Khi bà Charlotte Montague vừa đi, Scarlett vội vàng theo hành lang đến phòng bà Fitzpatrick. Đối với nàng, điều quan trọng không phải là cho người gọi bà lên, mà là việc nàng phải nói với một ai đó.
Bà Fitz ra khỏi phòng trước khi Scarlett gõ cửa.
– Bà O Hara, đáng lẽ bà phải cho người gọi tôi lên, bà nhỏ giọng.
– Tôi biết, tôi biết, nhưng như vậy mất thời giờ, và điều tôi muốn nói với bà không thể đợi được! Scarlett sôi nổi nói.
Cái nhìn lạnh lùng của bà Fitzpatrick làm nàng trấn tĩnh lại ngay.
– Dù sao cũng phải thế thôi! Bà nói. Các cô hầu trong bếp sẽ nghe mọi điều bà nói và sẽ nhắc lại với nhau, lại còn tô vẽ thêm ra nữa! Đi với tôi, chậm chậm hãy theo sau tôi.
Scarlett có cảm giác như đứa trẻ bị mắng, phải tuân theo lời bà.
Bà Fitzpatrick dừng lại ở giữa hành lang, phía trên nhà bếp. Scarlett bắt chước bà, cố nén bồn chồn, trong khi bà nói về những cải tiến mà người ta đang thực hiện ở đây hoặc ở đó. Lan can khá rộng có thể ngồi được, nàng mơ hồ nghĩ, nhưng nàng vẫn đứng thẳng, cũng như bà Fitzpatrick. Nàng nhìn xuống phía dưới, những cô hầu đang có vẻ bận túi bụi.
Bà Fitzpatrick đi chậm, nhưng vẫn bước tới. Hai người lên đến nhà trên, Scarlett bắt đầu nói ngay khi cánh cửa phía hành lang vừa khép lại.
– Tất nhiên là rất buồn cười, nàng kết luận sau khi thuật lại điều mà Montague nói với mình. Tôi đã nói với bà ấy: tôi là một phụ nữ Ireland, tôi không muốn được người Anh ve vãn. – Scarlett nói rất nhanh, mặt ửng đỏ.
– Bà nói đúng, bà O Hara ạ. Cứ xét qua lời của bà ta thì bà ta không hơn gì một con ăn cắp.
Lời chỉ trích như thế làm cho Scarlett nín lặng. Nàng không muốn tiết lộ câu đáp lại cuối cùng của bà Montague.
“Tính chất Ireland là một trong những tính cách lạ lùng nhất của bà. Hôm nay thì nghèo hèn, ngày mai thì lại sang trọng. Bà có thể chọn cái nầy, hay cái kia; điều đó chỉ càng bổ sung cho huyền thoại về bà mà thôi. Bà hãy viết thư cho tôi khi bà quyết định”.
***
Colum giận đỏ mặt khi Rosaleen Fitzpatrick nói với anh về bà khách:
– Tại sao Scarlett để cho mụ ta vào! Anh giận dữ nạt nộ.
Rosaleen tìm cách xoa dịu anh:
– Colum, cô ấy có một mình! Cô ấy không có bạn bè ngoài chúng ta ra. Đối với người mẹ, đứa con là cả một thế giới, nàng không phải là người bạn đường. Tôi cho rằng cô ấy giao du với giới thượng lưu có thể có lợi cho cô ấy. Còn đối với chúng ta, anh nghĩ về những chuyện ấy quá ít. Cái quán trọ Kennedy đã gần hoàn thành rồi. Sắp tới, sẽ có nhiều người lui tới. Nếu có thêm những khách khác đi lại nữa thì sẽ không phải là quá nhiều để đánh lừa bọn Anh… Tôi chỉ thoáng nhìn là có thể đánh giá được cái bà Montague ấy. Bà ta vừa lạnh lùng lại vừa tham tiền. Anh có nhớ điều tôi nói với anh không: Điều đầu tiên bà ta dạy cho Scarlett là Ngôi Nhà Lớn phải được trang hoàng và làm mới lại. Bà ta sẽ chơi thủ đoạn với tất cả những người cung cấp hàng, mà Scarlett có thể tự cho phép làm điều đó một cách rộng rãi. Và, mỗi ngày trong năm sẽ có nhiều người lạ từ Trim đến Ballihara với những bức tranh, vẽ tấm nhung lụa, những đồ mốt kiểu Pháp. Như vậy sẽ không ai chú ý đến việc có thêm một hay hai người cùng di chuyển trên con đường ấy. Đã có người hỏi dò về cô thiếu phụ xinh đẹp goá chồng người Mỹ rồi đấy. Tại sao cô ấy không tìm một tấm chồng! Tôi nghĩ tốt nhất là đưa cô ấy đi dự những buổi dạ hội của người Anh. Nếu không, bọn sĩ quan Anh sẽ vác xác đến tận đây để ve vãn cô ấy.
