làm quà cho quả đồi, một kiểu thuế qua cửa. Viên kế toán đi quanh, thắt những cái nút hình nơ bướm trên sợi dây thành một bản kê dài. Chúng tôi tháo bỏ vũ khí và một vài loại vật dụng bị cấm như bất cứ thứ gì màu xanh lá cây, bất cứ thứ gì làm từ da rắn và bất cứ đồ lề bóng hông nào. Những trận bóng hông với bóng lớn được coi là một cuộc chiến, hoặc có thể gọi là thi đấu võ thuật, vì thế, chúng bị cấm ở đây. Thực tế, môn bóng duy nhất hợp pháp ở đây là trò đánh bóng bằng gậy mà chúng tôi thấy lúc trước, và không có cá cược công khai. Tôi nhận thấy Hun Xoc và những người chơi bóng hông khác lấy các mảnh vài đính hạt quấn kín các vết chai trên cánh tay và đầu gối. Ở xứ này, dân chơi bóng chuyên nghiệp bị coi là hạng người bất hảo.

– Tôi có được mang theo cứt trong bụng không? – Tay 2 hỏi viên kế toán bằng tiếng lóng của nhà chúng tôi. – Hay tôi phải để nó lại đây?

Viên kế toán trả lời rằng hắn không hiểu sao lại thế.

– Vì tôi muốn lấy lại nó khi quay về – Tay 2 đáp.

Chúng tôi phải khoác lên người những chiếc áo choàng màu xám đen, xỏ khuyên mũi và đeo khuyên môi. Tôi cũng được thửa riêng một cái – anh không bao giờ được đeo đồ của người khác – nhưng nó không vừa. Cái đồ chết toi. Người ta không được để mặt trơ khấc ra khi bước vào thung lũng thiêng này. Ngay cả bọn đầy tớ cũng phải buộc một miếng giẻ quanh miệng, nhìnnhư lũ ăn cướp Miền Tây. Gì thì gì, anh không bao giờ có thể tưởng tượng ra thứ đồ trang sức đàn ông nào khó chịu hơn thứ này. Tôi đã từng nhìn thấy những cái khuyên xỏ âm vật chu vi bốn inch dễ chịu hơn nhiều. Chắc thế.

Tên hầu lo khoản mặt nạ chạy tíu tít để giúp chúng tôi chỉnh trang, hệt như người làm tóc trước buổi trình diễn mốt. Trong khi đó, những tên đầy tớ riêng ngắm nghía và chỉnh đốn điệu bộ cho chúng tôi. Chúng rất cung kính, nhưng chúng tôi vẫn phải làm theo lời chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho Hoàng tử xứ Wales phải đi đứng theo cách này cách nọ. Từng người trong chúng tôi – kể cả nô lệ – đều phải nhắc lại một câu thề thốt hoà bình ngăn ngắn, bằng tiếng của chúng tôi lẫn tiếng Teotihuacán, gồm những chuỗi từ dính liền nhau dài bất tận, đầy những nguyên âm kéo cà kẽo kẹt một cách dị hợm và hầu hết chúng tôi dều không hiểu chúng có nghĩa là gì. Lời thề đại ý rằng chúng tôi không bao giờ được phép giơ vũ khí về phía bất kỳ, luôn phải che miệng và có mặt để cúng tế vào buổi sáng và buổi trưa. Tiếp đó, mỗi người chúng tôi phải ném một món đồ phục sức vào đống lửa. Hoá ra bọn hầu trang phục buộc vào cổ chân chúng tôi một sợi ruy băng là vì việc này. Ghi được điểm rồi đấy, các cậu, – tôi nghĩ. Tôi suýt thì định vứt cái thắt lưng vào. Và rồi, tất cả chúng tôi phải bước qua một bụi dây bìm bìm – uay của đường biên giới mà những thứ vô hình không thích hợp không vượt qua được. Cuối cùng, những người dâng hương tẩy uế cho chúng tôi lần nữa bằng khói bốc ra từ một cái tẩu khổng lồ và đưa cho mỗi người một vật nhỏ bằng đất sét.

Tôi nhìn cái của tôi với ý nghĩ rằng “cảm ơn, nhưng tôi biết làm gì với nó bây giờ?”, giống như nếu người ta phát ống píp và thuốc lá trong lễ tốt nghiệp của trường đại học Yale vậy. Nó là một cục đất sét trơn, thô, hình thuôn thuôn, vừa mới ra khỏi lò nung, có hai cái lỗ, hai chỗ trũng hay chỗ lõm gì đấy. À, đây rồi. Hai cái lỗ được nhét đầy bột than chì nghiền lẫn với nhựa cô-pan và ướp tinh dầu bạc hà. Nó là một cái lư hương.

Chúng tôi ra hiệu chào tạm biệt, rẽ sang hướng đông và đi lên con đường rộng, để lại khu hồ phía sau lưng. Tôi nhận thấy bốn gã cao lớn, ăn vận như đầy tớ nhà Bướm Đuôi Nhạn đã gia nhập đoàn chúng tôi từ lúc nào. Ra là người giám sát, – tôi nghĩ. Lũ mật thám. Cá Sấu 12 đã thông báo từ trước là sẽ có các tsazcalaman, những “người dẫn đường” hay “người tiếp đón”, và dặn chúng tôi đừng để ý đến họ trừ khi họ nói điều gì đó. Tốt thôi. Hãy cứ coi chúng như những người trực tầng khách sạn. Vì lợi ích của chính mày.

Không như đa số các thành phố khác thuộc Mesoamerica, Teotihuacán có rất ít công trình củng cố quân sự, chỉ độc mấy bức tường đá thấp tè dựng ở vài nơi trọng yếu. Tôi có cảm giác rằng thành phố này từ lâu đã hoang tưởng rằng mình không thể bị tấn công. Gần đây, họ bắt đầu dựng chướng ngại vật bằng gỗ có thể di chuyển được, hay gọi theo lối thời kỵ binh xưa là chướng ngại chặn ngựa, tức là những thân cây được chặt bỏ cành lá đặt nằm ngang, trên cắm những cái cọc ngắn hơn, vót nhọn, cứ ba cái một, cách nhau vài sải tay, tạo thành mọt dãy chông chĩa ba dựng đứng. Chúng tôi đi ngang qua bốn tốp nô lệ đang kéo những cây chông đó đến nơi mà ngày mai họ sẽ đặt chúng ngang đường. Ngoài ra, còn thêm ba đường hào khô mới đào, bên dưới cắm chông mà chúng tôi phải vượt qua trên những cây cầu bện. Một cái nhìn chông chênh đến mức tôi tụt ngay khỏi lưng tên phu kiệu để tự đi. Cá Sấu 12 trừng cặp mắt sâu hoắm nhìn tôi, nhưng phô trương mẽ ngoài thế là đủ. Tôi lại trèo lên lưng con chiến mã người của mình.

Chim chóc lác đác dần. Những đám chơi bóng mà chúng tôi bỏ lại phía sau cũng ỉu xìu và nhạt nhẽo hẳn. Tiếng sấm bắt đầu dậy lên. Không, không phải sấm… mà là tiếng trống, – tôi tự nhủ, – những chiếc trống đá lớn, nghe đầm và hay lạ, hệt như tiếng trống định âm trầm, rền lên từng hồi với quãng nghỉ dài: bombombombombom, bom…bombombombombom, bombombom… bombombombombombom… và tôi phát hiện ra nhịp trống tương ứng với các con số của ngày hôm nay: Wak Kimi, Kanlahun Sip – Hấp hối 6, Nai đực 14, nó lặp đi lặp lại với nhịp điệu rất đặc biệt, không ai có thể bắt chước được 6 . . . 14 . . . 9 . . . . 11 . . . . . 12 . . . . 6 . . . . bombombombom, bombombombom . . .bombombombom . . . bombombombombombom . . . Đó là tiếng trống cầu nguyện vào lễ trưa. Đoàn chúng tôi đi chậm dần rồi dừng lại. Tôi nhận được tín hiẹu xuống “ngựa”. Chết tiệt. Từ quãng này trở đi, chúng tôi sẽ đi bộ. Xe kiệu là thứ không được phép ở thành phố thiêng liêng này, và anh không được phép cưỡi trên lưng người khác trừ phi anh là thằng liệt.

Cả đoàn đã dừng lại. Tất cả hướng mặt về phía trước, hướng đông bắc. Lũ chim đậu xuống. Chúng tôi lấy lư hương của mình ra. Một hồi boom boom vọng đến từ sườn núi phía trước, từ thành phố linh thiêng. Có tiếng trống đáp lại từ xa tít bên kia hồ, chậm nửa nhịp để hoà vào với tiếng vọng. Tiếp đi nào, – tôi nghĩ, – Rock the Casbah (Một bản nhạc rock của ban nhạc The Clash). Tiếng trống ầm ầm vang khắp các thung lũng và vạn vật dường như co rúm lại. Những tiếng trống nhỏ hơn của nhà dân cũng hoà vào nhịp điệu cho đến khi chúng chuệch choạc rời xa thành hàng trăm, rồi hàng ngàn âm thanh nhỏ hơn, lạc điệu đi và cuối cùng chỉ còn là những tiếng lạch cạch không phân biệt được nữa. Những người châm lửa đi khắp đoàn với những bó đuốc thông cháy dở, một người châm lư hương cho tôi. Hắn lầm rầm câu gì đó về việc đây là lửa tinh khiết lấy từ kim tự tháp Bão Lốc. Mình có nên boa cho hắn không nhỉ? – tôi bất giác nghĩ, nhưng hắn đã biến mất. Ah, mùi nhựa thông thật tinh khiết. Mùi của sự trong lành. Oái. Tôi làm bỏng ngón tay cái. Quỷ bắt mày đi. Tôi xoay xoay cái lư và giơ nó lên ngang chân để chỗ khói chưa bị hít có thể bay lên. Hai bên đường, đàn bà, trẻ con và người già tụ tập trên các mái nhà kho, tay nâng lư hương. Không kẻ nào đứng trong phạm vi của thành phố này có thể tránh được nhiệm vụ trình diện trước mặt trời vào mỗi sáng và mỗi trưa. Kể cả anh đã một trăm tuổi đi chăng nữa, kể cả liệt hết chân tay đi chăng nữa, kể cả trời đang mưa như trút nước đi chăng nữa, anh cũng phải đứng ra ngoài trời, mà nhất là khi trời mưa, thật đội ơn cái cơn mưa chết tiệt ấy. Và nếu họ không kéo được anh ra ngoài thì họ sẽ treo cổ anh lên. Vì thế, ra hít thở tí không khí trong lành là điều bắt buộc.

Tiếng trống lắng xuống, nhường chỗ cho tiếng khấn râm ran, rền rĩ, phát ra từ sâu trong cổ họng bằng một thứ tiếng xem ra ít phụ âm hơn cả tiếng Hawaii. Tôi chỉ lầm bầm theo dưới cái khuyên môi. Về sau, tôi nghe nói rằng thực ra chẳng ai nhớ được đống từ ngữ ấy có nghĩa là gì. Có lẽ tất cả cũng đều lầm bầm theo mà thôi. Ê…a…ê….a… Đừng để ý tôi. Tôi cũng chỉ là một con trong đàn cừu thôi mà.

Tiếng cầukhấn dừng lại. Như mọi người xung quanh, tôi bốc ít cát dưới mặt đường để dập tắt lư hương. Chúng tôi leo lên những bậc thang cuối cùng, bước vào một bầu không khí mát mẻ hơn, qua một cổng chào lễ hội lớn, nhìn giông giống cổng Karamon (Kiểu kiến trúc cổng theo lối cổ ở Nhật Bản),qua đỉnh một…

– B/aax ka mulac t’een? – Tay 2 thắc mắc. “Thế thành phố đâu?”.

PHẦN III

THÀNH PHỐ LƯỠI DAO

45

Một biển sương mù lấp lánh trọn thung lũng dưới chân chúng tôi, duy nhất có một chỏm núi tù, Cerro Gordo – Đỉnh Núi Trắng của thành phố, vạch một nét lên bầu trời xám xịt. Chúng tôi đang đứng trên một con đèo tại điểm xa nhất về phía nam của lòng chảo, trước mặt là con đường đẽo thành hình bậc thang thoai thoải giữa hai dãy nhà trại lớn, vuông vắn, tường trát thạch cao, chạy xuống nơi mà tôi biết là một cánh đồng phù sa bằng phẳng. Không phải sương mù, – tôi nghĩ lại, – nó có màu xanh lam. Đó là khói, khói nhựa cô-pan bốc lên từ hàng trăm ngàn lư hương nhỏ. Rất lâu sau, lớp khói trên cùng của cái lòng chảo không khí im lìm mới tản bớt một chút, cho phép chúng tôi nhìn thấy một, rồi ba đốm sáng màu da cam giữa khoảng không mờ mịt, cao gần ngang vị trí chúng tôi đang đứng, đốm xa nhất dựa vào vách núi Cerro Gordo, rồi đến hai đốm gần hơn, phía trên tay phải. Và rồi, những hình thù dưới các đốm sáng hiện dần lên, tôi nhận ra chúng là những đống lửa được đốt trên đỉnh ba kim tự tháp lớn. Kim tự tháp của Phù Thủy Ngọc Bích nằm ở tận cùng phía Bắc là chiếc xa chúng tôi nhất, bên tay phải là kim tự tháp Bão Lốc khổng lồ, và cuối cùng, gần nhất và nhỏ nhất, là kim tự tháp màu xanh chàm của những đứa con của Rắn Chuông Sao. Nhiều đốm sáng khác le lói giữa khoảng không mờ xám, tất cả đều là lửa thắp trên đỉnh của hàng trăm kim tự tháp nhỏ, tuy không cao bằng ba gã khổng lồ kia nhưng cũng chẳng phải những thằng lùn. Khói bốc cao lên và tản đi, thêm nhiều hình thù trở nên rõ nét, hệt như Brigadoon (Ngôi làng thần thoại ở xứ Scotland, cứ một trăm năm mới xuất hiện một lần) dần hiện ra giữa sương mù; mỗi lúc một nhiều khối vững chãi được từ từ bồi đắp thành hình như những mảnh đá mặt trăng tích tụ lại trong bình thí nghiệm; một khung xương rời rạc đang biến hình thành một quang cảnh lộng lẫy và hùng vĩ.

Khi lần đầu tiên nhìn thấy nó dưới hình dạng một đống đổ nát vào một ngàn ba trăm năm mươi mốt năm sau, tôi đang là một thị dân cuối thế kỉ hai mươi, đã quá quen với việc nhìn ngắm từ trên không và những tòa nhà cao chọc trời, vậy mà vẫn còn thấy choáng ngợp. Vậy thì với một thổ dân Mesoamerica vào thế kỉ thứ bảy, không nghi ngờ gì nữa, đây chắc chắn là thiên đàng dưới trần gian, chưa từng và sẽ không bao giờ có thành phố nào vĩ đại hơn, được thần linh tạo ra trước khi con người có mặt trên đời, và ngày này, người cai trị nó chính là hậu duệ của các vị thần, ngồi ở trung tâm của hai mươi ba tầng vũ trụ, nơi không kẻ nào có thể chạm tới. Không từ ngữ nào trong tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ch’olan, tiếng Klingon(Ngôn ngữ tưởng tượng của người ngoài hành tinh trong phim Star Trek) hay bất cứ thứ tiếng nào khác có thể diễn tả được sự kì vĩ phi phàm của thành phố này trong thời kì cực thịnh. Trước khi nhìn thấy những đám đông, anh đã có thể nghe và cảm thấy họ, như khi đặt tay lên tường ngoài của một cái tổ ong, anh có thể cảm thấy bên trong nó đầy nhung nhúc những đốm đen, vàng và xám. Không thể nào có đủ nhà cho toàn bộ số người này được. Đây không thể là số dân thường ngày. Chắc họ phải ngủ cả ngoài trời, chồng chất lên nhau. Chật cứng, chật cứng…

Cũng như Ix, chỉ một số rất ít công trình xxây dựng của thành phố này tồn tại được đến thế kỉ 20. Nhưng không như Ix, những đám đổ nát ấy đã được khai quật và trùng tu từ đầu thế kỉ 20. Tôi đã đến đây tham quan vài tuần vào năm 1999 và biết rất rõ bản đồ dựng lại theo nghiên cứu khảo cổ. Và bây giờ đây, tôi mới thấy công trình phục dựng của Viện Lịch sử và Nhân chủng học vụng về và sai toét đến mức nào. Nhưng ngay cả nếu nó có hoàn hảo đi chăng nữa thì những gì sót lại đến thời điểm đó cũng quá ít, có quá nhiều thứ mới lạ ở đây đến mức tôi khó lòng nhận ra thành phố này chính là nơi tôi từng tìm hiểu. Cái mà khách du lịch được nhìn thấy là phần trung tâm còn sót lại của khu teocalli (Nghĩa là “Ngôi nhà của thần linh”trong tiếng Nahuatl, dùng để chỉ các kim tự tháp có đền thờ trên đỉnh), một đống đá nâu nằm trơ trọi. Còn lúc này đây, cái trung tâm đó chỉ là phần tráng lệ hơn một chút của cả một thành phố đông đúc, đồ sộ, cứ trải rộng mãi theo hình dáng của những chiếc tổ ong đan cài vào nhau khiến người ta có cảm tưởng đó là một chứ không phải nhiều ngôi nhà, chúng giăng chật kín thung lũng, bò lan lên các dãy đồi và lên tận đỉnh Cerro Gordo, một cảnh tượng của sự nhân tạo hóa triệt để như ở Hồng Kông hay Las Vegas chứ không phải ở một thế giới tiền hiện đại. Không trông rõ đường phố bởi chúng chỉ là những lối đi hẹp giữa những tòa nhà lớn, hay chính xác hơn là những khu gồm nhiều căn nhà của các gia đình có quan hệ dòng tộc, vì thế, nhìn từ đây, các khu dân cư nom giống một thành phố Trung Đông hơn bất cứ kiểu đô thị nào khác ở Cựu Thế Giới, chỉ khác ở những điểm nho nhỏ như màu sắc và kiểu cách. Giống như Manhattan, thành phố được phát triển hơn lệch về hướng đông bắc, khoảng 15,25 độ, để thẳng hàng với Kochab (Tức Beta Uriae Minoria, ngôi sao trong chòm Tiểu Hùng), một dãy sân trũng xuống và những bức tường khán đài rộng nối thành một hàng dài thẳng tắp mà sau này người Aztec gọi là Dãy Phố Thần Chết trải dài trước mắt chúng tôi. Thực ra, nó hoàn toàn không phải là một dãy phố, theo cách nhìn của chúng ta ngày nay, nó thậm chí chẳng phải một đường rước lễ mà chỉ là một dãy quảng trường nối liền với những ngọn tháp cao dựng đứng mà chưa ai từng nghĩ đến trong quá trình phục dựng. Để hình dung cho rõ, tôi nghĩ có thể gọi nó là trục chính của thành phố. Đến lúc này, đã có thể thấy rõ màu đen và đỏ của kim tự tháp Bão Lốc, màu đen và trắng của kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích, và màu đen và xanh da trời của kim tự tháp Rắn Chuông Sao. Bão Lốc to lù lù như một quả tim đập vào dãy đồi và… ôi trời, nó còn hơn cả to lớn nữa, nó ở một tầm vóc khác hẳn, nó được xây nên không phải dành cho con người. Người ta có thể cảm thấy sức hút ghê gớm của nó, dường như nếu đặt một quả bóng thép xuống mặt đường phẳng, nó sẽ tự lăn về phía ấy. Trên đỉnh tháp, vẫn ngọn lửa ấy đã cháy liên tục hơn bốn mươi tư năm, kể từ khoảng trống trước trong chu kỳ (Tức lần nhật thực trước), nhưng họ sẽ dập tắt nó sau mười một ánh sáng nữa tính từ hôm nay để khỏi coi thường Prank – Người Nuốt ánh Sáng Đen. Sau đó, khi nhật thực kết thúc, họ sẽ lại thắp nó lên bằng chính ánh sáng mặt trời. Đây là điều hiển nhiên bất di bất dịch đến mức đơn giản là nó không cho phép bất cứ sự phản đối nào. Nhưng ai nghĩ đến chuyện phản đối cái sự ấy làm gì?

Và đây, đã có thể trông rõ kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích – rất lâu sau này sẽ là kim tự tháp Mặt Trăng – nhìn xuống dãy phố lớn. Chỗ chúng tôi đang đứng còn cách quá xa nên không thể nhìn thật rõ qua màn khói và hơi nước, nhưng hình như có những vệt gì đó đang bu đầy quanh nó. Chim à? Hay tôi hoa mắt? Kim tự tháp lớn thứ ba, tỏa màu xanh, công trình duy nhất có màu xanh trong thành phố. Đền thờ của Hội Rắn Chuông Sao, nằm đúng nơi nó nên nằm, chềnh ềnh ở phía đông nam, cuối trục đường chính, như quân xe nhảy bổ vào vị trí quân vua vừa đi qua. Nó nhỏ hơn hai kim tự tháp kia nhưng lộng lẫy hơn hẳn và vẫn đủ to lớn để không kẻ nào dám cà khịa, thực tế, nó lớn hơn khá nhiều so với công trình được phục dựng lại nhiều thế kỉ sau, khi người ta khám phá được một mặt tiền có niên đại còn sớm hơn nữa. Tòa tháp có ít nhiều dáng dấp của phong cách Maya phương nam với tường ngoài chạm hình rắn cuộn vào nhau, tuy thế, kiến trúc vẫn được hình khối hóa, lập thể hóa, Mexico hóa, hay gì gì đó khiến nó vừa hài hòa lại vừa không hài hòa với phần còn lại của thành phố, một phần không cân xứng và chông chênh hơn.

Ở trung tâm của trục đường chính, giữa quảng trường lớn đối diện Bão Lốc là công trình thứ tư, chưa có trên bản đồ trong đầu tôi. Sọ Đá Quý không nhắc đến nó, và giới khảo cổ cũng không tái hiện lại. Sao họ có thể bỏ sót nó được cơ chứ? Giời ạ, một hình nón dốc đứng,dựng thẳng lên trời như một ngón tay màu xanh lá cây, cao lừng lững không kém gì tòa kim tự tháp. Khi nhìn thật kỹ, tôi nhận ra nó là một kiểu giống như tòa tháp không có vách tường, cao mười ba tầng, mỗi tầng cách nhau chừng năm sải tay. Một đám đông lúi húi đi lại quanh nó như kiến bò, trần trụi với những vệt xám trên người: những tên nô lệ. Tôi đoán rằng nó được bện bằng thân sậy và gỗ tươi, có lẽ là đây chính là xcanacatl, lửa-dâng-cho-hư-vô mà Cá Sấu 12 đã nói tới. Nó sẽ được dựng xong và chất đầy đồ cúng trước lúc nhật thực, khi nào các thầy tế đuổi được Người Nuốt ánh Sáng đi, họ sẽ đốt bỏ nó bằng lửa tinh khiết của bình minh thứ hai.

Kim tự tháp của Phù Thủy Ngọc Bích nhòm xuống con đường chính, y như ông tướng dự buổi duyệt binh, nhưng kim tự tháp Bão Lốc thì đối diện một khoảng trống không. Phía bên kia trục đường chính chỉ có một quảng trường cỡ vừa để cân đối với tòa tháp, nhưng cũng chẳng cân đối được, gã khổng lồ to kềnh nhìn đăm đăm cô độc về hướng tây với vẻ hiu quạnh. Người nhìn nó bỗng có cảm giác băn khoăn, như khi nhìn một bức tượng cẩm thạch cổ tạc hình một vận động viên với cánh tay giơ lên, nhưng cánh tay lại gẫy mất từ phần bả vai, và người ta thắc mắc không biết anh ta đang giơ tay chào? hay đang ném lao? hay đang vung gươm? Hoặc như khi anh nghe đoạn đầu của một khúc nhạc mà không thấy đoạn kết, nó khiến anh bứt rứt đến mức phải tự nghĩ ra một đoạn kết mà ngâm nga ư ử trong họng. Nó gợi lên một cảm giác mong ngóng đến lạ lùng… không hẳn là sự trống trải, mà chỉ là sự chờ đợi, cảm giác của một người phụ nữ cô độc bên bàn ăn lớn chờ đón một vị khách quan trọng từ ngoài kia sắp bước vào.

46

Đám phu khuân vác ngần ngại. Tên khiêng kiệu của tôi lầm rầm mấy câu khấn vái bằng thổ ngữ làng hắn…”xin các cụ trông nom che chở con” hay những câu gì đó đại loại vậy, nhưng Cá Sấu 12 buộc họ phải đi tiếp. Chúng tôi đi xuống thung lũng. Cái khuyên môi của tôi đẫm nước nhỏ giọt và vách mũi nhoi nhói. Vì dốc núi có bậc thang nên nó không phải chạy ngoằn nghoèo như các con đường núi ở Cựu Thế Giới. Mấy lần liền tôi tưởng mình sắp lao xuống. Mùi ớt hong khô, ngô luộc, phân cháy và vị khen khét của đá cuội và đá thủy tinh mới bửa bay tạt qua. Tiếng lạch cạch và ken két liên tu bất tận vọng đến từ các phường làm dụng cụ bằng đá cuội, hệt như tiếng của hàng ngàn con bọ nhảy cánh cứng và ve sầu. Một gã quản lý tạm trú có bộ mặt trắng bợt của thị tộc Kền Kền đến ghi lại tên tuổi, chức danh và tổng số người của đoàn chúng tôi, đánh dấu lại trên một chùm những sợi thừng con queo như cái vòng quipu (Còn gọi là “những cái nút biết nói”, một dụng cụ để ghi nhớ số lượng, gồm những sợi dây và những nút thắt với đơn vị quy ước sẵn) của người Inca.

Chúng tôi tập hợp lại. Nòng cốt của đoàn chỉ còn lại hai mươi người. Không có vẻ là dấu hiệu tốt. Chúng tôi tiếp tục đi xuống. Khi Bão Lốc vươn đến ngang tầm chúng tôi, các cạnh của nó xoay chuyển theo một nhịp điệu khó hiểu, các tầng tháp hiện ra rồi lại biến mất, dựng đứng, thoai thoải, rồi lại dựng đứng, như một hợp âm nhạc jazz.

Khi gần xuống đến thung lũng, cách khu teocalli khoảng nửa dặm, chúng tôi rẽ sang hướng tây, rời khỏi trục đường thông thương, tiến vào một nơi mà các bạn có thể gọi là đường hẻm dành cho khách bộ hành. Nó đông nghẹt những người là người. Mấy gã do Bị Thương 14 cử đi len lên đầu đoàn, xua xua những cái néo để gạt lũ dân đen ra khỏi lối của chúng tôi. Tránh đường, tránh đường cho Đức cha Coronel. Chúng tôi ì ạch lết qua một dãy cửa mới bị đóng chặn lại, hay đúng hơn, vừa bị bít lại bằng đá tảng và chằng thừng dây leo. Hừ, sợ lộn xộn à? Quá nhiều thủy thủ trong thành phố sao?

Đám dân thành phố rẽ sang hai bên khi chúng tôi đi qua. Họ nhìn chúng tôi chằm chặp, không có vẻ gì thù địch, nhưng hiếu kỳ đến mức khó chịu. Có lẽ chỉ vì chúng tôi không vẽ mặt. Người Maya chỉ vẽ mặt vào một vài dịp đặc biệt, nhưng người Teotihuacán thì cứ hễ ra đường là vẽ mặt. Nhưng kiểu vẽ mặt ở đây rất khó hiểu, họ bôi những vạch dài màu tối ngang qua mắt, làm mất hết đường nét khuôn mặt và khiến ai cũng giống ai, chỉ khác nhau ở những vệt chấm – dấu hiệu riêng của từng thi tộc mà đằng nào tôi cũng chẳng hiểu. Một vài người nổi cả mụn nhọt dưới lớp màu vẽ và rất nhiều người tỏ ra ốm yếu. Cơ man là tiếng ho hắng và khạc nhổ. Có bệnh lao ở đây rồi, – tôi nghĩ bụng. Trẻ con sinh ra sẽ chẳng đủ bù người chết. Chắc phải có khối bệnh nhiễm trùng ký sinh, có khi cả bệnh dịch lạ nữa cũng nên… hừ, hay quá rồi, chúng ta chỉ cần có thế nữa thôi.

Chúng tôi tiếp tục len lách lên phía trước. Người mỗi lúc một đông đặc thêm. Tôi bắt đầu có cảm giác ghê ghê với nơi này, ý tôi là ghê hơn một ngàn cảm giác ghê ghê khác tôi vẫn có. Thứ gì làm mình khó chịu nhỉ? – tôi phân vân. Không chỉ vì nơi này bẩn thỉu, thực ra, nó khá sạch sẽ. Cũng không phải vì nó đầy rẫy những kẻ ám muội. Những người chúng tôi đi ngang qua đều có vẻ là tầng lớp trung lưu. Anh sẽ không bao giờ thấy cái không khí ấy ở các thành phố Maya. Ở Ix chẳng hạn, anh hoặc là kẻ cực kỳ quý phái, hoặc ngược lại. Có lẽ chỉ vì tất cả các bức tường ở đây đều được quét than, nhìn như những thỏi than chì đen xỉn, hơi gợn lóng lánh. Cảm giác đứng giữa một thành phố đen xì thật kỳ cục. Tuy nhiên, nó không đen tuyền như khi nhìn từ trên đèo xuống. Quãng nào có vỉa hè đều được lát đá đỏ, trên các khuôn của sổ cao đều chăng những mảnh vải nhiều màu sắc, vô số chuỗi vỏ sò và tràng hoa lá rủ xuống từ mái hiên khiến thành phố có cái không khí um tùm, sum xuê như vườn treo Babylon… thế nhưng… có lẽ vì nó chẳng có lấy một chữ chạm khắc nào. Không hề có. Không một ký hiệu, khộng tượng đài chạm khắc, không bảng yết thị, không gì hết. Đúng như Cá Sấu 12 đã nói, ngôn ngữ ở đây không có chữ viết. Hình như ở đây người ta khó chịu với nó như một khoản phải chi tiêu thêm. Nói chung, trừ một vài người hành nghề kế toán học được chữ viết từ những người chép thuê Maya, còn tất cả dân chúng thành Teotihuacán đều mù chữ. Tuy vậy, họ vẫn quản lý tốt thành phố về mặt hành chính. Chúng tôi rẽ sang hướng bắc, vào một con hẻm thậm chí còn tối tăm hơn.

Sao chúng tôi lại phải vào khu trắng (tức là nửa đen) nhỉ? – tôi phân vân. Tôi cá rằng nửa đỏ của thành phố dễ chịu hơn nhiều. Mà thế quái nào nửa đen lại được gọi là nửa trắng cơ chứ? Chẳng khác gì ở Mỹ, cái thứ mà người ta gọi là “bang đỏ” (“Bang đỏ” là từ chỉ các bang có đa số ủng hộ đảng Cộng hòa, trái với “bang xanh” ủng hộ đảng Dân chủ.) chẳng hề đỏ, thực tế, họ còn có khuynh hướng chống cộng hơn. Nó được gọi thế chỉ để khiến người ta rối lên.

Mỗi nhà trong thành phố đều phải thuộc một trong hai nửa. Thị tộc Kền Kền, nửa trắng, hay nửa “hòa bình” chỉ yếu sống ở phía tây – tức màu đen – so với trục đường chính của thành phố. Có hàng trăm gia tộc lớn thuộc phe trắng, nhưng lớn nhất là gia tộc Bìm Bìm. Trưởng lão của gia tộc này là một người có tên Chuột Lang 40, người mà Sọ Đá Quý 2 cho tôi biết là cha nuôi của công nương Koh, đồng thời là quan chấp chính của Giáo hội Trắng. Hình như ông ta còn có một tước hiệu nữa là “Thủ lĩnh Hòa Bình”. Nửa kia, nửa đỏ, thị tộc Bướm Đuôi Nhạn, từ trước đến nay vẫn do gia tộc Báo Sư Tử cầm đầu. “Thủ lĩnh Chiến Tranh”, người đứng đầu gia tộc Bướm Đuôi Nhạn là một người có cái tên hết sức lạ tai đối với tôi: Cong Veo Ti Tiện. Theo truyền thống, nửa Trắng lo các mặt nông nghiệp, phân bổ nguồn nước, “tôn giáo” (theo cách gọi của chúng ta ngày nay), buôn bán và đa số nghề thủ công. Nửa Đỏ lo mảng chiến tranh cũng như các nghề thủ công liên quan đến khí cụ và buôn bán với bên ngoài. Các bạn hẳn nghĩ rằng kiểu phân chia như vậy sẽ là công thức nấu món “xung đột”, nhưng vì ở đây không có chuyện kết hôn nội tộc – tức là một phụ nữ thuộc tộc Kền Kền buộc phải lấy một người đàn ông của tộc Đuôi Bướm Nhạn và ngược lại – nên hai nửa có những mối ràng buộc chặt chẽ và phụ thuộc nhau. Trong suốt nhiều thế kỷ, sự cân bằng giữa hai nửa vẫn được duy trì, có lẽ nhờ một nguyên tắc gần như xã hội chủ nghĩa. Thủ lĩnh của các thị tộc không được phép có quyền lực bên ngoài thị tộc của mình và thành phố không được cai trị bởi một nhân vật duy nhất nào, nó được quản lý bởi một hội đồng gồm những người đứng đầu của hàng trăm gia tộc lớn đến từ hai nửa.

Chúng tôi rẽ thêm một lần nữa vào một con hẻm hẹp hơn. Nó chặt cứng đến mức người ta phải quay lưng nép mình lại để nhường lối cho chúng tôi. Sau khi đi thêm một đoạn nữa, rốt cuộc chúng tôi cũng được dừng lại. Người đưa tin của Bị Thương 12 leo lên một cầu thang dốc. Chúng tôi theo sau, đi qua khoảng hai tầng nhà, lên tới ánh mặt trời sáng trắng.

Chúng tôi đang ở độ cao ngang tầm kim tự tháp Bão Lốc và bao quát khá tốt toàn bộ khu nhà trắng. Những mái nhà bằng có bậc thang giăng khắp bốn phía, xen lẫn các vườn hoa và cây ăn trái mọc trong các luống đất bùn dung nham trộn phân bắc. Những cuộn hơi nước của nhà tắm bốc lên qua các lỗ thông hơi nằm ở vị trí khuất và nhanh chóng tan biến trong bầu không khí khô khan. Một vài khu nhà xây lên tới ba tầng, nhưng phần lớn đều ở cùng một độ cao nên người ta có thể đi từ nhà này sang nhà khác qua các cầu hẹp, tương tự như ở các pueblo (cộng đồng sinh sống theo kiểu truyền thống của người da đỏ ở vùng tây nam nước Mỹ) hay khu phố cổ của các thành phố đạo Hồi của Châu Phi. Sau lưng chúng tôi, đám phu quân vác hai tay dâng các gói đồ. Tôi ra hiệu “sẵn sàng” và chúng tôi đi về hướng bắc qua các cây cầu ván kẽo cà kẽo kẹt. Hun Xoc chỉ cho tôi những dãy bình lớn đậy nắp ở rìa các mái nhà và nói rằng chúng đựng nước để phòng khi có hỏa hoạn. Cuối cùng, chúng tôi lập bập bước sang mái nhà của trụ sở giao dịch của thị tộc Đại Bàng. Đó là một khu lớn gồm nhiều tòa nhà, nơi sinh sống của các gia đình Maya thuộc các thị tộc hậu duệ của loài chim, đến từ một vài thành phố dưới đồng bằng. Đang có một vụ ầm ĩ dưới lòng đường trước mặt chúng tôi, chúng tôi không nhìn rõ là vụ gì. Nhưng như có kẻ đang bị nện cho một trận. Thằng đầy tớ riêng của Bị Thương 14 gào vọng xuống để hỏi xem có chuyện gì, và thế là chúng tôi lại phải dừng lại một lúc để nghe ai đó gào lên giải thích toàn bộ câu chuyện, rồi lại đến ai đó nữa gào lên giải thích theo một cách khác hẳn. Đồ chết dẫm, làm gì có lắm thời gian thế, – tôi nghĩ bụng. Tôi len đến chỗ Cá Sấu 12.

-Chúng ta nên gửi người đưa tin đến chỗ công nương Koh ngay, – tôi nói bằng ngôn ngữ của thị tộc Đại Bàng.

-Ta nên chờ đến khi được che chở, – Cá Sấu 12 trả lời, ý nói “được vào trong nhà”. Ông tanói rằng không phải là ý hay khi giở các món hàng ra ở nơi mà những kẻ cha vơ chú vào có thể nhìn thấy.

Đúng thế thật, – tôi nghĩ. Thiên hạ đang tụ tập xúm xít trên các mái nhà xung quanh để hóng xem có chuyện gì. Tôi ra hiệu “cũng được”.

Tôi quay lại chỗ của mình trong hàng, sốt ruột nhấp nhổm trên hai chân.

Bị Thương 14 quay lại và giải thích sự việc chúng tôi đang nghe thấy. Hình như một người phụ nữ đang bị hành hình bởi tay các thầy tu của giáo hội Bìm Bìm, những kẻ mà tôi đoán là tương tự như lính Taliban, chỉ vì một tràng hắt hơi trong buổi lễ vọng hồi trưa.

Cá Sấu 12 ra lệnh cho chúng tôi không được xuống dưới phố. Ông ta nói chúng tôi không được phép đi vào qua lối cửa chính. Thay vào đó, chúng tôi phải leo xuống theo một đường nửa như cầu thang, nửa như thang đứng, xuống một cái sân trong nhỏ. Nó rộng chừng ba mươi sải vuông, trống không trừ một cái bàn thờ đặt ở chính giữa với bốn tượng thờ tổ tiên bằng gỗ lớn đặt ở bốn góc và bốn cánh cửa nhỏ trên bốn bức tường. Chúng tôi tự động tập hợp lại ở góc phía đông khoảnh sân, hướng mà từ đó chúng tôi đến. Nhóm người của Bị Thương 14 đứng ở góc phía tây. Toàn gia, ít nhất là năm mươi người, đã đổ ra để giương mắt nhìn chúng tôi. Một phút ngượng nghịu. Trước khi được ngồi trong nhà ai đó thì người ta phải hỏi xin được bước vào đã. Cá Sấu 12 giậm chân ra hiệu một cái, chúng tôi lấy xì gà ra và bắt đầu nghi thức chào hỏi. Tôi cảm giác hình như Bị Thương 14 và người của hắn vẫn đang soi tôi bằng khóe mắt. Tôi biết vài người trong số họ đã từng xem Chacal chơi bóng. Nhưng nhìn tôi bây giờ khác hoàn toàn rồi, phải vậy không? Có lẽ họ nhìn chỉ vì tôi có bề ngoài ấn tượng thôi. Tôi đang dần nhận ra tôi có vẻ ngoài khá ấn tượng và cá tính, hơn nhiều khi còn là Jed. Chacal từng là một vận động viên chuyên nghiệp, và mặc dù tôi đã cố điều chỉnh vận động theo cách riêng của mình, nhưng cơ thể anh ta vẫn tự điều khiển mình như trước. Giống như khi anh gặp vận động viên bóng rổ hàng đầu, anh sẽ chẳng cần đến một giây để khẳng định anh ta là người đặc biệt. Tôi lại cảm thấy sự lo lắng hồi hộp. Sọ Đá Quý 2 đã tập cho tôi cách chào hỏi xã giao với gia đình Bị Thương 14, cách đi đứng ở Teotihuacán, cách cúi mình hoặc đứng trên kẻ khác, chỉ cho tôi vị trí ngồi so với Cá Sấu 12, so với cái bếp lò, so với kẻ hầu người hạ riêng, dạy tôi khi nào được nhìn lên, khi nào nên nhìn xuống, vân vân và vân vân. Nhưng ngay cả như vậy, vị trí trong đoàn của tôi vẫn không rõ rệt khiến hai bên đều khó xử. Mà ở đây, chỉ cần đứng sai hướng thôi, ví dụ vậy, anh cũng có thể đã khiến ai đó cảm thấy bị xúc phạm. Cẩn thận đấy, – tôi tự nhủ. Đừng lo lắng quá, nhưng phải thận trọng, Hun Xoc nhích lại gần tôi hơn một chút, hoặc để khiến ai khác khó soi vào mặt tôi, hoặc để tỏ ý đứng về phía tôi. Cảm ơn, – tôi nghĩ thầm trong bụng, – cậu quả là một anh chàng tử tế.

Bị Thương 14 dẫn chúng tôi tới trước bức tượng gỗ ở góc đông nam. Đó là tượng một người đàn bà xấu xí, to bè, gần như trần trụi trong tư thế ngồi, nhỏ hơn kích thước thật một chút, hình như không phải tổ tiên như lúc nãy tôi tưởng, mà là Phù Thủy Ngọc Bích. 14 và một tên hầu nắm lấy hai cái đòn trên vai bức tượng, quỳ xuống và nâng nó lên. Chỉ có nửa trên nhấc lên. Nghĩa là bức tượng mở ra như một con trai há miệng. Toàn bộ nửa trước của bức tượng hạ xuống, một nửa của mỗi cánh tay và mỗi bên cẳng chân khoanh lại chạm xuống bắp đùi. Bàn chân và nửa sau nằm yên trên bệ đá. Bên trong nó có chứa đầy những con búp bê bằng đất sét nhỏ xíu được tô vẽ nhiều màu, khoảng sáu mươi con cả thảy. Chúng được buộc vào khắp các vị trí chứ không chỉ ở phần thân chính, cả phía sau cánh tay, cẳng chân. Tôi đoán mỗi con tượng trưng cho một người của gia đình 14. Có lẽ những con búp bê matryoshka được làm ra dựa trên cùng một ý tưởng như thế này. Một tên hầu bước tới với cái khay gồm hai mươi con búp bê nữa, mỗi con tượng trưng cho một người trong số chúng tôi, và chúng tôi đứng xung quanh trong lúc một thợ vẽ tô cho mỗi con một màu để phân biệt.

Tôi liếc sang Hun Xoc. Cái trò điên dở gì thế này? – ánh mắt của thằng bé đáp lại. Tôi nhìn đi chỗ khác để khỏi cười. Tay thợ vẽ đưa cho tôi con búp bê của tôi. Một cục đất nặn bằng khuôn thô thiển, rẻ tiền với cái mũ to xù kiểu Teotihuacán, chẳng có tí gì giống tôi trừ những vạch màu đỏ trên thắt lưng. Nhưng tôi đoán tôi đã cầm rồi thì bây giờ nó là của tôi. Tôi đợi đến lượt mình và đưa nó cho tên hầu. Hắn buộc nó vào một cái mấu nhô ra ở mông trái bức tượng. Vị trí có thể hiện ý nghĩa gì không nhỉ? – tôi phân vân, – hay chỉ vì họ còn mỗi chỗ ấy thôi? Cá Sấu 12 lưỡng lự một chút trước khi đưa bức tượng của ông ta. Đây là một trò vẽ vời kiểu Mexico. Không phải phong tục của người Maya. Tôi có cảm tưởng rằng Cá Sấu 12 thấy Bị Thương 14 bị ảnh hưởng phong tục bản xứ hơi nhiều quá. Khi ai nấy đã vào chỗ, họ đóng bức tượng lại. Tôi bất giác cảm thấy như bức tường đó vừa khép lên chính người tôi và bây giờ tôi an toàn, ấm cúng giữa một cộng đồng lớn với tự do cá nhân về không. Có lẽ ở Teotihuacán này là như vậy, các kim tự tháp nhỏ xúm lại quanh kim tự tháp lớn, các quảng trường nhỏ dựa vào quảng trường lớn và mọi điều đều dựa vào một thứ gì đó khác.

Bây giờ chúng tôi đã là người trong nhà và được mời vào phòng tắm hơi. Khi chúng tôi xếp hàng nối đuôi nhau đi qua cổng vòm phía bắc, Cá Sấu 12 nói vài lời xin phép và ông ta cùng Hun Xoc, Bướm Đêm – viên kế toán, kiêm thầy ký, kiêm thầy khấn của chúng tôi – và tôi tách ra, khom người chui qua một cái cửa ngách. Như thế là không lịch sự, nhưng Cá Sấu 12 đã từng đến ngôi nhà này và ông ta có vai vế hơn bất cứ ai ở đây. Chúng tôi cần một chút riêng tư, nhưng căn phòng đầu tiên chúng tôi thử bước vào bốc mùi kinh người, hóa ra cái mùi đó bay ra từ một đám năm đứa nô lệ. Chúng mới chừng tám tuổi, đang nhẫn nại quỳ trong một góc tường, bị trói lại với nhau bằng một sợi thừng mảnh có tính chất tượng trưng. Một đứa rùng rùng mình vì mấy con ruổi bậu trên vai nhưng cũng không đập. Nhẫn nhục quá. Chúng tôi đi qua một khoảnh sân khác. Có những bể chứa nước, những cây lê tàu trồng trong sọt, những chiếc áo choàng màu vàng phơi trên giá và những người phụ nữ trong tấm quechquemitl vàng – tức là tấm vải hình tam giác mà các cô gái quấn thay áo cánh – đang nhuộm những dải gì đó trong một chiếc thùng. Mọi thứ đều có vẻ bình thường, – tôi tự nhủ, – đừng lo lắng. Chúng tôi tìm thấy một căn phòng trống tối hơn. Nó có vẻ tạm bợ như hang động của bọn kẻ cướp, với những súc vải chất đống cạnh tường và những chiếc hũ lớn, hình thù cho thấy đó là hũ đựng muối tinh. Một tên hầu của 14 cũng bám đuôi chúng tôi vào, nhưng Cá Sấu 12 lừ lừ nhìn hắn với ánh mắt tăm tối đến mức hẳn phải lùi ra. Hun Xoc giờ cái gói của mình và lôi ra món quà mà chúng tôi mang theo làm lễ vật cho công nương Koh. Đó là một chiếc hộp to bằng đầu người đựng bốn trăm miếng da lông ức của chim đuôi seo đực. Khi nó mở hộp vào kiểm tra, những sợi lông ánh lên như chất phóng xạ trong bóng tối lờ mờ. Một món quà thật lạ thường, tốn đến hàng trăm ngày công lao động và trị giá tương đương thứ gì thì có trời biết.

47

Điểm độc đáo của người Maya chúng tôi là cho dù có vô số sách vở nhưng chúng tôi không hề có văn hóa thư từ, ý tôi muốn nói đến những thứ như thiệp báo hay thư tín. Người ta không thực sự gửi cho người khác các giấy tờ có chữ viết, và nếu thi thoảng có thì cũng chỉ có tính chất nghi thức và luôn đi kèm theo thứ gì đó, giống như tấm thiệp gửi kèm quà tặng. Không ai gửi gấp cho ai một bức thư bao giờ. Chính vì thế chúng tôi mới dùng đến những người ghi nhờ như Bướm Đêm 3, họ có thể nói được mười thứ tiếng, là những tay chạy đường trung có đẳng cấp, được tôi luyện để coi thường sự tra khảo, có thể nghe một bài diễn thuyết dài đúng một lượt và thuật lại vào bất kỳ lúc nào mà không hề quên sót hay nhầm lẫn. Vì thế, tôi đoán rằng việc tôi đang làm đây có chút cải tiến. Hừ, đến lúc này, chúng ta chắc phải quẳng cái nguyên tắc giữ mình nhún nhường đi. Làm gì cũng được, miễn sao thu hút được sự chú ý của người phụ nữ đó. Ngay cả khi nó có làm người ta trợn tròn mắt lên một tí.

Cá Sấu 12 hỏi Hun Xoc và tôi xem chúng tôi có muốn thêm gì vào bức tường thông điệp mà Sọ Đá Quý 2 đã thảo sẵn không. Chúng tôi đáp rằng không. Ông ta nhắc lại nội dung thông điệp chính. Bướm Đêm 3 nhắc lại lần nữa. Đó là lời thỉnh cầu một cuộc diện kiến và đồng thời cảnh báo rằng chúng tôi, với tư cách là sứ thần của một phần dòng tộc của công nương, có nghĩa vụ phải thông báo với bà về mối nguy hiểm. Tuy nhiên, chúng tôi chưa biết bà ta sẽ đón nhận nó như thế nào. Lòng trung thành của bà ta có thể sẽ bị chia rẽ.

