Sáng hôm sau, Colum làm nàng giật mình khi anh xuất hiện trên lưng ngựa ngay trước bữa điểm tâm, tay dắt cương con ngựa thứ hai.
– Em nói với anh là em thích cưỡi ngựa, anh giải thích, nên anh tìm cách mượn hai con đây. Nhưng ta phải trả chúng về vào giờ kinh nhật tụng trưa nay. Vậy em cầm lấy phần bánh mì còn lại tối qua rồi theo anh đi ngay, kẻo nhà lại đầy ắp các bà, các cô đến thăm bây giờ.
– Nhưng nó chưa thắng yên mà, Colum.
– Đã sao nào! Em cưỡi ngựa giỏi lắm mà, có đúng không! Lấy bánh mì lẹ đi Scarlett, Bridie sẽ giúp em lên ngựa.
Từ nhỏ, nàng đã không còn cưỡi ngựa trần và ngồi để hai chân hai bên như thế nầy nữa rồi. Nàng đã quên cái cảm giác ăn ý với con ngựa. Dù vậy, nàng làm quen lại cũng khá nhanh như thể xưa nay không làm gì khác hơn, và chẳng mấy chốc nàng chẳng còn cần đến dây cương nữa. ép hai đầu gối vào là đủ để điều khiển con vật rồi.
– Ta đi đâu đây!
Họ vừa tiến vào một con đường nhỏ mà nàng chưa từng đặt chân đến.
Đến sông Boyne. Anh sẽ chỉ cho em xem cái nầy.
À đến con sông, Scarlett thấy mạch mình đập nhanh lên. Nó vừa cuốn hút nàng lại vừa khiến nàng ghê tởm.
Trời bắt đầu đổ mưa, và nàng thầm cảm ơn Bridie đã nhắc nàng mang theo khăn san. Nàng che kín lên đầu rồi lặng lẽ theo sau Colum, tai lắng nghe tiếng mưa rơi trên lá và tiếng vó ngựa khua đều đặn. Yên tĩnh quá!
Nàng chẳng chút bất ngờ khi cơn mưa tạnh. Lúc nầy, chim chóc ẩn mình trong các hàng giậu lại bay ra.
Họ đi đến cuối đường. Con sông nằm tại đây. Hai bờ thấp, nước sông gần như bập bềnh vỗ vào mạn bờ.
– Đây là khúc sông cạn mà Bridie vẫn thường tắm, Colum nói. Em có thích tắm một chút không?
Scarlett làm bộ rùng mình.
– Em đâu có gan đến thế. Nước chắc lạnh lắm.
– Rồi em sẽ thấy. Chỉ vài giọt tung tóe lên thôi mà. Chúng ta vượt qua đi. Cầm chắc dây cương nhé.
– Con ngựa của Colum thận trọng bước xuống nước.
Scarlett vén váy lên dúi dưới đùi rồi theo sau.
Sang đến bờ bên kia, Colum nhảy xuống đất.
– Em lại đây, chúng ta ăn sáng, anh nói. Để anh cột ngựa vào cây đã.
Ở đây, cây mọc ngay sát mặt nước. Bóng râm lốm đốm trên khuôn mặt Colum, Scarlett trườn người xuống đất rồi trao dây cương cho ông anh. Nàng tìm một chỗ nhiều nắng để ngồi. Lưng tựa vào một gốc cây. Những đoá hoa vàng xinh xắn với lá hình trái tim phủ đầy mặt đất. Nàng nhắm mắt và lắng nghe tiếng thì thầm của dòng sông, tiếng lá rì rào trên đầu và tiếng chim hót líu lo. Colum đến ngồi cạnh nàng và nàng từ từ mở mắt.
Anh bẻ đôi ổ bánh mì rồi đưa cho nàng phần lớn hơn.
– Anh muốn kể với em một câu chuyện trong lúc ăn, anh nói. Chỗ chúng ta đang ngồi có tên gọi là Ballyhara. Cách đây khoảng hai trăm năm, đó là mảnh đất của tổ tiên em, tổ tiên chúng ta. Đó là mảnh đất của dòng họ O Hara.
Scarlett đứng bật dậy và đưa mắt nhìn quanh.
– Khoan nói gì cả, hãy ăn nốt phần bánh mì ngon ngọt của em đi Katie Scarlett ạ. Câu chuyện còn khá dài.