Colum hứa sẽ “suy nghĩ về vấn đề đó”. Đêm ấy, anh ra khỏi nhà, đỉ lang thang hàng dặm đường, cân nhắc xem làm thế nào thì tốt hơn cho Scarlett, cho tổ chức Fenian, và anh tự hỏi có thể làm gì để hoà giải cả hai bên. Thời gian gần đây, anh lao vào công việc nên có phần nào không đủ sáng suốt. Người ta báo cho anh rằng một số người không còn nhiệt tình tham gia phong trào Fenian. Hai vụ được mùa liên tiếp làm cho mọi người thấy thoải mái sung túc, và ai cũng sợ sự mạo hiểm. Ngoài ra, những người trong tổ chức Fenian thâm nhập được vào hàng ngũ cảnh sát đã nghe tin đồn là có một tên mật thám len được vào trong tổ chức. Đó là mối nguy hiểm thường xuyên đối với những nhóm hoạt động bí mật. Trong quá khứ, đã hai lần cuộc nổi dậy bị đập tan vì có kẻ phản bội. Nhưng kẻ ấy chuẩn bị rất tỉ mỉ, rất kiên trì. Mọi biện pháp đề phòng đã được áp dụng.
Không được phó mặc bất cứ việc gì cho may rủi. Bây giờ không được để cho sự việc diễn biến xấu đi. Họ đang tiến dần đến mục tiêu. Những người lãnh đạo cao nhất dự kiến sẽ phát hiệu lệnh hành động trong mùa đông tới khi ba phần tư quân đồn trú Anh rời xa doanh trại, lo đi săn chồn. Và mệnh lệnh từ trên là: án binh bất động cho đến lúc phát hiện ra tên mật thám và vô hiệu hoá nó. Tình trạng chờ đợi làm anh mòn mỏi.
Đến sáng, anh đi về phía Toà nhà lớn, xuyên qua sương mù buổi sớm màu hồng, mở khoá bước vào và đến phòng của Rosaleen.
– Tôi nghĩ là chị nói đúng, anh nói. Điều đó đáng cho tôi được thưởng một tách trà chứ!
Đến xế chiều hôm đó, bà Fitzpatrick đến với Scarlett, thú nhận là bà đã tỏ ra quá vội vàng và có thành kiến. Bà khẩn khoản khuyên nàng nên tạo nếp sinh hoạt thượng lưu quanh nàng với sự giúp đỡ của Charlotte Montague.
– Tôi đã cho đó là một ý kiến phi lý, – Scarlett trả lời. – Tôi bận lắm.
Khi Rosaleen báo lại tin đó cho Colum, anh phá lên cười. Bà ra khỏi nhà anh, đóng sập cửa lại.
***
Ngày mùa, ngày lễ tiếp theo đó, những ngày thu vàng rực, lá bắt đầu rụng. Scarlett vui khi thấy vụ mùa bội thu và nàng bật khóc khi thời vụ trên cánh đồng chấm dứt. Tháng chín là tháng trả tiền thuê đất hàng quí và nàng biết là còn tồn đọng một số việc với các chủ trại. Đóng vai trò Bà O Hara thật là tuyệt vời.
Nàng tổ chức một buổi tiếp tân trọng thể vào dịp Cat tròn hai tuổi. Tất cả trẻ con dưới mười tuổi ở Ballihara chơi đùa ở các phòng tầng trệt, ăn kem lạnh – chắc là chúng được ăn lần đầu tiên trong đời – món barm brack chứa bao hương vị linh tinh bên trong, lại thêm quả lý chua và nho khô. Mỗi đứa khi ra về lại có một gói đựng hai đồng xu mới tinh. Scarlett cho chúng về nhà sớm vì chuyện mê tín chung quanh Halloween. Rồi nàng đưa Cat lên lầu, để bé ngủ trưa.
– Con có thích sinh nhật của mình không, cưng!
Có Cat cười đáp và lim dim.
– Để con ngủ, mẹ ạ.
– Mẹ biết rồi, thiên thần của mẹ. Giờ ngủ trưa của con đã qua lâu rồi. Đến đây… lên giường đi… con có thế ngủ trên chiếc giường lớn của mẹ, vì hôm nay là ngày sinh nhật vĩ đại.
Scarlett vừa đặt Cat nằm xuống thì bé đã chồm dậy.
– Quà của Cat đâu!
– Mẹ sẽ đi lấy cho con, cưng ạ.
Scarlett đem đến cho bé con búp bê lớn bằng sứ lấy trong cái hộp mà bé đã bỏ vào.
Cat lắc đầu.
– Không – cái khác cơ!
Rồi bé nằm sấp, trườn dưới chăn lông và rơi bịch xuống đất. Sau đó, bé bắt đầu bò ở dưới giường, rồi bé quay trở lại với một con mèo vằn lông vàng.
– Cat, trời ơi, ở đâu ra thế! Đưa cho mẹ, nó cào con bây giờ!
– Rồi mẹ lại trả cho con chứ!
– Tất nhiên, nếu con muốn – Nhưng, cưng của mẹ, đó là một con mèo hoang, nó không muốn ở trong nhà đâu!
– Nó yêu con lắm!