Cá Sấu 12 nói rằng trên đường tới đây, ông ta đã tìm hiểu được chính xác công nương Koh đang ở đâu. Tôi lo lắng không biết liệu ông ta có đủ kín đáo khi tìm hiểu thông tin ấy không, ừ, lão ta cũng không ngoan lắm, – tôi tự trấn an, – không có chuyện gì đâu, chắc chắn là không có chuyện gì. Ông ta nói với chúng tôi rằng bà ta đang ở trong tòa nhà phía đông tu viện. Tiếp đó, chuyện này khiến tôi ngạc nhiên, ông ta nói chúng tôi sẽ chờ thêm hai một-phần-chín nữa và ông ta sẽ phái hai người của Bị Thương 14 đi cùng.

Cả đoàn hộ tống nữa cơ đấy, – tôi nghĩ bụng, – quỷ tha ma bắt chúng đi, còn gì là bí mật nữa.

Chúng tôi ngồi chờ trong phòng chờ của nhà tắm hơi với Bị Thương 14, thằng đầy tớ riêng của hắn và một đứa con của hắn tên là Ngọc Giá (Một loại cây thuộc họ thừa) Trái. Chúng tôi đã làm tóc xong xuôi. Ở thành phố này, anh lúc nào cũng phải bảnh bao hết mức có thể. Hệt như một nhân vật cỡ bự muốn khuếch trương sự vụ gì đó, cứ phải đi dự hết đám hội hè này đến đám hội hè khác, tốn hàng giờ mỗi ngày với trò trang điểm và tóc tai trong khi thì giờ đó có thể dùng vào khối việc bổ ích hơn. Hun Xoc và tôi đã vấn xong kiểu tóc Teotihuacán, bôi một lớp dầu mỏng hơn, không tết nút hay đính hạt. Đa phần người Ix đều quá kiêu hãnh, hoặc nói theo cách khác là quá tự tôn dân tộc, để làm những chuyện như thế này, nhưng chúng tôi cũng muốn hòa nhập nếu tình thế bắt buộc. Chỉ sướng một nỗi là chúng tôi được tháo khuyên mũi ra.

Người Teotihuacán nổi tiếng kiệm lời chứ không thích tán dóc như người Ix. Bị Thương 14 và bộ quần thần nho nhỏ của hắn đã học được lối cư xử đó. Nhưng Cá Sấu 12 đã khéo léo khơi được chuyện với hắn và lúc này, hắn đang kể cho chúng nghe chuyện hơn một ngàn người Maya đang sinh sống ở đây như thế nào – thời này, chúng tôi chưa có khái niệm “Maya” mà chỉ có tên các thành bang mà tộc người chúng tôi sinh sống – và trong số đó chỉ có ba mươi người đến từ Ix, trong đó, mười tám người thuộc các thị tộc dưới quyền nhà Đại Bàng, những người khác thuộc các dòng tộc có quan hệ với nhà Mèo Rừng. So với hàng trăm người Ti’kalan ở đây thì cộng đồng đó tương đối nhỏ. Và vì gần đây, Bị Thương 14 buộc phải tránh mặt những người liên quan đến nhà Mèo Rừng nên tôi đoán hắn cảm thấy hơi cô độc.

Cá Sấu 12 hỏi liệu bon Mèo Rừng có nổi đình nổi đám lắm không. Trong số tất cả những người sinh sống ở Teotihuacán này, đó là những kẻ chúng tôi cần tránh nhất.

-May cho chúng ta là chúng phải sống cùng nhà Báo Sư Tử, – Bị Thương 14 đáp, – và bọn ấy thì ngày càng quá thể.

Theo 14, tình hình hiện tại của Teotihuacán không thể kéo dài lâu hơn được nữa. Chalco, Zumpanco và năm thành bang khác trong vùng kinh tế khổng lồ của Thung Lũng Mexico – nằm nhẫn nhục dưới trướng của Teotihuacán đã nhiều thế kỷ nay – bắt đầu trì hoãn cống nộp. Tai hại nhất là họ không gửi thêm củi đốt đến các lò nung vôi của thủ phủ Teotihuacán nữa. 14 không nói gì thêm về chuyện này nhưng tôi đoán rằng qua nhiều năm, việc phá hại rừng đã gây ra cảnh lụt lội, xói mòn đất đai và bùn lấp mà chúng tôi đã chứng kiến suốt chuyến cuốc bộ xuyên thung lũng này.

Tuy thế, 14 nói, người di cư vẫn đổ về thành phố đông hơn bao giờ hết, nhất là bọn Quá-Cao. Hắn nói bọn Quá-Cao là rắc rối lớn nhất ở Teotihuacán. Có đến “bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm gia đình bọn người đó ở đây. Đó là một thành ngữ ý nói rất đông. Nếu tất cả số đó cùng hợp sức lại, chúng có thể tàn phá thành phố này. Đó là con cháu của lũ vô lại, đó là lý do vì sao chúng bốc mùi hôi thối đến vậy. Chúng phải bị quét sạch khỏi thành phố.

Vấn đề nằm ở chỗ Teotihuacán buộc phải đón tiếp bất cứ ai đến với nó. Tại thời điểm này, dựa trên những gì tôi được nghe kể về ngôn ngữ của người Quá-Cao, tôi suy đoán rằng họ là những tộc người mà con cháu sau này chính là, hoặc rất gần gũi với người Toltec. Vì thế tôi thấy hơi tò mò về họ. Nhưng 14 nói bọn Quá-Cao là lũ “sỏi mù” thấp hèn – tôi không hiểu như thế nghĩa là gì nhưng không có dịp hỏi – đã bị đá khỏi thành phố của chính mình, lang thang khắp nơi để nhòm ngó xem có gì cuỗm được hay không. Theo tôi tìm hiểu được, thành phố của họ nằm cách đây khoảng một trăm dặm về phía bắc. Tôi không xác định được nó là thành phố nào trong những thành phố tôi biết. 14 cho biết hắn từng đến đó, và rằng đó là một nơi lộn xộn, thấp hèn, man mọi kinh tởm, nơi bọn trẻ con ăn cứt và hàng bầy du côn chạy qua các sân nhà.

-Nhà Báo Sư Tử săn đuổi chúng trên vùng đồi, – 14 nói, – nhưng họ không thể làm thế ở duới thung lũng.

Đã có nhiều vụ lộn xộn và ẩu đả trên đường và lính của Nhà Báo Sư Tử bắt đầu trở nên hống hách không chịu được. Vài mùa hòa bình qua đã bắt đầu xảy ra tình trạng hiếm lương thực và “ghẻ nâu”, một loại bệnh dịch nào đó – tại những khu nghèo nhất của thành phố. Năm nay, mưa gió lại thất thường, mùa thu hoạch tới được dự báo là tồi tệ nhất trong bảy mươi mốt năm qua.

Và cuối cùng, 14 nói, căng thẳng giữa Hội Rắn Chuông Sao và hai Giáo hội lớn của thành phố mỗi một lúc tệ hại. Theo cái cách mà hắn giải thích, tôi có cảm tưởng rằng tình hình ở đây tương tự như ở Rome vào thế kỷ thứ 7. Tín ngưỡng thờ Rắn Chuông đang lan rộng, nhất là giữa các bộ tộc không có bếp lò và người ở nhà tròn, nghĩa là những bộ tộc hèn kém đang liên tục đổ về thành phố. Hội Rắn Chuông Sao tiếp nhận ngày một nhiều tín đồ hoặc người cải đạo thuộc cả hai nửa đỏ và trắng của thành phố, những kẻ đang chán ngán với những cái mà anh có thể gọi là sự lố bịch hóa của xã hội Teotihuacán. Hình như Hội Rắn Chuông đem lại cho họ một thứ tôn giáo ít tôn ti thứ bậc hơn, ít ràng buộc với tổ tiên hơn, với những vị thần bảo trợ không ngự ở bất kì đền thờ nào trên trái đất mà trên chính dải ngân hà. 14 nói rất nhiều trong số những người cải đạo “cắt máu” với chính công nương Koh đầy quyền năng.

Tín ngưỡng thờ Rắn Chuông từa tựa như phong trào cải đạo Tin Lành, như Akkhenaton (Vị hoàng đế cai trị Ai Cập vào giữa thế kỉ 14 trước công nguyên, người tiến hành việc cải cách tín ngưỡng, chuyển từ thờ cúng đa thần sang thờ phụng thần mặt trời Aton.) trước đó và Luther (Martin Luther, nhà cải cách tôn giáo cuối thể kỉ 15, đầu thế kỉ 16, người làm thay đổi dòng lịch sử văn minh phương Tây bằng những tư tưởng mới trong tín ngưỡng Công Giáo.) sau này. Khi một cộng đồng giáo sĩ nào đó hoạt động được một thời gian dài, họ sẽ tích cóp được nhiều tiền của và dân chúng lại bắt đầu phẫn uất. Hiện các thầy tu của Rắn Chuông Sao đang rất được lòng những kẻ đã từng bị tước đoạt. Thời gian “im lặng” sẽ bắt đầu sau sáu ngày nữa tính từ ngày hôm nay, tức là năm ngày trước thời điểm nhật thực. Trong suốt thời gian đó, thành phố sẽ tắt hết đèn đuốc, tất cả các đống lửa sẽ bị dập, kể cả những đống lửa lớn trên đỉnh kim tự tháp. Mặc dù cứ đều đặn năm mươi hai năm lại có một lễ “im lặng”, nhưng lễ lần này không nằm trong lịch trình đó, vì thế nó càng đáng sợ hơn. Năm ngày đó sẽ không được bảo trợ bởi bất cứ người khối thiện hay vị tổ tiên nào, chẳng có ai hết vì chúng không phải những ngày có thật và được đặt tên mà chỉ là sự sai sót của vũ trụ mà thôi. Người dân sẽ cảm thấy chìm đắm trong cơn ác mộng của thời gian vô định, phó mặc cho các uay lạnh lùng và xấu xa . Rất nhiều người mong vượt qua thời khắc bằng cách ” đi trên tấm lưng trắng của Rắn Chuông”, tức là cầu xin sự bảo vệ của nó khi tất cả các vị thần khác đã bỏ rơi họ. Nói tóm lại, điều đó sẽ khiến việc diện kiến công nương Koh trở nên khó khăn hơn. Chúng tôi phải lên đường ngay lập tức.

Tuy thế, bất chấp tất cả những chuyện này, 14 chẳng lo lắng chút nào. Thực ra, hắn tỏ vẻ thờ ơ. Chắc đầu óc hắn đã ngấm đầy cái thuyết hoang đường về sự trường tồn vĩnh viễn của Teotihuacán. Dĩ nhiên, đúng là nơi này có ổn định hơn các thành phố Maya thật. Các ahau Maya cứ tuần tự vài năm một lần gây chuyện nhặng xị khiến việc quản lý cứ thay đổi luôn luôn, do hậu quả của thoái vị hay tiếm quyền, hoặc nơi xảy ra chuyến sẽ bị coi là ô uế và bị bỏ hoang. Teotihuacán thì khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ tồn tại mãi mãi .

Bị thương 14 dừng lời. Cá Sấu 12 im lặng. Cả ông ta lẫn Hun Xoc và tôi , không ai nhắc lời nào đến công nương Koh. Chúng tôi cũng ra lệnh cho Bướm Đêm 3 không nói với đoàn hộ tống rằng hắn đi đâu.

Mới đây, 14 nói tiếp, lính của Nhà Báo Sư Tư bắt đầu sách nhiễu những ngưòi cải đạo trên đường từ chợ đến Ciudadela (Một khu vực khép kín của Teotihuacán còn tồn tại đến ngày nay, được coi là nơi thực hiện các nghi lễ tôn giáo) – nơi hội họp của Hội Rắn Chuông – và cách đây hai ngày, một gia đình cải đạo đã bị giết hại. Thân nhân của họ đang đòi Nhà Báo Sư Tử bồi thường và thiên hạ đồn rằng thị tộc Bướm Đuôi Nhạn đã phá bỏ giao kèo của họ với các thần mưa.

Vậy là, với tất cả mọi chuyện đang xảy ra, “nuốt ánh sáng” – tức hiện tượng nhật thực sẽ tới trong mười một ngày nữa- sẽ là thời điểm nhiều rủi ro.

Im lặng. Cá Sấu 12 nhìn Hun Xoc, sau đó nhìn tôi, cái nhìn đáng sợ của người quen chỉ huy, nhưng không nói năng gì. Chúng tôi cũng vậy.

-Ngài , bên cạnh tôi, ngài đã từng dâng lễ cho cha ông chúng ta cùng công nương Koh chưa? – Cá Sấu 12 hỏi. Theo những gì chúng tôi được biết, bà ta không chỉ bị giam giữ tại nơi ở. Cá Sấu 12 muốn chắc chắn rằng bà ta còn sống.

Bị Thương 14 không trả lời thẳng. Thay vào đó, hắn nói hắn và những ngưòi khác của nhà Đại Bàng ở Teotihuacán từng trông thấy bà ta tại các đám rước của Rắn Chuông Sao, bà ta hẳn phải là tay hùng biện có hạng, và gần đây có những tin đồn rằng bà ta đang thu thập nhiều tín đồ của riêng mình trong số hàng trăm người gia nhập Hội Rắn Chuông Sao mỗi ngày.

– Thiên hạ đồn rằng bốn mùa chiến tranh trước, một kẻ đã lên án bà ta trước giáo hội Báo Sư Tử, và đêm hôm đó, một con bọ cạp đã bò vào nhà, cắn cho hắn một phát khiến con ngươi bật ra và hắn thành thằng mù. – Hắn kể rằng bà ta đã tiến đóan trước được trận lụt xảy ra cách đây ba mùa, và rằng bà ta chỉ gặp mặt những người đứng đầu dòng họ quý tộc theo đạo Rắn Chuông và không xem bói cho bẩt cứ ai khác, rằng bà ta có hai người vợ, và rằng bà ta có thể ” đọc được k’atun chưa ra đời”, nghĩa là bà ta có thể nhìn vào tương lai hai mươi năm sau. – Bà ta còn nói chuyện được với nhện, sai khiến chúng dệt những tấm mạng nhiều màu hoặc xe dây thừng nữa.

Tôi nhìn sang Hun Xoc. Nó nhìn xuống – một kiểu nhún vai của người Maya – ý nói “ừ, cũng có thể đấy. Chuyện lạ nhý thế vẫn xảy ra mŕ”.

– Và hai Giáo hội lớn không tin tưởng bà ta, – 14 nói.

Xem ra công nương Koh là người có vị trí cao , tuy chưa phải đứng đầu, một hội hay nói cách khác là một dòng tu gọi là Những Đứa Con Của Nhện Dệt Cầu Vàng. Họ là những người phụ nữ vì lý do tín ngưỡng, có thể ăn vận như nam giới, hành động và phát ngôn như nam giới. Tôi nghĩ chúng ta có thể gọi họ là những người ” bận y phục khác phái”, chỉ có điều cái tên này làm cho người ta tưởng nó chỉ là một hành động. Ái (Nguyên văn: “epicine”, từ dùng để chỉ những người đống tính nam hoặc nữ có xu hướng quá nữ tính) chăng? Không, nghe hơi nữ tính quá. Hừmm. Trong nhiều sách vở người ta vẫn hay dùng từ “đồng tính” (Nguyên văn “berdache”, khái niệm chỉ những người nam giới đóng vai trò của cả hai giới trong những công việc hoặc nghi lễ mà nữ giới không được tham gia, tồn tại ở rất nhiều nền văn hóa bản địa Bắc Mỹ), nhưng từ đó chỉ dành riêng cho nam giới ở các nền văn hóa dành cho người da đỏ Bắc Mỹ. Có lẽ chúng ta nên gọi họ đơn giản là những ngưòi đồng giới . Mặc dù từ đó nghe có tính sinh học quá, nhưng thôi kệ . Nói tóm lại, Koh và tất cả các nữ tư tế khác của dòng Nhện Dệt Cầu Vàng cũng như các thầy tế nam giới của Rắn Chuông đã bị giữ làm con tin suốt hai tunvừa qua. 14 không dùng cách diễn đạt này, nhưng tôi có cảm tưởng rằng họ bị lính nhà Báo Sư Tử giam giữ tại nhà.

Có tiếng huýt sáo của một người đưa tin. Cá Sấu 12 huýt sáo đáp lại, nghĩa là “ngươi được phép vào”. Hắn khom ngưòi bước tới và thì thầm với Cá Sấu 12. Cá Sấu 12 ra hiệu cáo lỗi và đi ra ngoài. Tôi đi theo ông ta vào một hành lang nhỏ. Ông ta quay lại và nói nhỏ với tổi rằng Bướm Đêm 3 vừa về, hắn nói: “cây gậy tuyết tùng đã gẫy”, nghĩa là công nương Koh sẽ không gặp chúng tôi.

48

Cá sấu 12, Hun Xoc và tôi gọi Bướm Đêm 3 đến, đưa hắn và vệ sĩ của hắn tới phòng kho, chính căn phòng có những hũ muối lần trước, để nghe đầu đuôi câu chuyện. Với mọi nỗi khó nhọc của việc đi lại trong thành phố, chắc hắn đã phải chạy ba dặm đi và ba dặm về, bây giờ còn ướt đầm mồ hôi và cố lắm mới không thở hổn hển, Ánh nắng chiếu xiên qua ô cửa trên trần với một góc rất hẹp. Khoảng bốn giờ chiều. Khá muộn rồi. Bướm Đêm 3 nói hắn chắc chắn rằng công nương Koh đã nhận tận tay bức thư. Bà ta đã gửi trả lại số lông chim cùng một món quà trị giá gần tương đương để chúng tôi không cảm thấy bị xúc phạm. Những người gác cửa của bà ta trả lời rằng tất cả những đứa con của Nhện Dệt Cầu Vàng “đều đang bận nuôi Người Nuốt ánh Sáng”, tức là họ đang nhịn ăn trước ngày nhật thực.

Cá Sấu 12 thường tự ra mệnh lệnh, nhưng lần này, ông ta hỏi tôi xem tôi muốn làm thế nào.

Tôi đáp rằng chúng tôi sẽ vẫn đến đó.

– Chúng ta sẽ gửi một món quà cảnh báo có giá trị tương đương, – tôi nói,- tương đương, hoặc lớn hơn.

Chúng tôi sẽ phải lên đường gấp. Tôi phái Hun Xoc đi lấy một vài thứ trong gói đồ quý nhất.

– Ở đó đông lắm, – Bướm Đêm 3 thông báo. Hắn bảo chúng tôi rằng nếu muốn đến đó, chúng tôi nên đi theo hướng nam, bám càng sát trục đường chính càng tốt. Họ đang dẹp bọn tiện dân ra khỏi khu teocalli cho nên ở đó vắng vẻ hơn. Nhưng hình như những người thuộc giới quý tộc được phép ở đó, chí ít cho tới khi mặt trời lặn. Cá Sấu 12 khen hắn làm rất tốt. Hun Xoc quay lại với một ôm đầy quà cáp.

Tôi chọn lấy hai món. Món thứ nhất là một chiếc mũ lông vẹt đuôi dài màu xanh lá cây. Nó trị giá gần hai trăm mười tên nô lệ trẻ, tức là bằng cả số tiền tiêu cho phần còn lại của cuộc hành trình này. Chậc, nếu Sọ Đá Quý 2 có mang công mắc nợ vì nó thì đấy cũng chỉ là rắc rối nhỏ nhất của ông ta. Chúng tôi sẽ biếu nó cho Hội đồng Rắn Chuông Sao chứ không phải công nương Koh, họ sẽ phải nhận và đốt nó trên ban thờ. Điều đó sẽ buộc bà ta phải đích thân cảm ơn chúng tôi. Món thứ hai là một chiếc bình nhỏ màu trắng đựng đầy một thứ nhìn như những chiếc lá khô nhỏ xíu, chỉ bằng con tem Jefferson năm xu số bảy mươi sáu. Chúng rất cân đối với đường viền hình răng cưa, màu hồng tươi điểm những vệt đen lộn xộn như mặt nạ của Rorschach (nhân vật chính trong loạt truyện Watchmen, luôn đeo tấm mặt nạ trắng với những vết đen loang lổ). Đó là da sấy khô của một giống ếch phi tiêu đỏ có độc trong rừng sương mù ở Ix. Chúng báo hiệu sự nguy hiểm, cụ thể là thông điệp cảnh báo: “hãy cẩn thận, chuẩn bị sẵn phi tiêu đi”.

Tôi hỏi Cá Sấu 12 rằng liệu những miếng da này có thể hiện sự thù địch không. Ông đáp rằng không. Những món quà này đều có ý nghĩa tương đối nhất định, và một chiến binh già như ông ta thì chưa có món nào là chưa từng thấy. Chúng tôi đậy cái bình lại. Nó là một chiếc bình mới với hình chạm khắc nhìn nghiêng của hai vị tổ tiên chung của Sọ Đá Quý 2 và Koh, với ẩn ý rằng chúng tôi đang nhắc nhở Koh về nghĩa vụ của bà ta đối với dòng tộc.

– Tôi muốn thêm vào một đoạn cuối, – tôi nói.

Cá Sấu 12 nhìn tôi. Tôi giải thích rằng tình thế này đủ nghiêm trọng để chúng tôi tiết lộ một chút bí mật.

Tôi đọc:

“4 Ahau: ajitonxa pochtal Tamoan …

Vào b’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tư, tun thứ mười sáu, unial thứ không [tức tháng 8 năm 530 Công nguyên], Lươn Trắng [tức sao chổi Halley] cháy trên đầu chúng ta.

B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tám, tun mười ba, unial mười một [tức tháng 2 năm 674 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.

B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ mười hai, tun mười một, unial thứ ba [tức tháng 4 năm 684 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.

Trước unial thứ mười bốn của tun thứ mười chín, k’atun mười hai, b’ak’tun thứ mười [tức một thời điểm nào đó trước tháng 1 năm 692 Công nguyên]. Teotihucán sụp đổ, hoang phế.

Hết.

Những ngày tháng trên đều không được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg hay trong bất cứ bản ghi chép cờ hiến tế nào khác mà tôi biết qua Sọ Đá Quý 2, nhưng chúng đều là những sự kiện xảy ra thật. Sọ Đá Quý 2 cũng đã cho tôi biết rằng ở đây mọi người đều biết sao chổi Harley, hiển nhiên thôi, nhưng chưa ai đoán được chính xác những lần xuất hiện của nó, kể cả dùng cờ Hiến tế hay bất cứ cách nào khác. Tôi nói với ông ta rằng điều đó cũng chẳng có gì là lạ vì chu kỳ xuất hiện của nó rất không đều. Thậm chí phải dùng đến nhiều thiết bị hiện đại mới có thể dự báo được trước hai năm, và chỉ đến những năm 1960 người ta mới bắt đầu nắm bắt được nó. Koh hẳn sẽ rất tò mò. Phải vậy không?

Tôi bắt Bướm Đêm nhắc lại. Hắn đọc chính xác ngay từ lần đầu. Chúng tôi sai hắn đi.

– Chúng ta sẽ không chờ hồi âm, – tôi đáp, – tôi sẽ cho bà ta bốn ngàn nhịp (một cách nói ám chỉ khoảng một giờ đồng hồ) và sau đó chúng ta sẽ đứng ngay trước cửa.

Cá Sấu 12 có vẻ hơi ngờ vực điều này, nhưng đó là việc riêng của tôi nên ông ta không nói gì.

Hun Xoc, Ngọc Giá Trái – con trai 14 – và tôi đi qua một lối sân trống. Các vị khách khứa của gia đình 14 đã thu dọn chỗ nằm nghỉ trên mái nhà, chúng tôi bước qua người họ, leo xuống một con hẻm nhỏ ở phía bắc và nhằm thẳng hướng đông tới trục đường chính.

– Chúng ta nên im lặng, – Hun Xoc nói. Nó không muốn bất cứ ai nghe thấy chúng tôi nói tiếng Ix. Tôi nhất quyết đòi đeo mặt nạ thay vì khuyên mũi, cái thứ khiến tôi phát rồ lên – không có gì tệ hại bằng những cơn đau nhói. Chúng tôi khoác lên người những tấm áo choàng theo kiểu địa phương với họa tiết hình bọ cạp đỏ và xám có đính hạt, điều đó có nghĩa là chúng tôi dẹp nghĩa vụ đối với thị tộc sang một bên và chỉ đơn giản đi cúng cầu mưa cho cả thành phố. Như vậy, không ai có thể nhận ra chúng tôi thuộc gia tộc nào. Thế nhưng, chúng tôi vẫn chưa bắt chước được đúng điệu bộ của người Teotihuacán. Việc này có thể dẫn đến rắc rối không nhỏ nếu chúng tôi bị bắt giữ. Tôi nhìn quanh. Có vẻ như chúng tôi đã qua mặt được bọn do thám, nếu có thể gọi là do thám, vì chúng chẳng hề kín đáo chút nào. Tôi nghĩ cảnh này cũng giống ở nước Nga Xô-viết cũ vào những thập kỷ cuối cùng, khi ai cũng biết mặt tất cả, hoặc phần lớn, những kẻ theo dõi. Có lẽ chúng bị quá tải vì những đám đông không ngừng đổ về thành phố. Sự lộn xộn sẽ có lợi cho chúng tôi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng có làm chuyện gì phản loạn đâu, phải vậy không? Ý tôi là chưa thôi.

Chúng tôi rẽ phải, vào một ngõ hẹp tối âm âm như những lối đi dạo giữa hai hàng cây ở Trung Đông. Nó rộng chừng năm sải tay và gần như song song với trục đường chính, cách một khu nhà, vì vậy, về mặt không gian, chúng tôi như đang đi trên đại lộ Madison (Madison: một đại lộ ở thành phố New York, Mỹ)(chỉ có điều hẹp hơn rất nhiều) và cứ đến mỗi ngã rẽ lại nhìn thấy công viên Trung tâm. Chúng tôi đang đi theo đường khác với đường Bướm Đêm đã đi. Lúc này chắc hắn cũng vừa đến nơi. Cứ cho bà ta chút thời gian nghe hắn trình bày đã. Nghe và khóc thét lên. Tôi nhìn thấy một con rắn nước lớn đang phơi nắng trên một bờ tường thấp. Dân tình ở đây khá kỹ tính về việc không làm phiền những con rắn có vảy, cũng như ở Ấn Độ người ta không làm phiền khỉ nuôi trong đền hay những con quạ thiêng. Có cái lợi là ít chuột bọ và lắm người chết vì rắn cắn, điều thứ hai được coi là có lợi vì người ta thổi phồng lên rằng như vậy là Rắn Chuông Sao đã gửi một đứa con của ngài đến để đưa uay của anh lên tầng trời thứ mười ba.

Đi thêm hai “tòa nhà” về hướng nam, chúng tôi đã vượt qua một đường ranh giới vô hình để vào khu người Teotihucán bản xứ. Khu bắc – tây bắc mà chúng tôi vừa rời khỏi là nơi đặt những trú quân giàu có nhất của người Maya, nhưng những ngôi nhà vẫn nhỏ hơn, cũ kỹ hơn và có cái không khí đặc trưng Maya. Theo tôi nó giống khu vực giành cho cộng đồng chiếm thiểu số mà bất cứ thành phố nào cũng có. Ta hãy tiếp tục so sánh với thành phố New York, nó giống như đi dọc phố Mulberry và qua khu ranh giới với khu Trung – Ý bên bờ kênh. Một tốp ba gã Quá-Cao bộ dạng lồng ngồng; từ trong một đường ngách có mái che ló đầu ra, chúng đang bước vào nơi không được phép. Hun Xoc vội lao vào chắn giữa chúng và tôi. Tôi nhìn nó qua tấm mặt nạ, tỏ ý cảm ơn.

Không có gì, – ánh mắt Hun Xoc trả lời.

Cậu biết đấy, – tôi tiếp tục ra hiệu, – tôi không tin gã Ngọc Giá Trái này.

Đừng lo, – Hun Xoc đáp, – chúng ta sẽ không cho hắn biết điều gì hết. Và tôi sẽ canh chừng hắn như thằng trộm.

Đến quãng này, nhà cửa mỗi lúc một mới và to hơn. Tối thiểu là hai tầng, phần dưới xây bằng đá trát thạch cao, phần trên là gỗ ván, cũng trát thạch cao. Các thương lái và người hành hương, luôn đi thành từng tốp ba người hoặc hơn, ngang qua chúng tôi, ra dấu chào hỏi lặng lẽ. Tất cả đều có bộ dạng len lén như thể ai cũng có một cuộc hẹn kín như chúng tôi. Chúng tôi đi qua một toán phuhót phân, họ cúi gập mình kính cẩn quanh chúng tôi, trên lưng là những cái vại lớn bốc mùi kinh tởm. Từng tốp năm tên lính của nhà Báo Sư Tử đi nghênh ngang giữa đường giữa lối. Chắc chúng muốn bắt bớ hoặc thậm chí xô vào nhà người ta để tịch thu bất cứ thứ đồ đạc nào có thể coi là phô trương.

Thành phố này có cái không khí im ắng kỳ lạ. Ở các thành phố Maya, luôn có tiếng người hát hò, còn ở đây, tôi đoán các bài hát chỉ được cất lên vào những dịp nhất định. Vì thế, anh có thể nghe thấy cả tiếng bước chân nện xuống, tiếng chim chóc, đôi khi cả tiếng đá lửa cành cạch và tiếng rền rĩ của cưa đá xẻ vào gỗ, nhưng ngoài ra chẳng còn mấy tiếng động gì khác; những bức tường đá dày tạo thành tiếng dội khiến mọi tiếng động hòa vào nhau thành một thứ âm thanh nghe lóc bóc như có nước. Xem ra đến một nửa số người đi trên đường đều đeo khuyên mũi, nửa còn lại, có lẽ thuộc tuýp truyền thống hơn, thì đeo mặt nạ hoặc che mạng. Như nhau cả, – tôi nghĩ bụng. Tôi bắt đầu thấy có cảm giác mệt mỏi vì phải nhìn quá nhiều bộ mặt. Chúng dần trở nên giống hệt như nhau và chẳng còn gì là thú vị nữa. Mặt nạ nào cũng như mặt nạ nào, làm từ thạch cao hoặc một loại bột giấy bằng ngô nào đó của địa phương, trơn chuội, dửng dưng, trắng đục, điểm cặp mắt hình hạnh nhân, với tất cả sự vô hồn của một khuôn mặt không biểu lộ tình cảm, không tuổi tác, không giới tính, không sắc tộc, không sống cũng không chết. Cho nên, với tất cả những tấm mặt nạ, áo choàng dài, sự yên ắng và không cây không cỏ này, thứ tự nhiên duy nhất mà anh có thể nhìn thấy từ mặt đường là bầu trời đang đổi màu trên đầu anh và thi thoảng một chiếc cầu nhỏ bắc qua con rạch.

Khi đến mé nam kim tự tháp Bão Lốc, chúng tôi rẽ trái, hướng về trục đường chính. Năm tên lính nhà Báo Sư Tử thảnh thơi đứng gác, Ngọc Giá Trái trao đổi với chúng bằng tiếng Teotihuacán đều đều không ngữ điệu. Chúng nhận ra hắn và để chúng tôi đi qua.

Đám đàn bà con gái đi đâu hết nhỉ? – tôi thắc mắc. Dĩ nhiên, đây là khu vực hành lễ nên nó bị cách ly. Nhưng ngay cả trên các con phố nhỏ bên cạnh cũng khó lòng thấy bóng dáng phụ nữ, cả con nít cũng không nhiều. Hệt như một thành phố đạo hồi, nơi phụ nữ quý tộc được coi là quá cao quý để được ra khỏi nhà. Hoặc ít ra cũng là cách họ tự giải thích về sự tù túng của mình. Cái thành phố này làm mình phát khó chịu, – tôi nghĩ bụng, – không, không đời nào mình muốn sống ở đây.

Nơi này đồ sộ thật, nhưng vẫn không giống cái mà người ở thế kỷ 21 coi là thành phố. Nó giống nhiều ngôi làng tập hợp lại hơn. Anh có thể sống ở đây cả đời mà chẳng bao giờ bước chân sang khu nằm sát bên cạnh. Mà nếu anh làm thế thì chẳng khác nào tự tiện bước vào phòng khách của một ngôi nhà không quen biết. Và nếu anh cứ nhất quyết làm thế, anh sẽ phải bỏ ra ít thì giờ để chuyện trò với bất cứ người nào mà anh tình cờ gặp đầu tiên, rằng anh là họ hàng nhà ai, nghe xem họ hàng nhà anh ta là ai, và nếu các anh không thể moi ra được một người họ hàng chung nào thì anh ta sẽ tẩn cho anh một trận. Mà thực ra người ta cũng chẳng có lý do gì để ra khỏi khu vực sinh sống của mình. Làm gì có nhà hàng ăn – khái niệm này còn chưa xuất hiện – cũng không có cửa hàng mà chỉ có những bãi chợ. Không rạp hát, trừ khi anh tính những buổi trình diễn có tính chất tôn giáo trên một vài quảng trường mà chỉ những người quen biết mới được vào xem. Không có bất cứ trò giải trí nào, trừ khi anh tính việc đến nhà họ hàng chơi và nghe hát hỏng trong sân nhà anh ta, ừ, cái đó tính thì cũng được thôi. Nhưng chắc các bạn cũng hiểu ý tôi muốn nói gì rồi. Họ chẳng có chuyện đi ra ngoài đơn giản chỉ để xem một buổi trình diễn. Nói đúng ra, họ chẳng bao giờ đi ra ngoài. Họ không ra ngoài đi dạo. Họ không đi ra ngoại ô hít thở khí trời trong lành vào dịp cuối tuần. Họ không đưa trẻ con đến trường. Mà cũng chẳng phải vì họ bận lao động cả ngày. Tôi thấy họ toàn lo những chuyện nghĩa vụ với gia đình, với dòng tộc, với thị tộc, với một nửa xã hội mà họ thuộc về, với hàng đống các vị thần bảo trợ, với người sống, với người chưa được sinh ra và đặc biệt là với những người đã chết. Họ làm những việc mà chúng ta, tức là người ở thế kỷ 21 chúng ta, gọi là lễ lạt. Thế nhưng, đối với họ, đấy lại là những việc có ý nghĩa thực tế. Vấn đề nằm ở chỗ thành phố này chẳng có chút không khí giải trí vui vẻ nào, nó nghiêm cẩn và sùng tín hệt như Jerusalem. Cũng có thể đó chỉ là không khí mộ đạo được lan truyền khắp nơi bởi những người hành hương. Và cũng như Jerusalem, nó quá đỗi đông đúc và cáu bẳn. Anh có thể khẳng định rằng ở đây có nhiều hệ thống tín ngưỡng xung khắc nhau.Và anh gần như có thể cảm nhận được – nếu không sợ mình đang suy diễn – rằng cũng như những thành phố khổng lồ khác, thành phố này đơn giản là đã tồn tại quá lâu và đang thối rữa ra từ bên trong. Tôi ở Ix chưa được bao lâu, vậy mà cũng cảm thấy nhớ nó. Mặc dù rất tôn ti trật tự nhưng các thành phố Maya luôn có không khí hội hè và đến chỗ nào anh cũng có thể nghe tiếng ai đó đang cười. Còn cái chỗ này thật khắc khổ, bất chấp đủ thứ chim chóc, hoa hoét và kim tự tháp.

Chúng tôi chen lấn ra được đến giữa quảng trường.Trong một giây, tôi thoáng cảm thấy một trường lực phát ra từ kim tự tháo Phù Thủy xuyên qua mình, tôi đứng sững lại như bị chóng mặt. Hun Xoc khẽ đập vào người tôi và tôi theo thằng bé đi về hướng nam. Đám đông dày đặc nhưng không tắc lại một chỗ. Đường có bậc thang như thường lệ. Chúng làm tôi không hết hơi nữa – tôi đã qua giai đoạn ấy rồi – nhưng cứ leo lên leo xuống mãi cũng gây mụ mẫm đầu óc. Những dải màu tối và sáng trên các bức tường và vỉa hè tạo ra một thứ ảo giác như nghệ thuật ảo thị, vì thế, anh chẳng còn phân biệt được chỗ nào cao, chỗ nào thấp, các bức tường gần hay xa hay bậc tiếp theo ở chỗ nào. Giống như nếu anh sơn những đường ngang lên cầu thang, người đi xuống sẽ bước hụt và lộn cổ. Marena chắc sẽ thích lắm đây, – tôi nghĩ, – phải kể cho cô ta biết mới được.

Coi chừng nhé, – Hun Xoc ra hiệu cho tôi. Tôi sải bước gấp gáp lộ liễu, phía trước lại có lính của nhà Báo Sư Tử đi tới và nó muốn tránh xa chúng. Chúng tôi rẽ sang tay trái, vào một cái chợ trời bán đồ thờ – tôi nghĩ dùng từ này là chính xác bởi nó được dựng lên để mua bán các loại tượng thờ, thuốc thang, nô lệ, dao, bùa ngải, đại loại là những thứ mà hồn vía có ít nhiều quyền năng. Nhưng chúng tôi chẳng có thời gian đâu mà sắm sửa. Chúng tôi rẽ trái, thẳng hướng Ciudadela, sân đền của Rắn Chuông.

Nó vừa uy nghi lại vừa cởi mở, lớn hơn và hoàn thiện hơn bất cứ quảng trường nào khác, được tôn nền cao hơn mặt bằng chung của thành phố, với mười hai bục lớn và ba phía đều có những cầu thang rộng cao ba mươi mốt bậc. Chả thế mà người Tây Ban Nha tưởng nó là một pháo đài. Ở góc phía đông, một phần ba đỉnh trên của kim tự tháp Rắn Chuông nhô lên sau một bức tường cao chướng mắt. Hình như hai Giáo hội lớn đã đe dọa tăng sưu thuế đối với Rắn Chuông Sao nếu họ không xây cái chướng ngại vật ấy. Chắc họ nghĩ nếu làm nó bớt đường bệ đi thì sẽ ít người cải sang đạo này hơn. Thế nhưng tác dụng nếu có thì chỉ là ngược lại. Nó đông nghìn nghịt và hiển nhiên là đền thờ được nhiều người lui tới nhất thành phố. Chúng tôi len qua, đổi hướng nam sang đông nam, đến một nơi mà người ta chỉ thấy những mái nhà lỗ chỗ châu mai của kho chứa đồ thờ ở góc nam kim tượng tháp. Một trong số đó là nơi ở của Nhện Dệt Cầu Vàng. Đám đông đầu tiên chúng tôi đi ngang qua lại là một toán hai mươi tên lính của nhà Báo Sư Tử. Xem ra chúng đứng đông hơn ở khu vực này để canh chừng các Rắn Chuông. Tiếp đến là là một lô các bà già. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy phụ nữ ngoài đường mà không có đàn ông bên cạnh. Không như các quảng trường ở phía bắc, sân đền này có cái không khí hỗn tạp, tức là có rất nhiều kẻ rách rưới. Bị Thương 14 nói rằng những đứa con của Lươn Giời quản lý mọi công việc cứu tế lẫn xét xử ở đây, song nó vẫn giống một quảng trường công cộng hơn một không gian tôn giáo. Không có quầy hàng, cũng không ai trao tay nhau hàng họ gì, nhưng chẳng cần bảo ai, tôi cũng biết đang diễn ra rất nhiều vụ làm ăn buôn bán: bọn cò mồi đổi chác đang thỏa thuận với nhau, những tay kế toán với bàn tính trong tay kiểm tra lại các phép cộng, một gã đặt cá cược thuê đang đặt cược. Các thành phố thời xưa luôn tận dụng không gian công cộng. Để buôn bán mà không có tiền hay điện thoại thì anh nhất định cần đến một nơi tụ tập, cần đến quảng trường và bãi chợ. Chúng tôi đi ngang qua một đám thanh niên chơi taxac, một trò chơi đọc miệng phức tạp, và kak, một trò chơi bằng tay. Tôi nhận ra vỉa hè dưới chân mình đã chuyển sang màu đen, và khi chúng tôi đi ngang qua bàn thờ lớn ở chính giữa, nó lại chuyển thành màu vàng, rồi đỏ. Nó được sắp đặt theo hình bàn cờ Hiến tế với màu sắc rất tươi sáng, một loại thuốc nhuộm nào đó – tôi đoán thế – được tưới lên nền đá vôi. Chúng tôi gặp hai thầy bói Rắn Chuông đội mũ màu xanh da trời đang lượn quanh đám đông và trả lời các câu hỏi. Tinh thần truyền giáo đây mà, – tôi nghĩ. Chúng tôi đi vòng qua những tốp người quỳ dưới các chảo lửa, dâng cúng cho Rắn Chuông, hoặc qua Rắn Chuông gửi đến cho những người thân đã khuất, các vị tổ tiên còn hoặc không còn tên tuổi. Tôi thấy đa phần những người từ nơi khác đến đều có vẻ là trưởng làng. Mỗi người thay mặt cho một vài trăm nông dân ở những đâu thì có trời mà biết. Ngọc Giá Trái nói trận hạn hán vừa rồi đã đưa người lên với Lươn Giời, tức Rắn Chuông Sao, nhiều chưa từng thấy. Hắn nói thêm rằng hai giáo hội Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn đều có những người đếm mặt trời riêng, nhưng người của Hội Rắn Chuông Sao vẫn được coi là giỏi nhất. 14 từng giải thích nguyên do là vì họ biết viết và đã tích lũy được cả một thư viện lưu giữ những ngón nghề tinh túy nhất, nó quá đồ sộ để một người, thậm chí một nhóm người có thể ghi nhớ hết. Một vài trong số họ là người Maya di cư đến, giống như công nương Koh, vì vậy, họ đã duy trì tốt cái ốc đảo cô lập của sự biết đọc biết viết này. Nghe đâu chính nhờ cách dùng nhiều thứ tiếng trong các buổi lễ của mình, Koh đã thu hút được những người từ xa đến như tộc người Quá-Cao chẳng hạn. Rắn Chuông không kỹ tính, Ngọc Giá Trái nói, và họ không đòi hỏi lễ vật sang trọng, chỉ cần bạc hà, khói thuốc lá, âm nhạc và một vài lọn tóc của anh là đủ.

Tiếng trống nổi lên. Đám đông di chuyển chậm dần rồi dừng lại.

Tiếng vọng của những hồi trống dội lại từ khắp nơi trong thành phố, và anh có thể nghe thấy nó lan tiếp vào tận trong núi và xa hơn nữa. Nhịp trống này chúng tôi chưa từng được nghe, nó vang lên năm hồi một, báo hiệu điềm xấu sắp tới.

– Họ nói đường vào thành phố đang được đóng lại, – Ngọc Giá Trái thông báo, – sớm hai ngày.

Vậy là thành phố đã bị phong tỏa cho lễ vọng, chẳng ai ra vào nữa.

Mẹ kiếp, – tôi rủa thầm. Tôi nhìn sang Hun Xoc. Thôi, chúng ta kẹt lại đây rồi, – ánh mắt nó trả lời, – phải cố làm cho thật tốt thôi.

Tiếng trống dứt, đám đông quay lại việc mình, càng vội vã và lặng lẽ tợn. Đồ phải gió, – tôi nghĩ bụng. Tôi đã nghĩ đến chuyện thó ở đâu đó vài “bi” thứ thuốc kia và biến luôn khỏi cái thành phố chán ứ này trước lúc lễ vọng. Bây giờ thì thôi rồi.

Chúng tôi len lỏi xuống các bậc cầu thang chật cứng. Lính gác nhà Báo Sư Tử nhìn chằm chằm vào chúng tôi từ cả hai phía nên tôi cứ phải cúi gằm mặt xuống và chỉ dám liếc nhanh một cái lên kim tự tháp Rắn Chuông. Nó được xây dựng sao cho nhìn như đan từ thân của hai loài rắn khổng lồ, hay đúng hơn, từ hai diện mạo khác nhau của Rắn Chuông: đó là Rắn Biển với hình dáng uốn lượn và tự nhiên hơn, và Lươn Giời, được cách điệu và góc cạnh hơn, với cặp mắt xanh giương tròn của thần mưa Chaak và những chiếc nanh to đều nhau. Hội nữ tư tế của Koh sống tại một trong hai khu nhà ở góc nam sân đền, khu còn lại dành cho các thầy tế nam giới. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì không thể phân biệt được khu nào dành cho ai. Chúng đều được xây theo kiểu cổ, bằng gỗ, trát thạch cao phẳng mịn, gần như không có cửa sổ, chỉ thi thoảng có những kẽ hở; mặt tiền được sơn xanh nước biển thay vì màu da cam phổ biến ở nửa này của thành phố. Các cánh cửa ra vào nhỏ xíu, chạm khắc những hình thù khuôn mặt ghê sợ, nhưng vẫn không lộ vẻ phô trương. Hầu hết cửa chính đều có một hai người ngồi gác. Họ thường xuyên ngồi đấy hay mới từ khi mọi chuyện tồi tệ đi? Các bầu đoàn ăn mày, người Teotihuacán, người Quá-Cao và đủ hạng người khác bu chật ních con hẻm. Họ không có chăn chiếu, cũng chẳng có đống lửa nào. Họ cứ ngồi đấy, hoặc túm tụm lại với nhau, run rẩy. Chả trách Koh không muốn gặp chúng tôi. Bà ta xua đi còn chẳng hết.

Chúng tôi bước qua họ, vài lần dẫm cả lên. Một vài người cũng có kêu ca một tý, nhưng đẳng cấp xã hội cho phép chúng tôi bình yên vô sự, dù có làm gì họ đi chăng nữa. Chúng tôi là quý tộc, còn họ chẳng đáng một xu. Ngọc Giá Trái dẫn chúng tôi đến một trong hai tòa nhà, nhưng không qua cửa, mà chỉ đến cạnh cửa. Ở đây người ta không gõ cửa. Như thế thô bạo quá. Anh chỉ được huýt sáo khẽ hết mức có thể hoặc cứ đứng đây chờ cho đến khi có người đi ra. Nhưng có ba tên dvornik (người gác cửa nhà riêng- tiếng Nga) đang ngồi chồm chỗm ngay trước lối vào sân, chơi patolli (một trong những trò chơi cổ xưa nhất của người châu Mỹ bản xứ, phổ biến khắp vùng Mesoamerica) theo lối bài bạc trên một bàn cờ bằng vải hoen ố. Cả ba đứng dậy. Chúng tôi tự giới thiệu. Chúng không muốn vào trong và bảo chúng tôi rằng không ích gì đâu, nhưng Ngọc Giá Trái hình như đã ban cho chúng ít ân huệ gì đó khi đến đây lần trước, vì thế, hắn lôi được chúng vào cuộc tranh luận rằng dù quan hệ họ hàng của Koh với chúng tôi cách đến năm phát đại bác, nhưng điều đó không có nghĩa là bà ta muốn người ta xì xào rằng bà ta “đốt bệ lò sưởi”, tức là vi phạm các quy tắc hiếu khách. Đúng không nào?

Chúng bảo tôi đứng đợi. Một tên đi vào. Tôi có cảm giác hệt như hồi cuối năm 1989, khi bọn tôi nài nỉ Armando, lão gác cửa câu lạc bộ Nell’s (một câu lạc bộ đêm nổi tiếng ở Manhattan).

Chúng tôi đứng chờ. Thật chẳng ra đâu vào đâu cả, – tôi nghĩ. Biết đâu Koh cũng chỉ là một kẻ tay mơ. Đôi khi chính tôi cũng nghi hoặc điều này, nghĩa là tôi băn khoăn với một câu hỏi hết sức hiển nhiên rằng: Sao có thể có chuyện cờ Hiến tế đầy quyền năng đến vậy mà những người đếm mặt trời không thống trị được cả thế giới?

Dĩ nhiên, có một câu trả lời là họ thống trị thế giới của họ. Họ thực sự cai trị cả vùng này và tất cả các vùng còn lại của Mesoamerica, tuy vẫn để các thị tộc hậu duệ mèo nắm quyền lực chính trị. Tôi nghĩ điều mà tôi thực sự phân vân là vì sao trò chơi này chưa và cũng sẽ không du nhập sang nơi gọi là Cựu Thế Giới.