Nụ cười của Colum đã chặn ngang các câu hỏi trên môi nàng.
– Cách đây hai ngàn năm, thậm chí hơn thế nữa, anh nói tiếp, những người đầu tiên của dòng họ O Hara đến định cư ở đây và biến mảnh đất nầy thành gia sản của họ. Cách đây một ngàn năm – em thấy đấy, chúng ta đang tiến gần thêm – bọn Viking đã khám ra những vùng đất màu mỡ của Ireland và rắp tâm chiếm đoạt. Người Ireland cũng như những người trong dòng họ O Hara đã phải canh giữ các con sông, nơi bọn xâm lược có thể xuất hiện trên các chiến thuyền với hình đầu rồng trước mũi, và đã dựng lên các đồn luỹ để tự vệ.
Colum bẻ một mẩu bánh cho vào miệng. Scarlett nóng lòng muốn nghe tiếp. Bao năm qua… Đầu óc nàng không hình dung nổi sao lại lâu đến thế. Trước nghìn năm thì là chuyện gì!
– Bọn Viking đã bị đẩy lùi, Colum kể tiếp và dòng họ O Hara lại có thể cấy cày trên mảnh đất của mình và vỗ béo đàn gia súc trong hoà bình suốt khoảng hai trăm năm sau đó. Họ xây lên một thành luỹ khá đồ sộ để sinh sống cùng các gia nhân vì người Ireland vốn có trí nhớ rất tốt và cũng như bọn Viking đã từng đến đây, những cuộc xâm lăng của bọn khác vẫn có thể xảy đến. Và điều đó đã xảy ra. Lần nầy không phải là bọn Viking nữa mà bọn Anh, mà trước đó gốc gác còn là người Pháp. Chúng chiếm hết phần nửa Ireland, nhưng những người O Hara vẫn cầm cự được sau những bờ thành vững chắc và tiếp tục canh tác đất đai của mình thêm năm trăm năm nữa.
Mãi đến trận chiến trên sông Boyne, Colum kết luận, mà chắc em đã biết lịch sử bi thảm của nó. Sau hai ngàn năm được canh tác bởi dòng họ O Hara, đất đai giờ đã trở thành của người Anh. Những người O Hara đã bị đẩy lùi sang bên kia khúc sông cạn – những người O Hara ở đây là muốn nói những người còn sống sót lại, những bà vợ goá và những đứa con côi. Một trong những người con ấy khi lớn lên, đã trở thành tá điền ở bờ bên kia, với người Anh. Người cháu của ông cũng canh tác trên cùng thửa đất ấy, đã lấy bà nội Katie Scarlett của chúng ta. Bên cạnh cha, ông đã nhìn thấy bên trên những dòng nước đục ngầu của dòng sông Boyne là toà lâu đài đổ nát của dòng họ O Hara và, cũng tại đó, ông đã thấy mọc lên một dinh thự của người Anh. Nhưng cái tên Ballyhara thì vẫn còn lại mãi.
Và cả ông Gerald, cha nàng, khi nhìn ngôi nhà cũng biết ngay mảnh đất ấy thuộc về dòng họ O Hara.
Scarlett oà khóc. Lúc nầy đây, nàng mới chợt hiểu cơn phẫn nộ và nỗi đau xót mà nàng nhìn thấy trên khuôn mặt cha mỗi khi ông gầm lên nhắc lại cuộc chiến đấu ở sông Boyne.
Colum đã ra bờ sông để uống nước. Rồi anh rửa tay và vúc nước cho Scarlett. Khi nàng uống xong anh dịu dàng lau những dòng nước mắt đang đầm đìa trên má nàng.
– Thật, anh chẳng muốn kể tất cả những chuyện nầy cho em nghe chút nào. Katie Scarlett ạ.
Nàng ngắt lời anh, phật ý.
– Em có quyền được biết chứ!
– Anh cũng nghĩ vậy.
– Kể cho em nghe nốt đi em biết là chưa hết mà. Nhìn mặt anh là biết.
Colum trông nhợt nhạt như người đang phải chịu một thử thách quá sức mình.