Scarlett không đôi co nữa. Mèo không cào bé, và nhất là bé thấy vui thích. Nếu giữ con mèo lại, có thể xảy ra điều gì không tốt chăng! Nàng đặt cả bé lẫn mèo vào giường mình. Có lẽ rồi mình sẽ ngủ chung với cả trăm con rận thôi, nhưng ngày lễ sinh nhật phải là ngày lễ sinh nhật.
Cat nằm khoanh trong mấy cái gối, đôi mắt đang lim dim, chợt mở to, Bao giờ Annie đem sữa cho con, bạn con có thể uống sữa, bé nói.
Rồi bé khép mắt và ngủ say.
Anme gõ cửa và bước vào, đem một tách sữa ấm. Khi trở lại nhà bếp, cô ta nói với những người khác rằng Bà O Hara cứ cười mãi, không hiểu tại sao. Cô ta nói về mèo và sữa. Mary Moran cho biết theo ý cố thì hợp lẽ nhất đứa bé gái ấy nên có một tên thánh cho tử tế để các thánh sẽ phù hộ cho bé. Bọn hầu gái và bà đầu bếp làm dấu thánh giá ba lần.
Bà Fitzpatrick theo dõi mọi chuyện từ ngoài hành lang. Bà cũng làm dấu thánh giá và thầm đọc Kinh. Cat sẽ mau lớn để không ai phải giữ bé suốt ngày. Ai cũng sợ những đứa bé như Cat: và hễ cái gì làm người ta sợ là người ta thường cố gắng huỷ diệt cái đó.
Ở Ballihara, những bà mẹ tắm cho con suốt ngày bằng nước ướp rễ cây thánh. Thông thường đó là cách bảo vệ trẻ con chống lại các mụ phù thuỷ hoặc ma quái.
***
Đó là hiệu quả của tiếng tù và. Scarlett làm vài động tác tập dượt cho con Bán Nguyệt khi cả hai đều nghe tiếng tù và, kèm theo tiếng con chó săn sủa. Gần đâu đó trên khắp cánh đồng, người ta đi săn. Theo nàng biết, thì Rhett có thể có trong số ấy. Trên đường đến Ballihara, nàng đã cho ngựa nhảy qua ba cái hố hàng rào, nhưng cũng không giống như thế. Nàng viết thư cho Charlotte Montague ngay hôm sau.
Hai tuần lễ sau, hai chiếc xe chở nặng đã lên đường đến chỗ nàng. Bàn ghế cho nhà bà Montague đã đến. Bà đi theo sau, với bộ cánh rất thanh lịch, cùng với cô hầu.
Bà chỉ huy việc sắp xếp bàn ghế trong phòng ngủ và phòng khách bên cạnh phòng Scarlett, rồi bà tách ra khỏi cô hầu để canh chừng việc bốc dỡ đồ đạc.
– Chúng ta sẽ bắt đầu một cách tốt đẹp! Bà ta nói với Scarlett.
– Có lẽ tốt nhất là ta đừng ở đây – Scarlett cằn nhằn. – Tất cả điều gì ta có thể làm được là ký các tờ séc với số tiền khủng khiếp.
Nàng nói với Ochras, con mèo của Cat. Tên đó – có nghĩa là “đói khát” theo tiếng Gaélique – do chị bếp đặt cho nó trong một lúc phẫn nộ. Ochars không hiểu Scarlett, nhưng nàng chẳng có ai để trò chuyện.
Charlotte Montague và bà Fitzpatrick ít khi hỏi ý kiến nàng bất cứ về chuyện gì. Cả hai đều biết phải làm gì và không nên làm gì cho Toà nhà lớn.
Điều đó không làm nàng bận tâm. Trong phần lớn cuộc đời nàng, nàng chưa bao giờ thật sự quan tâm đến những ngôi nhà nàng ở. Tara là Tara, nhà của dì Pittypat là của dì Pittypat, dù nàng có đến phân nửa quyền sở hữu trong ngôi nhà đó. Scarlett chỉ bận tâm đến ngôi nhà mà Rhett xây dựng cho nàng. Nàng đã mua loại bàn ghế thời thượng nhất, đắt nhất, với niềm vui thú lớn nhất, vì điều đó chứng tỏ nàng giàu có đến mức nào. Bản thân ngôi nhà không đem đến cho nàng niềm vui, nàng ít chú ý đến điều đó – cũng như lúc nầy đây nàng thật sự không hề để tâm đến Toà nhà lớn của Ballihara. Charlotte Montague nói với nàng ngôi nhà ấy kiến trúc theo kiểu Palladio, được xây dựng từ thế kỷ 18: có trời chứng giám cho họ, nào có gì quan trọng đâu!
Điều có ý nghĩa đối với Scarlett là đất đai, đem đến cho nàng sự giàu có và những vụ mùa, và thành phố, đem đến cho nàng những căn hộ cho thuê, những tiện lợi do thành phố cung ứng, và không ai, kể cả Rhett cũng không thể có quyền sở hữu cả một thành phố bao giờ.