Fernand Braudel (nhà sử học người Pháp đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu thời kỳ hậu chiến tranh ) từng yêu cầu các sinh viên của mình lý giải vì sao Trung Hoa thế kỷ mười bốn, với lực lượng hải quân hùng hậu, với tiền giấy và mọi bước phát triển vượt bậc, lại không phải là nước tìm ra châu Mỹ. Câu trả lời hay nhất của chính ông ta là họ chẳng cần đến nó làm gì. Tất cả các vị hoàng đế Trung Hoa đều cai trị tốt đất nước của mình và việc duy nhất họ cần làm là củng cố nó thêm vững chắc. Vì vậy, có thể những người đếm mặt trời chẳng cần thống trị bất cứ nơi nào khác. Tính ì của con người ta lớn lắm. Nó có thể mạnh hơn cả sự đổi mới, hơn cả tham vọng, hơn bất cứ thứ gì khác. Nếu mọi chuyện đang tốt đẹp, thì sao phải thay đổi? Những phát minh hay không phải lúc nào cũng được phổ biến. Đôi khi chúng bị quên lãng bất kể hay ho đến đâu, hoặc có khi chính vì quá hay ho. Máy vi sai của Babbage phải một trăm năm sau mới được chế tạo. Người Polynesia ban đầu chả biết cách làm đồ gốm đấy thôi, nhưng rồi lại quên mất. Người La Mã cũng có bê tông, và sau khi họ đánh mất công thức chế tạo thì chẳng ai tìm ra nữa cho đến tận năm 1824.

Tôi nhìn quanh. Tôi bắt đầu thấy hơi lạnh. Nó gợi tôi nhớ đến lần đầu tiên đến Mexico City. Tôi thấy lạ sao ở đây có thể lạnh đến thế. Tôi ngửi thấy mùi trầm hơi đăng đắng. Một gia đình Quá-Cao vừa len từ bên kia đường sang, đứng im, mặt cúi gằm xuống đất.

Có cái gì đó không ổn. Cái gì nhỉ?

49

Hừm.

Người Teotihuacán không phải là những người thích ồn ào, nhưng anh vẫn luôn cảm thấy họ vây quanh mình đông tới hàng nghìn tỉ. Suốt cả ngày chúng tôi nghe thấy nào tiếng người, nào tiếng búa, nào tiếng nạo, nào tiếng lách tách của bánh bột ngô và đá lửa, nào tiếng vo vo từ tổ ong. Vậy mà bây giờ, dường như tất cả đã biến mất. Tất cả các giọng nói đều im bặt.

Thành phố này không có các buổi lễ lúc chạng vạng như ở các thành phố Maya chúng tôi. Chỉ có một sự im lặng thấp thỏm. Ở đây, ngay cả trong những câu chuyện thường nhật họ cũng tránh nhắc đến từ “lúc mặt trời lặn”. Người ta chỉ nói “lát nữa” hoặc “đầu giờ tối nay”. Tôi nhìn Hun Xoc. Nó thở mạnh ra một hơi, nghĩa là một cái nhướng mắt theo kiểu người Maya. Đám người xung quanh ngước lên nhìn nó, ý nhắc: “Suỵt! Khẽ chứ!”.

Tôi lắng nghe. Vẫn còn một biển tiếng ồn ào ngoài kia, tiếng mòng biển the thé, tiếng chó ủng oẳng, tiếng gà tây oọc oọc và tiếng rít siêu âm ken két của lũ dơi, nhưng thế giới loài người thì nín thở.

Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, – bắt đầu hơi căng thẳng đây. Tôi liếc sang lũ ăn mày. Chúng đang nhìn trân trân xuống đất, xuống manh áo choàng, xuống bất cứ đâu, trừ ngước lên trời. Mụ đàn bà ngồi cạnh chân phải tôi run bắn lên và tôi không nghĩ là vì lạnh hay ốm đau gì, mà vì sợ. Sau tám trăm năm, thành phố này vẫn còn sợ bóng tối.

Cuối cùng, như mặt trời ló dạng, người của Koh đến và dẫn chúng tôi qua một khoảnh sân trong trống trải vào một nhà tắm hơi. Chúng tôi cởi bỏ quần áo, xoa lại dầu, quấn vào người bộ trang phục mới: một cái khố váy bằng vải bông màu xanh tím với thắt lưng và một cái áo choàng trùm ngoài. Xanh tím là màu trung tính, không phải trung tính trong sắc độ, mà là nó không phải màu sắc riêng của bất cứ thị tộc nào. Mấy tên lính gác đưa chúng tôi đi tiếp qua không biết bao nhiêu hành lang tối tăm, rối như mớ bòng bong, có lẽ chỉ để làm chúng tôi mất phương hướng, qua một cái sân hẹp nữa, vào một căn phòng nhỏ vuông vắn. Bảy người ngồi trên ghế dài, trong bóng tối lờ nhờ, ngước lên nhìn chúng tôi như thể chúng tôi làm ngắt quãng việc gì đấy, mà tôi nghĩ đúng thế thật. Năm người trong số đó ăn vận như đàn ông và khoác áo chàng màu xanh nước biển dệt họa tiết như hình kim cương. Họ đội những chiếc mũ nhìn như những khăn xếp to tướng, sụp xuống che gần hết khuôn mặt. Tuy thế, chỉ cần nhìn vào các lỗ xỏ khuyên, tôi cũng biết đa số họ là người gốc Teotihuacán, có lẽ là người thuộc giới quí tộc cải đạo. Một người to bè, chắc nịch, với cái mũi gẫy, những hạt đính màu đen và da cam trên áo choàng cho biết đó chính là ông lớn mà Bị Thương 14 đã nói trước là có thể xuất hiện ở đây. Thằn Lằn 1, tộc trưởng của nhà Thằn Lằn, một thương gia lớn thuộc nửa Trắng đã cải đạo sang Rắn Chuông. Ông ta ngồi cạnh con trai mình. Cả hai đều có vẻ là những tay rắn mặt ra trò. Chúng tôi chưa từng gặp họ, thậm chí không thực sự biết họ. Và trừ khi các anh đã qua một vòng chào hỏi chính thức – rất tốn thời giờ – thì các anh nên vờ như không nhìn thấy nhau. Tiếp đến là hai người ăn vận như phụ nữ và tôi nghĩ họ đúng là phụ nữ thật. Có lẽ đó là hai người vợ của Koh. Có cả một gã mà tôi cho là thằng hề hoặc người mua vui gì đó vì hắn mặc một thứ quần áo rất ngộ nghĩnh, tua tủa như lông nhím. Khi con ngươi tôi giãn ra thêm một chút, tôi nhìn thấy một con chó ngồi chồm hỗm trong góc nhà, ngay sau lưng chúng tôi, ngoài ra còn rất nhiều bình lọ nhỏ, bát và mâm lớn, bày trên sàn nhà trải kín thảm màu xanh lơ pha trắng lóa cả mắt, đựng đầy tuyết đang tan, một thứ hết sức xa xỉ. Trên bức tường sau lưng họ treo một bức bích họa lớn vẽ hình các nữ thần lùn (Nguyên văn: “gnomide” – nhân vật cổ tích được mô tả dưới hình dáng như người lùn, chuyên sống dưới đất hoặc nước để canh giữ các kho báu.) đang vui mừng nhảy múa dưới chân một ngọn núi lửa đầy nước.

Theo 14, đây là một nhà công cộng của năm hay sáu gia đình gì đó. Và tất cả đều là phụ nữ. Tuy nhiên, ở đây người ta không coi đấy là hôn nhân đồng tính. Theo như tôi hiểu qua những gì 14 nói – hắn nói cũng chẳng mạch lạc gì cho lắm – thì các con gái của Nhện Dệt Cầu Vàng không hẳn là ái nam ái nữ. Không những thế, họ được xã hội coi là nhưng người bình thường, những gia đình có quan hệ khác giới, với một vài phụ nữ đóng vai trò của nam giới, còn những người khác là nữ giới. Công Nương Koh là một trong các “k’iik”, điều đó cho phép bà ta xuất hiện trong các không gian nghi lễ dành cho giới đàn ông, chẳng hạn như khu đền miếu trong kim tự tháp Rắn Chuông. Tôi đoán rằng…

Ối giời ơi. Cái trò quỷ sứ gì thế kia?

Con chó vừa đứng lên bằng hai chân sau. Tôi thoáng rùng mình. Đó là người. Một người lùn với khuôn mặt dài ngoẵng như mặt chim và gần như trần truồng. Khắp người cô ta bôi màu xanh lá cây, nhưng dưới ánh sáng như thế này nom lại thành màu đen. Khi cô ta lật đật đi qua chỗ bếp lò, tôi chợt nghĩ tới con chim cánh cụt. Tuy nhiên, tôi không hề cảm thấy buồn cười. Cô ta không phải người lùn vì chứng loạn sản sụn như Sên Xanh 3,- tôi nhận xét thầm, – cô ta thuộc dạng người lùn mà chúng ta gọi là lùn bẩm sinh từ trong trứng nước hay người lùn “đầu chim”. Hội chứng Seckel đây mà. Tôi nhớ rằng những người như vậy không sống được lâu. Có lẽ cô ta chưa đến hai mươi. Tôi còn từng nghĩ là họ chậm khôn, nhưng xem ra cô ta cũng bình thường. Cô ta ra hiệu “hãy lắng nghe”. Tôi khom mình xuống thấp hơn một chút.

– Các ngài, ở trên chúng tôi,… công nương Koh chỉ tiếp chuyện… với một người tham vấn mỗi lần, – cô ta nói, giọng đều đều, rên rĩ như tiếng mèo kêu, không những thế, cô ta còn dùng tiếng của nam giới Teotihuacán, âm sắc rất khô khan.

– Tôi, dưới chân các ngài, là người thỉnh kiến, – tôi đáp rồi nhìn sang Hun Xoc.

Nó nhìn lại, hơi ngần ngừ. Điều này trái với chỉ thị mà nó được giao là để mắt đến tôi từng phút. Song chẳng làm thế nào khác được. Cuộc diện kiến của tôi với công nương Koh là mấu chốt của sứ mệnh này. Nó nhướng mắt, ý nói: ” thôi vậy, sao cũng được”.

Cảm ơn cậu đã tin tưởng, – tôi ra hiệu bằng mắt.

Cô gái lùn đã nhấc một tấm thảm lên. Có một cái hố vuông bên dưới. Hệt như trong cung điện hoàng gia Pháp dưới thời Louis XIV, ở đây người ta cũng thích phát cuồng lên những cánh cửa sập, đường hầm và ô cửa theo dõi. Cô ta bò chúi đầu xuống hố như con Thỏ Trắng (Nhân vật trong cuốn truyện “Alice ở xứ sở kỳ diệu.). Tôi đặt một chân xuống để ướm thử xem nó sâu đến mức nào và chạm vào một nền đất mấp mô. Tôi chui xuống và bò theo cô ta. Hai đầu gối tôi cứ vướng vào cái váy khố làm tôi vấp liên tục. Con đường hầm dốc xuống chừng ba mươi độ. Tôi lần bò trong bóng tối khoảng mười lăm sải tay rồi thò đầu ra khỏi một cái lỗ chuột, bước ra một hành lang ngoài trời. Cô gái lùn dẫn tôi rẽ vào một cái ngách, bước qua cánh cửa nhỏ che một tấm da sống vào một căn phòng tối rộng chừng tám sải tay. Nó nằm trên nền đất thấp hơn căn phòng trước nhưng mái lại cao bằng, vì thế, trần nhà cao gần đến hai mươi sải tay, khiến người ta có cảm giác như đang đứng dưới đáy giếng. Một dải ánh sáng xanh lơ chiếu xuống từ ô cửa trần được che bằng da ngâm tẩm dầu mà tôi đoán là hướng ra sân đền ở phía trên. Bốn bức tường phủ bằng thứ gì đó như nghững chiếc vảy bằng kim loại. Có một lò sưởi bằng đất nung trơn với mấy hòn than sắp tắt, hai chiếc rổ to bằng bát đựng quân cờ vây, một cặp phất trần xua ruồi cắm trên giá nhỏ, một cái đế bằng xương cắm bó đuốc sim bốc ngọn lửa màu xanh lá cây. Chiếc mũ lông chim xanh và chiếc bình đựng da ếch độc chúng tôi gửi tặng nằm thu lu trong một góc nhà như hai con mèo đang ngủ. Trong không khí có cái mùi là lạ mà tôi không sao diễn tả được.

Không phải mùi khói đăng đắng từ bên ngoài bay vào, cũng phải mùi thơm của quả sim nửa giống hương dầu lanh, nửa giống hương cây xanh quanh năm, bốc lên từ khói đuốc. Ngửi nó giống như… ờ… tôi thấy nó giống mùi ngược lại của mùi quế, nếu có cái thứ như vậy trên đời. Mặc dù mùi thì không phải là màu sắc. Không có mùi gốc như màu gốc trên bảng màu. Nhưng tôi đoán chính vì thế nó mới tạo nên một mùi mới mà màu sắc không thể. Tôi đưa chân khẽ khàng và sửa lại nếp áo choàng với cử động cố sao cho khéo léo và tự nhiên nhất. Nhưng thay vào đó, tôi vấp đánh uỵch một cái như con hải mã thọt chân. Khỉ thật, mình đúng là thằng hậu đậu – tôi nghĩ – phải tập dượt lại trò này mới được. Cô gái lùn đi vòng qua tôi và ra khỏi phòng qua lối cửa chúng tôi đã vào.

Tôi thu xếp tư thế quỳ gần như thằng ăn xin, nghiêm trang nhìn vào lò lửa. Dưới bắp chân tôi, sàn nhà trải một lượt chiếu giống như làm từ bọt biển, rắc cánh hoa phong lữ để tránh sự ô uế của tôi.

Tôi ngồi xuống. Tôi có cảm gì đó thật khó giải thích. Một phút sau tôi mới biết vì sao: đây là lần đầu tiên từ khi tỉnh dậy trong cái rọ tại sân tù của Sọ Đá Quý 2, tôi đã được ở một mình trong một căn phòng. Bực sao đây lại không phải thời cơ để trốn khỏi bọn trông trẻ kia.

Tấm da che cửa kêu sột soạt. Tiếng bước chân ngắn như bước chân trẻ con vang lên sau lưng tôi. Tư thế này không thuận tiện để quay lại nên tôi cứ ngồi nguyên. Một bóng người gầy nhom, lùn xủn – không quá một sải rưỡi – chống cây gập thắt ruy băng màu xanh lơ, lật bật đi vòng qua tôi. Bà ta run rẩy ngồi xuống bên kia lò lửa và đặt cây gậy xuống trước mặt. Một bà già cao tuổi trong bộ tóc và áo choàng của đàn ông.

Tôi hơn run một tí, trong bụng thôi, hy vọng thế. Khuôn mặt bà ta nhăn nheo và quắt queo đến mức như thể được gắn lại từ những mảnh đá vụn. Song tôi vẫn nhìn rõ nửa bên phải đen sì, còn nửa bên trái trắng nhợt như là màu da tự nhiên, với một đường viền cong hình chữ “S” hệt như trên bức vẽ của Sọ Đá Quý 2. Hai bàn tay xương xẩu của bà ta đặt chéo trên lòng. Mớ tóc đen của bà ta hẳn là tóc giả. Cặp mắt bà ta sâu hõm đến mức tôi thậm chí không nhìn thấy một tia sáng nào.

Sọ Đá Quý 2 chắc đã nhầm tuổi của bà ta. Nhưng ông ta nhầm thế nào được? Hay bà ta bị lão hóa vì một loại chất độc nào đó, như Viktor Yushchenko(Đương kim thủ tướng của Ukraine (nhậm chức năm 2005), theo nhiều nguồn tin, ông ta bị nhiễm độc dioxin) ấy?

Bà ta lựa tư thế ngồi thoải mái và đưa tay ra hơ trên lò sưởi cho dù nhiệt độ của căn phòng phải đến tám mươi độ (Tương đương gần 27oC.). Tôi gần như chắc chắn không còn ai khác bước vào phòng. Điều này thật khác thường. Không vệ sĩ. Chắc quý bà vĩ đại này không sợ bị tấn công.

Công nương Koh ngửa lòng bàn tay đen xỉn, nhăn nheo của mình lên. Nói câu gì đi nào – tôi tự nhắc mình. Tôi liền cất lời, bằng ngôn ngữ của giới đàn ông quý tộc ở Ix:

– Tzitic uy oc caba ten lahun achit, – tôi nói. Nghĩa là “tôi, dưới chân người, tên là Thằn Lằn Chân Lùn 10”. – Gia đình tôi, dưới chân người, gọi tôi là em trai (nghĩa là họ hàng) của người ở thị tộc Đại Bàng của thành Ix, là con trai (nuôi) thứ mười tám của Sọ Đá Quý 2.

– Vậy cha người là ai? – bà ta hỏi. – Và những cái tên khác của ngươi, ngoài Thằn Lằn Chân Lùn 10, là gì?

– Sọ Đá Quý 2 là cha tôi.

– Vậy ai là người soi sáng những lần thức tỉnh của ngươi? – bà ta hỏi. Tôi chưa trả lời câu hỏi về những cái tên, nhưng cũng như những tay tra khảo khôn khéo khác, bà ta không nhắc lại những câu hỏi không thành, hoặc chưa thành.

Tôi nói cho bà ta hay. Tức là tôi nói ngày lễ đặt tên của hai người bà của Sọ Đá Quý 2.

– Vậy ai soi sáng cho những người đàn ông của ngươi?

Tôi lại khai. Nghĩa là tôi điểm qua những cái tên khác thích hợp trong dòng tộc thuộc thị tộc Đại Bàng mà Sọ Đá Quý 2 đã xếp tôi vào.

– Vậy ngươi trở thành anh em của các k’iik thị tộc Đại Bàng từ khi nào?

– Ba mươi ba ánh sáng trước.

– Vậy ai đã cho ngươi grandessa của ngươi? – Nghĩa là người đếm mặt trời nào là thầy của tôi. Cái giọng móm mém không răng của bà ta nghe còn già nua hơn cả bộ da, hệt như tiếng một súc gỗ cháy dở bị kéo lê trên mặt đường rải sỏi ẩm ướt.

– Là Răng Ngạnh 7, – tôi đáp, – của nhà Đại Bàng ở thành Ix. – Chính tôi nghe câu này cũng không thấy thuyết phục..

Mày đang lo lắng quá đấy thôi, – tôi tự nhủ, – mày đang làm tốt lắm. Đừng căng thẳng.

– Sao ngươi, bên cạnh ta, không tin Ngọc Giá Trái, con trai của Bị Thương 14? – bà ta hỏi. – Hắn ta lắm lời quá sao?

– Tôi rất tin tưởng anh ta.

Hừm, – tôi băn khoăn khó hiểu, – chẳng lẽ bà ta theo dõi chúng tôi qua khe cửa nào đó khi chúng tôi ở ngoài sân đền? Và nếu bà ta làm vậy thì chẳng lẽ những gì tôi nghĩ về Ngọc Giá Trái được thể hiện qua cử chỉ rõ đến thế sao? Hay thế nào?

– Vậy nhà Đại Bàng có còn vững chãi, còn xanh tươi chăng? – bà ta hỏi. Câu thành ngữ ấy có nghĩa là “các tấm ván tường còn bám chặt vào cột nhà và mái nhà lợp rơm còn được thay mới thường xuyên không”. Ý là họ có bình an không.

Tôi đáp rằng thị tộc tôi vẫn ổn cả.

– Nhưng họ còn một trận đấu bóng hông lớn với nhà Mèo Rừng phải không, – bà ta nói.

Chết tiệt, – tôi rủa thầm. Ở tận đây mà bà ta cũng nghe được tin đồn chúng tôi gặp rắc rối. Dù anh có cố đi nhanh đến mức nào thì tin tức vẫn đi nhanh hơn. Lan truyền với tốc độ này thì chẳng khác gì anh đưa cho mỗi người một chiếc di động. Liệu bà ta có biết vụ hỏng việc trên đỉnh kim tự tháp không nhỉ? Liệu bà ta có đoán được chuyến viếng thăm của tôi có liên quan đến việc ấy?

Tôi ra hiệu rằng phải, trận bóng hông lớn đó sắp diễn ra. Tôi không nói gì thêm.

– Và ngươi từng chơi bóng hông, – Koh nói, – nhưng bây giờ không chơi nữa. Phải vậy không?

Quỷ sứ ạ. Bà ta đoán ra nhờ cơ thể to lớn và cái mũi gẫy của Chacal chăng? Hay bà ta nhận ra vài cử chỉ đặc biệt? Hay bà ta, hoặc quân do thám của bà ta, liếc thấy những vết sẹo trên đầu gối và khủy tay tôi, nơi các vết chai đã bị tẩy đi. Gì thì gì, không ai muốn nói dối nhiều hơn mức cần thiết. Tôi gật đầu.

Koh im lặng.

Sọ Đá Quý 2 và tôi đã ngồi hàng giờ với nhau để ôn đi ôn lại cách tôi sẽ trình bày câu chuyện của mình, ý tưởng chung là phải tiếp cận càng nhẹ nhàng càng tốt. Tôi sẽ đề nghị bà ta chơi một ván để đoán định ngày tận số của Teotihuacán. Nếu cần, tôi sẽ cho bà ta biết một vài thông tin chỉ riêng tôi có để thuyết phục bà ta rằng thành phố này sắp diệt vong. Tiếp đó, tôi sẽ dẫn dắt câu chuyện đến những rắc rối của hội Rắn Chuông. Theo đúng bài, tôi sẽ kéo bà ta vào câu chuyện, khiến bà ta nảy ra cái ý muốn biến khỏi thành phố này, rồi thử xem tôi có thể khiến bà ta ngỏ ý nhờ chúng tôi giúp đỡ, và tôi sẽ đồng ý giúp bà một nơi ẩn náu ở Ix.

Dĩ nhiên, để làm được việc đó, tôi phải thuyết phục được bà ta rằng chúng tôi có thể bảo vệ bà ta. Nhưng Sọ Đá Quý 2 lo ngại, không muốn cho bà ta biết quá nhiều chuyện. Chúng tôi nghĩ tôi có thể dùng vài mánh nho nhỏ để gây ấn tượng với bà ta – chẳng hạn làm cho bà một chiếc phong vũ biểu hoặc la bàn xoay, hay dùng thước elip để vẽ ra một hình e-lip, hoặc cho bà ta biết về phân số, giả dụ thế. Chắc bà ta cũng là con mọt sách lập dị đủ để thấy ấn tượng trước những thứ đó, vì bà ta là người đếm mặt trời mà. Và chúng tôi không nghĩ đến việc tôi có thể đánh đổi một vài mánh, hoặc một vài mẩu thông tin nào đó để lấy món thuốc và công thức pha chế. Nhưng tôi không nên hỏi bà ta về ván cờ trong cuốn thư tịch, vì điều đó sẽ dẫn đến câu chuyện về ngày Chúa tể 4 ở năm 2012, và nếu tôi tỏ ra đặc biệt lo lắng về ngày đó, bà ta sẽ nghi ngờ vì sao. Dù sao b’ak’tun thứ mười ba cũng xa cách lắm. chúng tôi đã thống nhất rằng tôi không nên nói chuyện với công nương Koh về Jed, hay về nơi tôi từ đó đến, hay những chuyện tương tự. Vì một lý do: bà ta sẽ không tin. Ngay cả loại người nhẹ dạ chuyện gì cũng tin cũng không thể hình dung ra những thứ đó. Chỉ những người đã thấy theo cái cách tôi và Sọ Đá Quý 2 đã thấy mới hiểu được tôi đang nói chuyện gì. Bằng không, sẽ chẳng khác nào tôi kể chuyện Sao Hỏa bằng tiếng Sao Hỏa.

Và nếu tôi cho bà ta xem quá nhiều trò, hay cho bà ta biết quá nhiều về khoa học, tôi sẽ trở nên nhiều quyền năng quá. Bà ta sẽ nghĩ tôi là loại người reo rắc ghẻ, hay thậm chí người khói, hay ma quỷ trong bộ lốt người. Hay tôi thay mặt cho một người đếm mặt trời vĩ đại nào đó, hành nghề thông qua Sọ Đá Quý 2 để che dấu thân phận ông chủ? Hay chính tôi là một người đếm mặt trời chín sọ vĩ đại mà bà ta chưa từng nghe tên, người từ trước đến nay vẫn che dấu tài năng của mình? Hoặc sẽ ra sao nếu bà ta nghi tôi là một gián điệp cho một trong hai Giáo hội lớn của Teotihuacán – những kẻ mà dân gian cho rằng chuyện gì cũng biết – phái đến để lôi kéo bà ta vào hành vi làm phản? Chẳng thể biết trước bà ta sẽ làm gì. Nhỡ bà ta báo lại với giáo hội của mình về tôi thì sao? Dù gì thì bà ta cũng đã tuyên thệ với họ. Biết đâu họ sẽ có phản xạ thiếu suy nghĩ rằng tôi là mối hiểm họa quá lớn đối với tình thế của họ hiện nay, và sẽ khiến tôi mất mạng.

May lắm thì Koh cũng sẽ nghĩ rằng bà ta đang bị thúc ép, rằng ngay khi tôi có được cái tôi cần, tôi sẽ bỏ rơi bà ta. Tôi chỉ nên thể hiện mình là một người đếm mặt trời mới vào nghề nhưng có tý năng lực đặc biệt thôi. Bà ta không nên biết nhiều về việc vì sao tôi đến Teotihuacán này, hoặc tốt hơn nên để bà ta nghĩ rằng tôi tiện ghé lại đây trên đường đi làm ăn buôn bán. Bà ta không nên biết Sọ Đá Quý 2 đang gặp rắc rối ở Ix. Nhưng chuyện đó thì quá muộn rồi. tôi phải khiến bà ta tin rằng Sọ Đá Quý 2 rất có thế lực và là nhà quý tộc duy nhất ở quê nhà có thể cho bà ta một nơi ẩn náu an toàn. Cần phải khiến bà ta cảm thấy việc trở về Ix là ý tưởng của chính bà ta. Và dĩ nhiên, điều tối hệ trọng là tôi không được hỏi bà ta về món thuốc, thậm chí không được nhắc đến nó. Nếu bà ta ngờ rằng nó chính là thứ chúng tôi cần, điều đó sẽ khiến chuông báo động ở cái thành phố này réo lên và bà ta sẽ quẳng tôi ra khỏi cửa.

Koh ra hiệu bằng bàn tay bé xíu, nhẹ bẫng của mình. Cô gái “Chim Cánh Cụt” lại xuất hiện sau lưng và đi vào giữa hai chúng tôi.

Cô ta xách một chiếc giỏ lớn bằng bàn tay với những cái ngón tay cong queo bé xíu của mình. Cô ta quỳ gối trước lò lửa, ngồi xuống và ấy ra hai chiếc bát đất nung có sáu khía răng cưa và hai chiếc bình uống nước hình trụ cao. Như mọi thể loại bát đĩa và bình vại ở Teotihuacán, chúng được làm rất công phu nhưng lại không có hình trang trí – y như Pyrex (Một nhãn hiệu đồ thủy tinh và nhựa), theo lời Esther Pasztory (Nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật thời Tiền Columbus người Mỹ). Hẳn là một vài vị người khói tối cao ở đây vốn nghèo, và bất cứ thứ gì quá xa xỉ đều có thể là mối hiểm họa vì nó khiến họ ganh tị. Cô gái lùn tuần tự trộn bột cacao với đậu hạt, mật ong và nước nóng, rồi máy móc chao từ bình nọ sang bình kia cho nổi bọt. Cô ta đặt chiếc bình rỗng xuống và dâng chiếc kia cho Koh. Bà ta uống một ngụm rồi đưa lại cho cô ta. Cô ta đưa nó cho tôi. Tôi ra dấu cảm ơn, uống một nửa, ra dấu khen ngon và uống nốt chỗ còn lại. Nó cay, cay như ớt vậy, và có vị hạch đậu khấu. Tôi đặt chiếc bình xuống và Chim Cánh Cụt cất nó đi.

Ở xứ này, người ta chỉ mời đồ uống có thế thôi. Tôi nhận ra mình đói. Chắc các bạn nghĩ họ sẽ bưng ra một khay cá chép rán hay thứ gì đó. Nhưng không, ở đây người ta không làm thế. Việc mời đồ uống giữa khách và chủ phục vụ nghi lễ hơn là phục vụ con khát. Ở đây người ta không thường xuyên ngồi chè chén với ai đó. Nó không giống với bữa trà ở phương Đông hay cốc-tai ở phương Tây, hay bất cứ thứ gì khác. Anh chỉ được cầm lấy phần của mình, uống hết sau càng ít ngụm càng tốt và chuyển sang cho người khác. Còn ăn nhẹ là việc anh làm một mình vào lúc khác. Đây là một trong những chuyện khiến tôi phát rồ nếu cơ thể của Chacal không quá quen với nó. Ngay cả những người đủ giàu để ăn bao nhiêu tùy thích cũng không ăn đến hai bữa một ngày. Và cứ khoảng ba ngày một lần họ lại nhịn ăn hoàn toàn. Thường thì mỗi khi tôi có dịp mời ai đó, như Hun Xoc chẳng hạn, một miếng thịt hươu khô, tôi sẽ nhận được câu trả lời rằng “Ồ, cảm ơn, tôi mới ăn hôm qua rồi”. Mà Hun Xoc chơi bóng hông, rất cần giữ cân nặng đấy. Và mỗi khi họ ăn thì thật là phí phạm. Trung bình khoảng ba phần tư số thức ăn trong một bữa tiệc hoàng gia sẽ bị đổ vào sọt rác. Thôi, sao cũng được. Tôi đang ở đâu cơ chứ?

Đến lúc phải mở miệng rồi.

– Chúng tôi, dưới chân người, đã mang đến một gói đồ, – tôi nói. Gói đồ là một cách tế nhị để chỉ quà cáp hoặc đồ biếu xén vì đó là một từ khiêm tốn nhất và chẳng ai biết có gì bên trong. – Tôi, kẻ dưới chân người, đã thử đọc các sọ để tiên đoán cho gia đình mình và thất bại. Chúng tôi cầu xin người hãy nhận gói đồ và thỉnh ý sọ giúp chúng tôi.

– Ngươi, bên cạnh ta, đã mang đến quà nhiều, – bà ta đáp.

Bà ta đãi tôi thêm một phút im lặng khó chịu nữa. Tôi nhắc lại lời thỉnh cầu. Chết dở, – tôi nghĩ, – nếu bà ta nói “không” thì có nghĩa là tôi đang bắt đầu làm hỏng toét mọi chuyện. Mặc dù, thực ra người đếm mặt trời không nên và không thể từ chối xem cho người khác, chí ít là khi hai người đang ngồi đối diện với nhau. Hoặc là có khi tôi đã quá tin vào cái phép lịch sự nghề nghiệp ấy.

Chim Cánh Cụt thắp thứ gì đó lên trong chiếc đĩa nhỏ. Đó là một bánh hương tròn, thứ họ dùng thay đồng hồ ở đây. Nhìn vào kích thước, có thể thấy nó tương ứng chừng một phần tư của một phần chín ánh sáng ngày, tức là khoảng bốn mươi hai phút. Phải nhanh lên thôi, – tôi nghĩ bụng. Nhưng sự im lặng cứ kéo dài mãi. Cuối cùng, bà ta cũng tặc lưỡi hai lần, nghĩa là đồng ý. Bà ta tháo hai dải ruy băng trên cây gậy. Hóa ra nó là một bàn cờ đan bằng cành liễu gai cuộn lại. Bà ta trải nó xuống cạnh phía Tây lò sưởi. Nó giống bàn cờ của Sọ Đá Quý, cùng số ô cờ và mọi thứ khác nhưng lớn hơn. Bà ta mở nắp một chiếc bình, lấy ra một nhúm bột thuốc lá và từ tốn xát nó lên mé trong đùi.

Tốt rồi, – tôi nghĩ, – hỏi một câu dễ trước đã.

Tôi xin bà ta cho tôi biết ngày chết của mình.

Bà ta lấy ra một túi hạt cây t’zee và rải chúng khắp bàn cờ.

Cung cách của bà ta có vẻ gì đó rất qua loa đại khái khiến tôi cảm giác bà ta chẳng định ban cho tôi thứ gì ngoài một cuộc tiếp kiến chóng vánh nhất có thể. Bốn quân cờ rượt đuổi viên đá tượng trưng cho tôi đến gần cuối đường. Sau một chốc tính toán, bà ta cho tôi ngày Wak Ahau, Waxac Muan tới, tức là ngày Chúa tể 6, Cú 8, nghĩa là một trăm ba mươi hai ngày nữa tính từ hôm nay. Có lý lắm, ít ra là đối với cái chết của cái xác này. Với sự tiến triển dự tính của các khối u trong não, tôi chỉ còn chừng một trăm mười ngày tỉnh táo nữa. Ngoài ra, cái chết còn có thể rơi vào một số ngày trước đó: đó là ngày Kan Muluk, Wuklahun Xul, tức Mưa 2, Kết thúc 17, hoặc Hun Eb,Mih Mol, tức Chảy xiết 1, Sum họp 0. Sao cũng được, – tôi nghĩ. Tôi gật đầu tỏ ý chấp nhận lời tiên đoán.

Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa thấy có gì hay ho. Sự tiên đoán này chẳng lấy gì làm xuất chúng. Tôi liền hỏi tiếp câu thứ hai: Con cháu tôi – không phải con cháu của chính tôi vì tôi làm gì có, mà là con cháu của gia đình tôi, cũng tức là gia đình Sọ Đá Quý 2 – sẽ ở đâu vào ngày Đêm 9, Nước đen 1 củatun thứ nhất, k’atun mười lăm, b’ak’tun mười một? Và có bao nhiêu đứa ở đó cả thảy?

Câu hỏi này khá thông thường, trừ thời gian đặt ra. Đó là năm 1522 Công nguyên, tức 313.285 ngày nữa tính từ hôm nay, một trong những ngày thảm họa được nhắc đến trong ngày Thư tịch.

Koh xem ra chẳng có phản ứng gì trước câu hỏi. Bà ta lấy năm hòn đá và các hạt ngô rải khắp bàn cờ, đếm rất nhanh và bảo tôi rằng ngày hôm đó, khoảng mười lăm lần hai mươi người của nhà Đại Bàng sẽ được cải táng tại nơi chôn cất tổ tiên họ ở “miền bắc không có sông chảy qua”. Là Yucatán, – tôi nghĩ. Những người khác, khoảng một trăm lần hai mươi người, sẽ “chạy toán loạn khắp các cánh rừng rậm và rừng thưa lúc đó đã che phủ khắp các thành phố”.

Ừ, cũng khá ấn tượng đấy, – tôi nghĩ. Nào, bây giờ đến câu hỏi lớn.

– Thành phố Lưỡi Dao sẽ kết thúc sự sống vào mặt trời nào? – tôi hỏi.

Bà ta lại im lặng một lát như thường lệ. Tôi ngồi yên. Cuối cùng, bà ta cũng lên tiếng:

– Những người con (ý bà ta nói những người xem bói) đã hỏi ta câu này bốn trăm lần.

Bà ta nói rằng trong một k’atun vừa qua, vài người đếm mặt trời táo tợn đã điểm ra một số ngày tận thế của thành phố. Chúng đều đã qua và tất cả những đếm mặt trời kia đều bị xử tử hoặc phải trốn chạy. Tuy nhiên, vẫn có một cảm giác chung ngấm ngầm rằng sự kết thúc đó đang ở rất gần, ít nhất là trong giới đếm mặt trời và khách hàng qúy tộc của họ. Thậm chí một vài thị tộc cai trị cũng đã âm thầm chấp nhận sự thực này và đang chuẩn bị cho một cuộc di trú.

Tôi gần như chắc chắn đã nhắc đến ở đoạn nào đó trong câu chuyện này, rằng tôi không biết thành phố này tồn tại được bao lâu nữa. Và có lẽ chẳng ai biết. Số liệu khảo cổ thì mù mờ. Sự sụp đổ của Teotihuacán cũng không được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg, hay ít ra là trong những trang mà chúng ta có. Và giờ đây, theo lời Koh, nó chưa xuất hiện trong bất cứ ván cờ nào mà người ta biết.

– Nhưng bản thân người chưa tìm ra một ngày nào ư? – tôi hỏi.

– Điều đó đang ở quá gần mắt chúng ta, – Kohđáp.

Ý bà ta muốn nói đến… ờ… cái mà Taro gọi là vấn đề hình nón sự kiện. Nghĩa là rất khó dự đoán được một sự kiện mà anh có khả năng tác động để làm thay đổi. Anh có thể không nhìn thấy bởi nó ở quá gần. Họ cũng gọi hiện tượng này là vấn đề của người tham gia quan sát. La Rochefoucaul (Nhà văn thuộc giới quý tộc người Pháp thế kỷ 17) gọi nó là “l’aveuglerie de l’oeil qui ne voit pas lui-memem”, nghĩa là “sự mù quáng của cặp mắt không tự nhìn thấy mình”, còn Stephen King (Nhà viết tiểu thuyết kinh dị người Mỹ )thì gọi đó là “vùng chết”. Các bạn hẳn nghĩ rằng dự đoán tương lai gần thì dễ hơn tương lai xa. Điều đó thường đúng đến một giới hạn nào đó. Nhưng qua giới hạn ấy thì không. Giống như tự nghe lời khuyên của chính mình bao giờ cũng khó khăn hơn..

– Nhưng người, ở trên tôi, có thể chơi để tìm ra mặt trời đó chứ? – tôi hỏi.

– Mặt trời đó sống trong khói, – Koh đáp.

Hừ, đồ giời đánh, – tôi nghĩ, – bà ta đang nghĩ đến chuyện lảng tránh mình đây. Chết tiệt, chắc bà ta cũng phải có tí tò mò chứ. Hẳn bà ta cũng thắc mắc tôi là loại người đếm mặt trời nào mà nhìn thấy trước những điều viết trong thư… thôi, sao cũng được. Cho bà ta biết thêm tí chút vậy.

– Tôi biết thành phố Lưỡi Dao chỉ còn đầy vài nắm tay ánh sáng mặt trời nữa thôi, – tôi nói.

– Ánh sáng này, ánh sáng trước đó và sau đó, – bà ta đáp, – vẫn như vậy kể từ khi ta đến đây.

Câu nói đó ý là “Vẫn như mọi khi. Còn gì mới hơn không?”. Đó không phải là câu trả lời đúng phép lịch sự cho lắm. Nhưng chắc bà ta nghĩ mình là người bề trên…

– Ch’ak sac la hun Kawak, ka Wo, – bà ta nói tiếp. Tức là “Đừng bắt đầu câu chuyện về Bão Lốc 10 hay Cóc 2 đấy”, nhưng với ý nghĩa nhấn mạnh hơn, giống như “Đừng có đưa ra phán đoán gì về ngày đó. Cứ ở trong nhà và tránh xa rắc rối ra”.

Tôi gật đầu “Vâng”.

– Tốt, – bà ta ra hiệu.

Bà ta đứng dậy, hơi lẩy bẩy một tý, tập tễnh đi vòng qua tôi ra phía tấm da che cửa. Tôi nghe tiếng nó kêu sột soạt.

Tôi ở lại một mình. Tôi ngồi đếm bốn trăm nhịp, rồi bốn trăm nhịp nữa. Bà ta không quay lại.

Trò chết toi gì thế này? – tôi phân vân – thế là sao? Bà ta cứ thế biến đi à? Ở đây có ai làm thế đâu? Thế là thế quái nào? Thế quái nào?

Tôi cứ ngồi nguyên. Tôi đếm thêm bốn trăm nhịp nữa. Tôi nghe ngóng. Tôi chẳng nghe thấy cái chết dẫm gì. Sao người ta có thể yên lặng đến thế được nhỉ? Khu nhà này được thiết kế thế nào đó để tránh tiếng ồn ào của thành phố. Tôi không cảm thấy bất cứ luồng không khí chuyển động nào. Khói từ bó đuốc bốc thẳng lên ô cửa trần. Tôi ngồi thêm một lúc nữa.

Hừ, đúng là đại bại, – tôi nghĩ, – có lẽ chúng ta đã đi cả chặng đường để chẳng được gì sất. Có lẽ Sọ Đá Quý 2 chỉ muốn mình biến đi cho khuất mắt thôi. Có lẽ ai đó sắp đến đằng sau lưng và xiết cổ mình. Có lẽ công nương Koh cũng chẳng lấy gì làm cao siêu. Khỉ thật, sao mình lại dính vào cái lũ kém cỏi này nhỉ? Mình chỉ cần có mỗi một điều là gặp được người nào đó hay hớm ra trò thôi mà. Chỉ một người thôi.

Tôi đếm thêm tám trăm nhịp nữa. Tôi cảm thấy hơi lâng lâng. Thứ gì đó trong món sô-cô-la đã đưa tôi vào trạng thái này. Tôi không rõ nó là trạng thái gì, nhưng đó là một trạng thái gì đó.

Lẽ ra tôi nên cho bà ta biết nhiều hơn mới phải những điều trong bức thư thực sự chưa đủ để gây sự chú ý. Nghĩ đến chuyện này, sao Sọ Đá Quý 2 lại muốn tôi kín đáo đến thế làm gì? Chắc ông ta không muốn tôi gây ra được quá nhiều ấn tượng với Koh vì muốn bà ta nghĩ mọi điều hay ho là đến từ ông ta. Ông ta không muốn Koh ngạc nhiên quá mức cần thiết vì không muốn tôi trở nên vênh váo hoặc quá tự tung tự tác.

Hừ, muộn quá rồi.

Có lẽ tôi nên quay về nơi tôi đến, nếu có thể tìm được lối ra khỏi chỗ này. Hay nên ngồi đây thêm vài giờ nữa xem chuyện gì xảy ra. Hay….

Mẹ kiếp.

Tôi không thường xuyên nghĩ mình sáng suốt gì cho lắm, ít nhất là về những thứ nằm ngoài giới hạn tôi có thể nắm bắt, như cờ Hiến tế chẳng hạn. Nhưng vì một lý do nào đó – bây giờ tôi đang có cảm giác như người ta thường có khi ở một mình vào ban đêm, trong một căn nhà đèn đuốc sáng trưng, một căn nhà bí bách với các ô cửa sổ bịt kín, và đột nhiên biết chắc chắn rằng mình đang bị theo dõi, và không phải bởi những người đứng về phía mình hoặc chỉ vì tôi phát chán – tôi với tay, giật bó đuốc khỏi chân đế và quăng nó xuống sàn. Tàn lửa bắn tóe ra như núi lửa Vesuvius phun trào. Như tôi đã tả, bó đuốc được làm từ cành sim nhúng vào mỡ chó, và những hạt quả cháy sáng văng khắp tấm thảm, kêu xèo xèo và lụi dần, tôi đoán thảm ở đây được vẩy nước hơi ẩm, giống chiếc tatami của Nhật.

Tôi ngồi trong bóng tối. Chút ánh sáng xanh chiếu xuống từ ô cửa trần cũng không còn nữa. Chẳng còn tí ánh sáng nào. Tôi ngồi giữa đêm đen. Chấp nhận đi, Jed. Mày thất bại rồi. Tôi nhìn đăm đăm tàn đuốc nằm rải rác trên sàn nhà, lần lượt lụi đi như một dải thiên hả đang tắt dần.

Tôi lắng nghe. Chẳng có gì sất. Tôi ngồi yên. Tôi nghĩ mình vừa trông thấy thứ gì đó.

Trong phòng vẫn còn ánh sáng. Nó ở ngay trước mặt tôi. Chính xác hơn, nó không ở trong căn phòng này, mà hắt vào từ bên ngoài. Tôi rướn người qua nắp lò sang chỗ Koh ngồi lúc nãy và căng mắt nhìn vào bóng tối. Đó là ánh sáng từ một lò than cháy đượm hơn, le lói hắt qua một bức ngăn mà tôi đoán là bằng lông chim. Còn một căn phòng khác phía bên kia tường. Nó không hẳn là tường, mà là một vách ngăn có ánh kim loại, tựa như màn trong rạp hát. Bất kể những vẩy ánh kim này được làm bằng gì, chúng cũng đóng vai trò như tấm kính. Và có ai đó ngồi sau nó, cách tôi chỉ chừng ba tầm tay. Tôi dần nhìn thấy đường viền một bóng người, rồi thấy những đường nét chính. Đó là một phụ nữ còn trẻ, cùng vóc dáng và điệu bộ như bà già lúc nãy.

Bà ta biết, – tôi nghĩ, – bà ta biết mình nhìn thấy bà ta.

Bình tĩnh nào, – tôi tự nhủ. Tôi hít vào một hơi, chỉnh đốn lại xương sống và thở ra. Người phụ nữ kia không động đậy. Lúc này, tôi đã nhìn thấy các chi tiết nhỏ hơn. Bàn tay phải của bà ta hình như được tô đen, tôi nhìn nó không được rõ lắm, nhưng bàn tay trái để trắng tự nhiên và tôi tập trung quan sát nó. Nó có bảy ngón. Ngón nhỏ nhất thon nhọn và không chia khớp, nom như xúc tu của con hải quì và nhỏ chỉ bằng một viên đạn 22 ly. Tôi ngước lên nhìn mặt bà ta. Nó để trắng hầu hết nửa trên và được tô đen phần dưới, với một đường viền chạy dưới mắt trái, ngang qua phía trên môi, sang má phải và xuống đến góc hàm dưới.

50

– Ngươi, bên cạnh ta, còn dùng những cái tên nào khác? – người đàn bà hỏi. Giọng bà ta cũng hệt như giọng bà già khi nãy.

Nên cho bà ta biết vài điều thôi, – tôi tự nhủ.

– Tên chơi bóng hông của tôi là Chacal, – tôi đáp.

– Và ai là những người cha khác, những người mẹ khác, những người anh, người em khác của ngươi? – thoạt tiên, giọng bà ta hơi khào khào như người già trước tuổi, nhưng khi đến chữ “na’ob” –”những người mẹ” – nó bắt đầu dịu đi và mượt hơn, như thể bà ta đang trẻ lại.

Tôi nói tên cha đẻ của Chacal.

– Và ngươi từ đâu đến? – lúc này, giọng bà ta có vẻ đã về đúng chất giọng tự nhiên, giọng nữ trầm khá trong, trầm hơn chất giọng phổ biến của phụ nữ Maya.

Trò khỉ gì thế này? – tôi thắc mắc. Vậy ra khi bà già kia tiếp chuyện tôi thì công nương Koh thật ngồi nói tiếng bụng sau lưng bà ta. Để làm gì? Và làm thế nào kẻ nói đớp kia biết lúc nào nên mấp máy môi? Chắc phải có tín hiệu gì đó. Một sợi dây, hay sợi thừng dưới sàn chẳng hạn. Hừ, sao cũng được.

– Từ thành Ix.

– Trước đó?

– Từ Bolocac, – tôi trả lời. Đó là tên ngôi làng của Chacal.

– Và ngươi đến từ vùng nào của Bolacac? – Koh hỏi. Bà ta nói bằng một giọng ngân nga và nó làm tôi hơi u mê đầu óc một tí.

– Từ Yananekan, – tôi đáp, chưa kịp suy nghĩ gì. Đó là tên gọi ngày nay của một vùng gần Alta Verapaz, nơi tôi, tức Jed, lớn lên. Quỷ thật!

– Và sau đó, nhưng trước Bolacac?

– Tôi đang tăm tối, – tôi đáp, hơi ngơ ngẩn. Câu ấy có nghĩa là “tôi không hiểu”. Mẹ kiếp, Jed, – tôi tự nhủ, – mày đang để con mụ ái nam ái nữ này điều khiển đấy. Trấn tĩnh lại đi.

– Ngươi hẳn phải rời Yananekan trước khi trở thành một k’iik.

Tôi ra hiệu “phải”. Tôi cảm thấy bà ta nhìn tôi dò xét. Có lẽ tôi không nên cố lừa bà ta. Như mọi tay đếm mặt trời có hạng khác, bà ta có thể đọc được quân bài qua bức tường chì.