– Đúng là chuyện còn chưa hết. Ballyhara của người Anh đã được dựng lên cho một Huân tước trẻ tuổi. Ông ta đẹp như thần Apollon và, theo lời đồn, ông ta cũng tự xem mình như một vị thần. Ông quyết định phải biến bằng được Ballyhara thành một lãnh địa đẹp nhất Ireland. Lãnh địa của ông – bởi ông làm chủ Ballyhara cho đến viên đá cuối cùng và chiếc lá cây cuối cùng – phải lớn hơn bất kỳ ngôi làng nào khác, thậm chí phải rộng hơn cả Dublyn. Và ông đã làm thế thật. Thật ra nó cũng không lớn như Dublyn, ngoại trừ con đường độc nhất của nó rộng hơn con đường lớn nhất của Dublyn. Các chuồng ngựa của ông trông giống như ngôi thánh đường, các cửa sổ rực rỡ như những viên kim cương, các khu vườn trải lớp thảm cỏ mềm mại dài đến tận ven bờ sông Boyne. Những con công xòe đuôi khoe những cánh quạt điểm ngọc trên bãi cỏ, và các phu nhân làm rạng rỡ cho các lễ hội của ông. Ông ta là lãnh chúa của Ballyhara. Nỗi ân hận duy nhất của ông là chỉ có một đứa con trai độc nhất. Nhưng ông cũng đã sống quá đủ để nhìn thấy mặt đứa cháu trai của mình trước khi chui xuống hoả ngục. Và đứa cháu trai đó cũng không có em trai em gái gì cả. Nhưng đứa cháu nầy rất đẹp trai và rồi cũng trở thành lãnh chúa của Balìyhara, của các chuồng ngựa to như thánh đường và của ngôi làng lộng lẫy. Người con của ông ta sau nầy cũng vậy. Anh còn nhớ vị Huân tước trẻ tuổi của Ballyhara ấy. Hồi đó anh mới chỉ là một đứa bé và anh nhìn ông ta như một con người thần kỳ. Ông ta cưỡi một con ngựa rất lớn và, khi vó ngựa cày nát những đồng lúa của chúng ta trong các cuộc săn cáo, ông ta luôn quẳng cho bọn trẻ chúng anh những đồng tiền. Ông ta cao lớn và mảnh mai trong bộ áo màu hồng cùng chiếc quần cụt màu trắng và đôi.giầy cao cổ màu đen bóng loáng. Hồi đó, anh không hiểu vì sao cha anh lại thu sạch những đồng tiền ấy, rồi vừa vặn cong chúng, vừa nguyền rủa tên Huân tước vì đã bố thí cho bọn anh.
Colum đứng dậy và đi đi lại lại gần bờ sông. Rồi khi anh kể tiếp, do cố kiềm chế, giọng anh bỗng đanh lại như tiếng kim khí.
– Đói kém đã xảy đến, tiếp theo là biết bao thống khổ và chết chóc, “Ta không sao chịu đựng được khi thấy các nông dân của ta khốn khổ như thế, vị Huân tước của Ballyhara tuyên bố. Ta sẽ cho đóng hai con tàu vững chắc và sẽ chở họ miễn phí đến tận nước Mỹ, nơi thực phẩm vô cùng phong phú: Ta còn kể gì những tiếng rên rỉ của lũ bò cái vì rồi sẽ chẳng còn ai để vắt sữa nữa, cũng chẳng còn màng gì đến những cánh đồng tầm ma sẽ lấn chiếm vì sẽ chẳng còn ai để canh tác nữa. Ta lo lắng cho người dân của Ballyhara nhiều hơn là cho đàn gia súc và thóc lúa”. Nông dân và dân làng đã hôn tay ông vì lòng tốt của ông, và rất nhiều người đã sửa soạn cho chuyến đi xa. Nhưng cũng có một số người không chịu được nỗi đau phải xa lìa Ireland. Họ tuyên bố với vị Huân tước trẻ tuổi: “Chúng tôi sẽ ở lại, dù có phải chết đói đi nữa”. Ông ta bèn công bố khắp vùng rằng nếu ai đó đàn ông hay phụ nữ, muốn kiếm một chỗ trên tàu thì chỉ việc đến xin và ngài Huân tước sẽ rất sung sướng tặng miễn phí. Cha anh lại nguyền rủa ông ta một lần nữa. Ông đã tỏ ra giận dữ với hai anh mình là Matthew và Brian vì các bác ấy đã chịu nhận bố thí của gã người Anh. Nhưng họ vẫn kiên quyết ra đi… và đã chết đuối cùng những người khác trên những con tàu mục ruỗng, bị đắm trên biển ngay từ cơn gió mạnh đầu tiên. Sau nầy, người ta đã đặt tên cho những con tàu tồi tàn nầy là các quan tài bơi. Một người đàn ông ở Ballyhara đã đứng rình trong chuồng ngựa, chẳng cần biết nó đẹp như một ngôi thánh đường. Và khi gã Huân tước trẻ tuổi đến tìm con ngựa lang trắng to lớn của hắn, người đàn ông đã tóm lấy vị Huân tước tóc vàng, đẹp trai của Ballyhara và treo cổ hắn trên ngọn tháp bên bờ sông Boyne, nơi mà trước kia những người O Hara đã từng ngồi rình những chiếc thuyền rồng.