Tuy nhiên, nàng hiểu rất rõ rằng một khi chấp nhận những cuộc tiếp tân thì phải trả lễ thôi, và nàng không thể mời khách đến một chỗ ở mà chỉ có trang trí bàn ghế ở hai căn phòng. Có lẽ nàng cảm thấy sung sướng vì có bà Charlotte Montague chăm lo việc cải tạo ngôi nhà.
Còn bản thân nàng thì có biết bao chuyện thú vị khác phải làm. Scarlett luôn tỏ ra kiên quyết đối với những việc mà nàng cho là quan trọng. Đối với nàng, Cat phải có một phòng cạnh phòng của nàng, không phải là nhà trẻ ở xa tít với bà bảo mẫu; và Scarlett giữ sổ sách kế toán, không giao phó cho bất cứ người quản lý nào.
Ngoài những chuyện đó ra, Charlotte và bà Fitz có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. Tổn phí trang trí nhà cửa làm nàng phát run lên, nhưng nàng đã chấp nhận giao phó cho bà Montague, và lúc nầy lùi lại thì đã quá muộn một khi đã thoả thuận xong. Hơn nữa, tiền bạc bây giờ đối với nàng không còn quan trong như ngày xưa nữa. – Scarlett lánh mình trong văn phòng của nàng, và Cat chơi trò làm bếp ở giang sơn của nó, trong lúc đó những người thợ tiến hành những công việc rất tốn kém, ồn ào và bẩn thỉu trong nhiều tháng. Ít ra, nàng cần chăm sóc trang trại của nàng và những nghĩa vụ khác, vì nàng là Bà O Hara. Và thế là nàng mua ngựa.
– Tôi chẳng biết gì trong lĩnh vực ấy cả. Charlotte Montague nói nàng như vậy, và Scarlett đã trợn mắt lên vì kinh ngạc.
Nàng cứ tưởng chắc có gì trên đời nầy mà Charlotte lại không thông thạo.
– Bà cần ít nhất là bốn con ngựa cưỡi, và sáu con ngựa săn. Có khi tốt nhất là tám con. Bà phải hỏi Sir John Morland giúp bà chọn ngựa.
– Đến sáu con ngựa săn ư? Scarlett kêu lên. Chúa ơi, Charlotte, như vậy phải tốn năm trăm bảng. Bà có điên không đấy!
Nhưng rồi nàng cũng dịu giọng, vì biết rằng có gào thét với Charlotte Montague cũng chỉ mất thì giờ! Không có gì làm cho người phụ nữ ấy lay chuyển được.
– Tôi sẽ giảng cho bà một chút về vấn đề ngựa, nàng tiếp tục với giọng dịu dàng mà cay độc. Ngựa cặp thì chỉ cần cho việc cày ruộng hoặc kéo xe.
Nàng đã xuống nước. Như thường lệ. Chính vì lẽ đó, mình không muốn tranh luận về việc John Morland có thể giúp mình điều gì, nàng tự nhủ. Nhưng Scarlett biết rõ nàng có lý do cần thiết gặp lại Bart. Có thể anh ta có tin tức của Rhett. Ngay ngày mai nàng sẽ lấy ngựa đi Dunsany. Morland rất vui mừng vì lời thỉnh cầu của nàng. Chắc chắn anh sẽ giúp nàng tìm ra những con ngựa săn Ireland tốt nhất!
– Anh có tin tức gì về người bạn Mỹ của anh không. Bart! – Nàng hỏi với giọng cố làm ra vẻ thản nhiên; nàng đã phải đợi khá lâu mới có thể đặt câu hỏi ấy.
John Morland có thể nói rất lâu về ngựa, ngang với cả hai người Gerald O Hara và Béatrice Tarleton nhập lại.
– Chị muốn nói về Rhett à!
Tim Scarlett tưởng muốn vỡ khi nàng nghe cái tên ấy.
– Vâng, Bart nói tiếp, anh ấy nghiêm túc trong chuyện thư từ hơn tôi nhiều.
Anh chỉ tay về phía bàn giấy chất đầy một chồng thư và hoá đơn.
Cuối cùng anh ấy có biết được chuyện của mình không nhỉ!
Bart nhún vai, và quay lưng về phía bàn viết.
– Anh ấy quyết định đưa con ngựa cái tơ mua của tôi tham dự cuộc đua của Charleston. Tôi đã nói với anh con ngựa ấy được nuôi dưỡng dành cho các cuộc đua vượt rào chứ không phải chạy đường trường, nhưng anh lại tin chắc là tốc độ của nó sẽ bù đắp được. Tôi e anh ấy thất bại. Ba bốn năm sau thì anh ấy có cơ may thành công, nhưng nếu người ta nhớ rằng mẹ anh ấy xuất thân từ…
Scarlett không còn nghe gì nữa, John Morland có thể nói về quan hệ bà con ngược lên đến tận thời kỳ Đại hồng thuỷ. Sao anh ta lại không nói cho nàng nghe những gì nàng muốn biết nhỉ! Rhett có hạnh phúc không! Chàng có khi nào nhắc đến nàng không?