– Mặt trời nào soi sáng chuyến lên đường của ngươi?

Tôi phịa ra một ngày thích hợp.

– Khi đó người ta gọi ngươi là gì?

– Họ của tôi là Chacal.

– Nhưng đó đâu phải cái tên ban đầu của ngươi?

Tôi định đáp rằng nó chính là tên ban đầu của tôi, nhưng lại ngần ngại. Muộn mất rồi, – tôi nghĩ. Nói thế chẳng khác nào khẳng định điều ngược lại.

Bà ta im lặng. Tôi liếc nhìn bà ta lần nữa. Khi Sọ Đá Quý 2 cho tôi xem bức ảnh vẽ khuôn mặt bà ta, tôi đã nghĩ những họa tiết trên mặt chỉ là vẽ trên da. Nhưng bây giờ, tôi thấy hình như nó nằm dưới da, được xăm vào. Thực ra, – tôi nghĩ, – ngay cả với những thứ vằn vện đó, bà ta nom cũng không hề xấu. Nước da bà ta rất đẹp, nếu tính theo độ trong suốt, khuôn mặt cân đối và dịu dàng, vẻ dịu dàng đầy trắc ẩn, vẻ dịu dàng của một người mẹ, hay đúng hơn, của một bà mẹ tương lai, như thể một ngày nào đó bà ta sẽ rất yêu thương những đứa con của mình, nhưng không phải bây giờ. Tôi vội nhìn xuống và cắm mắt vào cái bóng lờ mờ của một cánh hoa phong lữ trên tấm thảm trước mặt.

– Ngươi, bên cạnh ta, vì sao ngươi tới đây? – bà ta hỏi.

– Vì Sọ Đá Quý 2 muốn bảo vệ gia tộc mình.

– Sọ Đá Quý 2 muốn thứ mà ông ta muốn. Nhưng ngươi, bên cạnh ta, ngươi muốn gì? – Có sự đổi khác trong giọng nói của Koh, điều gì đó… hừ, tôi không biết phải diễn đạt thế nào. Một thoáng phật ý, như muốn nói: “vì sao ngươi không tin ta?”.

– Tôi, dưới chân người, chỉ muốn điều mà ông ấy muốn, – tôi đáp.

– Nhưng ta thấy dường như ngươi muốn nhiều hơn thế.

– Tùy người, ở trên tôi, nói.

Im lặng.

Tôi đếm bốn mươi nhịp.

– Ngươi có thuộc về nơi này không? – cuối cùng bà ta hỏi.

Không, – tôi nghĩ thầm, – hoàn toàn không… Nhưng rồi tôi nhận ra không phải tôi nghĩ, mà tôi vừa nói ra câu ấy. Chết tiệt. Tôi liền phá bỏ phép lịch sự, ngẩng đầu nhìn lên. Bà ta đang nhìn tôi.

Bà ta nhìn thấy điều đó, – tôi nghĩ, -bà ta thấy sự cô độc của mày, nó lênh láng khắp người mày như màu xanh trên người Smurf (Nhân vật hoạt hình có màu da xanh dương mà ở ta vẫn gọi là Xì-trum) vậy. Tôi lại nhìn xuống và ra hiệu: “tùy người, ở trên tôi, nói”.

– Vậy ngươi đến từ đâu, trước Bolocac?

– Tôi đến từ miền bắc, – tôi đáp.

Mình việc gì phải trả lời những câu này, – tôi tự nhủ, – sắp phát bực lên rồi đấy…

– Cách đây bao xa?

– Xa hơn từ đây đến Ix, – tôi đáp. Thôi chết, – tôi nghĩ, – mình có định nói thế đâu.

– Ngươi đến từ nơi xa hơn cả Biển Xương? (ý bà ta muốn nóiđến vùng sa mạc nằm ở phía bắc vùng hồ).

Tôi định ra hiệu “người nói sao cũng được” lần nữa, nhưng lại nghĩ thế này thì mình sắp thành thằng ngu xuẩn, hèn nhát, ti tiện, chuyên nói quanh co. Vì vậy tôi ra hiệu “vâng”.

– Ở đó như thế nào?

– Nó khác ở đây và khác Ix, – tôi đáp.

– Khác như thế nào?

– Rất khác, – tôi nói chẳng giống tôi chút nào.

– Nhưng nó khác hơn “rất khác” nhiều.

Tôi im lặng. Quái thật, – tôi nghĩ.

– Người nói đúng, – tôi đáp, – nó khác theo cách không thể vẽ lại được, – Nghĩa là không thể hình dung được.

Câu trả lời đó dường như khiến bà ta ngập ngừng một giây.

– Ai là người cha đầu tiên của ngươi?

Tôi lặng thinh. Chết dở, – tôi nghĩ, – bà ta đang đến rất gần rồi. Cũng chẳng có gì là lạ. Mày đang ba hoa không khác gì một con ả ngu xuẩn sau hai hơibanano (Một loại thuốc chiết xuất từ vỏ chuối có chất Bananadine gây kích thích thần kinh). Mẹ kiếp.

Nào Jed, ngậm miệng lại. Tôi cũng xoay xở được để không mở miệng trả lời.

Sự im lặng cứ kéo dài mãi. Một trăm hai mươi nhịp. Hai trăm nhịp. Cuối cùng, trái với suy nghĩ tỉnh táo của mình, tôi nhìn lên.

Ối giời. Tôi vội nhìn xuống.

Tôi nghĩ tôi vừa nhìn thấy vẻ đáng sợ trên nét mặt bà ta. Không giận dữ, nhưng đáng sợ.

Chết tiệt. Bà ta biết mày đang giấu diếm chuyện gì đó. Chuyện gì đó rất ghê gớm. Có lẽ bà ta đã để ý thấy vài chi tiết nhỏ trong điệu bộ của mày. Coi chừng đấy. Mày có thể mất tích ở chỗ này. Nhà Đại Bàng giàu thật, nhưng cũng chẳng có ảnh hưởng gì mấy ở Teotihaccán này đâu. Ngay cả khi Nhện Dệt Cầu Vàng đang gặp rắc rối về chính trị, họ vẫn có thể đập bẹp chúng mày như một con rệp.

– Người khói nào chiếu sáng khuôn mặt mẹ ngươi?

Tôi nói ngày đặt tên của mẹ Chacal. Tôi cứ có cảm giác thôi thúc muốn tuôn ra thêm, nhưng tôi đã dùng lưỡi mút một phần môi trên vào một lỗ hổng giữa hai miếng khảm răng nhô ra và mút mãi cho đến khi đau nhói, nhờ thế mà giữ được im lặng. Đó là mẹo của Chacal. Khỉ thật, có thứ chết toi gì trong cái thức uống của nợ ấy thế nhỉ? Nó hẳn phải là một chất gây phân ly não bộ, chất gì đó chiết suất từ cây hoa xô đỏ, thậm chí là tetrodotoxin (Chất gây ức chế hoạt động của các tế bào thần kinh) hoặc… ôi thôi, là gì thì là, mày có thể chế ngự được nó. Dễ thôi. Nhớ lấy, đặc điểm lớn nhất của thuốc “nói thật” là chúng chẳng bao giờ có tác dụng. Cùng lắm cũng chỉ khiến người ta nói ra hàng tràng không dừng được thôi. Vận hết chí khí lên. Và đừng có uống thêm ngụm nào cái món sô-cô-la nóng ấy nữa. Tôi cắn chặt môi. Oái.

Cô gái Chim Cánh Cụt lạch bạch đi qua ngang trước mắt tôi. Cô ta luồn một ngón tay chùn chũn của mình qua nút thòng lọng trên bức vách ngăn giữa Koh và tôi và bước sang bên cạnh. Bức vách cũng chuyển động cùng cô ta, xếp lại như một chiếc ác-coóc-đê-ông. Bây giờ, công nương Koh và tôi mới thực sự ngồi trong cùng một không gian và sự thay đổi đó khiến tôi giật mình, như thể không phải Chim Cánh Cụt vừa kéo tấm vách mà cô ta vừa lột bỏ quần áo của tôi. Lúc này, tôi mới nhìn rõ nửa đen trên khuôn mặt Koh không phải vết xăm mà là màu da tự nhiên. Bà ta bị chàm. Nửa mặt bên phải có màu của melatonin (Một loại hoóc-môn trong cơ thể động vật) tích tụ, tựa như nốt ruồi, tức là gần như đen kịt. Nửa trên khuôn mặt không phải màu xanh lam như trong bức vẽ của Sọ Đá Quý 2. Nó chỉ có màu da bình thường của người Maya, nhưng cũng như nước da của mọi phụ nữ quý tộc khác, nó trắng bệch vì không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình như cũng có một vài hình xăm, nhưng chỉ để phân định ranh giới giữa hai nửa. Đường hình xăm đó quá mịn và ngoằn nghoèo nên không thể là tự nhiên được. Bà ta có những đặc điểm dị hình, Sọ Đá Quý 2 đã nói thế. Đúng thật.Và ông ta còn nói rằng Koh có họ với Janaah’ Pacal, ahau của Lakamha, tức Palenque. Và ông ta có mười một ngón tay, phải vậy không? Có lẽ rối loạn sắc tố da ít nhiều liên quan đến tật thừa ngón tay theo cách nào đó. Thực ra cũng chẳng có gì là dị dạng lắm. Còn hơn chán tật nhô hàm (Một tật khiến hàm dưới nhô ra và phát triển nhanh hơn hàm trên. Dị tật này còn được gọi là “Hapsburg lip” do nhiều đời của hoàng tộc Hapsburg – Hoàng tộc cai trị nhiều lãnh thổ rộng lớn của châu Âu từ thế kỷ 15 đến thế kỉ 18 – đều mắc tật này). Hay bệnh khó đông máu của Hanover (Chứng bệnh được coi là di truyền lại từ tổ tiên hoàng tộc Hanover – từng cai trị vương quốc Anh, vương quốc Ireland, vương quốc Hanover và công quốc Brunswick Luneburg – cho các hậu duệ của họ. Theo nhiều lời đồn đại, chứng bệnh này còn liên đới đến bệnh parhyria, một chứng rối loạn hiếm gặp, khiến người bệnh ở giai đoạn cuối những biểu hiện dị dạng như ma cà rồng). Bà ta hít vào một hơi và tôi thoáng nhìn thấy hai chiếc răng cửa được nạm thứ gì đó như ngọc lục bảo.

Cô gái lùn buộc bức màn đã xếp lại vào tường rồi biến mất, cứ như là tan biến đi vậy, có lẽ là qua một cái hang thỏ nào đó của cô ta. Cặp mắt của Chacal tỏ một cử chỉ lễ phép rồi lại nhìn xuống thảm.

Koh hỏi:

– Ngươi chạm vào cha ngươi lần cuối khi nào?

Ngươi chạm vào mẹ ngươi lần cuối khi nào?

Người khói nào rắc tro lên người bà?

Bóng tối đến với bà khi nào?

Vì sao ngươi lang thang

Không ở lại dưới chân họ,

Bên bếp lò?

Tôi có cảm giác là lạ trong cổ họng. Không, trong ngực nhiều hơn. Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, -bà ta đang đọc ý nghĩ của mình. Đồ phù thủy. Tôi những tưởng mình đã che giấu kĩ lắm. Thế nhưng nãy giờ tôi chẳng hề cảnh giác và bây giờ bà ta đang rình chộp tôi. Nào, chậm lại. Đầu tiên phải nghĩ đã, rồi nghĩ lại, rồi hẵng nói.

– Thưa, người ở trên tôi, có rất nhiều lý do, – tôi đáp.

– Mẹ ngươi ở đâu, cha ngươi ở đâu?

Và khu vườn nhà ngươi ở đâu?

Bà ta hỏi mình câu này chưa nhỉ? – tôi phân vân. Tôi bắt đầu cảm thấy ong ong. Mày mụ mị đi rồi đấy, Jed – tôi nghĩ – định thần lại đi. Tôi mút mẩu da môi chặt hơn nữa. Vị máu nhàn nhạt chảy xuống lưỡi. Tôi không trả lời.

– Ngươi gặp chị gái, em gái thật của mình lần cuối khi nào?

Ngươi gặp anh trai, em trai thật của mình lần cuối khi nào?

Cánh đồng ngô nhà ngươi được đốt lần cuối khi nào?

Đã đốt sạch chưa?

Đã tra hạt, đã làm cỏ chưa?

Ai quét dọn kho thóc nhà ngươi?

Nó được lợp mái chưa?

Đã sạch sẽ để chờ vụ thu hoạch chưa?

Ai đuổi chim chóc?

Ai gói bánh ngô cho ngươi?

Ai hát tên ngươi ngoài quảng trường

Khi lũ trẻ vay quanh đống lửa?

Khi ngươi trở về với cái lưng đau

Ai là người xoa bóp nó bằng dầu bạc hà?

Ai ngồi chờ ngươi trước sân?

Tôi không trả lời được.

Tôi chưa từng khóc kể từ khi làm Chacal, thực ra, tôi không hề nhớ anh ta đã từng khóc bất cứ lần nào trong đời, kể từ những bài tập bóng hông đầu tiên. Ở nơi mà anh ta lớn lên, anh ta sẽ chết nếu anh khóc. Tôi chỉ biết anh ta thậm chí không thể bắt cặp mắt mình khóc được nữa. Anh ta đã đánh bật nó ra khỏi mắt mình. Nhưng chúng vẫn biết cái cảm giác sắp khóc, khi nước quanh con ngươi dâng lên nóng lên và nằng nặng. Quỷ bắt mày đi, – tôi nghĩ, – trấn tĩnh lại nào. Tôi nhìn trân trân vào cánh hoa phong lữ. Nó dài hơn những cánh hoa khác, ngỏng lên trên cái cuống cong queo, nhìn hệt như con cá ngựa.

– Ngươi muốn kể cho ta điều gì đó, – Koh nói. Hay chỉ là tôi nghĩ bà ta nói? Tập trung vào nào.

Tôi ngồi thẳng người lên và tiện thể liếc nhìn lên bà ta một cái. Nếu có thể chụp được ảnh bà ta lúc này, tôi cá rằng khuôn mặt vẫn bình thản như lúc trước. Nhưng ở ngoài, dường như bà ta đang nhìn tôi với vẻ thích thú, với sự thông cảm và gần như với một nụ cười. Dường như tất cả đều nằm trong đôi mắt. Hoặc trong dáng đầu hơi nghiêng xuống. Hoặc bà ta đang cố ý tiết ra pheromone (Hoóc-môn tỏa mùi kích thích phản ứng của đông loại)…

– Còn điều gì đó khác bên trong ngươi, – bà ta nói.

Tôi cắn môi chặt hơn. Tùy người, ở trên tôi, nói – tôi ra hiệu. Tôi ngước mắt lên. Bà ta đang nhìn thẳng vào tôi. Như tôi đã nói, nhìn vào mắt nhau là cả một vấn đề đấy. Giống như trong phim Viên cảnh sát và một quý ông, khi Louis Gossett Jr. nói: “Đừng có nhìn chằm chằm vào tôi, anh lính mới! Nhìn lảng đi!”. Tôi lại nhìn xuống.

– Câu trả lời là cháu chắt chút chít của câu hỏi đấy, – Koh nói. Tôi đoán ý bà ta là nếu tôi không nói cho bà ta biết điều gì thì sao tôi lại mong bà ta đếm mặt trời giúp tôi.

– Tôi, dưới chân người, không giỏi hùng biện, nhưng tôi rất muốn thấy những mặt trời đó được đếm, – tôi đáp. Nghĩa là “tôi không muốn chuyện phiếm nhiều, tôi muốn bà bắt đầu chơi ngay đi cho được việc”.

– Ta qua nghèo túng để có thể đền đáp lại món quà của ngươi, – bà ta nói. Đại khái là “Hãy cầm lại những cái lông chết tiệt và mọi thứ khác của ngươi rồi cuốn xéo khỏi quán của ta đi”. Bà ta nhìn sang bên tay trái mình, tức là hướng tây, hướng của quá khứ. Tỏ ý: cuộc nói chuyện này là quá khứ, chúng ta xong việc rồi.

– Những mặt trời tôi muốn đếm không nhiều, và nó chiếu sáng cả người nữa, – tôi nói. Nghĩa là “Bà sắp toi rồi đấy, đồ phù thủy xấu xí. Số ngày còn lại của bà chỉ đếm trên đầu ngón tay nữa thôi, và nếu bà không tiếp tục màn biểu diễn này, chung ta sẽ cùng…”

Thế này chẳng khác gì cảnh ở lớp hai, khi thằng nào đó chộp lấy cái bút chì trên bàn sau lưng anh. Tôi nhìn lên. Bà ta cũng nhìn, nhưng lần này rất khác.

Những người luyện thú nói sự khác nhau giữa chó nhà và chó sói là chó nhà nhìn vào anh còn chó sói nhìn thấu anh. Con chó nhà nhìn vào mắt anh và nhận biết được cảm giác của anh. Nhưng bà ta không nhìn vào mắt tôi. Bà ta nhìn xuyên qua tôi.

Bà ta đe dọa mình đây, – tôi nghĩ. Nên biến khỏi đây thôi. Tôi bất giác nhổm người lên, chuẩn bị đứng dậy. Nhưng thay vì nhổm lên như bình thường, trọng tâm cơ thể tôi lại lắc lư nặng nhọc, óc a óc ách như cái bể bơm hơi đựng đầy bùn nhớt. Hai chân tôi đờ ra, tê dại, đau nhói. Chết rồi, toi rồi, – tôi nghĩ. Bà ta sắp… hay là mình lao vào tóm lấy cổ bà ta mà… không. Biết đâu có lính gác đang theo dõi. Cứ bình tĩnh mà ra về, có vội vã nhưng cũng đường hoàng. Tôi duỗi hai cẳng chân tê dừ ra, thật chậm rãi như thể tránh làm rung chuông báo động. Tôi nhổm người về phía trước, chống hai tay xuống sàn. Nào, đếm đến 3 nhé. Một, ha…

Koh hét lên một tiếng.

Hai mắt tôi bị hút chặt vào khuôn mặt bà ta. Nó đã dãn ra thành một nụ cười đáng sợ. Màng cứng nổi rõ quanh mống mắt và những miếng ngọc lục bảo khảm răng sáng lóe lên như một chuỗi mắt kép của côn trùng. Tiếng hét của bà ta lên bổng xuống trầm, chói tai như trong phim kinh dị, thể hiện sự sợ hãi và đau đớn cực độ, tiếng hét của người cảm thấy răng nanh của con báo đang cắm phập vào gáy mình. Tôi giật mình co người về vị trí cũ, hay đúng hơn tôi nghĩ là mình đã làm vậy, nhưng thực ra chẳng có chuyển động nào hết. Tôi nhận thấy mình vẫn đang ngồi nguyên tư thế như lúc trước. Tôi bị tê liệt.

Cảnh sát, họ được luyện cách quát “đứng im!” với uy lực đủ để người khác đứng sững lại. Nhưng vấn đề là họ không đứng lại lâu. Còn với tôi thì khác. Một sự kết hợp nào đó giữa chất độc trong món sô-cô-la và tiếng hét đã khiến tôi cứng đờ bất động, một phản ứng tự nhiên thường thấy ở những con thú có túi khi chúng nhìn thấy kẻ săn mồi và chưa thấy lối nào để chạy thoát.

– Hain chama (cầm lấy), – Koh nói.

Bà ta ngả người ra phía trước và chìa cánh tay mảnh khảnh ra. Bà ta cầm một hạt cây t’zee bằng ngón trỏ và ngón giữa, như lối người ta cầm quân cờ vây.

Bàn tay phải nắm lại của tôi hiện ra trước mắt tôi. Tôi dõi theo nó từ từ chìa về phía bàn tay Koh và xòe ra, lòng bàn tay ngửa lên trên. Cái hạt cây rơi xuống. Nó nắm lại và quay về chỗ của mình trên đùi tôi. Tôi nhìn lên. Hai trong số đốt sống cổ tôi kêu răng rắc thành tiếng.

Tôi ngồi lại tư thế cũ. Tôi thấy chóng mặt. Tôi nhìn xuống, rồi lại ngước lên. Nét mặt bà ta đã quay về trạng thái bình thản mặc định. Lạ sao, tôi không hề cảm thấy bực bội. Tôi chỉ thấy ỉu xìu xuống.

– Khi người ta tê dại, người ta có thể làm rất nhiều trò với người, – Koh nói. Ý bà ta là nếu muốn, bà ta có thể khiến tôi tê liệt lần nữa, rồi tra tấn tôi và bắt tôi khai ra mọi điều bà ta muốn biết. Có khối cách.

Tôi chưa từng nghĩ mình là người đặc biệt dũng cảm. Song… có lẽ do dây thần kinh của Chacal lại vào cuộc, hoặc có lẽ do tôi đã quá mệt nên tôi chỉ buông thõng hai từ:

– Bin el. (Bắt đầu đi).

Tôi nghĩ mình đã nói được câu đó với vẻ khá bất cần. Tôi lại thấy cái cảm giác gan lỳ, hay sôi sục, hay ngoan cường, hay gì gì đó, quay trở lại. Cứ việc lao vào đi, đồ phù thủy.

Bà ta không hề chớp mắt. Nét mặt bà ta có cái vẻ không thần sắc đến lạ kỳ, nói thế nào nhỉ, như Kenny Tran khi hắn vét sạch túi tôi trong trận chung kết giải Hold ‘Em năm 2010 tại casino Commerce.

– Actan cha ui alal, – cuối cùng, bà ta cũng lên tiếng. Câu ấy đại khái có nghĩa là “hãy cố thắng ván này”.

Hừ, có thể lắm, – tôi nghĩ. Và ngay trước khi tôi kịp có ý nghĩ đó, mọi thứ trong đầu tôi đã đảo lộn và sự thất vọng tràn lên. Hay ho rồi đây, – tôi nghĩ, – mình đã ngồi trong căn phòng này cả mấy tiếng đồng hồ và… quỷ tha ma bắt nó đi, mình sẽ đi được đến đâu kia chứ? Không ai tránh được ngày tận thế. Và tôi cũng chẳng trốn được đi đâu cho thoát cái khối u trong đầu. Tôi sẽ làm gì đây? Rình mò quanh Teotihuacán và tìm cách xoáy món thuốc chăng? Sang nửa Đỏ và hối lộ để xin một ít chăng? Không được đâu. Tôi sẽ bị lính nhà Bướm Đuôi Nhạn tóm cổ và pha thành món thịt băm. Chết tiệt. Có điều gì đó mách bảo tôi rằng – tôi ghét phải thừa nhận cái câu chuyện cũ rích về sự linh tính này, nhưng thực sự, thực sự có điều gì đó mách bảo tôi rằng – đó sẽ là kết cục mà tôi dễ nhận được nhất.

– Người đang bị đầy ải ở đây, – tôi nói, – và tôi đến để giúp người. Tôi biết những điều mà người không bao giờ có thể tự tìm ra. Tôi biết thành phố Lưỡi Dao chỉ còn lại rất ít mặt trời nữa thôi.

– Vậy tên ngươi là gì? – bà ta hỏi.

Tôi hơi rùng mình, và, vì một lý do nào đó, có lẽ do giọng nói của bà ta, tôi nghĩ bà ta nhìn thấy cả gai ốc đang sởn lên trên cánh tay tôi. Suốt thời gian ở đây, tôi đã tiếp xúc với những kẻ lúc nào cũng dùng đến cái mà họ nghĩ là phép mầu. Nhưng tôi vẫn chưa gặp bất cứ thứ gì thực sự đáng gọi là phép mầu – trừ cờ Hiến tế, cái đó không tính – hay ngoại cảm, hay thậm chí chỉ là linh tính hay không trùng hợp ngẫu nhiên khó giải thích. Và tôi tin chắc rằng việc Koh làm tôi bất động không thể là siêu nhiên được. Nhưng nó đủ để khiến tôi thấy rờn rợn.

Bình tĩnh nào, Jed, – tôi tự nhủ với mình không biết là lần thứ bao nhiêu, – bà ta không phải phù thủy đâu. Tôi liếc nhìn bà ta. Nếu bà ta có ngạc nhiên thì điều ấy cũng không được thể hiện trên khuôn mặt. Cặp mắt bà ta xoi mói khắp người tôi. Tôi lại nhìn xuống đất.

Thôi, – tôi nghĩ, – cứ đổ mẹ cái con súc sắc này đi.

– Caba ten Joachim Carlos Xul Mixoc DeLanda, – tôi trả lời. Cái tên tiếng Tây Ban Nha nói ra ở đây nghe thật kì cục. Tôi nghĩ mình nhìn thấy một tia sáng ánh lên trong sâu thẳm cặp mắt Koh, chắc tôi đã thu hút được sự chú ý của bà ta.

– Mặt trời nào chiếu sáng lễ đặt tên của ngươi?

– Khỉ Rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun mười tám của b’ak’tun mười bà.

Im lặng, nhưng không lâu như các bạn nghĩ.

– Mẹ ngươi là ai? – bà ta hỏi tiếp, – Và cha ngươi là ai?

– Mẹ tôi là Flor Tizac Maria Mixoc DeLanda, người Ch’olan, còn cha tôi là Bernardo Koyi Xul Simon DeLanda, người T’ozil.

– Vậy ai là người khói, người bảo trợ cho ngươi?

Tôi cho bà ta biết tên hai vị thánh bảo trợ của Jed: Santa Theresa và Maximón. Tôi đọc tên ông ta theo tiếng Maya là Mam.

– Người rời sân trước nhà mình khi nào?

– Imix 13, Mol 14, unial thứ năm, tun mười một, k’atun mười tám của b’ak’tun mười ba, – tức là ngày mùng 2 tháng 9 năm 1984, ngày cha mẹ tôi đưa tôi đến bệnh viện Xacan.

Im lặng.

Hừ, tốt lắm, Jed, – tôi nghĩ, – đây là lần thứ hai trong chuyến đi này mày bầy hết ruột gan cho người khác xem đấy. Nhưng một miếng to có độc trộn với một mẩu nhỏ thuốc “nói thật” khiến tôi khó lòng mà giữ mình kín đáo được…

– Ngươi đến đây bằng cách nào? – Koh hỏi.

– Tôi đến đây trên một thác ánh sáng, – tôi đáp, – đúng hơn, tôi chính là thác ánh sáng đó.

Mình đang luyên thuyên cái khỉ gió gì thế này, – tôi nghĩ, – phép ẩn dụ ấy không đạt rồi. Ôi thôi, kệ nó đi.

– Vậy.

Ở thời gian của ngươi

Con cháu chúng ta không được no đủ?

Người khói của chúng ta không được no đủ?

Trong giọng nói của Koh có vẻ gì đó – hừm, tôi hơi ngần ngại nói đến điều này vì nó làm bà ta thành kẻ yếu đuối, mà, chí ít là đến lúc này, bà ta tỏ ra là hoàn toàn ngược lại, và thực sự, được ngồi cùng bà ta trong một căn phòng khiến tôi thấy vững dạ lạ lùng, như thể đang cầm trong tay một con dao rựa sắc hay một khẩu súng nòng lớn – nhưng đúng là giọng bà ta buồn rầu lạ thường, như thể bà ta đã chứng kiến nhiều cảnh ngộ trên đời hơn bất cứ người nào, chứ đừng nói là những người ở tầm tuổi bà ta, như thể bà ta đã chứng kiến hàng triệu người rơi từ sự vui sướng của trẻ thơ xuống nỗi thất vọng chưa từng thấy, và cuối cùng, xuống tận nỗi sợ hãi hoảng loạn.

– Người ở thời các ngươi còn hát tên của họ không?

Còn xức nước thơm cho xương cốt họ không?

Những người khói của chúng ta còn được cúng máu nô lệ không?

Và họ còn bảo vệ ngươi không?

– Sự thật là những người cùng thời tôi đã ít nhiều quên đi nghĩa vụ của mình, – tôi đáp. Những lời này khi nói ra nghe cứ khập khà khập khễnh, thậm chí khập khễnh hơn cả khi nói bằng tiếng Anh. – Nhưng một vài con cháu người vẫn dâng cúng cho người khói trên bàn thờ và trên đỉnh núi. Tuy không còn nhớ tên tuổi ai nhưng họ vẫn thờ cúng tất cả.

– Vậy họ cúng bằng gì?

À…, – tôi nghĩ, – bằng gì thì cũng không phải bằng người.

– Đa phần họ trở nên nghèo túng, – tôi đáp.

– Nghĩa là họ để tổ tiên mình đói khát.

– Họ làm những gì có thể.

– Vậy là thế giới của người đang thối rữa dưới chân người.

Phải đấy, – tôi nghĩ bụng, – thế kỷ hai mốt đúng là đang sụp đổ. Bỏ lại người nuôi chim ưng, lê lết tới Bethlehem (Thành phố Israel, mục tiêu của những cuộc thánh chiến thời Trung Cổ. Câu này ý nói người ta bỏ lại thú vui săn bắn thời bình để lao vào chiến tranh như các hiệp sĩ Thập Tự Chinh), mọi sự tồi tệ đên mức thứ tồi tệ nhất cũng không bị kết tội.

– Có lẽ thế – tôi đáp, – nhưng không nhất thiết phải như thế.

– Vậy tại sao ngươi lại ở đây? Ngươi đi theo đường của ai?

Ý bà là tôi làm việc cho ai. Tôi định trả lời là Sọ Đá Quý 2 nhưng lại nghĩ sao phải lặp lại tất cả những chuyện đó một lần nữa, thế là tôi đáp: “Marena Park”.

– Vì sao ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, quyết định phái ngươi đến đây?

– Chúng tôi nhìn thấy người trong một cuốn sách, – tôi đáp, – một cuốn sách ghi lại ván cờ Hiến tế mà người đã chơi vào ngày Chúa tể 9, Sum họp 13, tồn tại được đến k’atun của chúng tôi. Chúng tôi đọc nó vào ngày Báo Đốm 2, Xương vàng 2, k’atun mười chín, b’ak’tun mười ba.

– Hai mặt trời trước khi phù thủy reo rắc lửa từ đá vỏ chai?

– Phải.

– Và đó là ngày ahau của thành Ix ra lệnh cho ngươi tới đây?

– Không, nhiều ngày sau đó, -tôi đáp. Tôi nói thêm rằng chính tôi đã xin Marena cử tôi đi.

– Nhưng bà ta đã cho ngươi xem cuốn sách vừa kịp lúc.

Tôi đáp rằng chẳng hề vừa kịp bởi khi đó đã quá muộn để trở tay và hàng ngàn người đã chết.

– Nhưng vừa kịp để ngươi biết rằng mặt trời không lành sắp tới.

– Phải.

– Vậy rất có thể ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, đã có ý định gửi ngươi đến đây trước khi cho ngươi xem cuốn sách.

– Tôi đã phải van xin bà ta.

– Ngươi mất bao lâu để cầu xin?

Tôi nhớ lại và trả lời: “không lâu lắm”. Thực ra, tôi nghĩ chỉ khoảng một phút rưỡi.

– Vậy có thể đó chính là câu trả lời cho ngươi.

Tôi ngồi lại và suy nghĩ. Mày biết mà, Jed, – tôi tự nhủ, – bà ta có thể đúng lắm chứ. Mày là thằng ngu. Mày cố tỏ ra thông minh và thạo đời, nhưng thực ra mày chỉ là loại ngờ nghệch cả tin. Có lẽ Marena, và Lindsay Warren, và Michael Mặt Dái, và Taro, và tất cả lũ ấy đã lợi dụng mày ngay từ ngày đầu tiên. Có lẽ Sic chưa từng muốn quay về đây. Đó chỉ là mánh khóe để kích cho mày ghen tị thôi. Thảo nào tiếng Ch’olan của hắn chối đến vậy, hắn biết là hắn chẳng cần đến nó.

Tuy vậy, tôi không thực lòng muốn tin chuyện đó. Tôi khẽ lắc đầu – không quá lộ liễu, tôi hi vọng thế – và cố suy nghĩ thật tỉnh táo.

– Và ngươi muốn gặp người đếm mặt trời đã chơi ván cờ đó.

Tôi nói rằng chúng tôi không thực sự hiểu điều gì sẽ xảy ra vào ngày đó.

– Vào ngày đó, bốn trăm đứa trẻ sẽ cho chúng ta biết chúng muốn gì, – Koh nói.

Im lặng. Đừng nói gì cả, – tôi tự nhủ, – cứ chờ đã.

Nhưng Koh cũng không nói gì thêm. Không bằng những người bị thẩm vấn với độ rắn mặt trung bình, cuối cùng, tôi không chịu đựng được.

– Cuốn sách nói rằng sẽ có nhiều hơn trước đây, nhưng vẫn không có ai cả.

– Đúng thế, – Koh ra hiệu.

– Và chúng sẽ đòi thứ gì đó, phải không?

– Chúng sẽ đòi thứ mà ta không thể cho.

Im lặng.

Thôi được rồi, – tôi nghĩ, – mình nên hỏi thẳng thì hơn.

– Con Ma Róc Thịt đó là ai?

Ta không biết – Koh ra hiệu.

– “Tất cả mặt trời của những lễ hội và tất cả mặt trời của sự khổ đau” nghĩa là sao?

– Mọi sinh vật sống có nhiều ngày khổ đau hơn lễ hội.

– Nghe cũng hợp lý, – tôi ra hiệu và hỏi tiếp: – Vậy nơi dành cho sự phản bội là gì?

– Đó là những ngày không tên, – Koh đáp. Theo nghĩa đen, câu ấy ám chỉ năm ngày nhuận cuối cùng không được đặt tên trong năm dương lịch Maya. Nhưng trong ngữ cảnh này, cần hiểu là “một nơi đồng không mông quạnh”, chỉ có điều là về mặt thời gian chứ không phải địa điểm. Tức là, nó không xảy ra trong cùng một dòng thời gian – hay cùng một chiều thời gian – với tất cả các sự kiện khác. Một dạng thời gian không được tính, giống như những khoảng thời gian chết trong một trận bóng.

Im lặng.

– Và lấy hai từ mười hai thì được Mèo Rừng 1? – tôi hỏi.

– Không, đó là một việc Mèo Rừng 1 đã làm, – Koh đáp.

– Tôi không hiểu.

– Mèo Rừng 1 cũng không giải thích rõ.

– Người đã nhìn thấy gì vào mặt trời đó?

– Ta không nhìn thấy gì cả, – bà ta đáp, – ta nghe được những điều đó từ Mèo Rừng 1.

– Người đã đấu ván cờ đó cùng Mèo Rừng 1? – tôi hỏi. Như tôi đã từng nhắc đến, Mèo Rừng 1 là ông tổ của thị tộc Mèo Rừng, người đã khai phá mạch nước ngọt của thành Ix và bóc lớp thịt gỗ khỏi những người câm bị dìm dưới nước vào những ngày tồn tại cuối cùng của mặt trời thứ ba.

Koh ra hiệu “phải”.

– Lúc đó ông ta ở trong điện thờ trên kim tự tháp của nhà Mèo Rừng phải không?

– Họ đã đưa ông ta tới một cung điện bí mật, – Koh đáp.

Ý bà ta là họ đã đưa xác ướp của ông ta từ trên đỉnh kim tự tháp xuống để đấu cùng bà ta. Dĩ nhiên, ông ta phải nói năng và di chuyển quân cờ thông qua một người thứ ba.

Hừ, đáng đời mày vì không đoán ra được điều này, – tôi tự rủa. Nghĩ lại thì quả là nhân vật thứ hai trong cuốn Thư tịch nhìn khá kỳ quặc. Tôi nghĩ tôi đã kể điều này, hoặc là chưa: xác ướp là cả một vấn đề trọng đại ở xứ này. Nhưng không như các xác ướp Ai Cập, chúng thường chỉ là một cái xác giả bằng gỗ hoặc bột ngô, đắp quanh một cái sọ và một vài chứ không phải tất cả các khúc của bộ xương. Thông thường, chúng được đeo một chiếc mặt nạ làm từ da thuộc của chính người quá cố, và đôi khi còn đeo thêm nhiều mặt nạ khác bên ngoài chiếc mặt nạ đó. Chúng được quấn đủ thứ phẩm phục và dây rợ. Và khác với xác ướp Ai Cập, chúng không phải nằm trong các quan tài. Chúng ngồi dự các bữa tiệc và các cuộc hội họp, được mang theo đến các lễ hội và thậm chí tham gia các trận đánh. Chúng đi khắp nơi, và dĩ nhiên, phát biểu rất nhiều, thông qua các người trung gian.

– Người, ở trên tôi, có thể hạ cố kể thêm một vài chi tiết? – tôi ngỏ lời.

– Không có gì để kể thêm về ván cờ. Cuốn sách của ngươi đã đầy đủ hết.

– Nhưng đôi khi người ta có thể dụ con mồi theo đường cũ một lần nữa, – tôi nói. Đó là một câu ngạn ngữ, nhưng ý của tôi là: “Người có thể chơi lại đoạn cuối của ván cờ đó và đoán lại một lần nữa”. Cách làm này cũng tương tự như trong cờ vua, anh có thể chơi lại từ nước ngay trước nước cuối cùng quyết định phần thắng để thử xem bên thua có thể lật ngược thế cờ.

– Điều đó không thể thực hiện được, – Koh đáp, – Mèo Rừng 1 vẫn chơi với những quả bóng sống. – Tôi nghĩ mình đã nhắc đến điều này rồi, “những quả bóng” cũng có thể hiểu là “những quân cờ”. – Có lẽ không ai có thể chơi một ván cờ lớn đến thế lần nữa. Kết thúc.

Chết tiệt, – tôi nghĩ. Hình như ý bà ta là nghệ thuật chơi cờ Hiến tế đang dần thất truyền. Và ở đây, khi ai đó nói “kết thúc” nghĩa là anh đừng hòng moi thêm được tí thông tin nào từ họ, dù anh có tra tấn họ đi chăng nữa. Mặc dù anh có thể cứ tra tấn họ như một nghi thức xã giao.

Koh nhìn sang cây hương đồng hồ. Nó đã cháy hết. Cuộc tiếp kiến coi như chấm dứt. Mẹ kiếp. Tôi cứ nghĩ thời xưa người ta thong dong lắm. Thế mà bấy giờ tôi phải cố nấn ná để được ngồi thêm vài phút với bà ta, hệt như một tay nhà báo hạng hai phỏng vấn Madonna. Koh quay người lại, mắt nhìn qua đầu tôi, theo đúng phép tắc. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp. Các bạn hẳn cũng nghĩ chuyện này chí ít cũng phải có tí gì hay ho chứ. Có phải ngày nào trong cả một k’atun người ta cũng gặp được Buck Rogers (Nhân vật chính của một loạt truyện tranh vui về du hành vũ trụ) đâu, song tôi đoán bà ta không thể làm gì ngay lúc này. Thời gian Im lặng bắt đầu, có hàng đống người xin diện kiến giàu có hơn đang xếp hàng ngoài kia còn hai Giáo hội lớn thì đang lăm le tiêu diệt đền thờ Rắn Chuông, thời gian thực sự là…

Được rồi. Bình tĩnh lại đi. Thử lại lần nữa.

– Tôi biết chính xác thời điểm Người Nuốt ánh Sáng tấn công mặt trời sau chín ngày nữa, – tôi nói, – nó sẽ là tám trăm lần hai mươi cộng chín lần hai mươi cộng một nhịp sau tia sáng mặt trời đầu tiên.

Như tôi đã từng đề cập, mọi người đếm mặt trời ở Mesoamerica đều biết sớm ngày hôm đó sẽ có hiện tượng nhật thực. Nhưng kể cả những người thông thái nhất, những người đứng đầu giới thiên văn học ở Teotihucán, ở Ix, lẫn ở Palenque đều không dự đoán được chính xác thời điểm. Họ thậm chí không chắc đó là nhật thực toàn phần hay một phần. Vì để biết điều đó, người ta cần kính viễn vọng, phép tích phân và vi phân.

– Người nào biết thì vẫn biết, – Koh đáp. Đó là một kiểu thành ngữ không dịch được, nhưng về cơ bản nó có nghĩa là “chúng ta phải chờ xem thôi, phải thế không?”, ý rằng hãy cho ta biết điều gì mà ta có thể dùng ngay lúc này đi. Bà ta có lý.

– Mặt trời sẽ bị che khuất trong mười chín lần hai mươi và tám nhịp, – tôi nói, – tiếp đó, sau bốn mươi mốt lần hai mươi và mười tám nhịp, nó sẽ trở lại như trước.

Im lặng. Bà ta không ném tôi ra cửa nên tôi cứ nói tiếp.

– Chỉ có điều, thực ra không có gì nuốt mặt trời cả. Chỉ là Nữ thần Thỏ Vấy Máu đi vào giữa mặt trời và trái đất (Koh gật đầu thờ ơ, ý là bà ta biết điều đó rồi) và Thỏ Vấy Máu là một quả cầu với một mặt luôn quay về phía chúng ta, còn mặt trời là một quả cầu bốc cháy, giống như quả bóng hông chơi ban đêm; Người Chế Ngự Mặt Trời và Người Báo Tin Của Mặt Trời (Ý nói sao Kim, ngôi sao vừa được gọi là sao Hôm vừa được gọi là sao Mai) chỉ là một (bà ta cũng gật đầu khi nghe điều này) và nó cũng là một quả cầu, và tầng thứ không (tức Trái Đất) cũng là một quả cầu, nó giữ chúng ta trên mình nó như một hòn đá nam châm lớn hút các hòn nhỏ. Những đốm lửa xì gà như Iztamna, Ixchel và Hunaphu 7 cũng chỉ là những quả cầu, tất cả đều lao quanh mặt trời.

– Nhưng chúng có rơi xuống đâu, – bà ta nói.

A ha, – tôi reo thầm,- mặt nạ rơi xuống rồi. Nữ Thần Băng Giá té ra cũng có quan tâm đến vài điều.

– Chúng đang rơi, – tôi đáp, – nhưng chúng còn phải rơi tiếp một khoảng cách rất xa nữa mới chạm được vào mặt trời. Chúng sẽ tiếp tục rơi thêm bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm b’ak’tun nữa.

Mong sao điều này làm bà ta sửng sốt, – tôi nghĩ, – quân bài đẹp nhất của mình rồi đây.

Tôi vươn người ra phía trước – rất trái phép lịch sự – và với lấy một cái bát tròn, nông trên chiếc mâm đựng đồ đất nung đặt gần bếp lò. Tôi kéo cổ áo choàng lên miệng, dùng răng căn đứt một viên đá tròn màu xám, dứt dứt sợi dây buộc và thả nó vào cái bát. Tôi cầm bát lên và xoay viên đá quanh bát. Nó hơi lẩy bẩy nhưng tôi cứ tiếp tục bài diễn thuyết.

– Phần trung tâm của chiếc bát giống như mặt trời, – tôi nói, – và chúng ta đang đứng ở một bên của viên đá. Khi chúng ta quay quanh như thế này, chúng ta tưởng mặt trời chuyển động. Nhưng thực ra chính chúng ta chuyển động.

– Vậy ngươi, bên cạnh ta, nói rằng mặt trời nằm ở đáy chiếc bát ngọc lam?

– Không, không có chiếc bát nào cả. Và không có các tầng trời. Bầu trời chỉ là gió trên cao thôi. Và thực ra, chúng ta không quay quanh nó theo một đường tròn hoàn toàn. Chúng ta chuyển động theo hình giống như quả trứng ngỗng.

Tôi lại ngả người ra đằng trước – mất lịch sự quá thể, nhưng tôi hy vọng chúng tôi đã qua giai đoạn phải giữ gìn phép lịch sự đến thế – và dùng cẳng tay gạt một nhát đống cánh hoa sang bên cạnh, dẹp được một khoảng trống hình lưỡi liềm cụt trên tấm thảm cói trắng bện rất đẹp.

– Vòng tròn nhỏ này là Mặt Trời Thứ Tư, – tôi nói, – quả bóng này là Người Chế Ngự Mặt Trời, cũng là Người Báo Tin Của Mặt Trời, quanh xung quanh mặt trời theo vòng tròn rộng hơn này. Tôi phải với người ra lấy thêm bồ hóng đến sáu lần trước khi hoàn thành bức vẽ.

Dĩ nhiên, bản phác họa của tôi rất sơ sài, nhưng vẫn có thể hiểu được.

– Tầng thứ không nằm ở đây, – tôi vừa nói vừa vẽ một ký tự hình con mắt (hoặc con hàu) lên phía ngoài cùng bên trái. – Còn đây là điểm xa nhất của Người Chế Ngự Mặt Trời. – Tôi vẽ một ký tự biểu hiện sao Hôm tại điểm 11 giờ trên hình tròn lớn và đánh dấu chấm bên cạnh.

Tôi tưởng Koh định nói gì đó, nhưng bà ta không nói gì.

– Đây là vị trí của Người Chế Ngự Mặt Trời vào đêm cuối cùng, – tôi vẽ một ký tự phía dưới, bên phải hình thứ nhất và đánh hai dấu chấm bên cạnh.

Koh nhìn chăm chăm vào bức vẽ. Bà ta chẳng nói câu gì. Hình như tôi đã nhắc đến ở đâu đó rằng đúng là lịch của người Maya nổi tiếng chính xác, nó tính số ngày theo mặt trời chính xác hơn cả lịch Greogry khi chưa chỉnh sửa. Nhưng họ chưa có thuyết nhật tâm, tuy qua cách Koh tiếp thu vấn đề này, tôi đoán bà ta và những nhà thiên văn Maya giỏi nhất cũng có ý niệm mơ hồ về nó.

– Và điểm thứ ba này là vị trí của quả cầu khi xuất hiện vào buổi sáng đầu tiên, khi nó được gọi là Người Báo Tin Mặt Trời, – tôi vừa nói vừa di chuyển nó ngược chiều kim đồng hồ. – Còn đây là vị trí xa nhất của nó, vị trí vào buổi sáng cuối cùng. Sau đó, nó sẽ bị khuất sau mặt trời trong vòng năm mươi ngày, rồi lại xuất hiện lại ở đây, với tư cách là Người Chế Ngự Mặt Trời. Tổng cộng là mười một nhân hai mươi cộng bốn ngày và chín mươi mốt nhân hai mươi cộng năm nhịp. – Tôi vẽ ký tự thể hiện số 6 cạnh hình vẽ cuối cùng. Tôi bỏ qua các điểm giao hội với các hành tinh khác. Sao phải dài dòng chứ?

Tôi dừng lại.

Khoảng thời gian dừng kéo dài mãi.

Ngon rồi, – tôi nghĩ. Với đám người này, nếu có thứ gì anh luôn có thể trông cậy thì đó chính là một nền tảng kiến thức vững chắc về môn thiên văn bằng mắt thường. Dù gì bà ta cũng là một người đếm mặt trời. Và người đếm mặt trời nào cũng muốn biết cái gì đó hơn người thường. Ngay cả khi sự tiến bộ không được tán thành – tức là những thứ mà người da trắng xưa kia coi là sự tiến bộ – thì vẫn cứ có vô số sự tiến bộ nảy sinh từ sự ganh đua, một cách tự nhiên và không thể ngăn cản được. Người đếm mặt trời là những người lao động tích cực và họ luôn tìm tòi những điều mới. Không phải chỉ để dự báo được cơn mưa đầu mùa chính xác hơn đồng nghiệp ở thành phố bên cạnh, ví dụ thế, mà để trao đổi với nhau. Chẳng hạn, trong trường hợp của Koh, bà ta cần chia sẻ những hiểu biết kiểu như thế này với các nữ tư tế khác của Nhện Dệt Cầu Vàng để tất cả cùng sử dụng sự chính xác nhỉnh hơn một chút làm quân bài thương lượng trong cuộc xích mích với hai Giáo hội lớn.

Cuối cùng, Koh lên tiếng:

– Vậy ý ngươi là việc Lợn Cỏ 2 bước ra khỏi đám rước và quay về hang động của mình trên đường trắng cũng là hiện tượng tương tự? (và ta đang nói về sao Hỏa).

– Ông ta không quay về đâu cả, – tôi đáp, – chỉ là chúng ta thấy thế, bởi mặt đất dưới chân chúng ta chuyển động. Đúng là Lợn Cỏ 2 di chuyển tương tự như Người Báo Tin Mặt Trời. Nhưng trong khoảng thời gian dài hơn vì nó ở xa mặt trời hơn chúng ta.