Scarlett lấy hai tay bịt miệng. Colum trông thật nhợt nhạt khi.anh vừa nói vừa rảo bước bên bờ sông. Ngọn tháp. Chắc cũng chính là ngọn tháp ấy. Nàng nắm chặt bàn tay đưa lên miệng. Nàng không ngắt được lời anh.
– Không ai biết lai lịch người đàn ông đã ẩn mình trong chuồng ngựa, Colum kể tiếp. Người đoán nầy, kẻ đoán nọ. Khi lính Anh kéo đến, những đàn ông còn ở lại Ballyhara nhất loạt không cung khai người đó. Bọn Anh đã treo cổ tất cả họ để trả thù cho cái chết của gã Huân tước trẻ tuổi.
Colum trông tái mét. Một tiếng kêu bật ra từ cổ họng – một âm thanh tắc nghẽn không ra giọng người. Anh trừng trừng nhìn Scarlett, còn nàng thì đã co rúm người lại vì sợ hãi trước khuôn mặt man dại và thống khổ ấy!
– Một cảnh trí ư? Anh thét lên.
Tiếng thét gầm vang như tiếng đại bác. Anh quỳ xuống bên bờ sông phủ đầy những đoá hoa hồng vàng xinh xắn và gập người về phía trước, hai tay ôm mặt, toàn thân run lên bần bật.
Scarlett đưa tay về phía anh, rồi nhẹ nhàng quỳ xuống bên anh. Nàng không còn biết phải làm gì nữa.
– Hãy thứ lỗi cho anh, Scarlett, nàng nghe giọng nói của một Colum quen thuộc khi anh ngẩng đầu lên. Chị Molly của anh hẳn phải là cô nàng ngu ngốc nhất trời Tây nên mới nói ra một chữ như thế. Chị ấy luôn có cái khiếu làm cho anh phát điên lên.
Anh mỉm cười, một nụ cười thuyết phục.
– Ta còn đủ thời gian để dạo quanh Ballyhara trên lưng ngựa nếu em muốn, anh đề nghị. Cơ ngơi nầy đã bị bỏ hoang từ gần ba chục năm nay, nhưng chẳng hề bị phá huỷ chút nào. Thậm chí chẳng ai muốn lại gần.
Anh chìa tay cho nàng và nụ cười làm khuôn mặt tái nhợt của anh sáng lên.
– Nào đi, anh giục. Ngựa vẫn ở đấy.
Con ngựa của Colum rẽ một đường giữa các bụi cây ngấy và cành lá chằng chịt, và chẳng mấy chốc Scarlett đã nhìn thấy những tường thành đồ sộ bằng đá của ngọn tháp trước mặt họ. Colum giơ một tay lên cao để lưu ý nàng, rồi cho ngựa dừng lại. Anh đưa hai tay lên miệng làm loa và hô lớn: “Seachain, seachain”. Tiếng vọng lại từ các phiến đá nghe thật lạ lùng.
Anh quay về phía Scarlett và nhìn nàng vui vẻ. Đôi má anh đã hồng hào trở lại.