Rồi nàng nhìn gương mặt sôi nổi của người hầu tước trẻ tuổi và tha thứ cho anh. Đó là một trong những con người dễ mến nhất trên đời – theo cách của anh ấy, một cách khá kỳ quặc.
Cuộc sống của John Morland hoàn toàn xoay quanh đàn ngựa. Đó là một nghiệp chủ có lương tâm, chăm lo khá chu đáo lãnh địa và nông trại của mình. Nhưng những chuồng ngựa, những khoảng đất dùng để quần ngựa đua mới là niềm say mê thật sự đối với anh, tiếp theo là thú săn chồn mùa đông, trên lưng những con ngựa săn tuyệt đẹp mà anh dành riêng cho mình.
Có thể là đó là một cách bù đắp cho cái bi kịch lãng mạn của Bart: lòng tôn thờ tuyệt đối của anh đối với người con gái đã chiếm lĩnh quả tim anh lúc cả hai còn ở tuổi thiếu niên. Nàng tên là Grace Hastings và đã thành hôn với Julian Hastings cách đây gần 20 năm.
John Morland và Scarlett đều có chung cảnh ngộ là có một mối tình tuyệt vọng. Charlotte đã nói với nàng rằng “mọi người ở Ireland” đều biết chuyện: John dựa vào sự bảo trợ của những bà kiếm chồng vì anh ấy không có tiền. Tước hiệu và tài sản của anh đã cũ rồi, rất cũ, nhưng anh lại không có lợi tức, trừ tiền cho thuê đất trên lãnh địa của anh, và anh dành dụm đến đồng bảng cuối cùng cho đàn ngựa. Đó là một con người rất có duyên, lại khá đãng trí, cao lớn, tóc vàng, mắt xám đầy nhiệt tình và linh hoạt và một nụ cười chan chứa dịu dàng, phản ánh tư chất tốt đẹp của anh. Với một người đã trải qua gần bốn mươi năm trong môi trường xã hội thượng lưu nước Anh, anh quả thật ngây thơ lạ thường!
Thỉnh thoảng một phụ nữ có tiền, như Bà đáng kính Louisa, yêu anh và theo đuổi anh, làm cho anh rất bực mình, và làm cho mọi người rất thích thú. Tính kỳ quặc của anh ngày càng đậm nét, thói đãng trí càng làm anh trở thành ngờ nghệch, áo gi-lê thường cài lầm cúc, nụ cười có khi không đúng lúc, và anh sắp xếp lại bộ sưu tập tranh của Georges Stubbs thường xuyên đến nỗi tường nhà anh lỗ chỗ vết đinh.
Scarlett chú ý đến một bức chân dung rất đẹp của Eclipse, con ngựa nổi tiếng, được đặt vững vàng trên một chồng sách. Điều đó chẳng quan hệ gì với nàng cả; nàng muốn nghe nói chuyện về Rhett. Minh sẽ hỏi, nàng tự nhủ. Dù sao đi nữa. Bart cũng không nhớ gì được đâu Rhett có nói điều gì về tôi không?
Morland đang mải nghĩ đến những thế hệ trước của con ngựa cái nòi. Anh nháy mắt, rồi chợt nhớ ra câu hỏi.
– À có anh ấy muốn biết xem cô có ý định bán con Bán Nguyệt không! Anh ấy nghĩ đến việc lại tổ chức một trường đua ngựa Dummore mới nữa. Anh muốn tôi chú ý đến tất cả những con ngựa giống như con Bán Nguyệt.
– Như vậy, anh ấy sẽ trở lại để mua ngựa chứ!
Scarlett hỏi mà lòng thầm mong Bart nói có.
Nhưng câu trả lời của anh làm nàng vô cùng thất vọng.
– Không, anh ấy tin và giao hết cho tôi. Vợ anh ấy sắp sinh, cô thấy đấy, và anh ấy không muốn xa vợ. Nhưng bây giờ tôi giúp cô tìm ra những viên ngọc quý hiếm thì tôi không thể còn giúp anh ấy được, dù thế nào đi nữa.
– Tôi sẽ viết thư cho anh ấy biết, khi tôi có thì giờ.
Scarlett rụng rời về những điều Bart nói đền nỗi anh phải lắc mạnh tay nàng để nàng chú ý. Khi nào nàng có thể đi săn được! Anh hỏi.
– Ngay hôm nay, nàng đáp.
Suốt mùa đông, nàng theo John Morland hết cuộc săn nầy đến cuộc săn khác trong quận, để xem ngựa săn người ta đem đến bán. Không phải dễ tìm những con ngựa ưng ý, vì nàng đòi hỏi con vật cũng phải dũng cảm như nàng. Nàng cưỡi ngựa như bị quỷ ám, và cưỡi ngựa là để giúp nàng không nghĩ đến việc Rhett có thể làm cha một đứa bé khác, ngoài Cat.
Khi ở nhà, nàng cố sức chăm chút và âu yếm đứa con gái nhỏ. Như thường lệ, Cat coi khinh sự mơn trớn, vuốt ve. Nhưng bé lại có thể ngồi nghe mẹ kể chuyện về những con ngựa chừng nào mẹ nó còn có thể kể được.