– Và Người Báo Tin Mặt Trời thì ở gần hơn?

– Người Báo Tin Mặt Trời ở gần hơn.

– Và ngươi nói Mặt trời lớn hơn tầng thứ không?

– Lớn hơn bốn trăm của bốn trăm lần, – tôi đáp, – và nếu người đi bộ đến mặt trời, tuy chuyện đó là không thể, ta hãy nói là người bay đến đó với tốc độ bằng tốc độ đi bộ, thì sẽ mất chín trăm lần bốn trăm b’ak’tun.

Koh nhìn vào tấm biểu đồ, tính toán. Bà ta đang trải qua cả một cuộc cách mạng đây, – tôi nghĩ. Giống như Copernicus (Nhà thiên văn học đầu tiên đưa ra học thuyết nhật tâm – mặt trời là trung tâm của hệ mặt trời. Warmia là thành phố nơi ông sống, làm việc và qua đời) ở Warmia. Giống Tycho Brahe (Nhà thiên văn học người Đan Mạch thể kỷ 16, ông ta bị cụt mất một phần mũi trong một trận đấu kiếm), rụng mất mũi chỉ vì chõ nó vào không gian. Giống Johannes Kepler (Nhà thiên văn học nổi tiếng với định luật về chuyển động thiên thể). Giống Gallileo Lập Dị. Chờ đấy, cho đến khi tôi chỉ cho bà thuyết tương đối rộng, – tôi nghĩ, – lúc ấy bà sẽ đập nát cái bàn tính của mình. e = babes3 (Đây là một cách nói nhại công thức e = mc2 trong thuyết tương đối hẹp, vì vậy, người dịch xin giữ nguyên bản).

– Vậy là những người ở thời gian của ngươi biết mọi thứ, – cuối cùng bà ta cũng nói. Tôi phải ghìm một cái giật mình, vì bà ta đã im lặng quá lâu.

– Không hẳn là tất cả mọi thứ, – tôi ra tín hiệu. – Nhưng họ đang… họ sẽ nghiên cứu để biết hết mọi thứ.

– Và tất cả họ đều là những nhà quý tộc đầy quyền lực? (nghĩa là: có phải tất cả họ đều giàu có và đang cai trị).

– Không, rất nhiều trong số họ là người ở nhà tròn. Tuy nhiên, đa số họ giàu hơn nhiều so với những người ở nhà tròn thời này. Thức ăn nhiều đến mức ngay cả những kẻ không có bếp lò cũng béo. Hầu hết người ta sống được ngoài ba k’atun. Chúng tôi đi trên không trong những con thuyền biết bay khổng lồ bằng đồng. Chúng tôi có những cây đuốc lạnh chạy được một trăm lần hai mươi đêm và những thứ vũ khí có thể giết chết được hàng trăm lần hai mươi người ở khoảng cách một trăm lần hai mươi ngày đường. Chúng tôi nói chuyện và nhìn thấy mặt nhau khi ở cách nhau rất xa, qua những dải ánh sáng vô hình. Từ trước khi tôi ra đời, mười hai người đã lên được quả cầu mặt trăng trên một chiếc thuyền. Chúng tôi đông tới bốn trăm lần hai mươi của bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi người. Chúng tôi nhìn thấy bên trong người mình mà không phải mổ ra. Chúng tôi làm ra những vật còn thông minh hơn cả chúng tôi. Chúng tôi lặn xuống đáy biển mặn, ở đó nhiều ngày và trở về nguyên vẹn.

– Nhưng các ngươi đã quên những điều quan trọng nhất, Koh nói, – vì vậy các ngươi đến đây. Đúng chứ?

Tôi không trả lời ngay. Hừ, sao cũng được. Tôi ra hiệu “phải”.

– Vì các ngươi, ở thời của các ngươi, đã quên mất tổ tiên mình, – bà ta nói.

Tôi ra hiệu rằng “không hẳn thế”.

– Nhưng ngươi biết thành phố Lưỡi Dao còn nhận đồ tế cúng trong bao nhiêu ngày nữa? (tức là Teotihucán còn tồn tại bao nhiêu ngày nữa).

Đồ phải gió.

– Chúng tôi không biết điều đó, – tôi đáp.

Bà ta hỏi vì sao. Nếu tôi đến từ b’ak’tun thứ mười ba và biết nhiều đến như vậy thì sao tôi lại không biết chính xác cái ngày ấy.

Tôi nói với bà ta rằng, đến thời tôi được sinh ra, hầu hết sách vở của thế giới bà ta đang sống đây đều bị tiêu hủy, một vài cuốn sóng sót được thì không cho biết ngày tháng. Tôi ra sức giải thích thế nào là các nhà khảo cổ học, và họ xác định ngày tháng bằng cách nào, và rằng họ đã tính toán được thời điểm thành phố bị bỏ hoang vào khoảng k’atun thứ mười một, mười hai, hay mười ba gì đó của b’ak’tun này, tức là khoảng từ năm 650 đến 710 Công nguyên, nhưng không xác định được chính xác hơn, – tôi giải thích.

Lại im lặng. Bà ta chăm chú nhìn bức vẽ.

Tôi không nói gì thêm ít ra câu chuyện cũng đã dễ nói hơn lúc trước. Cảm giác cứng đơ đang mất dần.

Koh rút một cái phất trần đuổi ruồi trên giá và để nó trước đùi. Thế có nghĩa là cuộc tiếp kiến đến đây kết thúc.

– Có lẽ ta và ngươi, bên cạnh ta, sẽ thỉnh ý sọ một lần nữa sau một giỏ mặt trời, khi Người Nuốt ánh Sáng đã bị xua đi, – bà ta nói.

ĐỒ CHẾT TOI, – tôi nghĩ. Không, phải nói là “tôi đang gầm rít lên trong bụng”. Đồ phù thủy. Có lẽ tôi nên biến thôi. Tôi nên ra đường mà kiếm cái thứ chết tiệt đó, còn hơn là cứ quanh quẩn như thằng ngớ ngẩn ở đây suốt…

Không. Phải bám dai dẳng vào. Biết đâu đấy, có khi bà ta chỉ ra vẻ thế với mày để moi thêm thôi. Dấn thêm một bước nữa nào.

– Nhà Nhện Dệt Cầu Vàng sẽ không tồn tại được lâu nữa, – tôi nói, đánh liều xóa bỏ phép lịch sự, – chúng tôi không biết là bao lâu, nhưng chắc chắn không lâu.

– Ta, bên cạnh ngươi, đã biết điều đó lâu rồi.

– Sọ Đá Quý 2 dành cho người, và dòng tu của người, một nơi ẩn náu ở Ix.

Koh hơi nhúc nhích người. Tôi nghĩ bà ta hơi ngẩng đầu lên, như lối người ta bất ngờ nghe thấy điều gì đó, nhưng có khi chỉ là tôi tưởng tượng ra. Bà ta không nói gì.

Mẹ kiếp, – tôi rủa thầm. Thế là đi đời cái phương án A. Sọ Đá Quý 2 đã nhắc rằng tôi nên chờ cho đến khi bà ta ngỏ lời nhờ vả, rồi giả vờ nhượng bộ, bằng không bà ta sẽ nghĩ đây là một trò lừa đảo.

Bà ta lại nhúc nhích. Thoạt tiên, tôi tưởng bà ta định đứng lên bỏ đi, nhưng thay vào đó, bà ta nói:

– Vậy ngươi, bên cạnh ta, cuộc rằng Sọ Đá Quý 2 sẽ thắng trận bóng hông với nhà Mèo Rừng? – ý bà ta là bà ta nghĩ nhà Đại Bàng sẽ bị Mèo Rừng đánh bại, một cách đường hoàng hoặc không và sẽ phải chạy khỏi Ix.

– Ma’ lo’ yanil (chuyện đó chẳng ảnh hưởng gì), – tôi đáp, – dù thắng hay thua, nhà Đại Bàng cũng sẽ ở lại, nhà Mèo Rừng sẽ phải đi.

Ý tôi muốn bà ta hiểu rằng kiến thức siêu việt của tôi sẽ giúp Sọ Ðá Quý 2 có hỏa lực, ðủ ðể hạ bệ nhà Mèo Rừng.

Hẳn các bạn cũng đoán ra, lại một khoảng thời gian im lặng kéo dài mãi không dứt. Hừ, chí ít bà ta cũng không lải nhải như những con vẹt tầm thường khác.

– Ngươi đến đây vì Người Chèo Xuồng chứ không phải vì ta, – bà ta nói.

Tôi không biết phải trả lời làm sao. Thôi rồi, – tôi nghĩ, – sắp bị tống cổ rồi. Lại quay về số không.

Nhưng Koh lại nói:

– Người ở thời ngươi đã quên mất cách lập một chu kỳ mới.

Tôi gật đầu “phải”.

– Nhưng các ahau ngươi đang thờ cúng muốn đỡ đầu cho sự ra đời của một dòng giống mới của những mặt trời mới, sau khi các mặt trời của b’ak’tunthứ mười ba đã tắt.

– Tôi muốn góp phần bắtđầu một vòng quay mới.

– Vì sao? – bà ta hỏi, – Ngươi sẽ quay về thế giới của ngươi chứ?

– Tôi muốn cố gắng làm điều đó, – tôi đáp, nửa lảng tránh câu hỏi. Tôi nghĩ bà ta sẽ hỏi tôi định làm điều đó như thế nào, nhưng bà ta coi câu trả lời của tôi là một câu “vâng” và hỏi tiếp:

-Bax ten tex haabet? – Nghĩa là: “vì sao ngươi muốn [trải qua tất cả những điều này]?

– Vì ai cũng muốn bảo vệ gia đình mình.

– Ngươi, bên cạnh ta, có gia đình ở đó ư?

– Tôi có… những người mà tôi coi là gia đình nuôi.

Hay chí ít cũng có những người gần – như – bạn ở trên mạng, – tôi nghĩ.

Tôi đoán Koh biết tôi đang khuyếch khoác lên thế. Nhưng bà ta không tiếp tục theo suy nghĩ đó.

– Nếu những người ở thời ngươi sống sót

Biết đâu họ sẽ vẫn quên chúng ta?

Liệu họ có nhớ những ngày chúng ta được đặt tên?

Những ngày chúng ta qua đời?

Liệu họ có quên đi cách chúng ta cày cấy, dựng nhà

Cách chúng ta tấn công kẻ thù?

Cách chúng ta nuôi dậy lũ trẻ?

Liệu họ còn hát những bài ca nhắc đến tên chúng ta?

Họ có nhớ được không?

– Tôi sẽ thu xếp để họ nhớ dòng giống của chúng ta và cúng tế uay của chúng ta vào ngày chúng ta qua đời.

– Nhưng ngươi đã nói họ chỉ dâng cúng những lễ vật nghèo nàn.

– Không hẳn lúc nào cũng thế, – tôi ra hiệu.

– Và ngươi nói những người cùng thời ngươi là những kẻ đê tiện, – bà ta nói. Trong tiếng Ix, từ này không hẳn có liên quan đến từ “xấu xa”, nhưng nếu có thì cũng nặng nề hơn rất nhiều.

Mình nói thế bao giờ nhỉ? – tôi phân vân. Hừ.

– Họ xấu hơn những người khác ở thời này về nhiều mặt, – tôi đáp, – nhưng về những mặt khác, có thể nói họ tốt hơn.

– Và ngươi muốn ta chơi một ván cờ chín viên đá. Và ngươi nghĩ chỉ cần xem là có thể học được trong hai ánh sáng.

“Hai ánh sáng” là một thành ngữ, ý nói “ngươi nghĩ ngươi có thể học được ngay lập tức”.

– Tôi, dưới chân người, không có ý nghĩ đó.

– Vậy ngươi và ta còn làm gì ở đây nữa?

– Tôi, dưới chân người, muốn xin một quẻ bói.

– Ta đã xem cho ngươi rồi.

– Nhưng lần này, tôi muốn trao đổi một thứ lớn hơn, – tôi đáp. Tôi thưa với bà ta rằng tôi có thể cho bà ta biết mọi điều bà ta muốn biết bất cứ thứ gì sẽ được khám phá, phát hiện hay sáng chế ra trong vòng bốn b’ak’tun tới.

-Ta biết đủ nhiều để tự thấy hối tiếc vì đã biết, – bà ta nói. Tôi không rõ bà ta muốn ám chỉ những điều tôi vừa cho bà ta biết, hay những điều trước đây bà ta vẫn biết, hay cả hai.

– Vậy hãy cho phép tôi cho người biết điều gì đó có ích cho người. Hãy để tôi cho người biết điều gì đó.

– Ngươi đã cho ta biết hình dáng mặt trời.

– Hãy để tôi cho người biết điều gì đó giúp người rót mật vào ch’anac của những bông hoa của người. – Nghĩa là điều gì đó giúp người cứu giúp người dân của mình. – Tôi, bên cạnh người… chúng tôi có thể tạo ra vài thứ chưa ai từng thấy bao giờ.

– Ví dụ? – bà ta ra hiệu hỏi, đặt cây phất trần xuống.

– Tôi tả cho người cái bánh lăn cố định nhé? – tôi đề nghị.

– Nó là cái gì? – bà ta ra hiệu.

Tôi bắt đầu giải thích về cái bánh xe. Tôi kể rằng nó giống như các con lăn, nhưng được giữ cố định qua phần giữa, rằng những chiếc xe cút kít hữu dụng tuyệt vời, và tôi bắt đầu vẽ ra một cái. Nhưng Koh nói rằng ở đây họ có thứ này rồi và gọi Chim Cánh Cụt ra để lấy ví dụ. Tôi chẳng biết phải nghĩ sao. Nhưng cô gái lùn đã quay lại với một con báo đốm đồ chơi nhỏ bằng gỗ với bốn bánh xe thay cho bàn chân. Koh nói loại đồ chơi này khá phổ biến trong giới quý tộc, nhưng không được phép mang chúng ra khỏi nhà, nơi dân thường có thể nhìn thấy. Theo như tôi hiểu, lý do không phải vì dân thường sẽ nảy ra ý nghĩ rằng những chiếc bánh xe ấy có thể có ích, mà vì ai đó có thể bắt chước cách làm và dùng chúng để lôi kéo một bè phái thần phục mình. Hắn có thể đến một thành phố khác, khiến người dân ở đó kinh ngạc về cỗ xe của mình, tự nhận mình là một phù thủy vĩ đại và rốt cuộc sẽ trở thành mối hiểm họa đối với giới quý tộc. Cái bánh xe có thể trở thành một vật thiêng, trung tâm của một tín ngưỡng mới, như con dao, hay lửa, hay bí mật được bảo vệ nghiêm ngặt của gương lồi… hay món thuốc dùng trong cờ Hiến tế. Ngoài ra, Koh nói – tôi diễn giải lại tùy tiện một chút – rằng thời buổi này có vô khối những kẻ ở nhà tròn, nếu cần di chuyển thứ gì nặng, chỉ cần sai chúng làm là được.

Phát nản đi được. Hệt như có lần, tôi cho một cô gái rất sành điệu đi nhờ xe đến New Haven và khuyên cô ta nên học lái xe.

– Nếu hôm nay không có tôi cho đi nhờ thì cô làm thế nào? – tôi hỏi.

– Tôi sẽ gọi một anh chàng khác, bảo anh ta đưa tôi đi, – cô ta đáp, rồi ngủ với anh ta là được.

Thôi, không sao, – tôi tự nhủ, – quên loại bánh xe dùng để chuyên chở đi. Loại dùng để làm mâm bát vậy nhé?

Tôi bèn kể với bà ta về cái bàn xoay thợ gốm. Sự thể là, chỉ là nói sự thật thôi, khi bàn về chuyện bát đĩa ở đây – ở đây tức là ở Mesoamerica – anh phải công nhận rằng đúng, có những họa tiết trang trí thật đáng nể, nhưng hình dáng thì vẫn còn hơi méo. Việc ai đó chìa ra một cái bình tròn hoàn hảo sẽ gây ra một sự trầm trồ thán phục. Nhưng Koh nắm được tôi sắp nói gì, bà ta lại phản đối. Rằng hai Giáo hội lớn sẽ tuyên bố rằng bất cứ kẻ nào tạo ra được những loại bình lọ mới thì chắc chắn là phù thủy yêu thuật đầy quyền năng và họ sẽ phái cả một đội quân đến để tiêu diệt hắn. Kể cả khi điều đó không xảy ra và thứ dụng cụ có bánh xe kia được chấp nhận, nó sẽ đẩy hàng ngàn gia đình làm nghề gốm vào cảnh chết đói vì họ sẽ chẳng bao giờ theo kịp sự thay đổi đó. Tôi đoán đó cũng là lý do vì sao chúng tôi – ý tôi là người Maya cũng như người Teotuhuacán và các nền văn minh Mesoamerica lớn khác – không dùng cung và tên, trong khi những người Quá-Cao vẫn sử dụng. Chẳng khác gì chuyện tôn thờ đao kiếm của cácsamurai, khi Tokugawa (Tức Tokugawa Ieyasu, người sáng lập ra chính quyền quân sự thống trị Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868, còn gọi là Mạc phủ Tokugawa) tính toán rằng nếu để súng ống tốt lọt vào Nhật Bản, chúng sẽ làm lung lay cơ chế quyền lực, kể cả khi Mạc phủ là gia tộc đầu tiên sở hữu chúng. Vì vậy, ông ta và những người kế nghiệp đã tịch thu toàn bộ súng và thuốc súng, cấm cửa các thương gia Bồ Đào Nha trên hầu hết lãnh thổ Nhật Bản, và về căn bản, đã duy trì đất nước trong tình trạng lạc hậu suốt hai trăm năm mươi năm.

– Chúng ta không thể dùng những thứ đó ở đây, – bà ta nói, – kết thúc.

Chết tiệt. Tôi cạn ý tưởng rồi. Chúng tôi chưa tập dượt chuẩn bị cho tình huống này ở Stake.

– Vậy người hãy làm, coi như ném một quả bóng thôi, – tôi nói. Câu này giống như cách nói của những tay chơi bài poker: “đặt cược vào gà đi”, để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Làm bừa đi, đánh liều đi.

– Ngươi nghĩ ta không tò mò về sự hiểu biết của ngươi, – bà ta nói. Tôi không đáp câu gì. – Nhưngđúng là ta có tò mò. Song sự tò mò là kẻ hành hạ, là kẻ tra tấn. – Nghĩa là sự tò mò của bà ta sẽ làm tổn hại đến những người mà bà ta không có lý do để làm tổn hại.

Ừ thôi, chí ít thì điều đó cũng cho thấy bà ta có đôi chút thấu cảm trong người, – tôi nghĩ bụng, – phải vậy không? Vấn đề là – mặc dù tôi nhìn chung không thích đưa ra những đánh giá tổng quát về con người, không phải vì tôi có thể sai, mà vì những thứ đó người ta đã nói cả rồi – vấn đề là con người chỉ có hai thể loại, hoặc biết thấu cảm, hoặc không, mà loại thứ hai thường nhiều hơn. Và hoặc bà ta là loại thứ nhất, hoặc chúng ta bị lòe. Chỉ có thể thôi.

Nào, suy nghĩ đi.

Sự thấu hiểu cảm xúc là một khái niệm khá trìu tượng để có thể diễn tả trong tiếng Ix. Mày phải khoanh vùng nó trong vốn từ về gia đình.

Được rồi. Bắt đầu.

– Tôi biết…, – tôi nói, – tôi biết rằng nếu người đi trên đường, và người bắt gặp một kẻ đang bóp chết một đứa trẻ ba tuổi, người sẽ muốn ngăn việc đó. Ngay cả nếu đó là con của chính hắn, ngay cả nếu đứa trẻ bị ghẻ lở và sinh ra tật nguyền, ngay cả nếu hắn có quyền giết nó, người sẽ vẫn muốn ngăn hắn lại, và nếu người có khả năng… tức là nếu người có thể ngăn hắn, người sẽ làm.

– Người ở thời gian ngươi không ở trên đường của chúng ta.

– Có đấy. Đến lúc đó, hàng tá của hàng tá của hàng tá của hàng tá trong số họ chính là con cháu của người, hoặc của chị em, anh em người, bởi…

Tôi bỏ lửng câu nói. Tôi ngẩng lên nhìn bà ta. Bà ta vẫn nhìn qua đầu tôi.

– Họ đang chết dần chết mòn, – tôi nói tiếp, – và trước khi chết, họ sẽ tự hỏi tại sao không ai buồn giúp đỡ họ, và nếu họ biết rằng người và tôi, kẻ dưới chân người, có thể cứu họ nhưng lại quyết định không làm, họ sẽ thắc mắc tại sao, và chúng ta sẽ không thể có một lý do đủ hợp lý để trả lời…

Tôi lại bỏ lửng. Những giọt nước mắt không-bao-giờ-chảy lại dâng lên đâu đó quanh con ngươi. Và tôi đang hổn hển, tôi hụt hơi, thậm chí suýt thì nói lắp như tôi vẫn thường bị hồi còn nhỏ mỗi lúc sợ hãi. Quỷ bắt mày đi, Jed, bình tĩnh lại, bình tĩnh…

– Ta, bên cạnh ngươi, đã quyết ý rồi, – Koh nói,

– Nhiều mặt trời đã được sinh ra

Và nhiều mặt trời nữa đang đến.

Tất cả những người được đắp từ bột ngô sẽ chết cùng mặt trời

Vào ngày Chúa tể 4, Vàng 3.

Và một ngày nào đó,

Những người kế tục mới của Iztamna sẽ đến.

Ông ta sẽ nặn ra những giống nòi mới,

Từ chất liệu mới

Từ ngọc bích.

Bà ta dừng lại và chuẩn bị nói “Ca’ek” – “Kết thúc” – nhưng tôi ngắt lời.

– KHOAN ĐÃ, – tôi nói (hừ, thực ra thì tôi đang gào lên), – chờ đã, người KHÔNG Có… (hạ giọng xuống nào, Jed – tôi tự nhủ) … người, ở trên tôi, không có quyền quyết định chuyện đó thay cho họ. Người không thể, ngay cả khi quyết định đó đúng đắn.

– Không, – bà ta đáp, – quyền mà ta không có là kéo dài thời gian của họ trên tầng thứ không, ngay cả khi ta có thể.

– Không, người có quyền đó, nó… người muốn cứu họ, nhưng người nghĩ là không nên, hoặc người biết là không nên, nhưng những điều tôi đã thấy có thể giúp ích thêm cho những điều người đã thấy… nghĩa là, tôi đã ở cả hai nơi, và tôi đã thấy những điều…

Chết tiệt. Tôi nhãng mất dòng suy nghĩ của mình. Tôi bắt đầu lại:

– Nếu tôi biết điều gì đó… nó có thể không phải điều hay, nhưng nó là sự thực… thì đó là người được phép làm bất kỳ việc gì người muốn.

Vì chẳng còn mấy quy tắc lịch sử mà tôi chưa vi phạm nên tôi chẳng cần nữa, tôi nhìn thẳng vào mắt bà ta. Mắt bà ta mở to và trợn tròn… không, chờ đã, không phải. Bà ta đã nhắm mắt lại, nhưng mí mắt bà ta được tô bằng chì trắng nên nhìn vẫn như đang mở và không có tròng, hệt như những hình vẽ của Harol Gray trong cuốn truyện tranh Annie mồ côi.

Phào… hơi giật mình một tí. Khỉ thật, chả nhẽ suốt từ nãy đến giờ bà ta không hề chớp mắt? Hừ, nếu có thì chắc là tôi không để ý.

Tôi chẳng biết làm gì hơn nên cứ nhìn trân trân vào cặp mắt giả của bà ta. Tôi đoán bà ta không muốn nhìn xuống, cũng không muốn trợn mắt nhìn lại tôi như đáng ra bà ta có thể,vì thế bà ta nhắm mắt lại.

Nào, Jed, nghĩ ra cách gì đi.

– Tôi, dưới chân người, thách người nhìn vào mắt tôi, – tôi nói. Chẳng khác gì bảo: “tôi thách người nện cho tôi một trận”. Nhưng tôi vẫn cảm thấy mình cần nó, tôi cần một cái nhìn thẳng vào mắt, một cái nhìn không chỉ có sự cao ngạo của kẻ bề trên. Chuyện này dễ dẫn đến ẩu đả lắm – chắc tôi đã nói điều này: ở đây, anh có quyền làm bất cứ điều gì khi bị thách thức – nhưng bà ta mở mắt ra nhìn tôi.

51

Hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi – tôi nhận thấy rằng chẳng bao giờ có thời gian nào thực sự thích hợp để cắt ngang một bài tường thuật dài, và nếu có thì cũng không phải lúc này, tuy nhiên, như người ta vẫn nói, thưa quý độc giả thân mến và ba lần khoan dung, xin cho phép tôi cắt ngang trong ít phút – hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi, có một bà giáo chuyên dạy thay ở các lớp dưới, một phụ nữ to béo, già đến mức nhớ được cả lũ cháu chắt của những người khai hoang đến trường bằng chân đất, bà ta là cả một kho lưu trữ tương đương một luận văn tiến sĩ về những trò giải trí khi phương tiện truyền thống chưa ra đời. Bà ta biết tất cả những gì có thể biết về các con rối chỉ, về việc thêu may trang trí, về búp bê, và nhất là về các trò chơi trong nhà – “bồi thường”, đố chữ, “chuyền dép”, “rồng hắt hơi”, đoán bóng trên tường, và cả cái nghi thức đáng sợ của trò vớt táo – cả một thế giời đã mất từng tồn tại suốt những buổi tối dài dằng dặc trước khi điện về tới nông thôn. Và một buổi chiều thứ sáu, bà ấy lấy một tấm vải trải giường màu trắng, cắt một dãy sáu cái lỗ thành hình ba cặp mắt nhỏ xíu và bảo chúng tôi treo lên lối vào một cái khoang rộng mà họ gọi là “phòng ấm”. Nửa lớp, hai mươi tư đứa, đứng đằng sau tấm vải và cứ ba đứa một bước lên nhìn qua những cái lỗ. Nửa lớp còn lại cũng lần lượt ghé sát mắt vào những cái lỗ, và nhìn thẳng vào mắt những đứa đứng bên kia và thử đoán xem đó là ai. Hóa ra việc đó gần như không thể, trừ trường hợp của Jessica Gunnerson, con bé tóc hoe bị bạch tạng nhẹ với mống mắt màu xanh tím hệt như màu mực cồn trên bản sao cuối cùng và mờ nhất của máy sao Dittto. Nếu không nhìn thấy thêm những đường nét khác của khuôn mặt, anh sẽ chẳng thể biết đó là người bạn tốt nhất hay kẻ thù tồi tệ nhất, anh chẳng thể biết đứa kia đang nhăn nhó mặt mày chòng ghẹo anh thế này, thậm chí chẳng biết nó là con trai hay con gái. Điều này làm tôi bị xáo trộn đến mức hàng chục năm sau, khi nhìn vào mắt một cô gái trẻ nào đó, ví dụ vậy, và thử tìm một liên hệ ít nhất là trên mức nhục dục, hoặc thể hiện tí hứa hẹn hay, tệ nhất, là một tẹo trung thực, và tôi cảm thấy rằng đúng, cô ta đang thành thực với mình vì mình đang nhìn qua hai ô cửa trong suốt vào sâu tận bên trong, nhưng rồi đột nhiên, tôi lại nhớ đến cái trò chơi ngớ ngẩn kia, và thế là cặp mắt ấy bỗng chốc biến thành hai cái hố cạn với sự trống rỗng vô tận đằng sau và cảm giác xa cách mỗi lúc một phình lên giữa hai chúng tôi, cái cảm giác trôi dạt trong không gian không sự sống, không chỉ không có liên lạc với với bất kỳ sinh vật nào ở hiện tại, trong tương lai, hay thậm chí trong quá khứ. Và lúc này – ý tôi là vào thời điểm năm 664 này – tôi lại gặp cảm giác đó. Tôi đang nhìn vào mắt cô nương Koh, khao khát gấp bội được nhìn thấy trong ấy một điều gì đó, một điều kỳ diệu, một biểu hiện tình cảm, hay chí ít là một chút lay động, một dấu hiệu gì đó chứng tỏ bà ta và tôi cùng ít nhiều là thật, và tỉnh táo, và tự chủ về tinh thần, và cùng tồn tại trong một không gian, ở cùng một thời gian. Tôi nghĩ mình đã nói điều này: khuôn măt công nương Koh ít biểu đạt như bất kỳ khuôn mặt nào tôi từng thấy; tôi từng gặp những khuôn mặt lạnh như đá phía bên kia bàn trong khoảng mười ngàn ván cờ vua, cờ vây và bài poker, nhưng cặp mắt bà ta còn ẩn chứa vẻ gì đó hơn thế nữa, vẻ gì đó loáng ướt và dữ dội, như cặp mắt của Cléo de Mérode (diễn viên múa lừng danh người Pháp). Hai tròng đen tối đến mức không thể xác định được đồng tử bắt đầu từ đâu, nhưng vẫn thấy rõ đó là hai màu đen khác nhau, như màu sắc trong các bức họa của Ad Reinhardt (họa sĩ theo trường phái trừu tượng người Mỹ), và rằng con mắt bên trái lạnh lùng hơn, con mắt bên phải ấm áp hơn… tôi tưởng bên ngoài trời đang mưa, nhưng rồi tôi nhận ra tôi đang nghe thấy tiếng máu chảy rần rật trong tai.

Nào, cố lên, – tôi tự nhủ. Sắp được rồi. Cố lên.

Bốn mươi nhịp trôi qua. Tôi nghĩ mình nhìn thấy điều gì đấy trên khuôn mặt vô hồn của bà ta, cứ như bà ta đang cắn lưỡi, một cảm giác đau không thể che dấu hoàn toàn: nhưng sau tôi kết luận rằng chắc tôi tưởng tượng ra.

Tám mươi nhịp.

Không nhất thiết phải khiến giây phút này giống như một vụ hiếp dâm như thế. Ta hãy biến nó thành một cuộc ân ái. Nhé?

Đến nhịp thứ một trăm hai mươi, lưng tôi kêu đánh khục một cái, sụn xương sống, và tôi muốn nhìn đi chỗ khác lắm nhưng vẫn cố ghìm được. Nhìn tiếp đi, Jed. Bây giờ tôi có cảm tưởng như chúng tôi là hai võ sĩ sumô đang đè cả nửa tấn thịt lên nhau giữa vòng tròn dohyo (sới đấu của môn võ sumô). Cố lên nào, – tôi tự nhủ.

Không phải tự đánh vật. Cứ giữ yên. Giữ yên. Nào, xin mày đấy, Thằng Vô Hình, chỉ một lần này thôi, chứng tỏ mình đang có mặt đi. Xin mày. Xin mày.

– Chính vì ta quan tâm đến họ như con cháu mình nên ta không muốn họ phải khổ sở trên tầng thứ không này, – Koh nói, tiếng bà ta nhý vọng ðến từ xa cả dặm. Bà ta không ngoảnh ði.

– Tầng thứ không là tầng duy nhất, – tôi bực tức.

– Nếu đó là sự thật thì cũng vậy thôi, – bà ta đáp.

– Không, không, không, không, không thể cũng vậy được, họ muốn… họ muốn được ở bên nhau đến chừng nào có thể.

– Vậy là họ tham lam và hèn nhát.

– Không, không…không, họ… họ giống như một gia đình cùng nhau đến dự lễ hội.

– Và có gì để xem ở lễ hội đó? – bà ta hỏi. Tôi đoán ý bà ta là cuộc vui ấy sẽ chẳng mấy chốc mà kết thúc.

– Đó là lý do vì sao họ muốn có những đứa trẻ, – tôi đáp, – để thấy tất cả bắt đầu lại từ đầu… chuyện tôi và người đang nói đây thật là b’ach na tok.Nghĩa là toàn bộ câu chuyện này thật kỳ cục.

– Phải, đúng thế, – bà ta ra hiệu.

– Và nếu các mặt trời tiếp tục tồn tại, – tôi nói, – nếu có một chu kỳ mặt trời mới… ai biết được điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tôi và người có thể chơi cờ Hiến tế hàng bốn trăm lần của hai mươi ván cũng không thể biết được. Biết đâu sẽ có chuyện gì đó xảy ra vào b’ak’tun thứ hai trăm, thứ hai ngàn, và điều đó cũng bõ để…

Tôi nói khẽ rồi dần im bặt. Giời đất ạ, – tôi nghĩ, – thế này thì quá sức mình. Một tỉ năm tiến hóa và năm triệu năm tiến hóa của loài người, và bây giờ nó chỉ còn là chuyện giữa hai chúng tôi.

– Trên đỉnh núi đen nhất có một chiếc bình, – Koh nói, – yaj (tức là “nỗi đau”, và trong trường hợp này có nghĩa là “nước mắt”) của mọi sinh vật trên đời đều nhỏ vào chiếc bình đó.

– Tôi, kẻ dưới chân người, đã nghe nói.

Bà ta nói tiếp:

– Lai can h’tulnaac

lail x nuc homoaa

cu tz’o, cu t’za.

Và khi chiếc bình khổng lồ

Đầy lên đến miệng

Nó sẽ vỡ tan, sẽ chấm hết.

– X’tan boc ch’ana k’awal nab, – tôi đáp, – Điều này chẳng khác gì trộn cháo ngô đặc bằng nước đái lợn.

Trong tiếng Ix, câu này tương tự như từ “vớ vẩn!”. Nhưng tôi đoán các bạn sẽ thấy nó buồn cười hơn nếu vừa kéo hai trăm pound đá vôi lên đỉnh kim tự tháp cao chín mươi feet dưới cái nóng 110 độ.

Koh ra hiệu tỏ ý: “tùy ngươi nói”.

Vì một lý do nào đó – và tôi không nghĩ đây là một trong những trò tai quái của Koh – tôi liền có cảm giác như vừa bất tỉnh trong một hoặc hai giây, hoặc như đang suy nghĩ chuyện gì đó quan trọng và bỗng quên mất, và đến khi tôi nhớ ra được ra mình đang làm gì thì chúng tôi đã không còn nhìn chằm chằm vào nhau nữa. Tôi nhìn xuống. Koh nhúc nhích người dưới tấm áo choàng. Chúng tôi đã ở trong một không-thời gian khác.

– Người Chèo Xuồng Già không đến đây, – Koh nói. Nghĩa là bà ta không có Bụi của Người Chèo Xuồng Già, thành phần gây ảo giác về không gian trong món ma túy của cờ Hiến tế.

– Người sẽ chơi mà không cần nó chứ?

Bà ta ra hiệu rằng chẳng ích gì.

– Nhưng đôi khi người cũng đi theo Người Chèo Xuồng chứ, phải không?

Bà ta ra hiệu “phải”.

Tôi nghe thấy tiếng Chim Cánh Cụt sau lưng. Cô ta đã đi ra trước mặt và thắp vòng hương thứ hai. À, dấu hiệu tốt đây. Nó đồng nghĩa với sự chấp nhận chăng? Cô ta lạch bạch lại gần Koh và đứng kiễng trên đầu ngón chân. Koh cúi đầu xuống, thì thầm chừng năm mươi từ vào tai cô ta và đưa cho cô ta thứ gì đó. Cô gái lùn hấp tấp chạy ra ngoài.

Xong rồi, – tôi nghĩ. Bà ta sẽ kiếm một ít thứ bột thổ tả của Người Chèo Xuồng ấy và chơi một ván. Có khi chúng tôi sẽ tìm ra thằng khốn ấy ngay bây giờ. Nếu chúng tôi tìm được một cái tên, tôi chỉ việc viết ra, để lại nó trong chiếc hộp và chẳng thèm bận tâm đến món thuốc nữa. Tao sẽ tóm được mày, thằng doomster. Đúng thế. Dễ thôi.

Koh lấy một cây đuốc sim mới và châm vào lò lửa. Nó bùng lên ngọn lửa màu vàng xanh. Bà ta cắm nó lên giá đỡ. Ánh sáng lấp loáng trên nửa đen của khuôn mặt.

Koh đã đổi ý vào một lúc nào đó mà tôi không hề nhận thấy. Và giờ đây, khi mọi việc tiến triển tốt đẹp, đến ngay cả tôi cũng không dám tin lý lẽ của mình thuyết phục được bà ta. Tôi cảm giác rằng đó không phải nhờ tôi, cùng lắm tôi cũng chỉ truyền đạt được vài thông tin mới và bà ta đủ mạnh mẽ để thay đổi quyết định dựa trên những thông tin ấy. Tôi cảm thấy mình bị đẩy vào thế yếu. Bà ta mở một trong mấy cái giỏ, lấy ra một điều xì gà xanh, thon dài, cắn bỏ chừng một phần tư inch ở đầu điều thuốc và châm nó vào cây đuốc, hít một hơi dài, phà khói ra bốn hướng và khấn:

– Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu trắng

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đen,

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu vàng,

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đỏ,

Hỡi Thần Muối Mặn Già,

Hai chúng con, dưới chân người

Cầu xin người

Cho chúng con mượn

Cặp mắt nhanh,

Cặp mắt tinh tường,

Của thần tối cao,

Tỏ tường mọi việc.

Bà ta cúi xuống và phà một hơi khói dài qua mắt giỏ. Bà ta chờ một lúc, mở nắp ra, thò tay vào và khẽ khàng nhấc ra một chiếc giỏ hơi nhỏ hơn một chút đặt bên trong. Mối đan của chiếc giỏ này thưa hơn, tôi nhìn thấy có thứ gì đó chuyển động bên trong và một vật màu trắng, hình quả tim lơ lửng ở giữa. Koh đặt nó xuống và mở hé nắp đậy bằng tay phải. Vật màu trắng đó là tổ của một đàn ong vò vẽ giấy lưng dài. Koh thò tay trái vào, nhanh đến nỗi mắt tôi không kịp dõi theo, và dùng bảy cái móng tay dài tô đen của mình chộp lấy một con ong cái béo tròn, màu vàng pha xanh lá cây. Bà ta đặt nó xuống lòng một chiếc đĩa con. Con ong dài tối thiểu hai inch, với cái bụng chửa và vòi đẻ trứng dài ngoẵng. Cánh nó đã bị cắt bỏ. Nó nhìn quanh bằng cặp mắt to tướng. Ngón trỏ bàn tay cái của Koh từ trên cao dí xuống, chặn đoạn giữa bụng và ngực con ong, đè nó xuống đĩa. Mặc dù bị say khói thuốc nhưng nó vẫn quờ quạng tìm cách thoát, mấy cái chân trượt đi trên bề mặt tráng men trơn mịn của chiếc đĩa. Koh dùng hai móng tay trên bàn tay phải làm lưỡi kéo, bấm đứt đầu con ong. Nó rơi xuống đĩa, hai hàm hết há ra lại khép lại. Tiếp đó, bà ta nhón lấy cái ngòi đốt và vòi đẻ trứng và dứt chúng ra khỏi bụng con vật đáng thương. Một túi chứa nọc nhỏ, căng, hai quả trứng tròn, trong veo, một ít lông vàng, mấy vệt kitin bị lôi ra theo. Koh đặt cái chùm bầy nhầy ấy xuống cạnh đĩa bên kia. Cuối cùng, tay trái vẫn giữ cái bụng ong, bà ta bứt lấy một trong sáu cái chân đang giãy dụa- tôi nghĩ là chân trước bên phải – và bỏ nó vào một cái đĩa nhỏ xíu khác. Bà ta đẩy cái đĩa về phía tôi.

Koh nhấc con côn trùng năm chân, không đầu, vẫn còn đang giãy dụa lên, bỏ tọt vào miệng, nhai hai lần và nuốt.

Tôi ngần ngừ.

Nào, Jed, – tôi tự nhủ – đừng có hèn thế. Tôi nhặt cái chân lên, xoay xoay nó một cách ngớ ngẩn trong tay như thể nó sắp nhảy lên cắn vào mắt tôi. Thôi được rồi. Tôi bỏ nó vào miệng. Nó vẫn còn giần giật trên lưỡi tôi. Tôi nhai nát nó và nuốt nhanh hết mức có thể. Koh đưa cho tôi điều xì gà, chắc là để đẩy nó trôi xuống. Tôi hít một hơi ra trò. Nó hơi khô và có vị lạ, nhưng không tồi. Tôi không biết làm gì với nó nên cứ giữ lấy. Cô gái lùn đã quay lại và bày ra một dãy nào giỏ, nào bình, nào đĩa con ở hai bên bệ nóc lò, cứ như thể chúng tôi sắp dùng bữa trà chiều vậy. Tôi đã cảm thấy miệng mình rộp lên to hơn cả đầu.

Koh nói:

– Bây giờ chúng ta coi như

Ta sẽ chơi một ván cờ lớn tại đây,

Trước mặt người, bên cạnh ta

Liệu ngươi có bán rẻ ta cho các thị tộc thù địch?

Hay khai ra tên ta cho những kẻ xa lạ?

Liệu ngươi có kể lại giữa đám đông

Về chuyện đang xảy ra ở đây,

Trong nơi ẩn náu cuối cùng của chúng ta?

Ở đây,

Dưới bầu trời

Trên ngọn núi này của chúng ta?

Liệu ngươi có luyên thuyên chuyện này ra bên ngoài, giữa chợ?

Liệu ngươi giở cuốn sách của ta,

Giữa ánh sáng ban ngày?

Tôi trả lời một cách khó khăn bởi lưỡi của tôi có cảm giác sưng phồng và nặng nề như một súc gỗ:

– Sao tôi có thể là một k’iik

Nếu tôi từng nói ra bất cứ một bí mật nào?

Nếu có, người ta sẽ không bao giờ còn gọi tôi

Là con trai của nhà Đại Bàng.

Chim sáo đá sẽ chế nhạo tôi

Vào môi, vào tròng mắt

Ta-tu sẽ liếm sọ tôi

Trên đụn cát khô cằn,

Cách xa hang núi này,

Trên miệng núi lửa giữa biển khơi,

Dưới tầng trời.

Thế đã ổn chưa nhỉ? – tôi tự hỏi. Nghe chuẩn chưa? Hay bà còn muốn nghe bằng tiếng La tinh nữa?

Rất chậm rãi, Koh ra hiệu “chấp nhận”. Tôi quan sát bàn tay đen của bà ta buông xuống đùi. Nó cứ rơi mãi, rơi mãi mà chưa xuống đến nơi, và rồi dường như nó không rơi nữa và bà ta cứ để nó lơ lửng như thế trong không trung. Kỳ cục thật, – tôi nghĩ. Tôi nhìn sang vòng hương đồng hồ, hay đúng hơn là tôi bắt đầu nhìn sang và mắt tôi phải mất một lúc mới nhìn tới nơi. Lại là cái món thuốc xáo trộn thời gian của Muối Mặn Già đây mà. Chỉ có điều nó làm chậm thời gian hơn cả lần trước… dào ơi, đây rồi. Rốt cuộc mắt tôi cũng đến được chỗ vòng hương, xem ra nó sắp chảy hết một nửa, nhưng tôi không nhìn kỹ được vì Chim Cánh Cụt hẳn đã trùm một lớp vải màn hay gì đó lên trên nó… ô, xin lỗi, không phải, đó chỉ là một làn khói, không hề chuyển động, hay đúng hơn là nhìn như không chuyển động do tác dụng của thuốc. Tôi nghe tiếng Chim Cánh Cụt thì thào câu gì đó. Tôi đưa con ngươi sang nhìn Koh. Cứ như hai tảng đá hoa cương lớn đang xoay trong ổ được tra dầu. Koh dùng tay ra hiệu cho tôi chờ, đúng cái tín hiệu mà thị tộc Đại Bàng dùng trong các chuyến đi săn hay đột kích để ra lệnh đứng im.

Ai đó huýt sáo bên ngoài. Chim Cánh Cụt lon ton chạy ra ngoài. Tưởng như hàng phút trôi qua giữa từng bước chân ngắn ngủn. Koh đứng dậy. Hệt như đang nhìn quả núi được bẩy lên chậm rãi bởi sự dịch chuyển của mảng kiến tạo bên dưới. Bà ta quay về phía tôi, rũ rũ áo choàng cho chỉnh tề. Ái chà, – tôi kêu thầm trong bụng. Thật là đáng kinh ngạc, bà ta cao hơn rất nhiều so với tầm vóc trung bình của người phụ nữ Maya, thậm chí cao hơn tôi, tức tôi bây giờ ấy, một ly, mà Chacal đã thuộc loại cao lớn lắm rồi. Hết sức thô lỗ, tôi ngoài đầu lại quan sát. Bà ta có vẻ hơi gầy dưới tấm áoquechquemitl (một loại áo của phụ nữ gốc da đỏ ở Mexico, giống như tấm khăn hình quả trám có một lỗ hổng ở giữa để chui đầu qua, thường có hoa văn sặc sỡ). Hầu hết những người đếm mặt trời đều gầy gò, nhưng có lẽ bà ta hơi gầy quá. Bà ta bước bốn bước ra giữa căn phòng, hạ mình xuống gối, mặt hướng ra ô cửa ra vào phía sau lưng tôi. Tôi nhìn chung không thạo lắm về ba lê, nhưng nhiều năm trước, tôi từng được xem Rudolf Nureyev diễn vở Khúc dạo đầu một buổi chiều của thần Đồng áng, trong cử chỉ của anh ta có một vẻ gì đó hết sức cao ngạo, những ngón tay như muốn nói “ta là nhất, còn ngươi chẳng là gì”. Và lúc này đây, công nương Koh cũng có cái vẻ y như vậy. Nhưng ở đây, điệu bộ ấy không bị coi là khó chịu.

Tôi quay người lại. Một cái đầu và hai cái vai xuất hiện ở lối cửa đu đưa lên xuống khi chủ nhân của chúng đứng dậy. Hai mống mắt tôi phải căng ra, nhưng cũng rất từ từ, như một đám tinh vân quan sát qua ống kính viễn vọng lớn, và hắn lọt vào tiêu điểm. Đó là một gã đàn ông cao dong dỏng, khoác chiếc áo choàng mỏng sẫm màu. Hắn có mớ tóc dài lờm xờm như một gã thầy tế, khắp người trát tro xám. Tôi không đoán được những dấu hiệu trên người hắn, nhưng hắn bốc mùi như một con cầy hương, hay đúng hơn, hắn đang xức một mùi hương nhân tạo chế từ cây cúc xạ. Những kẻ thấp kém hơn trong nhà Mèo Rừng cũng thường xức mùi này. Vậy hắn là người của phe kia, nhà Báo Sư Tử, nhưng hắn không thuộc dòng dõi ấy. Có lẽ hắn đến từ một thị tộc nào đó dưới trướng nhà Báo Sư Tử, chuyên làm thầy tế cho họ nhà này. Hắn kể lể chuyện gì đó bằng thứ tiếng tôi nghe không hiểu với giọng thì thào và Koh trả lời cũng bằng thứ tiếng ấy. Chả hiểu gì cả, – tôi nghĩ bụng. Nói bằng thứ tiếng gì thế chả biết. Hắn đi về phía Koh, bước năm bước ngắn ngủn, chậm chạp. Koh không nhúc nhích.

Cảnh tượng nay có điều gì đó khiến tôi không thích. Nó cho tôi tí cảm giác rợn tóc gáy. Gã Báo Sư Tử sờ soạng thứ gì đó bên cạnh hông. Không thể nào, – tôi nghĩ. Hắn rút ra một cái túi nhỏ, dí sát lên tận mặt, tháo thêm vài cái nút thắt bí ẩn theo kiểu dân chài, vụng về mở ra và lấy ra một vật. Tôi không nhìn rõ vật đó là gì.

Koh vươn người ra phía trước và há miệng. Gã Báo Sư Tử bỏ vật đó vào miệng bà ta, bà ta ngậm miệng, thu người về và nhai.

Tôi hơi giật mình, một chút hậu quả để lại từ thời còn là con chiên Công giáo chưa qua lễ kiên tín. Các nghi thức của lễ ban thánh thể bắt nguồn từ đây chăng? – tôi tự hỏi. Nhận lấy và phê đi, đây là mẩu giấy thấm của ta. Tôi thấy mình suýt nghẹt thở vì phải yên lặng.