Tiếng gaélyque đấy, cô em họ thân mến ạ, tiếng Ireland cổ đấy. Có một bà thầy pháp, một cailleach, sống trong một túp lều gần đây. Một số người nói rằng đó là một bà tiên cũng lâu đời như Tara, số khác thì lại nói bà ấy là vợ của Paddy Flynn, ở Trim, đã trốn đi từ hơn hai chục năm nay. Anh kêu to là để báo cho bà ấy biết chúng ta đi qua. Bà ấy không ưa bị bất chợt. Anh không nói mình tin phù thuỷ, nhưng có kính trọng một chút cũng chẳng sao…
Họ cùng tiến đến khoảng rừng thưa, nơi ngọn tháp sừng sững. Đến gần, Scarlett nhận thấy không có chút vữa nào giữa các viên đá, nhưng nào chúng có xê xích mảy may. Colum nói nó được xây từ bao giờ nhỉ! Một ngàn năm! Hai ngàn năm! Đâu có quan trọng gì. Nàng rất sợ khi nhớ lại vẻ mặt kỳ lạ của Colum ban nãy.
Nhưng lúc nầy thì không. Ngọn tháp nầy mãi mãi vẫn chỉ là một toà nhà, hơn nữa, nó còn được xây dựng tài tình nhất mà trước giờ nàng chưa từng thấy. Nó chẳng có gì đáng sợ cả, nàng nhắc đi nhắc lại với chính mình. Thực ra mình còn thấy nó hấp dẫn nữa là khác. Nàng bước đến gần tường thành và đút ngón tay vào kẽ nối giữa các viên đá.
– Em dũng cảm lắm, Scarlett thân yêu ạ. Anh đã báo trước với em rằng ngọn tháp nầy bị một kẻ chết treo ám đấy!
– Ối chà chà! Làm gì có ma quỷ! Hơn nữa ngựa mình đã không đến gần nếu ngọn tháp bị ma ám… Ai cũng biết loài vật rất nhậy cảm với những chuyện ấy.
Colum bật cười.
Scarlett đặt một tay lên tường. Hàng bao thế kỷ mưa gió đã bào nhẵn bề mặt. Nàng cảm thấy dưới các ngón tay mình hơi ấm của mặt trời và cái lạnh của mưa gió. Một cảm giác thanh thản lạ thường tràn ngập trái tim nàng.
– Nó trông thật cổ kính, nàng nhận xét, dẫu biết lời mình không sao diễn tả nổi suy nghĩ của mình, nhưng chả sao.
– Nó đã sống sót, Colum đáp. Hệt như một thân cây đại thụ với những cội rễ sâu xa, vươn đến tận lòng đất.
“Những cội rễ sâu xa”. Nàng đã nghe những điều nầy ở đâu rồi nhỉ! À phải rồi, tất nhiên. Rhett cũng đã nói như thế về Charleston. Scarlett mỉm cười, mơ màng mân mê những viên đá cổ. Nàng sẽ có vài chuyện để nói với chàng về những cội rễ sâu xa. Chỉ cần nàng lại mở miệng huênh hoang về sự cổ kính của Charleston!
Dinh thự của Ballyhara cũng được xây bằng đá, nhưng đó là đá hoa cương được đẽo gọt thành từng tảng chữ nhật ngay ngắn, nó gây cho ta một cảm giác bền vững, không thể phá huỷ; những cửa kính vỡ nát và lớp sơn tróc lở của các thanh nẹp cửa sổ trông thật bất nhã trước vẻ vĩnh cửu nguyên vẹn của đá. Đó là một toà nhà đồ sộ mà chỉ riêng hai cánh của nó đã lớn hơn mọi toà nhà mà Scarlett từng biết. Nó được xây để trường tồn với thời gian, nàng thầm nghĩ. Thật đáng tiếc không ai sống ở đó cả, thật lãng phí biết bao.
– Thế Huân tước của Ballyhara không có con cái sao? – Nàng hỏi Colum.
– Không! – Anh trông thật hả hê – Hắn có một người vợ theo như anh được biết. Bà nầy đã bỏ về với gia đình mình, hoặc đã đến bệnh viện tâm thần gì đó. Người ta đồn rằng bà ta đã hoá điên.
Scarlett cảm thấy không nên quá ca ngợi toà nhà trước mặt Colum.
– Ta vào xem làng đi, nàng đề nghị.
Đúng hơn đó là cả một thành phố nhỏ, và ở đó không một tấm kính nào còn nguyên vẹn, không một cánh cửa nào không bị đâm thủng. Đó là thành phố bị huỷ hoại, bị cướp phá, khiến Scarlett thấy rợn người. Sự hằn thù đã gây ra hậu quả như thế đó.
– Đường nào về nhà tốt nhất đây? – Nàng hỏi Colum.