Đến tháng hai, Scarlett lại xới nắm đất đầu tiên cùng với niềm phấn khích vui sướng như những năm trước.
Nàng đã có thể bỏ Rhett lại trong quá khứ xa xăm và ít khi nghĩ đến chàng.
Đây là một năm mới đầy hứa hẹn. Dẫu Charlotte và bà Fizpatrik chưa hoàn tất mọi công việc cho Toà nhà lớn, nàng vẫn có thể tổ chức tiếp tân. Kathleen vắng mặt cùng với cả gia đình. Pegeen làm cho nàng khó chịu Về cuộc thăm viếng đến nỗi nàng hầu như không đến thăm mấy người anh em họ nữa.
– Điều đó có thể chờ đợi, phải vậy thôi. Cần phải trồng trọt nữa chứ!
***
Đến tháng sáu, Scarlett trải qua một ngày dài mệt lả để bà thợ may, do Charlotte đưa từ Dublin đến lấy số đo của nàng. Bà Sims tỏ ra rất khe khắt; Scarlett phải giơ tay lên, đưa ra phía trước, sang bên hông, giữ một tay, hạ tay kia xuống, đưa một tay ra trước, một tay ra sau, làm mọi tư thế tưởng tượng, không kể những tư thế mà nàng không dám nghĩ đến. Điều đó kéo dài hàng giờ.
Màn diễn lại bắt đầu với bộ ngồi, rồi tất cả động tác của điệu nhảy quadrille, điệu valse, điệu cotillon.
– Cái duy nhất mà bà ta không đo là tấm vải liệm của tôi Scarlett rên rỉ.
Charlotte Montague mỉm cười hiếm hoi:
– Bà ta chắc đã đo rồi mà cô không biết đấy. Daisy Sims làm việc rất có phương pháp.
– Tôi không thể chấp nhận một con người đáng sợ như vậy lại có tên là Daisy!
– Đừng gọi bà ấy như thế, nếu bà ấy không tự đề nghị không ai có quyền tỏ ra quá thân mật với một bà công tước. Bà ấy là người giỏi nhất trong gia tộc của bà, và không ai dám làm bà phật ý.
– Bà cũng gọi bà ấy là Daisy đấy thôi.
– Tôi cũng là người tốt nhất trong gia tộc tôi.
Scarlett phá lên cười. Nàng thích Charlotte Montague và kính trọng bà. Dẫu người ta không thể nói bà là một người bạn dễ sống chung.
Nàng mặc lại bộ quần áo nông dân và ăn xúp – Charlotte nhắc nàng nên nói “dùng bữa tối” – trước khi bước ra khỏi nhà, đi lên phía đồi gần Knightsbrook để xem đốt lửa ngày lễ thánh Jean. Vừa nhảy theo điệu nhạc quen thuộc của đàn violon, điệu kèn, cả điệu bodhran của Colum, nàng nghĩ vận may đã đến với nàng. Nếu điều Charlotte hứa trở thành sự thật, nàng sẽ có cùng lúc: cả người Ireland và người Anh. Anh Bart tội nghiệp, nàng nhớ lại, anh không phải là khách mời dự buổi đốt lửa ngày lễ Thánh Jean ở lãnh địa của mình.
Scarlett lại nghĩ về tài sản to lớn của nàng khi nàng chủ toạ bữa tiệc ăn mừng mùa gặt. Ballihara một lần nữa lại cho hầu bao mỗi người rủng rỉnh tiền. Mọi người ở Ballihara đều ăn mừng cái may mắn của chính mình.
Trừ Colum, Scarlett chú ý điều đó. Anh ấy hầu như không ngủ được suốt cả tuần. Nàng muốn hỏi anh xem có điều gì không ổn, nhưng anh tỏ ra cáu gắt với nàng từ nhiều ngày nay. Và theo lời bà Fitz, hầu như anh không bước chân đến quán rượu.
Nàng sẽ không để cho nỗi buồn ấy làm hỏng nguồn vui của nàng. Hơn nữa, mùa đi săn sắp bắt đầu trong vài ngày nữa, và bộ quần áo đi ngựa của nàng là một trong những tác phẩm đem đến niềm hân hoan chưa từng có cho nàng. Bà Sims đúng là một con người như bà Charlotte đã nói.
***
– Nếu cô đã sẵn sàng rồi thì chúng ta đi xem một vòng, Charlotte Montague nói.
Scarlett đặt tách xuống bàn, lòng bồn chồn hơn là nàng tưởng.
– Bà rất dễ mến, Charlotte ạ, khi tôi nhớ lại rằng các cửa, trừ cánh cửa ở phòng tôi, đều đã khoá chặt gần một năm nầy.
Scarlett cố làm mặt nghiêm, nhưng không ngờ rằng người đối thoại của nàng rất tinh tế, khó có thể bị lừa.
– Tôi sẽ đi tìm Cat để cháu cùng đi với chúng ta, nàng nói tiếp.