Có điều gì đó chua chát khi chứng kiến Koh làm cái việc rất đời thường, rất con người, là ăn như thế này. Trong sự chua chát ấy có cả sự thương cảm đến mệt mỏi, như thể anh đã chứng kiến bà ta làm việc này cả ngàn lần. Và bà ta bỗng trở nên không khác gì một kẻ phàm tục, một cô gái mua vui quanh quẩn bên anh. Có khi còn hơi dở người nữa.

Tên sứ giả của nhà Báo Sư Tử ngả người về phía trước để nghe tiếng Koh nuốt. Cô gái lùn đưa cho hắn cái tách mà tôi đoán là đựng nước nóng, và hắn chìa nó cho Koh. Bà ta dùng mép áo choàng lót tay, cầm lấy chiếc tách, uống cạn thứ trong đó và đưa trả lại cho hắn. Hắn nhìn vào tách, rồi nhìn xuống bà ta. Bà ta há to miệng. Hắn kiểm tra một lúc rồi chìa hai cánh tay ra tỏ ý bằng lòng. Tôi thấy trò này có phần hạ thấp Koh, cứ như bà ta đang uống thuốc an thần trong tù vậy. Gã đàn ông của nhà Báo Sư Tử lôi ra một vật be bé từ cái túi khác đeo bên hông. Chim Cánh Cụt chìa ra một cái mâm trao đổi và hắn đặt nó vào giữa. Đó là một bức tượng nhỏ của Koh, với khuôn mặt được tô vẽ theo đúng kiểu đặc trưng của bà ta. Chắc đó chính là thứ Koh đưa cho Chim Cánh Cụt lúc nãy. Cô gái lùn ngâm nga đều đều một bài cảm-ơn-khách, vẫn bằng cái thứ tiếng cổ xa lạ kia.

Tên Báo Sư Tử cũng đáp lại một đoạn cảm-ơn-chủ-nhà, khom người xuống và đi lùi vào đường hầm. Chim Cánh Cụt cũng đi ra theo hắn. Vậy ra đây là cách họ làm việc này, – tôi nghĩ. Ngay cả Koh và các nữ tư tế của Nhện Dệt Cầu Vàng cũng không có tất cả các thành phần của món thuốc. Nó là một phương thức quản lý “hai chìa khóa”. Món thuốc chỉ phát huy đầy đủ tác dụng khi có đủ hai thành phần. Những người đếm mặt trời đứng đầu nhà Bìm Bìm biết cách làm một thành phần, người của nhà Bướm Đuôi Nhạn biết cách làm thành phần còn lại, và không nhà nào biết được bí quyết của nhà kia từ hàng trăm năm nay kể từ khi một thiên tài nào đó đặt ra cách thức này.

Hừ, Jed, lẽ ra mày phải đoán được điều này chứ. Thảo nào thành phố này yên ổn được lâu đến vậy. Mẹ kiếp sao mình không nghĩ ra nhỉ?

Chậc, sẽ khó khăn đây.

Nản quá đi mất. Tôi cảm thấy trong hai lòng bàn tay nắm chặt của mình, những cái móng dài đang đâm thủng cả da. Bình tĩnh lại nào, – tôi tự nhủ, – bình tĩnh. Sức mạnh thật sự nằm ở tinh thần coi nơi kết thúc là điểm xuất phát mới. Thở sâu nào.

Koh ngồi yên. Tôi cũng ngồi yên. Tôi chớp mắt. Hai mí mắt tôi chậm chạp hạ xuống và kéo lên, như trời tối dần và sau một đêm dài lại sáng trở lại. Không khí yên ắng, chỉ có tiếng sột soạt từ con đường hầm bên ngoài cửa. Rồi đến một tiếng huýt sáo khẽ như tiếng chim cu gù gù, Koh đứng lên, đi tới chỗ bức vách, lách qua, cúi xuống mặt tôi – tôi chưa kịp quay lại tư thế cũ – túm lấy tóc tôi, không phải cái đuôi sam giả, mà là lọn tóc trước trán rồi hôn tôi một cách thô bạo, đẩy cái lưỡi mềm mượt vào miệng tôi, quấn lấy lưỡi tôi, cọ xát nó vào hai má tôi, lên vòm miệng, vào giữa những cái răng nanh mài nhọn, vào những vết rách mới và vết sẹo cũ trên môi, xuống tận cuống lưỡi, vào mọi ngóc ngách…

52

Koh không giống bất cứ thứ gì tôi từng nếm trải, cả ở b’ak’tun thứ chín lẫn mười ba, có thể tả là hơi giống cái vị lờ lợ của uni – nhím biển sống – nhưng đậm hơn, kém tươi hơn và gắt hơn. Ối dà, một nụ hôn, – tôi tự nhủ, – thứ cuối cùng mình nghĩ đến trong hoàn cảnh này; thổ dân châu Mỹ làm gì có văn hóa ôm hôn.

Tôi gần như tưởng Koh muốn tôi lột xoạch cái mớ quần áo trên người bà ta và xông lên, nhưng lúc tôi còn đang tính xem có nên vuốt ve chỗ nào đấy hay không – nếu tôi còn đủ bình tĩnh để tìm được một chỗ thích hợp – thì bà ta đã thả tóc tôi ra, dứt khỏi miệng tôi sau một cái chụt ướt át, và quay về ngồi vào chỗ của mình ở phía bên kia bếp lò. Cô gái lùn vừa quay lại,đặt xuống một cái giỏ đựng đầy những bình và lọ rồi đưa cho Koh một cái tách đựng thứ gì đó. Bà ta uống vội như muốn rửa trôi cái vị của tôi khỏi miệng. Tôi thả người ngồi xuống, cố nén tiếng thở hổn hển. Vẻ mặt Koh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thật kỳ cục, tôi cảm thấy có lỗi với Marena, mặc dù cô ta và tôi chưa phải một đôi thực sự. Bình tĩnh nào, thằng hư hỏng, – tôi nghĩ, – mày đang mơ thôi. Tất thảy những ả đàn bà lẳng lơ đều thích những con cá lớn. Họ thèm gì quan tâm đến một kẻ hèn mọn thấp kém… thôi, kệ xác…

Khặc, Dư vị tê dừ như vừa ăn phải cá nóc mỗi lúc một tăng lên trong miệng tôi. Tôi loạng choạng một chút rồi cố ngồi thẳng dậy.

Hừ, ra là thế đấy. Bà ta vừa cho tôi nếm món thuốc. Chỉ đơn thuần là thao tác nghề nghiệp thôi. Chả có tí tình cảm nào cả.

Vậy ra đàn ong sản sinh ra chất hóa học X – có lẽ họ nuôi chúng bằng một thứ gì đó đặc biệt và thứ đó được tinh chế lại trong cơ thể chúng – và nó chính là Bụi Của Muối Mặn Già. Và quy trình làm do Nhện Dệt Cầu Vàng nắm giữ. Sau đó, nếu anh kết hợp nó với Bụi Của Người Chèo Xuồng Già – tức là chất Y mà tên sứ giả của nhà Báo Sư Tử vừa cho công nương Koh – nó sẽ cho tác dụng đầy đủ để chơi được ván cờ với chín viên đá.

Hừ, rõ chán. Rõ thất vọng. Sọ Đá Quý 2 cứ tưởng bà ta có toàn bộ món thuốc trong tay. Nhưng trái lại, bà ta phải kê một đơn thuốc và dùng hết liền một lúc dưới sự giám sát của thị tộc hậu duệ mèo. Và theo cách bà ta nói lúc trước, dường như ngay cả việc đó cũng không phải chuyện bình thường, họ không bán thuốc theo yêu cầu và bà ta phải nhờ cậy mới được một liều bé xíu. Tệ hại thật.

Hừm.

Sẵn sàng chưa? – Koh ra hiệu.

Tôi dựng thẳng lưng lên, ra hiệu “sẵn sàng”. Koh đưa điếu xì gà lên hít một hơi dài.

– Hơi thở của con màu trắng, hơi thở của con màu đỏ, – bà ta bắt đầu lầm rầm.

Khi ngồi vào bàn cờ, anh phải khiến bản thân mình tin rằng anh là trung tâm của vũ trụ. Nhưng lần này, tôi không phải tự thuyết phục mình điều đó. Tôi đã tin sẵn rồi. Sức nặng của lực hấp dẫn lớn chưa từng thấy, nhưng đồng thời, dường như tôi đang hấp thụ nó để tích lại thành một năng lượng khổng lồ như trái núi. Tôi tưởng như cảm thấy được từng lớp vật chất khác nhau dưới chân mình, xuống tận phần lõi cháy sáng trắng như pha lê của trái đất: đầu tiên là bông, rồi thảm cói, đất sét, đất trồng, đá và đá nóng chảy. Mọi thế giới dưới nước và trên trời đều xoay quanh chúng tôi. Tôi thấy hoàn toàn thư thái.

Cô gái lùn luồn một ngón tay qua một vòng thòng lọng trên nóc lò, kéo cái nắp vuông bằng gỗ lên và đẩy nó sang một bên. Nhìn có vẻ nặng nhưng cô ta xem ra cũng không phải gắng sức. Khoảng không bên dưới thay vào khoang lò lại là một cái hốc vuông vắn, sâu chừng mười lăm inch, rộng chừng bốn mươi inch. Trên mặt đáy phẳng của cái hốc, tôi chỉ nhìn thấy đường viền ngoài được khắc chạm của một bàn cờ hình vuông, mỗi cạnh dài khoản mười ba inch. Koh đang ngồi ở hướng tây nam, còn tôi,hướng đông bắc. Cô gái lùn thắp nến bấc ở rìa tây bắc và đông nam của cái giếng đá khiến nó sáng bừng lên. Đá này là loại đá phiến ma đen hạt mịn, lên nước bóng nhoáng,thứ nước bóng chỉ có thể có được do tiếp xúc với da người, qua nhiều đời vỗ, chà, xát, đánh bóng; và khi Koh vỗ năm lần lên thành hốc phía tây nam bằng chuỗi cây phất trần đuổi ruồi, do tiếng vang, hay đúng hơn, do ít tiếng vang nên tôi có thể nói chắc rằng cái hốc được đục vào đá nguyên khối và chúng tôi đang ngồi trên đỉnh một ngọn núi chìm, chạy dưới lớp đất bồi tích của thung lũng đến tận chân dãy Sierra Madre Oriental.

– Ya’nal Wak Kimi, – Koh lầm rầm,

Ngày hôm nay

Hấp hối 6,Nai đực 14, tun thứ mười một,

Gần cuối k’atun thứ mười một của b’ak’tun thứ mười,

Con xin mượn hơi thở của mặt trời hôm nay,

Xin mượn hơi thở của mặt trời ngày mai,

Của những mặt trời đến sau ngày mai.

Bà ta bốc một nhúm thuốc lá ướt trong một chiếc giỏ nhỏ, luồn tay vào dưới tấm áo quechquemitl để xát nó lên đùi. Tôi không hình dung được nhiều lắm những gì đang diễn ra dưới lớp vải, nhưng nó vẫn là một động tác khá gợi tình.

Tôi lui người về đằng sau một chút. Tôi cảm thấy không ổn chút nào. Tôi chắc chắn mình sắp nôn ra không chỉ những thứ có trong dạ dày mà toàn bộ đường tiêu hóa. Mọi thứ, từ thực quản cho đến ruột kết, sắp sửa phun ra khỏi miệng tôi và tung tóeđầy bàn cờ. Tôi chặn tất cả lại và ngồi thẳng lên thêm vài độ nữa. Bình tĩnh nào Joaquinito. Mày muốn chơi cùng những nhân vật quan trọng mà. Vậy thì hãy chơi đi.

– Hơi thở của con là gió vàng, – Koh tiếp tục,

Hơi thở của con là gió đỏ,

Hơi thở của con là gió trắng,

Gió đen và gió xanh ngọc lục bảo.

Ngươi, đến từ gia đình người chú của ta

Ngươi, đến từ nơi xa, và bây giờ đang ngồi cạnh ta,

Chúng ta đang ngồi cùng nhau,

Giữa bốn đỉnh núi cao,

Bốn miện núi lửa,

Trên đỉnh núi màu lục – lam

Cách đỉnh núi trắng phía đông bắc năm mặt trời

Cách đỉnh núi đỏ phía đông nam năm mặt trời,

Cách núi lửa vàng phía tây nam năm mặt trời,

Và cách đêm tối,

Cách núi lửa đen reo rắc ghẻ phía tây bắc,

Đúng năm mặt trời.

Cô gái lùn trao cho Koh một vật. Đó là một viên đá đen hình nón tròn, chiều ngang đáy khoản hai inch, cao khoảng bảy inch, được mài đến độ bóng nhoáng. Koh đặt nó vào ô, hay đúng hơn là vào một chỗ lõm lờ mờ của phần tư màu đỏ trên bàn cờ – dù mặt bàn cờ chỉ còn sót lại loáng thoáng vài vệt màu, nhưng người ta vẫn biết chỗ nào là màu nào – tương ứng với ngày hôm nay. Đáy nó vừa khớp với chỗ lõm nên nó đứng thẳng, vững vàng. Cô gái lùn đưa tiếp cho Koh một viên nữa, rồi một viên nữa, cho tới khi chín viên đá sừng sững đứng trên mặt bàn cờ, tạo thành một bản đồ sao thể hiện thời điểm này, tại vị trí này, với chòm Tua Rua, mặt trăng và sao Kim mới mọc ở rìa đông. Tiếp đó, bà ta đặt thêm năm viên đá mà tôi đoán là tượng trưng cho năm đỉnh núi của Teotihuacán. Như vậy, bàn cờ thể hiện chính xác vị trí của chúng tôi trên trái đất.

Koh chìa bàn tay đen, xòe ra chậm rãi, ý hỏi: “Nào, câu hỏi của ngươi là gì?”.

Nào, – tôi nghĩ, – tốt hơn hết là nên diễn đạt thật chuẩn.

Tôi vẫn chưa chắc chắn bà ta muốn giúp đỡ tôi đến mức nào. Tôi phải có được lời cam kết của bà ta. Nếu không thể xác định được tên doomster ngay lúc này thì bà ta nên dạy tôi cách chơi với chín viên đá. Và nếu cần phải có hai món thuốc để chơi được thì bà ta nên bảo tôi biết phải làm điều đó thế nào. Thế nhé!

– Người, bên cạnh tôi, – tôi nói, – xin hãy cho tôi biết làm thế nào để duy trì được nòi giống của những người cùng thời tôi qua mặt trời cuối cùng củab’ak’tun thứ mười ba, để tiếp tục tồn tại thêm mười ba b’ak’tun sau mặt trời đó.

Koh không tỏ thái độ gì. Nhưng sự im lặng kéo dài khiến tôi gần như chắc chắn là bà ta không bằng lòng. Không sao, bà ta không ném mình qua cửa đâu, – tôi tự nhủ. Im lặng.Im lặng.Im lặng.

Cuối cùng, Chim Cánh Cụt – như một số người lùn khác, dường như cô ta đọc được ám hiệu của Koh bằng ngoại cảm – hiện ra với một đống giỏ bằng vỏ liễu khác. Cô ta lấy một cái bình và một cây chổi sơn, quét một loại mỡ hay dầu gì đó lên bốn cạnh tường vây quanh bàn cờ chìm. Nó có mùi rất lạ. Tiếp theo, cô ta quét đến các cạnh của mấy hòn đá…

Ặc. Chóng mặt quá.

Lúc này, vị của nụ hôn đã lan khắp người tôi. Nó tanh như thịt cua và chua chua – tuy không bằng vị chua của kiến – và dưới cái vị đó là vị tê tê như cô-ca-in, và dưới nữa, ở cuối dư vị, phảng phất một vị không mấy tự nhiên, khiến tôi nhớ đến một loại đồ uống nhẹ mà người ta từng sản xuất hồi tôi còn nhỏ, một món đồ uống lạ đời, vị lai, tiền-kỷ-nguyên-thực-phẩm-tự-nhiên, đầy vị hóa học, không khác gì thuốc, nhưng tôi không nhớ tên nó là gì, hay nó là thứ gì, một thứ…

Tôi nói luyên thuyên đi tận đâu thế này?

Cô gái lùn đưa cho Koh một cái giỏ. Bà ta lấy trong đó ra một thứ be bé, ngọ nguậy màu nâu hơi hồng và đặt nó vào điểm chính giữa màu lục lam của bàn cờ. Nó nằm thu mình lại, quay đầu, nheo mắt nhìn quanh vì chói sáng. Đó là một con khỉ con, nhỏ hơn con chuột lang trong phòng thí nghiệm – chắc cao khoảng hai inch nếu đứng thẳng lên – và gần như trụi lông. Háng nó được tô hoặc nhuộm đen để trông giống mảnh vải khố, đầu nó được tô đen giả làm cái mũ chụp, tôi đoán là để cho giống người hơn. Trông nó không giống một đứa trẻ tí hon vì nó có sự cân đối của người trưởng thành. Tôi không dám nói chắc nó là loại gì, nhưng có thể là khỉ nhện, giống Ateles, một giống khỉ nhỏ, đen tuyền, ăn quả cây và gần như không bao giờ xuống đến tầng thấp của rừng rậm. Chúng sinh trưởng rất nhanh, vì vậy, con này hẳn là mới sinh nhưng lông đã bắt đầu ngả đen, và khi chạy hai vòng quanh bàn cờ, nom nó nhanh nhẹn không kém gì một con khỉ trưởng thành. Nó cố leo lên một cạnh tường, rồi lại cố tì vào hai viên đá chúng tôi đặt gần nhau để nhoi lên, nhưng lần nào cũng trượt xuống vì đá bôi mỡ trơn. Thế là nó thử nhảy, tôi cứ tưởng nó nhảy qua được gờ tường, nhưng nó chưa có đủ cơ bắp và khả năng định hướng như con trưởng thành nên không nhảy được quá độ cao gấp đôi chiều cao của chính nó. Cuối cùng nó dừng lại và đái vào giữa phần tư màu đỏ. Tôi nhìn không rõ lắm – phải cần đến kính lúp của thợ kim hoàn may ra mới nhìn rõ được – nhưng hình như nó là con đực. Nó ngước về phía chúng tôi với cặp mắt bé xíu và chưa học được cách tập trung. Nó rón rén bò tới góc giữa phần tư màu đỏ và phần tư màu đen, co mình nằm thu lu ở đó, run rẩy. Koh lấy một trong mấy chiếc chén nặn bằng sô-cô-la khô, chụp lên người con khỉ rồi di nó qua các vết lõm nông đến ô vuông trên phần tư màu trắng, tức là ngày hôm nay, cách ngày nhật thực trên mép của phần tư màu đen bốn hàng.

Dừng một lát. Tôi nhận thấy người tôi hơi bị vẹo sang bên trái. Đến lúc này, cái thứ phải gió mà bà ta nhè sang cho tôi đã đưa tôi đi quá cái ngưỡng mài sắc trí tuệ, đến tận ngưỡng mà tôi không thể nói cho các bạn biết tôi là ai được nữa – nghĩ đến đây, tôi thấy đó thật sự là một vấn đề. Mình chỉ được hưởng có một tẹo số thuốc mà bà ta đã nuốt thôi đấy, – tôi nghĩ. Lượng thuốc trong người bà ta hẳn phải đủ để giết chết một con cá voi xanh. Mà bà ta gầy guộc hơn tôi rất nhiều. Chả trách những người đếm mặt trời chín sọ phải làm quen với thứ thuốc này từ khi mới lên năm. Chắc bộ mặt tôi đang nhe nhởn một nụ cười đờ đẫn vì phê thuốc. Không khéo bà ta tưởng tôi dở người. Hừ, lần đầu tiên ai chẳng thế.

Chim Cánh Cụt đưa cho Koh chiếc hộp thứ hai. Nó có hình dáng của một căn lều vuông nhỏ với một búi dây rợ trên nắp. Lần này, bà ta đặt nó vào chính giữa phần tư màu đen, tháo một cái nút nhỏ và kéo một trong những sợi dây. Một cạnh của chiếc hộp kéo lên như cửa lồng dế của người Trung Quốc.

Koh xòe bàn tay đặt trước ô cửa.

Chúng tôi chờ đợi. Chuyện gì nữa đây? – tôi tự hỏi.

Một cặp râu dài chia đốt thò ra từ trong bóng tối, dừng lại, ngoe nguẩy ngược chiều nhau, lại dừng lại, rồi một chuỗi dài màu trắng lởm chởm trườn lên tay Koh. Đó là một con rết, nhưng không thuộc giống tôi có thể phân loại, một loại động vật biến thái cư trú trong hang động, một loài bạch tạng và không mắt, sống dưới hang đất sụt thiếu ánh sáng và có lẽ suốt từ thời cá tay vây mới gia nhập làng động vật có xương sống. Các phần mềm trên cơ thể con vật không có sắc tố và gần như trong suốt, nhưng quanh rìa các màng ki-tin có màu nâu giống như những chỗ phồng cháy xém của cái bánh trứng. Nó dài xấp xỉ mười hai inch, đủ để khiến người ta chú ý. Con vật nằm yên một lúc đủ lâu để tôi quan sát thấy nó có hai mươi mốt đôi chân và không có mắt, chỉ có bốn mẩu nhú ra ở nơi đáng ra là mắt. Hai cái răng nọc, hay chính xác hơn là chân nọc dài và hơi co vào như lưỡi kiếm cong của kỵ binh. Những cái gai – túc là lông cứng giúp phát hiện chuyển động – trên đôi râu phát triển rất lớn, không khác gì cành nhánh chĩa ra trên cây xương rồng cotillo (Một loại xương rồng khi không có hoa nhìn như xác cây khô,là thực vật hoang mạc đặc trưng của vùng tây nam nước Mỹ và bắc Mexico). Nhìn nó như một cái khóa kéo trên chiếc túi nhét căng khổ sở đủ thứ bên trong.

Nhanh như chớp, Koh đưa bàn tay trái thừa ngón ra tóm lấy đốt lưng thứ hai, tức là phần đốt ngay sau đầu. Bà ta đặt nó vào giữa một cái đĩa con và dùng ngón tay cái giữ nó nằm yên. Nó – hay ta nên gọi là “bà ta” vì Koh gọi thế – cố vùng vẫy thoát ra, đạp chân lên và cào xước cổ tay Koh.

– Bà ta đã sống được một k’atun và bảy tun, – Koh giải thích, – bà ta rất khôn ngoan.

Koh thả ngón tay cái ra.

Tôi cựa quậy trên hai cẳng chân khoanh tròn. Tôi chưa từng chứng kiến hay nghe nói chuyện này. Tôi cứ nghĩ Koh sẽ chỉ đơn giản lôi ra những viên đá và hạt của bà ta rồi bắt đầu chơi luôn. Hừ, ai mà nghĩ ra được chuyện này.

Koh gõ móng tay xuống cạnh con rết, dường như đang giao tiếp với “bà ta” bằng thứ ngôn ngữ riêng của sự rung động. Động tác đó hình như khiến một mấu xúc giác nghển lên nghe ngóng. Cuối cùng, “bà ta” thả lỏng người ra một lúc và ngước “nhìn” chúng tôi. Tôi có ấn tượng rờn rợn là “bà ta” ngửi thấy chúng tôi. “Bà ta” trườn hai vòng quanh lòng bàn tay Koh và cuộn mình lại thành một hình xoắn ốc. Koh nói với “bà ta” với giọng khe khẽ bằng một thứ tiếng lạ, toàn nguyên âm sát vòm miệng và âm huýt gió. Tôi cúi xuống qua gần, con vật liền quay lại và bật những cái tua xúc giác trên miệng thẳng vào mặt tôi với hai tiếng tách.

– Cột sống ngươi phải ngả về phía tây bắc, – Koh nói, ý bà ta là tôi phải ngồi lui ra sau một chút. Tôi làm theo. Tôi nghĩ bà ta hơi cười tủm trước rắc rối nho nhỏ với món thuốc của tôi. Mắt tôi chắc nhìn như mắt một thằng nhãi mười hai tuổi sau hơi thuốc đầu tiên trong đời. Ừ, buồn cười lắm đấy!

Koh đặt bàn tay xuống gần cạnh đông nam của bàn cờ. Con rết trườn khỏi lòng bàn tay bà ta như một giọt thủy ngân và chiếm lấy góc đó. “Bà ta” tìm vị trí thích hợp và an vị. Xem ra “bà ta” rất quen với bàn cờ.

– Thứ lỗi cho tôi, hãy dẫn đường cho tôi, hỡi vị khách quý, – Koh lầm rầm. Nhanh như cắt, bà ta chụp lên cái chén thứ hai lên người con rết. Tôi chợt nhớ đến kỉ niệm chẳng mấy dễ chịu về những trò giải trí nho nhỏ mà mấy thằng anh nuôi ở Utah của tôi bày ra. Những trận giác đấu trong thùng gỗ giữa thằn lằn đuôi dài và chuột bạch. Koh đặt bàn tay trắng lên chiếc chén đậy con rết và bàn tay đen lên chiếc chén đậy con khỉ.

– Hơi thở của con màu đen, hơi thở của con màu vàng,

Hơi thở của con màu đỏ, hơi thở của con màu trắng,

Và bây giờ, là màu lục lam

Koh nói rồi mở cả hai chiếc chén.

Chẳng có gì nhúc nhích. Tôi ngồi nhìn con rết lâu đằng đẵng như hàng tuần, hàng tháng, rồi hàng năm. Cuối cùng, hai sợi râu của “bà ta” cũng động đậy, ngóc lên và khoa lên một đường vòng cung khoảng 150 độ, đập đập xuỗng như thanh gõ của người chơi đàn mộc cầm khi chạm vào mặt đàn. “Bà ta” dừng lại. “Bà ta” cảm thấy điều gì thì phải – tôi nghĩ. Liệu có phải bàn cờ này giống một thiết bị ghi địa chấn? Phải chăng con rết đang cảm nhận chuyển động lên xuống và dòng chảy của nham thạch sâu hai dặm dưới chân chúng tôi? Phải chăng nó đang đo lực hút của mặt trăng?

Hai con vật đang đứng ở hai rìa xa nhất của bàn cờ, và do các hòn đá chặn giữa nên chúng không thấy được nhau. Thế nhưng, con rết rung rung sợi râu, định hướng và thận trọng trườn ba bước về hướng đông, vuông góc với vị trí của con khỉ, vừa trườn vừa thăm dò bề mặt của phần tư màu đỏ. Qua cách “bà ta” giữ thăng bằng khi trườn qua các ô lõm, có thể thấy “bà ta” rất quen đường. Con khỉ đờ người ra. Sắp có chuyện gì đó.

Tính về kích thước, con rết có lợi thế hơn. Nhưng tôi đã từng chứng kiến khỉ rú giết chết được cả những con rắn to hơn chúng. Và nếu con khỉ quyết định không đánh nhau với con rết, nó chỉ cần chạy là xong. Con rết lại còn mù nữa. Vì vậy, tôi đoán rằng, một lần nữa, sự thể sẽ không dành cho loài không xương sống.

Con khỉ quay đầu sang bên trái, rất khẽ khàng, và con rết cũng ngóc cái đầu ngực về phía ấy. Thật khó tin là con khỉ gây ra tiếng động. Nhưng tổ tiên của con rết sống dưới lòng đất đã lâu, chúng học được cách nắm bắt những rung động nhỏ nhất. Sau một lúc lâu không động tĩnh, con khỉ rón rén bước sang trái, tìm đường chạy sang phía nam. Con rết phản ứng ngay tức thì. Con khỉ dừng lại một chút rồi len lén bước tiếp. Tôi đếm bốn nhịp và con rết bắt đầu chuyển động, thoạt tiên nó chỉ nghoe nguẩy tại chỗ, rồi mới lén lút trườn về phía nam, vuông góc với con khỉ, những cái chân chạm xuống bề mặt bàn cờ như những đợt sóng uốn lượn. Tôi nghĩ mình nghe thấy cả tiếng của lớp vỏ ki-tin đập xuống mặt đá và phân biệt được những tiếng đập khác nhau. Con rết đã đến bên cạnh hòn đá đặt ở vị trí của “ngày hôm nay”, đôi râu vươn sang thăm dò phía bên kia hòn đá, suy tính nhanh chóng. Tôi nghĩ đến bức ảnh chụp Marena vừa leo lên vách núi vừa sờ những khe nứt phía trên. Con khỉ bò đến gần hơn. Con rết bắt đầu trườn nhanh, như thể đang nuốt dần quãng đường phía trước, rồi đứng khựng lại, dùng đôi râu hít hửi không khí. Nhìn nó như một cái miệng đang há ngoác với hàm răng chìa ra ngoài, cái nhe nanh khát máu của con báo Cheshire (Lấy theo hình ảnh con mèo Cheshire trong mẩu truyện “Alice ở xứ sở diệu kỳ”, một con mèo có khả năng tàng hình, chỉ hiện ra mỗi cái miệng, ý diễn tả hình ảnh chỉ có cái miệng nhe nanh mà không có con báo). Con khỉ nhảy một bước ngắn sang trái, ra khỏi chỗ nấp sau viên đá.

Con rết đứng yên không động đậy.

Con khỉ đã nhìn thấy “bà ta”. Nó cũng đứng sững lại.

Nó có biết “bà ta” là cái gì không? Mọi động vật có vú đều có bản năng sợ những vật có hình dáng chia khúc. Nhưng mặt khác, loài khỉ, kể cả những giống chuyên ăn quả như khỉ nhện, cũng ăn rất nhiều sâu bọ. Và con khỉ này không chỉ có vẻ đói. Nó thực sự đói ngấu. Cặp mắt nó nheo lại, và qua ánh thèm khát trong đó, anh có thể nói chắc nó đang bị bỏ đói gần chết, nó sẽ tấn công bất cứ thứ gì có thịt. Liệu nó sẽ tóm lấy đuôi con rết và quật đầu “bà ta” vào hòn đá, hay sẽ cào xé cho đến khi con rết đờ ra, như loài cáo vẫn làm với bọ cạp?

Nó quan sát “bà ta”. Con rết lại trườn lên phía trước, rất thận trọng, vào phần tư màu vàng và xoay xuôi chiều kim đồng hồ về phía phần tư màu đỏ. Cơ thể căng cứng của con khỉ không động đậy, nhưng cặp mắt đó dõi theo. “Bà ta” bò sang phần tư màu đỏ. Con khỉ chuyển trọng tâm cơ thể. Bất thình lình, con rết lao bắn về phía trước, nhanh đến mức không mắt nào có thể theo kịp. Con khỉ giật mình và nhảy bắn sang một bên, gần như giật lùi và thu mình sau một viên đá. Con rết trườn chậm lại và quay đi.

Hai bên cùng cảnh giác. Tôi đếm năm nhịp, rồi mười nhịp. Con khỉ bò lùi về phía sau, giữ sao cho hòn đá chặn giữ chúng. Đến nhịp thứ mười bốn, hoạt cảnh tĩnh chuyển sang động. Hai chiến binh lao bổ vào nhau ngang qua bàn cờ, hệt như viên bi va đập giữa hai quả đấm trong trò bắn đạn, hoặc như cảnh quay các hạt hạ nguyên tử chuyển động trong thiết bị nhận dạng hạt phóng xạn ion hóa. Tôi có ấn tượng rằng con khỉ đang rượt đuổi con rết.Quanh một bụi nho (Lời một bài hát kể chuyện con khỉ đuổi bắt con chồn) – tôi nhẩm trong đầu. Rồi hình như con rết lại quay ra rượt con khỉ, chúng chạy gần như ngược chiều kim đồng hồ qua trận đồ đá gần như tạo thành một đường đua chướng ngại. Cứ sau mỗi vòng đua, con rết lại tiến sát hơn đến con khỉ. Lúc này,con khỉ đang ở trong phần tư màu đỏ, con rết cũng lao vào phần tư màu đỏ, rồi sang phần tư màu trắng, con khỉ tiếp tục nhảy ngang qua bàn cờ vào phần tư màu đen với con rết bám ngay sau lưng, cuối cùng, “bà ta” không đuổi theo nữa mà quay ngược lại,chạy về đằng sau, như thể “bà ta” đoán được con khỉ sẽ chạy đến chỗ nào, và trước khi tôi kịp nhận biết chuyện gì xảy ra, con rết đã dồn được con khỉ vào sát một viên đá. Nhưng rồi con khỉ luồn được ra sau lưng con rết. Nó lừa được “bà ta” cơ đấy – tôi nghĩ thầm. Con rết đứng khựng lại. Con khỉ xem ra đã lấy lại được dũng khí. Nó chồm lên, tóm lấy khúc đuôi con rết, định nhấc lên để đập vào hòn đá, nhưng trước khi nó nhấc được “bà ta” lên khỏi mặt bàn cờ, đầu “bà ta” đã vòng ra sau lưng nó. Tôi có cảm giác là con rết sắp đặt tình huống này, “bà ta” đã nhìn thấy trước sự việc. “Bà ta” quấn xiết lấy mình con khỉ và cắm những cái chân nọc như lưỡi dao vào thớ thịt sau gáy con khỉ.

Con khỉ vùng ra, nhảy lùi về phía sau và sảy chân suýt ngã. Hiển nhiên nó đã bị trúng độc. Nó cố chạy về phía tây, bò bằng cả tứ chi, nhưng đến vị trí của ngày Sậy 8, hai tay nó trượt đi trên mặt đá. Nó lảo đảo chạy qua viên đá Sao Kim và quay lưng về hướng bắc. Nó chạy được tới ngày Gió 13. Với kinh nghiệm mấy chục năm chơi cờ hiến tế, tôi có thể cảm nhận được, tuy không thể lý giải vì sao, rằng sự hoảng sợ của nó có liên quan tới điều gì đó rất quan trọng trong cách bố trí bàn cờ này.

Tôi nhìn lên Koh. Bà ta theo dõi cảnh tượng này với ánh mắt chăm chú mà tôi phải gọi là tóe lửa. Bà ta đang chuẩn đoán điều gì đó qua sự hoảng hốt của con khỉ.

Con rết nằm yên, chờ đợi. Tôi nhận thấy “bà ta” đang ngồi ở chính giữa bàn cờ, trên điểm màu xanh lục đánh dấu vị trí ngày 0, đồng thời tượng trưng cho Teotihuacán theo cách bố trí bản đồ thế giới của bàn cờ này. Sau ba mươi giây, chuyển động của con khỉ bắt đầu cứng đờ ra, nó kéo lên người về phía trước, chạy xa khỏi con rết. Đến lúc này, chắc nó không thể còn nhiều cảm giác đau, – tôi nghĩ, – chỉ còn thấy lạnh cóng thôi. Hai phút sau, nó đã ở rìa bên kia của phần tư màu đen. Nó ngã sấp mặt xuống, cứng đờ như một bức tượng. Nó vẫn cử động được hai bàn tay, nhưng phần còn lại từ dưới cổ đổ xuống bị tê liệt. Con rết tiến lại gần nó, lần này bình thản hơn nhiều, những cái chân rướn lên đặt xuống chậm rãi như cái mái chèo trên thuyền lớn. Khi đến nơi, “bà ta” dùng đôi râu lông lá đập những nhát dài và khéo léo xuống để khám xét con khỉ. “Bà ta” quấn lấy người nó. Nó bị xiết chặt nhưng hai tay vẫn nắm được hai chân con rết, cố đẩy nó ra. Hai con vật nhỏ bé, nhưng cảnh tượng thì thật bi tráng, cho ta cảm giác hệt như đang chứng kiến cảnh thánh George tiêu diệt rồng. Con khỉ bắt đầu rú lên.

Tiếng rú cao đến mức suýt ra khỏi ngưỡng nghe của tai người, chói như tiếng lưỡi dao kim cương cắt ngang qua tấm kính. Nó nhỏ thôi, nhưng xuyên thấu đến mức tôi chắc chắn cả Hun Xoc và những người còn lại ngoài sân đều có thể nghe thấy, thậm chí Bị Thương 14 ở bên kia thành phố cũng nghe thấy, ở tận Ix, tận Cực Bắc, tận Sao Hỏa cũng nghe thấy. Sau một trăm linh tư nhịp, tấm gương dường như đã bị cắt vụn, tiếng rú dừng lại, rồi lại váng lên, rồi lại ngắc lại, cuối cùng, con khỉ chỉ còn rú không thành tiếng với cái miệng há hốc, cứng đờ, hai vành môi vén lên để lộ những cái răng bé xíu nhăn ra. Sau ba trăm nhịp, người nó phù lên vì nọc tiêu hóa nhưng vẫn còn co giật. Con rết bắt tay vào đánh chén, cặp hàm nhỏ xíu và những cái xúc tu quờ quạng khắp người con khỉ, lên xuống, lên xuống, như đứa trẻ con gặp bắp ngô, “liếm” nó, phết lên nó một lượt nước bọt, sền sệt. Rết là loài ăn thịt theo lối rất bẩn, và chẳng mấy chốc, con khỉ đã bóng lên với thứ nước đó và thêm cả một vũng trong trong đọng ở dưới. Sau sáu mươi ngàn nhịp, các chất en-zim của con rết đã phân hủy được phần lớn cơ và nội tạng của con khỉ khiến nó nhìn như một bộ da bọc nước, chẳng hề giống một sinh vật vừa mới đây hẵng còn sống. Con rết gặm từ gốc cổ con khỉ, xuyên qua hộp sọ mềm nhũn vào đến óc, sau đó gặm ngược xuống thân. Chúng tôi quan sát trong sự im lặng đến nghẹt thở. Đồng tử của Koh giãn ra đến mức màu nâu của mống mắt nom hệt như quầng sáng quanh mặt trời khi bị mặt trăng che khuất. Con rết lật xác con khỉ lại bằng những động tác giật nhanh, khéo léo và rất kiểu cách rồi bắt đầu quết tiếp nước bọt lên dạ dày nó. Tôi tính ra chỉ mất có một tiếng bốn mươi phút để con khỉ biến thành một đống xương và răng.

Tôi liếc sang Koh. Bà ta cũng đang quan sát tôi bằng một mắt, mắt kia nhìn con rết. Ái dà, – tôi nghĩ. Nói chuyện với một người với ánh mắt không tập trung có thể khiến anh thấy chưng hửng. Nhưng khác với những người trong tình trạng đó, dường như Koh có thể điều khiển hai con mắt một cách độc lập. Tôi lại nhìn xuống bàn cờ. Mãi chẳng có gì xảy ra. Vừa lúc tôi tưởng mọi chuyện đã chấm dứt và chúng tôi đang bị ướp xác tại chỗ thì hình như Koh động đậy. Tôi ngước lên. Chẳng có gì cả. Tôi nhìn xuống con rết. Có điều gì đó không bình thường.

Con rết căng thẳng, như thể linh tính thấy kẻ thù. “Bà ta” quay phắt đầu sang trái, rồi sang phải, đớp đớp bộ hàm hai lần và có vẻ hoảng hốt. “Bà ta” chạy xuôi chiều, rồi ngược chiều kim đồng hồ, trườn qua ô màu đỏ, rồi màu vàng, đến b’ak’tun thứ tám, rồi lại rẽ sang phải, lao về ô phần tư màu đen, lao tiếp về ô màu trắng, quay về ô màu vàng, lần này hết sức cuống quýt, đến b’ak’tun thứ mười ba, chạy đi chạy lại, đến tương lai, về quá khứ, trườn qua trườn lại ở hiện tại, và cuối cùng, ở điểm chính giữa ô phần tư phía bắc, tương ứng ngày Đêm 14, “bà ta”cắm đầu xuống và xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ. Không rõ tại sao, trong đầu tôi bỗng hiện lên từ “ĐIÊN”. Khi quay đến vòng thứ hai mươi tám, có vẻ như “bà ta” đã đi đến quyết định, “bà ta” đứng khựng lại, đuôi ngỏng lên, đôi râu rung rung, chân dậm xuống nhanh một cách không bình thường. Trong tiếng Ix, có một câu thành ngữ nói rằng: anh không bao giờ có thể chuyển động nhanh hơn cái rùng mình trước khi chết.

Con rết trườn bốn bước ngập ngừng về hướng bắc, sau đó là bốn bước chậm chạp về hương đông nam, rồi rùng mình đứng lại bên một ô, nơi các hòn đá đánh số thể hiện ngày Chuyển động 12,Ngọc lam 5 thuộc k’atun thứ bảy, b’ak’tun mười hai, tức ngày mùng 3 tháng 12 năm 1773. Đó là năm xảy ra vụ động đất phá hủy toàn bộ Antigua khi nó còn là thủ đô của Guatemala. Tôi có nên kể chuyện này ra không nhỉ? Hay Koh biết rồi? Tôi quyết định không nói gì nếu không ai hỏi. Con rết lại tiếp tục trườn lên phía trước, loạng choạng (nếu có thể loạng choạng với bốn mươi hai cái chân) đến Etz’nab 2, K’ank’in 1, tức ngày Lưỡi Dao 2, Xương Vàng 1, cách ngày tận thế hai ngày.

Hiển nhiên con rết đã bị trúng độc bởi con khỉ, hoặc thứ gì đó mà người ta dùng để nuôi con khỉ. “Bà ta” quằn quại, hết co lại duỗi, lăn ngửa ra, lại co, lại duỗi, rồi lật úp người xuống . “Bà ta” tự cắn vào bàn chân thứ 18 bên trái. Những mẩu thịt trăng trắng phèo ra qua các khe của bộ xương ngoài. Hơi nước phun ra qua chân nọc khí “bà ta” phun chất độc thần kinh ra ngoài không khí. “Bà ta” lại vật ngửa ra, tự cào xé mình. Một vết nứt toác ra ở giữa lưng và há rộng dần, lớp biểu bì của từng khúc thân lần lượt rách dần. “Bà ta” đang lột xác.

Động vật chân đốt lột xác nhờ lực nhu động. Cảnh một con nhện lột xác nom giống như một bàn tay tự rút dần ra khỏi găng. Các giống côn trùng thì có xu hướng xé toạc một nhát toàn bộ lớp vỏ. Rết thì co duỗi người, như bàn chân rũ chiếc dép lê xuống vậy. Thông thường, việc lột xác làm lộ ra toàn bộ lớp thịt bên trong và con vật nhìn như mới được sinh ra một lần nữa. Tôi nhớ rằng ai đó – có lẽ là mẹ tôi, hoặc mẹ Chacal – từng bảo rằng nếu chúng ta cũng biết lột xác, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.

Thế nhưng, lúc này, con rết đang phải lột xác khi chưa đến lúc. Bộ xương ngoài dưới lớp ” bà ta” đang lột vẫn chưa hình thành, mới chỉ có những tế bào biểu bì sống đang sủi lên các bọt bong bóng huyết tương. Thực chất, con rết đang tự lột da sống mình. “Bà ta” lăn lộn, vật vã trên nền đá, rõ ràng là đau đớn cực độ. Từng mảng vỏ ki-tin bong ra và rơi xuống bàn cờ với những thớ thịt trắng bàm ở mặt trong. Phần bụng của hai đốt cuối chuyển động, hay có thể nói là cuộn lên rồi rơi ra… nhưng hình như hai mẩu thịt đó vẫn cựa quậy, không, chúng là những vật nhỏ đang chuyển động… giòi chăng? Không, đó là hàng trăm con rết bé li ti màu trắng trong suốt, mỗi con chỉ bằng một mẩu dừa khô nạo mà trước đây người ta vẫn rắc trên kem tráng miệng. Tôi nhớ là loài rết đẻ trứng, nhưng rõ ràng giống này khác. Lũ rết con trườn, và vươn, và uốn éo, và túm tụm lại quanh những tảng thịt của con mẹ, liếm sạch trơn số nước mủ chảy ra. Cuối cùng,con mẹ uốn cong người thành một vòng tròn, tự giày xéo cái xác của mình cho đến khi chỉ còn là một đống bầy nhầy sũng nước nằm ở ngày Sọ 9, Gió 11 trên phần tư màu trắng của bàn cờ. Cuối cùng, chỉ còn đôi râu của “bà ta” động đậy, lờ đờ vẽ thành hình số tám trong không khí. Trong vòng một ngàn nhịp sau đó, những con con cũng dần chết theo. Những ngón tay của Koh từ trên cao thò xuống. Mấy cái móng chạm vào con rết tả tơi. Bà ta nhấc cái xác lên – con rết cứng đờ như một mẩu thịt muối rán cháy – và đặt quân cờ bằng ngọc mắt mèo của mình và chỗ đó. Bà ta vun những mẩu còn lại của con khỉ và cái xác lòng thòng của con rết vào một mảnh vải bông mới. Cô gái lùn chìa ra một cái hộp nặn bằng đất sét. Koh quấn tấm vải quanh xác hai con vật và đặt cái bọc vào hộp,nói với nó vài câu ngắn gọn bằng hai thứ tiếng khác nhau.Cô gái lùn cất cái hộp đi, chắc là để mai táng trọng thể. Trước khi tôi kịp hiểu ra Koh làm gì, bà ta đã cất chín viên đá lớn đi và bắt đầu rải sọ, tức là các hòn đá, lên các ô mà hai con vật đã chạy qua, và lầm rầm bằng thứ ngôn ngữ cổ xa lạ kia. Tưởng như bà ta dừng đến hàng phút trước khi rải thêm một viên đá và tôi phải tự nhắc mình rằng bà ta đang cử động với nhịp độ bình thường, chỉ là tôi đang suy nghĩ nhanh hơn thôi.

Vậy mà cuộc chiến giữa hai con vật diễn ra nhanh đến mức tôi chỉ vừa kịp theo dõi. Còn Koh không chỉ theo dõi, bà ta còn nhớ được toàn bộ đường chạy rối rắm của con rết và con khỉ, và nhớ rất chính xác. Bà ta đánh dấu lại nó bằng một chuỗi các dấu hiệu, đặt những viên đá có hình thù khác nhau vào những vị trí xảy ra những sự kiện khác nhau: một viên dẹt hình bầu dục tại nơi con rết tấn công lần đầu, một viên hình cái nêm tại nơi con khỉ bỏ mạng, một viên hình cầu gần như hoàn hảo tại nơi con rết bỏ mạng. Đây là một trong những sự thể hiện trí tuệ phi thường nhất tôi từng được chứng kiến, mà tôi cũng chỉ được chứng kiến có vài lần. Tôi không nắm bắt được phải đến tám mươi phần trăm diễn biến. Tôi cược rằng bà ta có thể xem một đoạn băng mười phút ghi lại hình ảnh những quả bóng lăn trên sàn bi-a và phác lại được lại toàn bộ các đường bóng.

Cuối cùng, Koh vỗ tay xuống bàn cờ năm lần và dốc ra một cái túi đựng những viên đá nhỏ. Không viên nào giống viên nào. Vài viên phẳng bẹt một mé như viên kẹo gôm. Mỗi viên tượng trưng cho một hành tinh hoặc một ngôi sao lớn. Bà ta chọn ra những viên đại diện cho các ngôi sao đang xuất hiện trên trời vào đúng lúc này và cất số còn lại vào túi. Bà ta bày bản đồ sao của đêm nay lên bàn cờ, lần này hơi khác đi, với Chúa Tể Cuối Cùng Của Đêm Tối thấp xuống một chút về hướng tây và vị trí xuất hiện lần đầu của Người Chế Ngự Mặt Trời, tức là sao Kim, ở hướng đông. Viên đá mà bà ta dùng làm mặt trăng là đá hidrofan, một loại ngọc mắt mèo, nhẵn hình cầu. Ở châu Âu thời Trung cổ, người ta gọi nó là Con Mắt Của Thế Giới.

Koh lầm rầm:

– Hướng màu đen, ta xin từ biệt hang của người chết,

Hướng màu vàng, ta xin từ biệt hang của hơi thở,

Hướng màu đỏ, ta xin từ biệt hang của những người chưa ra đời

Hướng màu trắng, ta xin từ biệt hang của sự hư vô.

Ta rải những hạt đen và hạt vàng,

Sọ đen và sọ đỏ,

Còn đây, sọ lục lam của riêng ngươi,

Chính là ngươi,

Và chúng ta bắt đầu.