– Nếu cô muốn, Scarlett ạ, nhưng cháu bé đã nhìn thấy tất cả trong quá trình hoàn thành công việc. Thật là một cháu bé đáng chú ý, luôn luôn xuất hiện ngay khi một cánh cửa hoặc một cửa sổ để mở. Những bác thợ sơn rất sợ khi thấy cháu vắt vẻo trên giàn giáo.
– Đừng kể cho tôi nghe những chuyện như thế, tôi dễ xúc động lắm. Con khỉ con, nó leo trèo khắp nơi.
Scarlett đi tìm Cat, gọi nó, nhưng nó biến đâu mất.
Đôi khi – như lúc nầy chẳng hạn – tính độc lập của bé làm nàng rất khó chịu. Vào lúc bình thường, nàng lại tỏ ra tự hào về điều đó.
– Cháu sẽ đến với chúng ta nếu nó thích, cuối cùng nàng nói! Thôi ta đi! Tôi nôn nóng muốn thấy mọi thứ.
Thừa nhận đến mức ấy là tốt: nàng không lừa dối ai.
Dẫn đường, Charlotte đưa nàng lên tầng trên, dọc theo hành lang có các phòng dành cho bạn bè, rồi đưa nàng xuống tầng dưới, Scarlett cố gọi là tầng một – chứ không phải là tầng hai, theo cách gọi của người Mỹ – rồi bà Montague đưa nàng đến cuối khu nhà, xa hẳn những căn phòng nàng đang ở.
– Đây là phòng của cô, phòng tắm, phòng khách, phòng vệ sinh, phòng của Cat, phòng chơi của cháu, phòng cho trẻ nhỏ.
Cánh cửa rộng mở để Charlotte trình bày hết kết quả những nỗ lực của bà. Scarlett rất thích màu xanh nhạt, và bàn ghế màu vàng rực, đầy nữ tính, về căn phòng của nàng, về dải trang trí trong phòng của Cat, về những con thú mà mỗi con gợi lên một mẫu tự. Ghế bàn cho trẻ nhỏ làm cho nàng vỗ tay thích thú. Sao nàng lại không nghĩ ra được điều ấy nhỉ! Có cả bộ đồ trà nhỏ xíu trên bàn của Cat, và một cái ghế cho trẻ con ở gần lò sưởi.
– Các phòng riêng của cô đều được trang trí theo kiểu Pháp, Charlotte nói. Thời vua Louis XVI, nếu điều ấy làm cô thích. Nó tượng trưng cho nét riêng của dòng họ Robillard. Còn đặc điểm của họ O Hara thì phảng phất trong nhiều phòng tiếp tân ở tầng trệt.
– Căn phòng duy nhất mà Scarlett thừa nhận có được tầm mức là căn phòng lát đá cẩm thạch. Nàng đẩy cửa bước đến lối vào phòng, rồi theo cầu thang rộng bằng đá bước lên tầng trên. Charlotte vội vàng dẫn nàng, mở toang những cánh cửa lớn, và đưa Scarlett vào phòng ăn.
– Chúa ơi! Nàng kêu lên, tôi có quen biết bao nhiêu người đâu! Mà làm sao ngồi hết các ghế bành nầy được!
– Cô sẽ quen biết thôi, Charlotte đáp.
– Bà dẫn nàng xuyên qua phòng, về phía cánh cửa khác.
– Đây là phòng dành cho bữa điểm tâm và cho buổi sáng. Cô cũng có thể ăn tối ở đây, nếu khách không đông lắm.
Bà đi qua những chỗ ấy, đến trước một cánh cửa khác.
Phòng khách lớn và phòng khiêu vũ, bà trịnh trọng thông báo. Tôi thú thật rất mãn nguyện về nó.
Một bức tường khá dài, có một loạt cửa và cửa sổ cách xa nhau, giữa có những tấm gương vàng mạ. Còn có những tấm gương khác ở trên ống lò sưởi dựng ở khoảng giữa bước tường đối diện. Tất cả đều đặt hơi nghiêng, đế không chỉ phản chiếu căn phòng mà cả trần nhà. Trần nhà được vẽ những cảnh tượng lấy từ những truyện cổ anh hùng trong lịch sử Ireland. Những lâu đài của các Hoàng đế, trên đồi Tara, trông giống như đền thờ La Mã. Scarlett trầm trồ thích thú.
– Ở tầng nầy, tất cả bàn ghế đều là sản phẩm Ireland, như vải – len và lanh- đồ đạc, gốm, thuỷ tinh, hầu như tất cả. Đây là nơi Bà O Hara sẽ là bà chủ. Cô đến đây, chỉ còn xem thư phòng nữa thôi!
Scarlett thích chiếc ghế bành và chiếc trường kỷ bọc da và nàng nhận thấy những cuốn sách đều đóng lại có gáy bọc da tạo nên một ấn tượng rất đẹp.
– Charlotte, bà đã hoàn thành một việc tuyệt vời, nàng nói thật lòng.