Bà ta đặt xuống một viên đá màu xanh lục và di chuyển nó về phía trước, đi xuống phía tây, đi lên phía đông, quay về nơi các con đường cắt nhau,đến cạnh Cây Cá Sấu (Theo quan niệm của người Maya, Cây Cá Sấu là hình ảnh tượng trưng cho dải thiên hà với trung tâm nằm trên miệng con cá sấu), đi qua Bốn Trăm Gã Trai, tức là chòm Tua Rua, dọc theo con đường trắng dài của ruột rắn, qua các bệ đá lò sưởi, tức vành đai của chòm Thợ Săn, rồi đi tiếp về phía nam, hướng đến ngôi Thiên Lang và Mirzam – ngôi sao mà người Maya chúng tôi gọi là Chúa Tể Thứ Hai Của Đêm Tối, vừa đi vừa để lại phía sau một mạch đá dài đánh dấu những nếp gấp của thời gian. Bà ta di chuyển rất nhanh nhưng tôi cũng theo được mà không gặp khó khăn gì. Thực ra, tuy bộ não của Chacal không có những liên hệ với trò chơi như bộ não của Jed, nhưng tôi vẫn đưa ra được cách giải quyết nhờ vào kinh nghiệm tích lũy được từ các ván cờ trước đây tôi từng chơi. Và tôi không hẳn thấy mình suy nghĩ mạch lạc hơn. Cảm giác này khác, một cảm giác đặc biệt của loại ma túy gây xáo trộn không gian. Nó không cho anh cảm giác giống như đang bay qua không gian, mà khiến cho anh thấy mọi không gian hợp nhất thành một, hoặc cả thế giới cuộn lại thành một quả bóng trên tay anh và nếu anh xoay nhẹ nó đi một cái, anh sẽ đến bất cứ nơi nào mình muốn… hoặc có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng thế giới như một cỗ bài, anh có thể kéo các không gian cách xa lại gần nhau chỉ bằng cách tráo bài, anh có thể thả tõm Sri Lanka vào giữa Oklahoma (Một bang miền nam của Hoa Kỳ) hay trút tinh vân Trifid xuống căn phòng này.

Koh đặt chín viên đá trắng xuống và bắt đầu đuổi theo quân chạy. Nó đã chạy tới mặt trời cách hôm nay tám ngày, tức ngày nhật thực. Bà ta nói ở đó có mùi hơi ảm đạm và rằng sẽ có một k’ii xảy đến với tôi vào ngày hôm đó. K’ii nghĩa là mánh khóe hoặc chiến thuật, ý nói tôi sẽ tìm ra cách để xoay chuyển tình thế. Và k’ii đó có tên ghép là “chaat ha’ anachan”.

Chaat có nghĩa là Gió Tây Bắc, rất khô, nóng và được mặc định là màu đen. Hoặc cũng có thể chỉ là gió nói chung. Anachan nghĩa là một thành phố chết, tức là một thành phố theo kiểu Maya thu nhỏ dành riêng cho người chết. Chúng tôi đã đi qua hàng trăm thành phố như vậy trong suốt cuộc hành trình mệt mỏi trên bộ từ San Martín đến đây. Ngoài ra, bụi quá dày đặc (theo cách nói của Koh) khiến bà ta nhìn không rõ thêm gì nữa.

Gió trong nghĩa địa à, – tôi ngẫm nghĩ, – hừmm.

‘- Năm mặt trời, mười bốn mặt trời và ba mươi mặt trời,

Năm mươi nhăm mặt trời, chín mươi mốt mặt trời và một trăm mặt trời…

Cứ đặt được hai mươi viên đá, Koh lại cầm lấy viên đầu tiên và tiếp tục di chuyển, giống như một người leo núi, trước tiên anh ta chăng một sợi dây cáp an toàn, leo qua, chăng một sợi thứ hai, rồi lại leo ngược xuống để gỡ sợi thứ nhất. Lúc trước, tôi cứ tưởng bà ta sẽ dùng một cái kẹp gắp để di chuyển xa phía bên kia bàn cờ, nhưng thay vào đó, bà ta vươn người sang. Tôi nhìn thấy gần hết bộ ngực. Có những thứ chẳng bao giờ thay đổi. Tôi lại thấy muốn một nụ hôn nữa của Người Nhện. Có lẽ bộ da nửa đen nửa trắng cũng là một kiểu đáng yêu. Bà ta có vấn đề gì đâu nào. Chẳng phải chỉ là tăng sắc tố mô thôi sao? Chỉ là tăng sắc tố do thiếu cân bằng hoóc-môn thôi. Hay là bệnh bạch biến thật nhỉ? Hay sạm da? Hay suy tuyến thượng thận? Hay nhiễm sắc tố sắt? Hay thiếu máu cơ? Hay khô da sắc tố…

– Mặt trời không, – Koh nói. Bà ta đã đến ngày tương ứng nơi con khỉ bị giết. Nhưng bà ta không dừng lại. Thay vào đó, không hề lưỡng lự, bà ta tiếp tục di chuyển các viên đá, như thể con rết vẫn đang truy đuổi con khỉ trong một chiều không gian Kaluza-Klein (Học thuyết liên quan đến không gian đa chiều do nhà bác học Theodor Kaluza đề xuất) đã sập nào đấy. Một vài ô đã gần như kín đặc đá. Giá chỉ có một hoặc hai quân chạy thì tôi còn theo dõi được. Nhưng như tôi đã nói, cứ thêm một quân chạy, độ khó lại tăng lên gấp nhiều lần. Một ván cờ với chín quân chạy không chỉ khó hơn một bậc so với ván cờ tám quân. Thậm chí cũng không chỉ khó hơn gấp chín lần. Mà 9!, tức 9 x 8 x 7 x 6 x 5 x 4 x 3 x 2, hay 362.880 lần khó hơn.

– 14, 51, 124, 245, – Koh lẩm nhẩm. Bà ta nhìn rất xa về tương lai rồi quay ngược lại. Bà ta lần ngược đường về tận ngày Kaban 5, Chen 15, 8.14.17.7.17, một ngày mà cuốn Thư tịch có nhắc tới, là ngày A’K’aakan, tức Al Mirador (Một thành phố thời tiền Columbus của người Maya, nay thuộc địa phận bang El Petén, Guatemala), sụp đổ, sau đó, bà ta quay lại và đi tiếp theo con đường đến tương lai, tiến thêm 394 ngày, tới rìa của phần tư màu đỏ, tương ứng với ngày thành Ix ra đời. Có điều gì đó rất đáng chú ý trong con đường vòng vèo mà bà ta đi, cách nó trở đi trở lại, vòng từ chỗ này tới chỗ khác như dệt thành một họa tiết hình bông hoa, họa tiết đó cứ lặp đi lặp lại, nhưng mỗi lúc một mở rộng hơn… song dù thế nào, nó vẫn luôn có cùng một độ cong như thế, và tôi có cảm giác là lạ về đường cong đó, dường như nó đang cắt xuyên qua đám mây hình nấm của hậu quả và bập vào đến căn nguyên bên trong như con dao cắm phập vào hạt đào.

– Khi chúng đến những nơi và những mặt trời xa lạ với ta, – Koh nói, – ta sẽ kể cho ngươi những gì ta thấy ở đó và ngươi sẽ cho ta biết tên của chúng.

Tôi ra hiệu đồng ý. Cách làm mà bà ta vừa nói không có gì khác thường. Thực tế, việc này đã có tiền lệ trong nghi thức của trò chơi. Chẳng hạn, một khách hàng xem bói có thể hỏi người đếm mặt trời rằng chuyện gì sẽ xảy ra trong chuyến đi sắp tới của anh ta. Nếu anh ta hỏi về nơi anh ta đã từng đến nhưng người đếm mặt trời thì chưa đến bao giờ, người đếm mặt trời sẽ dự đoán cho anh ta những điểm chính yếu nhưng đồng thời yêu cầu anh ta giải thích những điểm cụ thể.

– Ba trăm chín mươi nhăm, năm trăm linh sáu, – bà ta lẩm nhẩm. Bà ta tiến một bước thêm năm mươi hai năm về tương lai, rồi một bước nữa, một bước nữa, một bước nữa. Tia chớp lóe lên dưới da tôi như một luồng điện áp tĩnh chạy quanh quả cầu Van de Graaff (Một thiết bị phát tĩnh điện). Koh tả lại cảnh những thành phố đẹp đẽ bị nổ tung, hóa thành rừng rậm và tôi lần lượt hình dung ra chúng như một đoạn băng tua ngược cảnh những bông pháo hoa đỏ bắn lên trời xanh, Ix, Axcalamac, Yaxchilan, Bonampak, Palenque, Kaminaljuyu, Ti ak’al, Uaxactun và Tonil, tất cả cùng tan rã theo làn sóng lan ra từ tàn tích của Teotuhuacán. Những ngón tay của Koh nhảy về phía trước, mỗi lần đập xuống là một lần đặt một hạt sọ vào ô tiếp theo, để lại một vệt dài, nhưng là vệt dài phía trước những hạt sọ và lớp lông chim trên mặt bàn cờ dệt thành những quả cầu pha lê cho ta thấy lịch sử. Thêm nhiều thành phố khác hiện lên ở hướng bắc: Kan Ec, Pink Mountain, Tula, Flint Lake, Chichén, Kabah, “Giếng hẹp không bao giờ cạn”, Uxmal và Mayapan. Tiếp đó, sau thời điểm bắt đầu của b’ka’tun thứ mười, những quần thể kim tự tháp lại kết tinh thành hình ở vùng hồ, gần trung tâm của bàn cờ, nhưng nằm về phía tây nam của tàn tích Teotuhacán: Tlaxcala, Tenochtítlan và hàng trăm thành phố khác của đế chế Aztec. Vô số hàng lính nối đuôi nhau như những con kiến gác tổ, ào ào tiến ra khỏi các thành phố thủ phủ và đi khắp Mesoameria. Tôi liếc nhìn Koh. Bà ta đang cố gắng hết sức mình để đưa tôi đi xuyên qua dòng lịch sử, như thể đang cõng tôi trên lưng mà lướt trên dòng nham thạch. Nếu anh chơi cờ vây hoặc cờ vua, hoặc chỉ chơi Neo-Teo hay bất cứ trò gì khác trong số các trò chơi điện tử đời mới, miễn sao không quá dễ, anh sẽ hiểu được cảm giác, hiểu được sự đau đầu nhức óc khi phải để ý quá nhiều thứ cùng một lúc. Hoặc cũng vậy nếu anh là một vận động viên. Khi anh rướn sức lần cuối và anh nghĩ mình không thể làm được, nhưng rồi anh làm được, anh vượt qua cái ngưỡng đó và lên đến nơi nhưng chẳng có cách nào xuống được, anh liền phát hoảng và gào lên gọi nhân viên y tế. Koh ghi nhớ trong đầu hàng ngàn sự kiện có thể xảy ra và quan sát chúng trải rộng quanh viên đá tượng trưng cho chính mình, sau mỗi bước đi, bà ta lại chọn lấy một trong số chúng. Những chiếc xuồng to bằng cả một thành phố từ biển khơi lướt vào cái đáy màu đỏ của bàn cờ. Bà ta lại nhìn thấy bọn người cá cháo, thấy mụn nhọt đen mọng tóe ra từ một tấm da thuộc rộng hàng dặm vuông, thấy những lá phổi phập phồng bám đầy ghẻ mủ, thấy những thây người chết rũa quá nhanh đến mức chẳng kịp chôn. Bà ta di chuyển quân cờ đến năm 1518, năm Hernán Cortés đặt chân đến nơi ngày nay là Mexico City, cách phế tích Teotihuacán chỉ vài dặm. Những thành phố trắng nổi lên giữa lòng hồ rụi đi trong đám lửa. Bà ta đi tiếp.

– Gió 9, ý nghĩ 10, k’atun mười sáu, – bà ta thông báo. Đó là ngày mùng 4 tháng 2, năm 1525 Công nguyên. Vùng hồ cạn khô thành bùn và tan biến đi theo những cơn bão cát.

– Hắn tiêu diệt gần như toàn bộ chúng ta, – Koh nói.

– Ai cơ? – tôi hỏi

Bà ta miêu tả một gã khổng lồ với bộ râu đỏ hoe vàng.

Tôi nói tôi biết hắn là ai.

– Là ai? – bà ta ra hiệu hỏi.

– Pedro de Alvarado.

53

Koh nhắc lại cái tên. Tôi thấy rùng cả mình khi nghe thấy nó ở đây, vào lúc này, qua giọng nói của bà ta.

– Lúc này, chúng ta đã thành nô lệ, – bà ta nói. Tôi tiếp tục nhìn xuống bàn cờ. Bây giờ, nó to lớn chẳng khác nào toàn bộ Tây Bán Cầu, dân cư đi lại khắp các lục địa như những hạt xoàn lăn trên cái dĩa phẳng. Bà ta mô tả các thành phố to phình lên gấp đôi chỉ sau vài mùa hòa bình, hệt như nấm đất, và hai cái rễ đen với những con sâu khổng lồ, ướt rượt, trườn bên trên. Tôi nói cho bà ta biết tên của thứ mà bà ta vừa liên tưởng ra, và bà ta nhắc lại từ “đường sắt”. Bà ta chuyển từ vị trí của ngày 24 tháng 12năm 1917 sang năm 1918, đến chuỗi ngày mà những cơn động đất tàn phá Ciudad Guatemala. Bà ta tả rằng những cái rễ sinh sôi rất nhiều, nhú lên, vươn dài và rỉ ra nhựa đường. Lũ rận rệp màu đen bò trên đó, hút máu của nữ thần Cóc Đất và cây cối sẽ rung chuyển dưới hơi thở của chúng. Sau k’atun thứ chín của b’ak’tun cuối cùng, lũ rận rệp hôi thối đó sẽ sinh sôi thành từng đàn khổng lồ, được tráng men đỏ, xanh lơ và vàng, một vài con mọc cả cánh. Tôi giải thích rằng theo tôi, bà ta đang nhìn thấy đường, xe ô tô và máy bay. Bà ta tả tiếp những khối đá thạch anh “mọc qua đêm và nôn những con ruồi trắng vào một cái bát nứt màu lục lam”.Tôi không chắc bà ta nói thế nghĩa là sao. Bà ta đặt hòn ngọc bích của mình xuống ngày Khỉ rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun thứ mười tám của b’ak’tun thứ mười ba,b’ak’tun cuối cùng.

– Đó là ngày lễ đặt tên của người, bà ta nói. Tôi gật đầu ra hiệu “đúng”.

Bà ta di chuyển nó đến ngày mùng 3 tháng 2 năm 1976 – ngày xảy ra cơn động đất lớn cuối cùng của Guate City – và tiếp tục đi sâu hơn vào b’ak’tunthứ mười ba.

– Ngày Chuyển động 11, -Koh nói, – một con rắn “ống xì đồng” với miệng và hậu môn kề nhau sẽ nôn bụi cát vào lửa của Thần Số Không, và bụi cát đó sẽ nóng chảy thành những lưỡi dao thủy tinh.

Ngày đó tương ứng với ngày mùng 2 tháng 6 năm 2009, ngày xảy ra vụ nổ máy gia tốc hạt ở Huajapan de Léon. Tôi định kể qua cho Koh về sự việc này, nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa viên ngọc mắt mèo đến ngày Lưỡi dao 6, Xương vàng 6.

– Chúng đánh lộn nhau ở đây, – bà ta nói, – tại một ” thành phố trò chơi” ở đồng bằng san hô phía bắc.

– Là Disney World, -tôi nói.

-Chính xác thì điều gì đã xảy ra vào mặt trời đó?

Tôi cố mô tả lại ngày đó chính xác hết mức có thể.

Koh đi tiếp. Chúng tôi đã đến nơi tận cùng của thế giới ở rìa phía tây của bàn cờ, tại một ô tương ứng ngày Chúa tể 4, Xương vàng 3, tức 21 tháng 12 năm 2012, ngày cuối cùng của chu trình thời gian.

-Một ahau giấu mặt sẽ khiến người của ông ta quay ra chống lại chính ông ta, – Koh nói, – ông ta có cái sọ méo mó.

Tôi gật đầu đồng ý “vâng”, nhưng thông tin đó chẳng có gì là nhiều nhặn cho lắm.

– Không, chờ đã, – bà ta nói, – ông ta không phải ahau, ông ta chỉ sử dụng tiếng nói của ahau thôi. Tên ông ta là Hoa Lăng Tiêu.

Ối giời, – tôi kêu thầm trong bụng. Thông tin này thì có vẻ khá cụ thể, theo cách riêng của nó. Có điều tôi chưa từng nghe đến thứ gì được đặt theo tên Hoa Lăng Tiêu.

Hừm.

Từ tiếng Ix mà bà ta dùng là t’aal chaconib, nôm na là “hoa sô-cô-la chim ruồi”. Và hiển nhiên đó là “hoa lăng tiêu”, Campsis radicans. Nhưng vấn đề là từ này hay được dùng làm tính từ nhiều hơn, giống như “màu hồng cá hồi” vậy. Tức là người ta coi hoa lăng tiêu là màu đỏ. Nhưng những loài lăng tiêu dại mà chúng tôi có lại có màu hồng, hoặc hồng cá hồi. Vì vậy, chắc ý bà ta là “màu đỏ nhạt”.

– Người, ở trên tôi, có thể cho tôi biết ông ta ở đâu không? – tôi hỏi. Nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa quân chạy đi xa hơn ngày đó, vào thời gian “không tên”. Bực thật. Tôi lại liếc nhìn bà ta. Những người chơi cờ Hiến tế phải học cách che giấu sự mệt mỏi tinh thần, nhưng đồng thời họ cũng học được cách đánh hơi thấy điều đó ở kẻ khác. Vì vậy, mặc dù Koh không có biểu hiện gì ngoài một tẹo nhức mỏi vì phải tập trung mắt khá lâu, thêm một hay hai mạch máu hơi nổi lên trên nửa trắng của khuôn mặt, nhưng tôi vẫn có ấn tượng rằng bà ta sắp gục xuống. Một giọt mồ hôi lăn xuống từ chân tóc được xoa dầu của bà ta. Trên bàn cờ, và hình như quanh chúng tôi nữa, vô số hình thù lộn xộn quay cuồng và gào rú với tiếng ồn như tiếng một đàn súc vật thuộc loài có vú không lồ trong hang đá lớn. Phía trước chúng tôi, có thứ gì đó nom như một rìa núi, và xa hơn nữa là một thứ có thể gọi là vùng nằm ngoài tầm mắt, tức là 80% không gian quanh đầu mà anh không những không nhìn thấy, mà còn không hình dung được trông nó sẽ như thế nào. Chẳng hạn, khi anh cố nhướng mắt nhìn lên khoảng không phía trên giới hạn cao nhất của tầm nhìn phía trên mũi mình, anh sẽ thấy một dải mờ màu nâu, nhưng xa hơn nữa lại không phải một màn đen kịt mà là sự hư vô mà bộ não của anh không thể hình dung ra được ở đó có gì.

-Và đây là cách núi rồi, – Koh nói. Nghĩa là không còn gì nữa.

Im lặng.

Hừ, trở ngại đây, – tôi nghĩ. Tôi nén một cái ợ. Tôi thấy buồn nôn. Cô gái lùn lạch bạch đi tới, dọn những viên đá lớn nhỏ đi. Sự im lặng kéo dài đằng đẵng trong lúc Koh nhìn xuống bàn cờ trống không. Hai mắt tôi mỏi đến mức nhìn cái gì cũng hơi xanh xanh. Khi Koh quay đi không nhìn nữa, cô gái lùn lau sạch bàn cờ bằng nước b;alche’, muối và nước lã, đập tay năm lần để báo cho uay của bàn cờ biết rằng chúng tôi đã chơi xong, đậy nắp lò lại và rải cánh hoa phong lữ lên đó. Cô ta lấy từ một trong mấy chiếc bình ra một mảnh vải ướt và dập tắt các mẩu nến bấc.

Tôi nheo mắt. Trong phòng vẫn còn ánh sáng. Đó chính là ánh sáng xanh mà lúc trước tôi tưởng là do mắt tôi mỏi. Nó vẫn lờ mờ nhưng đủ sáng để tôi nhận ra thứ bóng như sáp phủ khắp tường, khắp trần nhà và khắp các bức màn che, thứ có màu đen dưới ánh lửa lúc nãy không phải giấy, không phải lá cây, cũng không phải lông chim. Đó là một lượt cánh màu xanh biếc của loài bướm đổi màu. Chúng được cắt tỉa tỉ mẩn từ phần giữa cánh thành những mẩu hình tròn bé xíu rồi đính lên lớp lót bằng vải bạt. Hàng chục ngàn phiến tròn óng ánh biếc như da trời rung rinh trong luồng gió mà không có chúng thì chẳng ai nhận thấy. Tôi nghe nói ở miền tây bắc này, bướm đổi màu là way của các chiến binh đã bỏ mạng và người ta chỉ có thể thu lượm chúng sau khi chúng chết một cách tự nhiên. Đôi khi, những người thu lượm bướm phải theo dõi những con hấp hối đến vài ngày trời. Thế thì mất bao lâu mới được chỗ này? – tôi tự hỏi,người ta đã tiêu tốn bao nhiêu giờ lao động, bằng bao nhiêu đời người, cho căn phòng này? Ánh sáng lan rộng ra. Chúng rơi xuống như tuyết từ ô cửa trần, chậm đến mức tôi nghĩ mình trông thấy rõ từng hạt ánh sáng. Màu xanh đằm xuống thành một ánh biếc long lánh kỳ ảo, ánh biếc không hẳn là màu sắc mà đến từ hàng tỉ chiếc vây góc cạnh và biến mất dưới một giọt nước, và nó còn đằm sâu hơn thế nữa, tưởng như chúng tôi đang chìm xuống nước biển nhiệt đới, tinh khiết đến độ tôi cảm tưởng như đây mới là lần đầu tiên được nhìn thấy màu xanh thực sự.

Cô gái lùn dừng việc đang làm và hấp tấp bỏ ra ngoài như thể vừa nhận được hiệu lệnh bằng ngoại cảm.

Chắc chỉ thế thôi, – tôi nghĩ. Tôi hít một hơi và chuẩn bị bài cảm ơn như thông lệ nhưng Koh ngăn tôi lại bằng một cử chỉ “cứ ở yên đó chờ”.

Bà ta nhắm mắt lại. Đây có thể coi là cử chỉ thân mật nhất của bà ta kể từ lúc tôi đến.

Chúng tôi ngồi yên.

Ta có nên coi đây là một thất bại không nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ, – bà ta đã đưa mình đến đó, mình đoán rằng… nhưng như thế cũng không đủ để lần ra ai đó… phải vậy không? Mình không…

– Ta cần chơi lại ván đó, – Koh nói,- với một liều đầy đủ Bụi Của Muối Mặn Già và Bụi Của Người Chèo Xuồng Già.

Tôi không biết nói gì nên cứ ngậm miệng, một điều rất hiếm khi tôi làm.

Hừm, vậy là, xem ra bà ta cũng coi đây là một thất bại. Song chí ít bà ta cũng có sự tự tin. Nó hơi giống cái cách mà Taro nói chúng tôi cần nỗ lực thêm 1020 lần nữa để khoanh vùng được tên doomster. Chúng tôi không bao giờ làm được điều đó, hiển nhiên, bởi hành tinh này không có nhiều sức máy tính đến thế, nhưng ít ra ông ta cũng biết điều đó là không thể.

Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng động và ngẩng lên. Chin Cách Cụt đã quay lại, thì thầm gì đó vào bên tai trắng của Koh.

Tôi ngồi yên.

Tiếng thì thào mãi không dứt. Cảm giác về thời gian của tôi vẫn chưa trở lại bình thường, nhưng tôi chắc chắn câu chuyện đó kéo dài hơn mười phút. Koh ra hiệu bằng tay để hỏi lại vài điều gì đó nhưng tôi không hiểu là gì. Bà ta nhìn tôi với thái độ làm tôi hơi lo. Cuối cùng, cô gái lùn cũng đi ra, Koh ngồi lại tư thế trang trọng và nhìn tôi với ánh mắt khiến tôi phải cúi xuống nhìn chỗ lúc trước là bàn cờ.

Các bạn có biết… À, tôi chắc chắn là các bạn có biết…rằng trong các vở kịch Hy Lạp, mọi diễn biến đều diễn ra sau sân khấu? Và thứ duy nhất xảy ra trên sân khấu là, lấy ví dụ thôi, một người đưa tin bước ra và nói một câu đại loại như “Muôn tâu nữ hoàng! Người Thesalonica đã bị đánh bại!”. Khi lần đầu tiên đọc những vở kịch này, tôi nghĩ chúng thật kệch cỡm và giả tạo. Nhưng càng chứng kiến nhiều sự đời, nhất là những sự việc ở đây, ở thời cổ này, tôi càng nhận ra những điều trong vở kịch đó đúng thực tế. Các nữ hoàng, các quận công, các ahau và những nhân vật loại như thế thực sự dành hầu hết thời gian ngồi trong phòng của mình nghe báo cáo qua vài lần truyền miệng rồi cử người truyền lại mệnh lệnh, và nói chung, họ thường không nhúng tay vào công việc thực sự.

-Ta vừa nghe tin dinh thự của Bị Thương 14 của thị tộc Đại Bàng vừa bị đột kích, – Koh thông báo. Bà ta không trừng mắt lên nhìn tôi nhưng giọng bà ta cộc lốc và tôi nghĩ không phải do kiệt sức sau ván cờ. Bà ta nổi giận.

-B’aach? – tôi hỏi lại. – Sao cơ?

Ăn nói với bà ta như vậy thì quả là xấc xược đến mức không thể tha thứ được, nhưng tôi nghĩ đấy là do tôi đã quay trở lại với sự thiếu suy phép tắc của người thế kỷ hai mốt.

-Bị Thương 14 đang ở ngoài kia với người của ngươi.

-Các k’iik khác thì sao? Chuyện gì đã xảy ra với họ?

-Theo như chúng ta biết, họ cũng đang trên đường tới đây, – bà ta đáp.

Tôi liền duỗi chân ra.

-Tôi, dưới chân người, nên…

Bà ta ngửa bàn tay lên, ý nói “im đi” trước khi tôi kịp nói nốt câu “ra gặp họ”.

-Ta được thông báo rằng những kẻ tấn công là người của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn, – bà ta nói.

Là lũ mất dạy của nhà Báo Đốm Oxwitzá đây mà, – tôi nghĩ bụng. Thuyền của chúng đã bám theo chúng tôi từ ngoài vịnh. Chắc chúng đã đến đây ngay sau chúng tôi và tạ sự trước mặt những người anh em nuôi trong Giáo hội Báo Sư Tử để xin họ chấm dứt việc làm ăn của 14. Và có đến gần một trăm phần trăm là nhà Mèo Rừng ở Ix xúi bẩy việc này. Lũ giời đánh.

-Ta còn được thông báo rằng thêm nhiều người nữa đang trên đường tới đây, – Koh nói. Chắc là những người trốn thoát đang cố xin một nơi ẩn náu tạm thời ở đây, trong lãnh địa của Rắn Chuông.

Chết cha, bà ta nổi cơn rồi, – tôi nghĩ. Và chắc không chỉ vì những đứa con của Rắn Chuông không muốn tiếp nhận những người lánh nạn nữa, mặc dù họ không muốn thật, bất chấp quy tắc hiếu khách buộc họ phải nhận. Vấn đề chính là vụ rắc rối này có thể chặn đứng mọi cơ hội cải thiện quan hệ giữa Rắn Chuông và hai Giáo hội lớn.

Thôi được rồi, – tôi tự nhủ, – thay đổi kế hoạch vậy. Đừng nản. Không quan trọng đích đến cách bao xa…miễn là mày luôn hướng đến nó.

Chúng ta vẫn còn ít thời gian. 14 chỉ là chuyện vặt thôi. Phải vậy không? Hai Giáo hội có thể rượt đuổi một thương lái nước ngoài ngay trước Tuần lễ Thiêng nhưng họ sẽ không gây sự với Rắn Chuông trước khi lễ vọng kết thúc. Phải không?

Được rồi. Nghĩ đi.

Chẳng thể có cách nào bí mật ra khỏi đây được. Chúng ta phải ở lại trong lãnh địa của Rắn Chuông cho đến khi kết thúc nhật thực rồi sẽ nghĩ kế tìm đường ra sau.

Và sự cố này chỉ khiến Koh dễ nhận lời đến ẩn náu ở Ix hơn thôi. Bà ta sẽ nhận lời, – tôi nghĩ, – bà ta phải nhận.

-Tôi cầu xin người, ở trên tôi, hãy đến Ix, – tôi nói, – cha tôi, Sọ Đá Quý 2, muốn dành cho người…

54

Tám ngày sau, khi giờ một một-phần-chín thứ hai của ngày bắt đầu – tức 10 giờ 32 phút sáng – mọi cư dân của thung lũng thiêng Teotihuacán đều ở ngoài trời, mắt ngước lên, chờ đợi Người Nuốt Ánh Sáng tấn công mặt trời. Chỗ duy nhất không có người đứng là talud (Mặt phẳng dốc trên kim tự tháp kiểu Mexico – chú thích của tác giả) và tablero (Mặt phẳng đứng trên kim tự tháp kiểu Mexico – chú thích của tác giả) của các kim tự tháp. Quý tộc, thương nhân, thợ thủ công, người hành hương, phu khuân vác, tù binh, nô lệ, bà già, con gái, trẻ con, trẻ sơ sinh – kể cả những người không nhìn thấy gì, không đứng được nữa, kể cả người đang hấp hối và thậm chí cả người vừa tắt thở – tất cả tập hợp lại theo phẩm cấp và tín ngưỡng, đứng đông nghịt trên các quảng trường và vườn sân thượng. Người già ngồi trên vai con trai, người trẻ đi xăng-đan gót cao như cà kheo hoặc đứng bập bênh trên những chiếc ghế đẩu. Tất cả đàn ông trưởng thành đều cầm theo các dụng cụ gây tiếng ồn, bất cứ thứ gì theo truyền thống của thị tộc và phù hợp với tuôi tác của họ: trống, tù và, trống lục lạc, sáo ngắn, sáo dài, chuông đất, chuông đá, catanhet (Một loại nhạc cụ gõ, gồm hai mảnh lõm nối với nhau bằng một sợi dây), que gậy, quả lắc, đàn “bò rống” (Một loại nhạc cụ cổ dùng trong nghi lễ hoặc để liên lạc ở khoảng cách xa, được tìm thấy ở nhiều nơi, trong đó có châu Mỹ), giũa, còi và hàng trăm đồ vật cải tiến khác, tất cả đều mới toe.

Không có ánh lửa nào trong thung lũng. Thực tế, không có ánh lửa nào trên khắp vùng cao nguyên. Và ngay cả ở ngoài lãnh địa xa nhất của đế chế, các hòn đá kê lò cũng đã được dội nước và ném đi. Trên phần lớn lãnh thổ Tây Bán Cầu và có lẽ là khắp vùng Mesoamerica., tất cả các ngọn đuốc, nến bấc, than, xì gà và mọi nguồn sáng khác đều đã bị đập tắt. Đêm qua là một đêm u ám và không trăng, và khi chúng tôi chuẩn bị những công việc cuối cùng trong các khoảnh sân của đền Rằn Chuông, chúng tôi có cảm giác như … nói thế nào nhỉ … mặc dù đang đứng giữa một nơi có lẽ là tập trung người đông nhất thế giới vào thời điểm đó, nhưng chúng tôi vẫn có cảm giác đang ở sâu dưới lòng đất, trong một hang động khổng lồ tối om, đến ánh lân tinh cũng không có. Ở khoảng giũa xa mạc Sonoran và dãy Andes, cả lục địa tối đen hệt như cách đây ba mươi ngàn năm, khi những sinh vật họ người chưa đặt chân lên nó.

Toàn bộ, chỉ trừ một số rất ít bình vại, bát đĩa đã bị đâm thủng hoặc đập nát. Chăn chiếu. quần áo bị làm bẩn, xé rách hoặc tháo tung ra. Chữ khắc bị xóađè lên bằng các vệt mực xanh. Gia súc và nô lệ bị làm thịt, hàng ngàn người già cả, bệnh tật, hay đơn giản là quá sùng tín, đã tự vẫn. Mọi người, ít nhất là mọi người trừ tôi và một số kẻ theo chủ nghĩa hoài nghi khác, đều khiếp vía vì nghĩ rằng đây sẽ là lần chết hẳn của mặt trời. Tôi cũng khiếp vía, đương nhiên,chỉ có điều không phải vì chuyện đó.

Từ cái chuồng chim của chúng tôi trên mũi kim tự tháp Rắn Chuông – nghĩa là ở lưng chừng mặt tiền của kim tự tháp, hướng về phía đông, nhìn ra quảng trường chợ bán đồ thờ nằm cuối trục đường chính – chúng tôi vẫn cảm thấy hơi nóng tỏa ra từ cơ thể người, tiếng hơi thở chen nhau hỗn độn, mùi chua bốc ra từ cổ họng bị loét của những tên tù tội đứng trong chuồng đan bằng cành liễu, mùi hôi thối bốc ra từ buồng phổi sắp ung tthư vìthuốc lá của các lão già. Trời quang đãng và may cho chúng tôi là chỉ có một chút gió nhẹ. Một ngày hoàn hảo cho sự chấm dứt của thời gian. Tôi chuyển hết chân nọ đến chân kia. Một đoạn dây buộc trên đôi xăng-đan dùng trong chiến trận của tôi tuột ra và chọc vào cẳng chân tôi nhưng tôi chẳng buồn cúi xuống xử lý nó. Nó chưa tã hẳn đâu mà sợ. Tôi hơi loạng choạng đổ người về phía trước. Hun Xoc chìa một tay ra và kéo tôi đứng thẳng lại.

Hai chúng tôi đang đứng quay mặt về hướng tây. Bên trái tôi là Hun Xoc, sau lưng la Cứt-ta-tu. Nhiệm vụ chính xác của nó là giám sát tôi từ đằng sau. Chúng tôi đang đứng giữa một nhóm gồm mười một k’iik khác và hai mươi hai người nữa cũng của nhà Đại Bàng nhưng không phải k’iik. Cá Sấu 12 đứng đầu, sẵn sàng tụt ngay về phía sau nếu bị tấn công.

Tất cả chúng tôi đều mặc áo choàng màu xanh lam để thể hiện chúng tôi là lính canh của hộiRắn Chuông. Bên dưới lớp áo ngoài, chúng tôi trang bị giáp trụ nhiều hết mức có thể mang mà vẫn không đáng ngờ.Nghĩa là chúng tôi đeo giáp bảo vệ cẳng tay, cẳng chân đan bằng cành liễu, mặc áo lót bằng vải bạt dày may chắn hai lớp, mỗi lớp đều được lót các mảnh gỗ bên trong, có thể chặc được hầu hết các lưỡi dao. Mỗi người đều có một cây chùy hoặc gậy ngắn buộc vàomé trong đùi và một tấm khiên đan bằng cành liễu cuộn lại, buộc vào dưới đùi bên kia. Dưới lớp áo choàng sau lưng, chúng tôi mang một cây lao ba khúc đeo bằng một sợi dây mảnh, có thể dễ dàng dứt đứt khi cần. Mỗi người có ba mũi lao gập lại và hai sợi dây da sống khỏe, đủ để buộc chặt các vật cần thiết vào tay chúng tôi. Tuy thế, tôi vẫn ướcgiá như mấy tấm khiên to hơn một chút. Chúng có thể là mắt xích yếu của chúng tôi.

Các k’iik của nhà Báo Sư Tử đứng trên kim tự tháp bên cạnh nai nịt đây đủ, cầm những ngọn giáo dài dùng trong lễ diễu hành, tuy mũi giáo chỉ là những phiến đá lửa hình thù quái gở dùng để trang trí nhưng vẫn có thể gây thương tích ra trò. Như tôi nghĩ là tôi đã nói, người nhà Báo Sư Tử rất ghét những đứa con của Rắn Chuông, và ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của một vụ ẩu đả, chúng sẽ lợi dụng cơ hội để quét sạch càng nhiều đối thủ càng tốt. Hơn nữa, nhà Báo Sư Tử vẫn đang cho một vài MèoRừng Ix cư trú trên lãnh địa của mình. Ai biết được chúng có nghe được chuyện gì hay không? Tin đồn đi nhanh hơn người nhiều lắm. Kẻ nào đó ở Ix có thể đánh hơi thấy Sọ Đá Quý đang âm mưu gì đó và gửi một thông báo đến đây, nhờ nhà Báo Sư Tử để mắt tới các Đại Bàng Ix. Ghê nhất la chúng có thể đang treo thưởng cho bộ da của chúng tôi.

-Nhìn kìa! – Hun Xoc ra hiệu bằng cách đập tay vào tay trái tôi.

Tôi nhìn theo ánh mắt thằng bé về phía trước, xuống dưới. Ba tốp hai mươi tên lính cầm lao của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn trong áo giáp đỏ vừa lách qua đám đông, đến cắm chốt ở vị trí giữa quảng trường và khu chợ bán đồ thờ, chặn gần hết lối vào trục đường chính.

Quân ôn vật, – tôi rủa thầm. Hừ, trò này sẽ thọc gậy vào lịch trình của chúng ta đây.

Chắc Koh cũng nhìn thấy chúng. Phải vậy không?

Tôi liếc qua vai ra đằng sau. Sau lưng chúng tôi, một phần ba phía trên kim tự tháp Rắn Chuông Sao được trang trí lộng lẫy , xuyên thẳng qua làn mây mỏng. Các bậc thang được chật kín lính canh và người cải đạo. Phía trên chúng tôi, cách sáu mươi sải tay, trước cửa điện thờ, năm mươi hai thầy tế và người đếm mặt trời phẩm cấp cao nhất của Rắn Chuông Sao đứng thành một dãy bất động. Tất cả đều vận trang phục đàn ông, gần như giống hệt nhau, với cái mũ to tướng, xăng-đan đế cao và mặt nạ che mắt giả làm thần mưa Chac, nhìn giống hệt như những cặp kính dày không tròng để giúp họ nhìn xuyên qua hơi thở của Người Nuốt ánh Sáng Đen. Cao hơn nữa, phía trên họ, trên căn điện thờ lộ thiên nằm trên đỉnh kim tự tháp, nhô lên cái bóng lờ mờ của một chiếc mũ cao trên đầu công nương Vàng, người đứng đầu các nữ tư tế của giáo hội Nhện Dệt Cầu Vàng. Tôi nghĩ bà ta là một nhân vật từa tựa như Mẹ Bề trên. Nghe đâu bà ta đã một trăm linh tám tuổi.

Tôi điểm năm bóng người ở góc phía bắc và nhận ra công nương Koh. Tự dưng tôi thấy hãnh diện một cách ngớ ngẩn vì đã nhận ra bà ta trong hàng. Khuôn mặt, hay những gì tôi có thể thấy trên khuôn mặt bà ta, hoàn toàn dửng dưng.

Thật khó tin là nhiệm vụ của tôi đang tiến triển tốt. Làm sao Koh biết được tất cả chuyện này không phải là một cái bẫy? ừ, chí ít thì qua cuộc kiểm tra chéo với tôi, bà ta biết tôi không nói dối. Thực ra, tôi cược rằng bà ta nghĩ tôi đang nằm trong tay bà ta. Hừ, có lẽ thế thật. Tuy nhiên, bà ta không thể biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình khi tới Ix.

Hay là có? Biết đâu bà ta nhìn thấy tương lai của mình nhiều hơn ý muốn. Biết đâu bà ta muốn nắm được cách pha chế ma túy của trò chơi để xây dựng một đế chế cho riêng mình.

Hừmm, như thế cũng chẳng sao. Tại sao không chứ? Tiến lên, hãy đặt mục tiêu cao hơn một chút. Song cũng chưa nên lo nghĩ chuyện ấy làm gì vội. Tập trung mỗi lúc một việc thôi. A, B, C, từng việc một. Và ngay lúc này A là toán lính của nhà Bướm Đuôi Nhạn.

Chắc bà ta cũng nhìn thấy rồi, – tôi nghĩ. Chúng tôi có nên đi qua mặt chúng không? Hay nên đi bằng đường khác? Và nếu làm thế, chúng tôi có thể báo hiệu cho bà ta biết không?

Không, đừng làm thế. Tốt nhất cứ hành động như đã bàn. Đến nơi hẹn đầu tiên ở kho thuốc rồi hãy thay đổi kế hoạch nếu cần.

Hun Xoc lại khều tay tôi. Tôi vội ngoảnh mặt về vị trí cũ. Các chú lính, hãy nhìn thẳng phía trước!

Mày biết đấy, – tôi tự nhủ, -điều thực sự rùng mình nhất trong cảnh tượng này (hay có thể gọi là điều kỳ quặc nhất) là tuyệt nhiên không một ai trong đám đông gây ra bất cứ tiếng động nào trước khi được phép, bất chấp sự cám dỗ ghê gớm. Ừ thì, họ đã luyện tập suốtnăm ngày rồi mà. Còn tôi thì huýt sáo nhiều đến mức không biết là dây thanh quản có còn làm việc được nữa hay không. Năm ngày vừa rồi, tôi có cảm giác như sinh vật sống duy nhất mà tôi còn nghe thấy tiếng là những con chim.

Anh có thể cảm nhận được đám đông đang run rẩy. Anh có thể ngửi thấy mùi cảnh giác bốc ra từ mồ hôi trên người họ. Đám đông người sống chỉ phát ra những tiếng sột soạt và kẽo kẹt như rừng cây trong khoảnh khắc tĩnh lặng nhất của đêm tối, ngay trước khi bản đồng ca trước lúc bình minh cất lên. Bàn tay họ lăm le đặt sẵn trên các nhạc cụ của mình nhưng không ai huýt sáo hay đập tay, thậm chí không ai đánh rơi lấy một cái lục lạc. Tôi tự hỏi không biết trong lịch sử thế giới liệu có còn một thành phố nào khác lớn hơn như thế này có thể tạo ra một sự đồng lòng trong dân chúng đến mức này. Ngay cả súc vật dường như cũng cảm nhận được sự tĩnh lặng, đến nỗi tiếng kêu của một con mòng hoặc két, hay tiếng sủa của một con chó trong bãi rào thi thoảng cất lên cũng có vẻ rụt rè. Thảng hoặc có tiếng trẻ con khóc ré lên và bị bịt mồm lại ngay lập tức. Bị bóp chết cũng nên, – tôi nghĩ thầm.

Lũ man rợ. Bất chấp màu sắc rực rỡ, sự sạch sẽ và thiện chí chung, đây vẫn là một ngày thảm khốc. Cho dù anh chưa biết gì về nơi này – nhu vừa bước ra từ máy dịch chuyển không gian chẳng hạn – anh vẫn có thể nhận ra bằng bản năng rằng thành phố này đang trong giây phút vô cùng hồi hộp. Hệt như cảnh trong phòng chờ của một ông bác sĩ và tất cả chúng tôi đang đợi người lễ tân gọi đến tên mình bằng giọng bình thản hết sức có thể, và thông báo rằng đã có kết quả xét nghiệm.

Đương nhiên, từ quan điểm của một người sống ở thế kỷ hai mốt, tôi cho rằng tất cả trò này thực sự có phần ngu xuẩn. Rốt cuộc thì cũng chỉ là một phần nhật thực thôi mà. Nhưng mặt khác – và ngay cả khi tôi cố tạo ra sự xa cách về cảm xúc – tôi cứ cảm thấy việc này có sự đúng đắn nhất định. Ở thế kỷ hai mốt, người ta cứ cắm cổ tiến về phía trước và khi có chuyện không hay đổ xuống đầu thì lại ngạc nhiên, không thể tin được chuyện đó lại xảy đến với mình. Còn ở đây, chí ít người ta cũng sẵn coi rằng chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Tôi liếc sang tay trái về phía trung tâm thành phố. Trục đường chính trải dài về phía bắc. Cả thành phố chăng kín cờ đuôi nheo có dệt và lông cò thìa tết thành từng dải, gài trên hàng trăm ngàn thanh tre dài, tất cả đều có màu da cam để thu hút sự chú ý của mặt trời, hơi uốn cong lại trong gió nhẹ như những con pô-lip trên rặng san hô mềm. Dưới đám cờ quạt là hàng ngàn k’iik, mỗi người đứng trên một vị trí chọn trước trong khu teocalli, che một tấm khiên tròn nhỏ trên vai trái, mỗi tấm được kết lông chim trang trí hơi khác màu nhau một chút, tuy sặc sỡ về màu sắc nhưng họa tiết theo kiểu đơn giản hình khối, tất cả đều quay về cùng một hướng – hướng tây – hệt như một cánh đồng hoa hướng dương. Những tấm có thể gọi là huy hiệu đó ấn tượng đến mức người ta dễ tưởng tượng rằng họ là các hiệp sĩ thời trung cổ đang tập họp cho một cuộc tỉ thí trên Cánh Đồng Lụa Vàng (Một địa danh ở nước Pháp, nơi diễn ra cuộc gặp mặt kéo dài mười tám ngày vào năm 1520 giữa vua Henry VIII của nước Anh và Franciss I của nước Pháp. Trong thời gian này, người ta tổ chức nhiều trò giải trí và tỉ thí võ nghệ mà hai vị vua cùng tham gia, đồng thời người ta trưng diện nhiều trang phục bằng vải dệt từ sợi vàng đến mức cái tên Cánh Đồng Lụa Vàngđã được đặt cho địa danh này). Chẳng có ai để đầu trần hoặc không đeo mặt nạ. Ngay cả bọn nô lệ cũng quấn giẻ quanh môi trên. Còn các vị quyền cao chức trọng thì khắp người phủ kín ngọc bích và vỏ ốc xà cừ, thêm chiếc mũ có đuôi lông chim dài, nom họ chẳng khác gì những con côn trùng có râu và vỏ xương ngoài. Dân cả thành phố như bị đóng dính tại chỗ, trong các ngăn được dán nhãn “thị tộc quí tộc”, “thị tộc lệ thuộc”, “thị tộc nhỏ”, “thị tộc rất nhỏ”, “thị tộc hầu hạ” và “bọn nô lệ”. Có thể nói tất cả đã được phân chia hàng ngũ rất rõ ràng như trong một cuộc duyệt binh thời hiện đại, chỉ khác là ở đây không bói đâu ra hai người phục sức giống hệt nhau.

Tôi đưa mắt liếc dần về phía bắc, dọc theo trục đường chính cho đến khi gặp hai quảng trường phản chiếu ánh xanh nhạt của bầu trời. Hai khoảng sân trũng xuống gần kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích đó đã được đổ đầy nước như hai bể bơi. Một bể được thả đầy axototl(axototl: Một loại cá cảnh, còn gọi là cá khủng long sáu sừng hay ” cá biết đi”.), hoa súng và cỏ jabiru, những vật thiêng đối với Phù Thủy Ngọc Bích. Nước ở bể thứ hai được để không. Nghe đồn nó được pha thêm nước cây ololiuqui (ololiuqui: Một loại cây leo thuộc họ Bìm Bìm có chứa chất gây ảo giác) để những tên tù lát nữa bị quẳng xuống sẽ chìm nghỉm mà không vùng vẫy gì. Có một dãy bệ thấp kê ở cạnh phía tây và trên một bệ, tôi thóang nhìn thấy ánh màu ngọc lam, có thể đó chính là năm gã nhà Mèo Rừng Ix được Chim Ruồi Có Nanh 9 cử đến tham dự buổi lễ. Ít ra thì ta cũng tránh xa được chúng, – tôi nghĩ.

Ở quãng giữa trục đường, kim tự tháp Bão Lốc to phềnh biến cả mọi thứ xung quanh thành những gã lùn. Đỉnh tháp cao gấp hai lần khoảng cách từ chỗ chúng tôi xuống đến quảng trường bên dưới, cao đến nỗi những ngày sương mù hoặc trong khói hương, người ta thực sự nghĩ rằng các thầy tế đứng trên đó đang bị những đám mây đói khát nuốt chửng. Nhưng hôm nay, cặp mắt tinh tường của Chacal có thể trông rõ toàn cảnh, các vị chức sắc thứ bậc thấp hơn trong giáo hội đứng trên tầng tháp cao thứ hai với những chiếc loa khổng lồ giống như kèn gọi gia súc của người Thụy Sĩ, dài có đến hai mươi sải tay đặt trên vai. Còn trên tầng tháp cao nhất, những chỏm mũ cao màu đỏ cam đặc trưng của Giáo hội Báo Sư Tử nhô lên từ bốn điện thờ lộ thiên trên đỉnh kim tự tháp.

Đám đông rung động. Nhìn từ xa, hình dáng của những tầng tháp dốc xuống bị méo mó đi khiến các vị chức sắc của Giáo hội nom giống như những gã khổng lồ đứng tít trên cao, cao hơn cả tầng trời không thể với tới được. Teotihuacán không có vua và quyền chấp chính được chuyển giao giữa các thành viên của hai hội đồng. Khi xuất hiện trước công chúng, họ che kín mặt nạ và không ai ngoài hội đồng được phép biết họ là ai. Nhưng từ những nguồn đáng tin cậy, Koh được biết rằng quan chấp chính đương nhiệm của phe Bướm Đuôi Nhạn là một lão già của Báo sư Tử tên là Cong Veo Ti Tiện. Bà ta cũng nói rằng chúng tôi cần coi chừng người có thể sẽ kế nhiệm Cong Veo Ti Tiện, một k’iik của nhà Báo Sư Tử tên là Cụt Tay Phải. Nghe đâu hắn mới mười ba tuổi – nhưng đã được đánh giá là đầy hứa hẹn. Người ta đồn rằng khi sinh ra, người hắn đầy lông và có răng nanh, và chẳng cần ai dạy hắn cũng tự biết cách biến ḿnh thành uay. Họ còn nói hắn ăn thịt người, những tên tù ít tuổi hơn hắn. Nhưng đó có thể chỉ là một cách tuyên truyền. Koh nói màu sắc đặc trưng của hắn là vàng và tím hoa cà.

Tôi đưa mắt lần theo các bậc thang của kim tự tháp Bão Lốc xuống một kim tự tháp bằng gỗ mới dựng. Năm mươi hai vật hiến sinh, tất cả đều đúng chín tuổi hai mươi chín ngày, đã thức liền năm ngày bên trong đó. Khi kim tự tháp bị thiêu chúng sẽ mang theo các đồ cúng khác lên trình diện mặt trời mới ra đời. Cách ngọn tháp chừng hai trăm tay sải tay về phía đông nam có một kim tự tháp phụ bé xíu với họa tiết như một bàn cờ đam màu đen và da cam. Đó chính là kho thuốc của nhà Báo Sư Tử, khu vườn cấm nơi họ trồng và tinh chế thành phần thứ hai của ma túy dùng trong cờ Hiến tế. Mục tiêu của chúng tôi.

Theo lời Koh, các thầy tế của Bướm Đuôi Nhạn biết chính xác thời gian nhật thực kéo dài bao lâu – khoảng mười tám phút rưỡi – và họ sẽ cố thổi bùng ảo giác của dân chúng về sức mạnh của mình bằng cách can thiệp vào càng sát thời điểm kết thúc càng tốt. Họ sẽ chờ cho đến khi chỉ còn một hoặc hai trăm nhịp trước khi mặt trời hiện ra, khi đó, Cong Veo Ti Tiện sẽ ra hiệu và từ tầng tháp dưới chân lão, hai mươi hai thầy tế của lão sẽ bắt đầu kéo những cây đàn “bò rống” làm từ xương đùi tổ tiên họ. Từ tầng tháp dưới nữa, hai trăm sáu mươi tên phụ lễ sẽ thổi những chiếc tù và khổng lồ. Và từ các tầng thấp hơn, từ khắp nơi, đàn ông sẽ khua các dụng cụ gây tiếng động của mình, đàn bà và trẻ con sẽ gào lên “Marhóani, marhóani”, “biến đi, biến đi”, trẻ sơ sinh sẽ bị thổi ớt bột vào mắt để khóc ré lên, ngay cả chó cũng sẽ bị đá vào xương sườn và ai nấy cố gắng gây ra càng nhiều tiếng động càng tốt cho đến khi Người Nuốt Ánh Sáng chạy mất. Lúc đó các thầy tế đứng đầu sẽ nhóm một đống lửa mới từ ánh sáng của chính mặt trời bằng cách dùng một tấm gương lõm mà theo tin đồn là khổng lồ, được mài và đánh bóng từ quặng sắt đỏ. Họ sẽ mang lửa từ kim tự tháp xuống thắp đền của mặt trời mới, tức là đống lửa mừng. Suốt ngày và đêm hôm đó, các vị chức sắc của bốn ngàn đô thị sẽ lũ lượt đi qua đống lửa và châm cây đuốc của mình, họ sẽ đem ngọn lửa mới và những giai thoại về sự kỳ vĩ của thành phố thủ phủ về quê nhà mình. Và vô số người sẽ tin rằng nhờ sự lãnh đạo của Giáo hội Báo Sư Tử mà họ giải cứu được mặt trời.

Đó là kế hoạch của phe Bướm Đuôi Nhạn. Như Koh và tôi có những ý tưởng khác.

Hai ngày trước, Koh đã ra tay. Ngay sau buổi trưa, không hề thông báo cho các nữ tư tế khác, bà ta triệu tập bố mươi tám người thân tín nhất và đưa ra cảnh báo về lần nhật thực này. Bà ta nói Lươn Giời đã phán bảo bà ta rằng lần này sẽ không ai thuyết phục đượcNgười Nuốt ánh Sáng Đen nhả mặt trời ra, trái lại, ông ta sẽ “ăn trộm luôn quả cầu”, nghĩa là nuốt hẳn mặt trời. Thần Lươn, tức Rắn Chuông Sao, sẽ sinh ra một mặt trời mới và mặt trời này không có quan hệ họ hàng gì với các thị tộc hậu duệ mèo; trong k’atun mới, những đứa con của Rắn Chuông Sao sẽ được hưởng nhiều đặc quyền hơn bất cứ ai. Nhưng trước đó, để làm sạch thế giới đang hấp hối này, Thần Lươn sẽ mở một quả cầu mây và thả một đàn dadacanob, “những con ong lưng dài” – tức ong bắp cày, Vespula Squamosa, một sự phiền toái lớn kiêm kẻ giết người nhỏ ở miền này – để chúng đốt vào mắt tất cả những kẻ nào ở Teotihuacán không đi theo Rắn Chuông. Tất cả, trừ những đứa con của Rắn Chuông, sẽ bị tuyên phạt sống trong bóng tối. Sau đó, Thần Lươn sẽ cho Koh biết nên đưa tín đồ của mình đi đâu và sẽ đem sự phù hộ của ngài đến với một thành phố Rắn Chuông mới ở vùng Đất Đỏ, tức là miền đông nam. Trong lúc đó, những người đưa tin được phái đến nhà các trưởng lão của hai mươi tư gia tộc đồng minh với Koh và thông báo cho họ địa điểm hẹn: Đồi Lột Da. Ngay khi nghe thấy tiếng lũ ong bắp cày, họ nên tập họp toàn gia tộc và thu gom những tài sản quý giá nhất rồi đi về hướng đông.

Đoạn cuối cùng khiến tôi hơi lo ngại. Chúng tôi đã đi từ chỗ chỉ bàn về gia tộc của Koh và một vài tín đồ thân cận nhất đến chỗ dính dáng đến gần năm trăm người. Liệu các làng Đại Bàng có đủ thức ăn để nuôi họ không? Nói đến chuyện ấy, liệu có đủ thức ăn và nước uống cho tất cả trên đường đi không? Bao nhiêu người sẽ chết trong chuyến di cư này?

Thôi đừng lo chuyện ấy làm gì, – tôi tự bảo mình. Cứ nín lặng mà tuân theo, giành lấy món thuốc, trở về Ix thế là xong việc ở đây.

Koh lập tức được triệu tập đến trước mặt công nương Vàng, người đại khái giống như mẹ bề trên của dòng tu. Điều ấy có nghĩa là ít nhất một trong bốn mươi tám người tin cẩn của Koh đã tố giác bà ta. Công nương Vàng nói dòng tu sẽ tổ chức bỏ phiếu về tư cách thành viên của bà ta. Nếu bị bỏ phiếu chống, bà ta sẽ phải tự dìm mình chết đuối. Tiếp đó, chân trong của bà ta ở trong Giáo hội Trắng bảo rằng hai Giáo hội lớn đang cân nhắc việc mời bà ta đến diện kiến – nghĩa là buộc bà ta phải tự nộp mình đến nơi chắc chắn có tra tấn và hành quyết.

Đến giữa trưa ngày Im Lặng, khắp các chợ và sân giếng ở Teotihuacán, dân thường đã bắt đầu thì thầm nhắc lại với nhau về những điều Koh nói, rằng “Mặt trời tiếp theo là của Rắn Chuông Sao”. Toàn thể thành phố, và có lẽ toàn bộ người dân trong thung lũng Mexico đã nghe được tin đồn đó, từ Cong Veo Ti Tiện cho đến tên hót phân hèn hạ nhất. Và, như thường lệ với những tin đồn kiểu như thế, nó được thổi phồng lên. Mặt trời sắp nứt ra. Trời sắp sập xuống. Thành phố sắp chìm xuống một cái hố dưới tầng đất không. Vân vân và vân vân.

Tuy thế, không ai muốn làm điều gì gây náo động trước ngày nhật thực. Một phần vì đó là dấu hiệu của sự lung lay, nhưng cũng một phần vì tất cả, từ trên xuống dưới, đều chấp hành lệnh im lặng một cách hết sức nghiêm túc. Hơn nữa, ngay sau khi mặt trời xuất hiện trở lại, Koh sẽ mất uy tín và rất dễ tấn công thôi.

Hiển nhiên, hai Giáo hội lớn biết chắc rằng mặt trời sẽ xuất hiện trở lại. họ gần như biết mọi điều về hiện tượng nhật thực, không chỉ biết chu kỳ mười tám năm mười ngày một phần ba mà còn biết chúng sẽ là một phần hay toàn phần và sẽ kéo dài bao lâu. Chỉ có điều, họ cố làm sao cho dân chúng biết càng ít càng tốt. giống như các bác sĩ tâm lý, tầng lớp cai trị phải khiến anh có cảm giác rằng họ đang giúp bệnh tình anh thuyên giảm nhưng tình hình vẫn còn rất tệ và anh phải tiếp tục đến chữa trị.

Khi nhật thực kết thúc, người của nhà Báo Sư Tử sẽ đến tìm chúng tôi… chúng sẽ giết Koh và hầu hết chúng tôi nếu có thể. Trước khi chúng đến được chỗ chúng tôi, tôi phải đánh cắp cho bằng được một lượng thuốc và mọi người phải đến được chỗ hẹn. Và nếu cả hai chúng tôi cùng sống sót, tôi sẽ học cách chơi cờ với chín viên đá và để lại những mẩu giấy ghi chép trong hầm mộ ở Ix để Marena có thể cảnh báo thế giới về dịch cúm gà và làm cách nào đó kịp thời chế ra vắc-xin. Song tôi vẫn không biết “hoa lăng tiêu” đã phá hoại Disney World như thế nào, nhưng đó là vấn đề của lúc khác. Ta hãy gọi nó là mục tiêu khó khăn lâu dài.

55

Có điều gì đó bất thường đang xảy ra với không gian. Như thể toàn bộ không gian ngoài trời đang co dần, nhỏ dần lại thành một căn phòng ngột ngạt. Không, -tôi nghĩ lại, – không phải là không gian, mà là ánh sáng. Mọi vật trở nên rõ nét hơn và gần hơn. Những cái bóng sắc nét hơn. Các dãy đồi, những đám đông và cả lọn tóc vuốt dầu rủ xuống trước trán tôi đều như những hình khắc được chạm quá nổi. Một cảm giác nghẹt lại như thế tất cả các tấm chặn âm của một cây óoc – gan nhà thờ một ngàn ống cùng hạ xuống một lúc. Tôi liếc nhìn lên mặt trời. Nó bị khuyết mất một mẩu ở vị trí hai giờ.

Tôi chưa từng thấy thứ gì khiến tôi nghĩ trên đời có ngoại cảm. Tuy thế, tôi vẫn không tưởng tượng được có người nào đứng ở bất cứ đâu trong thành phố này – ngay cả bị bịt mắt, bịt tai cà nhốt dưới tầng hầm – mà không cảm nhận được sự kinh hoàng vào lúc này. Nó rỉ qua các vách tường đá. Nó thấm xuống tận lòng đất.

Rõ ràng như một cơn đau tim, giọng của Cong Veo Ti Tiện phá tan sự im lặng:

Charháppiti sini, chá jucha phumuári…

Ngươi, với bộ nanh đỏ,

Ngươi sẽ lột da và xua đuổi chúng ta

Chạy trong bóng tối?

Ngươi sẽ không bao giờ quay về

Trái tim của vùng hồ

Trên tầng trời cao?

Thung lũng Teotihuacán vốn có tính năng như một “phòng tiếng vọng” (loại phòng nằm dưới mái vòm hoặc được bao quanh bởi một không gian hình tròn hoặc e-líp, sao cho đứng ở các phòng khác của tòa nhà cũng nghe được những tiếng thì thầm trong căn phòng đó). Với các công trình được trát thạch cao phủ kín các dãy đồi, tiếng vang lại càng dội mạnh hơn. Vì vậy, không nghi ngờ gì, mọi sinh vật đều nghe thấy tiếng lão. Nhưng không có tiếng đáp. Mà cũng không được phép có. Đây là những lời duy nhất lão nói và là những lời duy nhất chúng tôi được nghe trước khi lão ra lệnh cho tất cả gây tiếng náo loạn.

Tôi dán mắt vào cái mũ lông chim đại bàng của Hun Xoc, cách mặt tôi chừng mười hai inch. Có điều gì đó kỳ quặc khác thường trong những thớ lông đan vào nhau. Chúng biến đổi hình dạng và sắc nét ra. Người Nuốt ánh Sáng Đen, hung thần hùng mạnh hơn cả mặt trời, đã làm sứt mẻ cạnh ngoài của mọi vật. Tôi nhìn xuống đám đông đứng trên các bậc thang bên dưới. Chẳng thứ gì không có một đường viền bệnh tật quăn queo và lởm chởm, như thể mọi thớ mềm, mọi đầu nhọn đều đang được gọt tỉa và mài giũa thành hình lưỡi câu, thành hình cái móng tay sứt sẹo. Tôi rung mình.

Tôi nghe ngóng. Tiếng chim chóc gọi nhau đã im bặt. Không nghe thấy dù chỉ một tiếng ruồi vo ve.

Bắt đầu đi thôi, các cậu.

Tôi nhắm mắt trái lại và liếc cái nữa về phía mặt trời. Nó đã teo lại thành một đường mỏng tanh như sợi dây tóc bóng đèn. Ở rìa bên phải, “chuỗi ngọc Baily” (những đốm sáng xuất hiện ở vùng biên tiếp xúc giữa mặt trăng và mặt trời, được đặt theo tên của Francis Baily, người đầu tiên giải thích được chính xác hiện tượng này vào năm 1836) lóe lên giữa các khe núi vây quanh miệng núi lửa Humboldt nằm tít phía chân trời của mặt trăng vô hình. Sẽ tốt hơn nhiều nếu trên trái đất cũng ít người như trên mặt trăng. Như lời thần Dớt phán bảo. Thật là con người sáng suốt nhất trên đời. Mà thôi, đừng mải mê vào chuyện ấy.

Ngoài quảng trường, trên các triền đồi, những đám đông chật ních tỏ vẻ khó chịu và hăm dọa. Lúc này, mặt trời đã được bao quanh bởi một vầng sáng mà người ta vẫn gọi là vòng kim cương. Ranh giới giữa các mảng sáng và tối trên bầu má đầy sứt sẹo của Hun Xoc sắc nét như thể ánh sáng rọi vào qua một lỗ đinh ghim, lớp dầu đỏ thoa trên da nâu sẫm lại, những dải băng xanh lơ thắt trên đầu xám đi, như thể chúng tôi đang đứng dưới ánh đèn hơi natri ở một thành phố rẻ tiền nào đó trong tương lai. Vầng sáng tỏa hào quang rực rỡ quanh cái lỗ đen ngòm trên nền trời như những cái xúc tu có nọc cực độc của loài sứa Chironex (còn gọi là sứa hộp, một loài sứa rất độc). Ra là nhật thực toàn phần, – tôi nghĩ.

Một làn sóng run rẩy, loạng choạng lan khắp đám đông. Anh có thể cảm nhận được hơi thở bị nén lại trong hàng triệu lá phổi, anh có thể đánh hơi thấy sự căng thẳng đến phát điên, thấy nỗi sợ hãi trước viễn cảnh nguồn hơi ấm duy nhất sẽ vĩnh viễn không thể thoát khỏi dạ dày của Người Nuốt ánh Sáng Đen. Tôi, hay chúng ta nên nói là “ngay cả tôi” vì tôi nghĩ cũng công bằng khi công nhận tôi là kẻ ít mê tín nhất ở đây, cũng phải tự nhắc nhở mình rằng việc này chỉ diễn ra trong khoảng một thời gian thôi, và mọi sự rồi sẽ trở lại bình thường.

Phải vậy không?

Tôi lắng tai nghe. Vẫn chỉ sự im lìm dày đặc và trơn chuội. Tôi lại nhìn lên “hai thằng mù sinh đôi”. Vẫn che kín nhau hoàn toàn. Còn chưa đến hai phút nữa. Nào, bắt đầu đi, lúc nào tùy thích.

Lúc nào cũng được.

Mẹ kiếp.

Tôi nhắm mắt lại và lại liếc mắt trái về phía dãy đồi phía tây. Chả có gì.

Tôi nghe ngóng.

Chẳng có gì hết.

Thôi nào. Ra tay đi…

Có thứ gì đó từ phía đông tràn vào thung lũng, một chuỗi âm thanh mảnh như sợi ruy-băng Mylar. Một âm thanh không tên. Tôi đoán rằng thoạt tiên người ta còn không chắc đấy có phải là âm thanh hay không. Và rồi, khi chuỗi âm tiếp tục ngân lên và vang rõ hơn một chút, tôi chắc phần lớn đám đông nghĩ dó là tiếng ve sầu, thứ âm thanh gần giống nhất trong tự nhiên mà người ta có thể liên tưởng. Chuỗi âm lan rộng khắp, hoặc là nhiều chuỗi âm tương tự được cất lên từ những nơi khác. Ngay cả với lớp đệm là ngần ấy cơ thể con người, những chuỗi hợp âm vẫn nảy lên, dội vào các mặt tường của hàng trăm kim tự tháp. Ban đầu, nghe như tiếng chúng vọng đến từ phía đông, sau đó lại như từ phía nam, rồi từ đâu đó quanh đấy, và càng nhiều chuỗi hòa vào, âm thanh càng lớn dần lên, lớn hơn tôi mong đợi, và vang hơn với tiếng ong ong dội lại như thể ông giời đang đùa nghịch với những chiếc âm-li Fender Twin cũ.

Các “đồ đệ” của tôi đã giật thót người khi lần đầu tiên nghe thấy âm thanh này trong một căn hầm bụi bặm đầy phân chuột, giữa bốn bức tường chất đầy vỏ bao ngô. Lúc đầu, họ khiếp vía, sau đó thì thích mê đi, và sau đó nữa, họ phai học cách điều khiển nó. Hãy tưởng tượng như anh chưa từng nghe thấy tiếng vi-ô-lông, đúng ra là chưa từng nghe thấy âm thanh của bất cứ loại đàn dây nào, ngay cả tiếng gảy vào dây đàn cũng chưa. Âm thanh đó trong tai anh sẽ như thế nào? Nó sẽ hơi giống tiếng ve sầu, hơi giống tiếng cưa đá bọt, hơi giống tiếng mèo rên và hơi giống tiếng một bầy ong.

Âm thanh của đàn dây là cả một kỳ quan công nghệ. Không có gì khiến người ta sửng sốt và thôi miên bằng, nó kết hợp được vô vàn âm thanh chói tai với sự lan tỏa. Không gì có thể so sánh được với sóng âm của thứ nhạc cụ này khi nó xuyên vào tai anh. Ngay cả lũ chó cũng phải mất vía vì đàn dây nếu chưa quen. Nó làm tất cả chết sững.

Hiển nhiên, các đồ đệ của tôi – Mười Lăm Con Cua Kéo Đàn theo hình dung của tôi về họ – không bắt chước được đúng hoàn toàn. Thứ mà chúng tôi đang nghe còn lâu mới xách dép được cho Fritz Kreisler (nhạc sĩ, nghệ sĩ vĩ cầm người Áo) hay dàn nhạc Berlin Philharmonic. Thực ra, nó là một đống bát nháo. Và đương nhiên, thứ nhạc cụ họ dùng không hẳn giống xen-lô, hay vi-ô-lông, hay vi-ô-la, hay đi-ru-ba (một loại đàn của Ấn Độ), nhưng cũng là những cây đàn tươm tất,phát ra âm thanh, không cọt kẹt, được xát cô-lô-phan (loại nhựa dùng để xát vào dây và vĩ của đàn dây) đàng hoàng và chơi bằng vĩ hẳn hoi. Và các anh chàng của tôi đã luyện tập đủ thành thạo để cho anh cái cảm giác như khi được nghe thấy nó lần đầu:

56

Khi khúc nhạc được nhắc lại tới lần thứ năm, tôi ngửi thấy mùi phân và nước tiểu bốc lên từ đám đông, thêm cả cái mùi mồ hội thiu thiu, chua chua mà cơ thể thường tiết ra khi hoảng sợ. Có vài anh chàng không chịu nổi căng thẳng rồi, – tôi nghĩ. Aaa, cái mùi sợ hãi ngọt ngào. Ngửi như…sách khải huyền. Tôi cảm tưởng như tiếng đàn đang cắm vào sự sợ hãi trong người họ, móc nó ra, kéo thành từng sợi dài như người ta kéo kẹo bơ, mỏng dần, mỏng dần, cao lên, cao lên mãi cho đến khi chúng cứng lại và gẫy tan thành một cơn hoảng sợ đến mềm nhũn người.

Tôi lấy làm hãnh diện về các học trò của mình. Họ đã luyện tập hết sức chăm chỉ trong sáu ngày vừa qua. Tôi còn có hai mươi thợ thủ công làm việc gần như liên tục tại sân trong nhà cuẩ một khu nhà thợ mộc ở phía bắc khu Kền Kền. Họ là người của nhà Thằn Lằn và rất trung thành với Koh. Quả là những tay rất cừ. Nhưng mọi việc cũng không dễ dàng gì. mặc dù khắp cả thung lũng, người ta đi lại tấp nập, hối hả và âm thầm trong bóng tôi để chuẩn bị cho lễ hội diễn ra sau nhật thực nhưng chúng tôi vẫn phải lén lút, chỉ ra ngoài khi trời tối vì anh không được phép làm ăn buôn bán gì trong thời gian Im Lặng. Lần nào chúng tôi cũng phải đút lót để qua được những toán lính gac quèn của nhà Bướm Đuôi Nhạn. Chúng nghĩ chúng tôi buôn lậu côpan vì ngửi thấy mùi đó trên tay chúng tôi. Với đủ thứ công việc, nào thử các loại vỏ bầu khô khác nhau, chuẩn bị ruột mèo rừng, đẽo cần đàn bằng gỗ tuyết tùng, khắc núm đàn bằng sừng, tính xem làm thế nào để bện tóc người thành từng sợi nhỏ mà vẫn phát ra tiếng khi cọ vĩ vào vì nếu để không chúng sẽ đứt chỉ sau vài lần kéo, thử năm mươi loại nhựa cây khác nhau để tìm một chất thích hợp dùng thay cô-lô-phan và lắp ghép xong xuôi tất cả với nhau trước ngày D chỉ có hai ngày, đây quả là dự án gay go nhất mà lâu lắm rồi tôi mới thực hiện, hơn cả lần thiết kế bể cho lũ sên biểnChromidorus marislae.

Một vài người bạn cũng sẵn là những tay nhạc công chơi sáo khá ổn, ai nấy đều như những con hải ly hăng hái, rất phấn khích trước kế hoạch, háo hức muốn phò tá Rắn Chuông giành lấy mặt trời và sẵn lòng làm tất cả vì công nương Koh. Và họ học tương đối nhanh dù phải tập kéo trong bóng tối. Song họ không hiểu được âm nhạc phương tây ngay tức thì, cũng nhý khi tôi thử ngâm nga ý ử cho Hun Xoc nghe vài ðiệu hát. Có vẻ nhý họ thực sự không thể nghe ðýợc giai ðiệu có phiên khúc, ðiệp khúc và ðoạn kết. tôi cho rằng với những ngýời chýa từng trải qua quá trình tiếp biến văn hoá, chưa từng nghe một hợp âm quãng tám thì hợp âm ấy đơn giản không phải là một điều tự nhiên. Tuy vậy, một khi đã hoà được vào điệu nhạc thì họ không thể ngừng chơi được nữa. và khi chúng tôi thử chơi một đoạn với thang âm hình chóp trong bản xô nát số 1 soạn cho đàn vi-ô-lông mà Prokofiev (Nhà soạn nhạc Nga, tác giả của chính bản xônat đó)từng nói rằng phải chơi sao cho nghe như tiếng gió rít trong nghĩa địa thì tất cả thực sự rung động. Đích thị là các vị thần của cờ Hiến tế đã đúng.

Khúc nhạc được lặp lại đến lần thứ mười, trẻ con khóc ré lên và tiếng khóc choe choé hoà vào với tiếng đàn. Những đám đông chen chúc trên các quảng trường bắt đầu nhúc nhích nhưng chưa di chuyển. Họ chỉ khẽ xô đẩy vào nhau như các phân tử khí bị nén lại để lần tìm một lối chuẩn bi chạy. Chuẩn bị nào, – tôi nghĩ.

Tiếp đi. Giờ đến bước 2.

Tôi nghe tiếng một vài người trên bậc cầu thang bên dưới hắt hơi. Tôi quay lại và nhìn về các quảng trường ở hướng bắc. Bà già và trẻ con đang dụi mắt. Đàn ông thì vặn vẹo người. Tốt.

Quanh tôi, các k’iik cũng vặn vẹo người và khụt khịt mũi.

Tôi cảm thấy thứ mà tôi nghĩ là vết cắn đầu tiên vào chính mắt tôi. Ui da. Tốt.

Tôi ngửi thấy mùi hăng hắc. Cảm giác đau nhó gần cuống họng. Tốt.

Tôi nhìn quanh, các k’iik đứng sau tôi đang xoa dụi khắp mặt. Điều đó có nghĩa là nhóm đồng đảng thứ hai của chúng tôi đã đốt những đống lửa được nguỵ trang kín đáo của mình.

Họ có cả thảy ba mươi sáu người, nấp rải rác trong các sân nhà, sân bếp của mười bốn khu nhà khác nhau, tạo thành nửa vòng tròn tương đối quây quanh mạn đông thành phố. Mấy lớp trên cùng của đống củi là thân cây phơi khô của một giống trường xuân có độc của vùng nhiệt đới, gỗ tùng khô và cây sơn độc khô chứa rất nhiều chất gây chảy nước mắt, không kém gì hơi cay. Ban đầu, thứ khói này gần như vô hình. Nó không phải không có mùi, nhưng mùi đó không có gì đặc biệt. Tôi thấy người đứng trên các quảng trường dọc trục đường chính cũng bắt đầu oằn oại mình, điều đó có nghĩa là khói đang hạ xuống đất. Tốt.

Koh rất hiểu thời tiết vùng này. Cách đây hai đêm, bà ta khẳng định rằng gió hôm nay sẽ nhẹ và vẫn thổi đến từ hướng đông như thường lệ, và rằng khói sẽ tụ lại trong thung lũng. Những kẻ đồng mưu với chúng tôi đã chuyển thứ củi nói trền từ các vị trí ở phía tây sang phía đông, nhiều hết mức có thể. Và đây, mọi việc diễn ra đúng như Koh nói. Họ đã hoàn thành xuất sắc phần việc của mình. Họ đã mua vét củi đun, gỗ cao su loại tồi, và dễ gây nghi ngờ nhất là gỗ sơn, dây trường xuân và hàng đống lá han rồi trà trộn vào đám người hành hương để lén vận chuyển đi từng ít một. Họ phải giấu sao cho các k’iik của thị tộc Bìm Bìm, nhữgn kẻ đóng vai trò giữ gìn trật tự tôn giáo, không nhìn thấy số than sẽ được dùng để nhóm lửa.

Một k’iik đứng trước tôi thả rơi áo choàng. Đó là hiệu lệnh “hãy sẵn sàng”. Tôi cũng cởi nút áo choàng, thả rơi xuống đất và giật lấy cây lao đeo sau lưng. Tôi giở mũi lao bằng đá vỏ chai ra và gắn ba khúc của cán lao lại với nhau. Tuy không có những mối khớp nối bằng kim loại nhưng ba khúc cán lao vẫn khớp vào với nhau đánh cạch một cái khiến anh có cảm giác mình khéo léo lắm (mặc dù chẳng đúng tí nào), không kém gì một tay lính thuỷ đánh bộ lắp khẩu M16 trong vòng mấy phẩy mấy giây gì đó. Trong tư thế hơi khom người xuống, cố sao cho càng ít lộ liễu càng tốt, tôi tháo tấm khiên buộc dưới chân, mở ra và buộc hai thanh ngang thẳng đứng lên, gần như thao tác làm diều. Sản phẩm cuối cùng là một tấm khiên nhẹ nhưng chắc chắn. Tôi dùng sợi dây da hươu buộc chặt cây lao vào bàn tay phải và chiếc khiên vào tay trái rồi đứng thẳng lên. Tôi tháo dải băng buộc đầu dấu dưới hai hòn dái và dùng một tay buộc nó quanh trán, một thao tác mà tôi chẳng đời nào làm được nếu là Jed. Chúng tôi quy ước rằng những người theo phe Rắn Chuông phải buộc một dải băng màu xanh trên đầu để IFF (Viết tắt của “Idenfication, friend or foe” nghĩa là “nhận diện, quân ta hay quân địch”), nghĩa là nhận diện, quân ta hay quân địch.

Nước mắt tôi chảy dàn dụa. Tôi nhắm mắt bên trái lại.

Tôi lo lắng không biết những động tác vừa rồi có gây nhiều sự chú ý quá không. Tôi nhìn xuống các quảng trường. Đám đông vẫn đang cựa quậy và vùng vẫy tứ tung để lần đường trực bỏ chạy.

Ui da. Mắt tôi giật nhói lên một cái. Lần này, một làn khói đen đã hiệu rõ trên đầu. Lớp củi thứ hai có nhiệm vụ tạo càng nhiều khói càng tốt, để che kín hoặc chí ít cũng làm mờ cảnh mặt trời hiện ra. Tôi nhắm mắt phải lại và mở mắt trái ra. Tôi thọc tay trái qua thắt lưng vào trong khố để lấy một cái túi nhỏ. Tất cả những ai tham dự âm mưu này đều có một cái túi như thế. Nó đựng đầy một loại thuốc mỡ làm từ hổ phách cô-pan, sữa ong chúa, cây chữa rắn cắn và trứng chim ruồi. Tôi khều lấy một tý bằng ngón út, ngón tay được coi là sạch sẽ, và quệt nó lên mí mắt phải. Theo thầy lang của Koh, nếu anh cứ nhắm một mắt và mở một mắt, quệt thứ thuốc này lên bên mắt nhắm và liên tục đổi bên thì anh có thể đi trong đám khói mà vẫn nhìn thấy trong một thời gian dài. Tôi đã nghe ở đâu đó nói rằng lính cứu hoả thời xưa cũng dùng một thứ thuốc tương tự. Nhưng xem ra nó không có hiệu quả tức thì. Nhắn nhủ bản thân: nhớ mang một ít về và giới thiệu với Body Shop (Chuỗi cửa hàng mỹ phẩm lớn thứ2 thế giới).

Tôi liếc nhanh một cái lên đỉnh kim tự tháp Bão Lốc.

Đang có chuyện gì đó trên ấy.

Thầy trưởng tế của Cong Veo Ti Tiện không sao nhóm được lửa bằng ánh sáng mặt trời đang bị mây che khuất nhưng họ quyết định gian lận. Kẻ nào đó đã thắp một ngọn đuốc lớn trên tháp mái kim tự tháp Bão Lốc và người truyền lửa, một tên lực sĩ được huấn luyện, vận bộ trang phục kềnh càng và lồng phồng bằng lông chim tẩm dầu mỡ, thò tay vào lửa, quay lại và nhảy xuống các bậc thang như đã sắp đặt trước, và khi lửa đã trùm kín người hắn, hắn lăn vào giữa hai hàng k’iik nhà Báo Sư Tử. Bọn k’iik chuyền nhau đẩy hắn xuống đến “cái mõm” của kim tự tháp khổng lồ ở độ cao bằng vị trí mà tôi và Hun Xoe đang đứng nhưng cách nhau cả một biển người, từ đó, từ đó hắn lăn xuống các bậc thang thấp hơn, xuống đến quảng trường và đâm thẳng vào ngọn tháp tre như không có chuyện gì xảy ra.

Nhưng ngọn tháp đã bắt lửa từ trước. Ai đó, có lẽ là người của Koh, hẳn đã ném hoặc bắn một mẩu than vào đó. Nó cháy bùng lên trước khi tay lực sĩ kịp lăn xuống đến mõm kim tự tháp. Nhưng đằng nào thì đến lúc này, dân chúng cũng chẳng để ý đến nghi lễ ấy nữa. Người ta đang mải nhìn lên trời, ngóng Rắn Chuông và tìm đường chạy, hoặc đánh lộn hoặc chui vào một chỗ nấp. Tôi nghe thấy tiếng các thầy xướng tề của giáo hội Báo Sư Tử trên điện thờ đang rao to qua loa: “Hac ma’al, hac ma’al”, “mặt trời mới, mặt trời mới”, nhưng tiếng rao đầy vẻ hốt hoảng của kẻ biết rằng chẳng ai để ý nghe mình nữa. Quá muộn rồi.

Lúc này, đám đông đã bắt đầu chạy cuống quýt như cảnh trên một phố đông trước khi có cơn bão, khi ai nấy đều bước vội vã để tìm chỗ trú tuy chưa có hạt mưa nào. Một đám mây màu vàng xám lướt ào qua đầu chúng tôi. Ngón lừa bịp mỗi lúc một kém nghệ thuật, ngày càng ít Prokofiev và nhiều tiếng cò cưa hú hoạ, nhưng ồn hơn bao giờ hết. Các bạn hẳn nghĩ đàn dây là thứ nhạc cụ ầm ĩ, nhưng ngay lúc này, chúng đang rên rỉ náo loạn. Tôi nghe thấy tiếng một trong những kẻ đồng loã của Koh goà lên cái câu mà họ đã tập dượt trước nhiều lần: “A’ch dadacanob, a’ch dadacanob”, “ong bắp cày đến rồi, ong bắp cày đến rồi”. Và một giọng khác nhắc lại câu đó, một bà già. Tôi không nghĩ bà ta là chân gỗ của chúng tôi. Chắc các bạn cũng biết cái kiểu người ta thường gào hùa theo những gì cấp trên của họ gào lên. Thêm vài tín đồ cải đạo của Hội Rắn Chuông gào lên, và thêm nữa, thêm nữa, mỗi lúc một nhiều người gào lên và chắc chắn không phải chỉ người của Rắn Chuông. Những tiếng kêu khản đặc, có lẽ do nhiều ngày không dùng đến – lan khắp đám đông như một cơn mưa đá lướt ào qua cánh đồng ngô. Như những tay cổ động chuyên nghiệp, người của Koh nhấn mạnh thêm câu đó và thêm thắt vào những câu đại loại như: “mặt trời đã chết, chúng ta sắp chết, chúng ta chết rồi” và “Ak a’an, ak a’an” “thế là hết, thế là hết”. Xen lẫn vào đó là những tiếng cười…tiếng cười cảu người phát điên vì hoảng loạn, tôi đoán thế. Một vài nhạc công bắt đầu đánh trống và thổi sáo, nhưng âm thanh đó rời rạc và tắt dần khi tiếng la hét thất thần bắt đầu vang lên từ các quảng trường chính. Dàn đồng ca hỗn loạn của các nhạc cụ và tiếng hét xua đuổi mà tôi bẫn nửa có ý chờ không thể cất lên được nữa. Người đứng dưới sân và trên các mái nhà đều run bắn và dựng tóc gáy lên. Quảng trường chợ đông nghịt dưới chân chúng tôi bắt đầu hỗn loạn.

Phần đông dân chúng đều tin chắc đây chính là đàn ong bắp cày – dù có hiện rõ hay không – mà Koh đã tiên đoán và chúng sẽ đốt mù mắt tất cả. Tôi trông thấy bà già, trẻ con, k’iik và bọn dân đen, tất cả đều ngửa mặt lên trời, chỉ tay và hét: “Ha k’in, ha k’in” “Rắn Chuông, Rắn Chuông”, và bất giác tôi cũng nhìn lên. Những cuộn khói dài như sợi thừng uốn éo và lượn lờ, và tôi cược rằng nếu nhìn thêm một lúc nữa, chính tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi cái ảo giác lây nhau ấy, tôi xũng sẽ nhìn thấy Rắn Chuông Sao hiện ra rõ mồn một, trườn xuống từ trên thiên đàng với cái lưỡi thè lè, bộ lông gợn lên và những cái nanh phun ra nọc thiêng.

Ha k’in, ha k’in, Ha k’in, ah a’an, ah a’an, ah a’an, ah a’an…

Sự kinh hoàng lan khắp đám đông như một lời xúi giục: CHẠY ĐI! MÀY MẤT MẠNG ĐẾN NƠI RỒI!!!

Khi đám đông bỏ chạy toán loạn, tôi cảm thấy nền đá dưới đôi xăng đan của mình rung lên bần bật. Tôi hơi loạng choạng một tí rồi cũng đứng thẳng lại được. Sự hoảng loạn chung của quá nhiều người có thể cuống anh vào một đợt sóng của trạng thái mất trọng lượng. nếu anh từng có mặt trong vụ 11 thang 9, hay trong vụ sóng thần ở Ấn Độ Dương, hay trong bất kỳ sự kiện lớn nào khác, anh sẽ hiểu rằng có những thời điểm mà mọi người xung quanh anh đều không biết chuyện gì đang xảy ra. Tất cả nhìn nhau và hiểu rằng chẳng ai biết chuyện gì cả và ai cũng đang nghĩ như mình, rằng tất cả đều sắp bỏ mạng, rằng phần còn lại của thế giới chắc cũng đã bị huỷ diệt. Bầy đàn toạ ra một sứ hút mà anh cảm thấy ngày cả khi cá nhân đang khủgn hoảng. Nhưng nếu là cơn khủng hoảng chung, sức hút đó sẽ biến mất. Đám đông đang cảm thấy sinh mạng của mình chẳng có nghĩa lý gì. Dĩ nhiên, vào thời này, mạng sống của một con người vẫn được coi là vô nghĩa nên người ta thường không đếm xỉa đến. Nhưng nếu nó liên quan đến mạng sống của rất nhiều người thì quả là một vấn đề.

Lúc này, người ta đã bắt đầu chạy nháo nhác. Tôi quay đầu sang trái và nhìn lên Koh lần cuối cùng. Bà ta đang bay xuống gần chúng tôi. Không, chờ đã, bà ta đang được khiêng đi, nhìn cứ như đang ngồi trên một khoang cáp treo bằng người. Trước đó, tôi đã nghe thấy những tiếng kêu gắt gỏng băng giọng mũi, và khi nhìn thấy cảnh này, tôi đoan chắc đó là giọng công nương Vàng, mẹ bề trên, đang gào thét với Koh, nghe có vẻ còn hơn cả án tử hình.

Hun Xoc đập vào cánh tay tôi ba lần.

Vài giây sau tôi mới định thần được để hiểu nó ra hiệu gì. Chúng ta đi thôi. Tôi quay ra sau và đập tay ra hiệu tương tự với Cứt Ta – tu.

Các k’iik đứng dưới tôi đã bắt đầu di chuyển. tôi biến khỏi buổi trình diễn sôi động này thôi.

Tôi nhảy xuống một bậc thang cao mười bốn inch. Một bậc nữa. Một bậc nữa.

Còn mười bốn bậc nữa. Một vài người đàn bà đứng dưới sân đền bắt đầu hát một bài nguyện. Rắn Chuông và thêm nhiều, thêm nhiều người nữa hát theo, tiếng hát và tiếng cười hoà cùng tiếng la hét và tiếng đàn dây tạo thành một thứ âm thanh mà tôi thực sự cho rằng có thể làm bất cứ người nào hoá điên, bất chấp thực tế là chẳng gì có thể khiến người ta hoảng hốt hơn được nữa.

Huỵch. Huỵch.

Qua những phiến đá lát đường trát thạch cao xanh lam dưới chân, tôi biết chúng tôi đã xuống đến quảng trường. Các k’iik chạy trước tôi dừng lại một lát. Họ đi tiếp. Tôi bước theo, hơi bồn chồn.

Lại có hiệu lệnh dừng.

Được thôi.

Tôi dừng lại.Chúng tôi chờ đợi.

Một cú thúc vào ngực. Nghĩa là “vào đội hình”. Tôi thúc vào ngực Cứt Ta-tu.

Tôi nâng tấm khiên lên. Các k’iik xúm lại khít hơn quanh tôi.

Té ra Cá Sấu 12 cũng là một tay có đầu óc tiếp thu, nhất là những gì liên quan đến quân sự nhà nghề. Tôi đã giải thích với ông ta về đội hình con rùa cổ điển, tức đội hình bộ do Alexander Đại Đế (tức Alexander III xứ Marcedon (356 – 323 trước Công Nguyên), vị hoàng đế, vị tướng tài ba đã chinh phạt hầu hết các đế chế lớn mà ông ta biết vào thời đó) phát kiến và được các hoàng đế La Mã thời kỳ đầu sử dụng để chọi lại với các đội quân kém tổ chức hơn từ Scotland cho tới Pakistan. Ông ta rất thích ý tưởng đó và quyết định áp dụng. Mục đích của đội hình này là giúp cho toán quân mở đường qua một đội quân đông hơn với tổn thất tối thiểu. Nói ngắn gọn là các anh phải đứng áp sát vào nhau và giơ khiên lên để tạo thành một cái mai rùa. Những người lính ở vòng ngoài sẽ nâng khiên bằng cả hai tay trong khi những người ở vòng trong chĩa cây lao qua khe hở giữa họ và xọc vào bất cứ kẻ nào lại gần. Nhưng không may, chúng tôi không có những tấm khiên gỗ lớn như người La Mã. Thì có ai làm được mọi việc.

Tôi nâng tấm khiên lên đầu lắp khít với khiên của những người khác.

Tôi được đứng ở vị trí an toàn nhất trong mai rùa. Giống như quả bóng số năm nằm chính giữa hình viên kim cương trong ván bi a chín bóng. Vì thế, tôi không nhìn thấy gì nhiều lắm và tiếng động nghe được chủ yếu là tiếng bước chân lẹt xẹt, tiếng thở nặng nhọc và tiếng cót két của các bộ giáp bằng vỏ liễu.

Chúng tôi chậm chạp tiến lên phía trước, len lách qua đám đông. Vỉa hè ở đoạn này được phủ lá cây trạng nguyên đỏ chói và khi đi qua, chúng tôi đá tung lên cả một trận bão tuyết đỏ. Tôi không nhìn thấy gì phía trước, còn phía sau, tất cả những gì tôi trông thấy là khói bốc lên từ phía nhà của Koh.

Chết thật. Nếu thực sự có đám cháy thì chúng tôi sẽ gặp rắc rối to.

Chúng tôi rẽ sang phía tây của sân đền Rắn Chuông và đi xuống theo các bậc thang ngoài cùng ở hưóng bắc để xuống trục đường chính.

Hy vọng của chúng tôi là ngay cả khi toán quân của k’iik của nhà Báo Sư Tử tìm được chỉ huy và tập hợp lại được với nhau, chúng cũng sẽ không chuẩn bị kịp tinh thần để bảo vệ những vị trí nhỏ và khác thưòng trong khu của mình. Biết đâu chúng lại để kho thuốc gần như không có người bảo vệ. Hừ, chúng ta sẽ biết khi đến nơi.

Oái. Oái.

Hai cú đập vào vai phải. Có nghĩa là chúng tôi sắp phải rẽ phải.

Tôi quờ tay ra sau và đập vào vai k’iik đứng sau.

Chúng tôi rẽ phải.

Mai rùa được sắp xếp lại, dãn dài ra theo hai hướng bắc nam dọc theo trục đường chính và hẹp lại theo chiều đông – tây. Cá Sâu 12 chỉ huy từ vị trí gần đầu, trước tôi ba hàng và cách bốn hàng về phía tay phải. Hiệu lệnh tiến lên truyền đi trong hàng nhanh như vết nứt rạn ra trên tấm kính.

Tôi bị đoàn người đẩy đi, bị chèn giữa cả một đống người và chỉ đủ hơi để thở. Tôi thậm chí có thể nghỉ ngơi bằng cách co chân lên và để người khác lôi đi giữa cái mai rùa. Tôi cảm thấy một lưồng…hừ, tôi đoán các bạn có thể gọi nó là một luồng dũng khí hoặc dũng khí bầy đàn. Tôi chắc đây cũng là cảm giác của các tay lính lê dương.

Quỷ thần ơi, – tôi nghĩ – không gì có thể cản bước chúng ta.

Chúng tôi thẳng tiến theo trục đường chính. Chúng tôi sẽ đi thêm khoảng một phần tư dặm về hướng bắc và trước khi đến gớc tây nam của kim tự tháp Bão Lốc, chúng tôi sẽ rẽ ngoặt sang phải, đi về hướng đông và mở đường vào kho thuốc của nhà Báo Sư Tử. Chúng tôi đã vạch ra tuyến đường trên một tấm bản đồ mô phỏng thành phố và bắt các k’iik ghi nhớ cả đường tiến lẫn đường lùi.

Ngoài đội hình mai rùa, tôi cũng đã giới thiệu với đồng đội một sự cách tân khác: một lời huấn thị rằng không bắt tù binh. Té ra đây là một ttrong những điều họ khó chấp nhận nhất. ở đây, tù bính, chứ không phải đất đai mới là mục đích cuối cùng của chiến tranh. Của cải cũng chỉ xếp thứ hai. Nhưng chúng tôi đã tuyên bố rằng, trong cuộc tập kích lần này, bất cứ k’iik nào phá vỡ đội hình để bắt tù bình thì bản thân người đó và gia đình sẽ bị giáng địa vị và trục xuất. Nhiệm vụ duy nhất của họ là đưa chúng tôi đến nơi càng nhanh càng tốt. Cá Sấu 12 là một viên chỉ huy có tài năng thiên bẩm và xem ra đến lúc này họ đều hiểu cả.

Chúng tôi được hiệu lệnh dừng. Chúng tôi chờ đợi.

Thêm một tín hiệu nữa, phức tạp hơn, bằng ngôn ngữ đi săn của nhà Đại Bàng: Bọn Thằn Lằn đang ở đây.

Tôi cảm thấy toán k’iik hơi đổi hướng và thoáng thấy bóng phù hiệu màu xanh da trời của nhà Thằn Lằn qua lớp người kín mít. Chúng tôi đụng phải sáu nhóm hai mươi, tức là một trăm hai mươi k’iik của nhà Thằn Lằn. Họ ào qua chúng tôi như một con a-míp nuốt con trùng đế giày. Thực ra đi ngược chiều giữa một đám đông hoảng loạn lại là điều rất dễ vì họ sẵn lòng đi vòng qua anh. Cho đến lúc này vẫn chưa có vấn đề gì.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đến Dãy Phố Thần Chết. Với hàng dòng người chạy xung quanh, toán quân đồ sộ của chúng tôi phải lách qua những khoảng trống rất hẹp, đi lên rồi lại đi xuống hàng dãy cầu thang. Lên, xuông, lại lên, lại xuống. Mỗi lần chúng tôi trèo qua một bức tường ngăn cách giữa hai quảng trường, khi đứng lên đỉnh tường, tôi mới thoáng thấy chuyện gì đang diễn ra bên ngoà


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.