– Vâng, cũng không đến nỗi khó khăn như lúc đầu tôi lo ngại. Những người đã sống ở đây có lẽ đã xây dựng khu vườn theo kiểu Larcelot Brown. Chỉ cần cắt xén và tỉa lại các bụi cây. Khu vườn của nhà bếp sẽ sinh lợi vào năm sau, dù phải đợi đến hai năm để cho hàng cây leo mới mọc lại được. Chắc là người ta đã chặt sát đến giàn đỡ Scarlett không có chút khái niệm gì về điều Charlotte đang nói, hơn nữa điều đó cũng chẳng làm nàng quan tâm. Nàng chỉ cầu mong đơn giản rằng Gerald O Hara có thể nhìn thấy tấm trần của phòng khiêu vũ, và Ellen O Hara ngắm nhìn những bàn ghế trong phòng khách.
Charlotte mở thêm các cánh cửa khác.
– Chúng ta lại trở về phòng lớn. Một hoạt động xoay tròn rất tuyệt dành cho một kết cấu rộng lớn. Những nhà kiến trúc của thời kỳ Géorgie biết rõ những gì họ cần làm. Xin cô hãy đến gần cửa vào, cô Scarlett ạ.
Bà dìu nàng đi lên các bậc trên, mở ra một con đường vừa rải sỏi.
– Đây là đội ngũ nhân viên của bà, thưa Bà O Hara.
– Chúa ơi, Scarlett ấp úng.
Hai hàng người hầu mặc đồng phục đang đứng trước mặt nàng. Bên phải, bà Fitzpatrick đứng phía trước bà đầu bếp và những cô hầu một chút; bốn người làm bếp, hai người lo phòng khách, bốn người lo tầng trên, ba người ở xưởng chế biến sữa. Có cả một chị thợ giặt và ba người phụ việc.
– Bên trái, Scarlett thấy một người đàn ông dáng điệu kiêu kỳ, chắc là ông quản gia, tám người hầu, hai cậu con trai đứng nhấp nhổm, một người coi ngựa mà nàng đã biết và sáu người nữa, trong đó có năm người đàn ông, mà khi nhìn bàn tay lấm đất của họ, nàng đoán là những người làm vườn.
– Tôi phải ngồi một chút, nàng thì thầm.
– Trước hết, xin bà hãy mỉm cười và chúc mừng những người mới đến Ballihara. Charlotte nói với giọng chắc nịch.
Scarlett làm theo.
Khi quay trở vào trong, nàng trút bỏ vẻ nghiêm trang.
– Họ đều ăn mặc đẹp hơn tôi! Nàng vừa nói, vừa nhìn gương mặt thản nhiên của bà Montague. Charlotte, bà sẽ phá lên cười đấy, đừng tìm cách đánh lừa tôi; bà Fitzpatrick và bà chắc đã thích thú khi bày ra tất cả cái trò nầy đấy!
– Có thể ạ, bà thừa nhận bằng một nụ cười mỉm, điều mà Scarlett có thể đợi ở bà thay vì một chuỗi cười.
***
Scarlett mời tất cả mọi người ở Ballihara và Adamstown đến xem Toà nhà lớn đã được cải tạo. Trong phòng ăn, trên chiếc bàn dài, đã chất đầy thức giải khát. Nàng đi hết phòng nầy đến phòng khác, khuyến khích mọi người ăn uống, kéo họ đi xem trần nhà và các vị Hoàng đế. Charlotte Montague đứng bên chiếc cầu thang lớn, với vẻ mặt không tán thành. Scarlett làm như không trông thấy bà. Nàng cố gắng quên đi nỗi khó chịu của những người anh em họ và người làng, nhưng nửa giờ sau, nàng gần như muốn khóc.
– Điều đó trái với phong tục, bà O Hara ạ, bà Fitzpatrick lẩm bẩm, điều nầy chẳng có nghĩa gì với bà. Ở Ireland, không bao giờ một chủ trại được bước qua một nơi ở như ngôi nhà nầy! Chúng tôi là một dân tộc sống theo những quy tắc rất cổ xưa, và chúng tôi không có ý định thay đổi nó.
– Như tôi tưởng là những người Fenian muốn đảo lộn tất cả đấy chứ!
– Đúng như vậy, bà Fitz thở dài. Nhưng để trở lại những tập quán còn cũ kỹ hơn cả những quy tắc cấm một người nông dân bước chân đến đây, tôi muốn có dịp giải bày rõ hơn.
– Không cần đâu, bà Fitz. Tôi đã phạm một sai lầm thế thôi! Tôi sẽ không tái phạm nữa.
– Đó là sai lầm của một trái tim đại lượng. Phải hiểu điều ấy!
Scarlett gượng cười. Nhưng nàng rất lúng túng và bối rối. Tất cả các phòng trang hoàng theo kiểu Ireland nầy dùng để làm gì nếu như chính người Ireland lại cảm thấy khó chịu khi đứng ở đó! Và tại sao anh em họ của nàng lại xem nàng như khách lạ ngay trong chính ngôi nhà của nàng!
Sau khi mọi người đã về và những người hầu đã dọn dẹp phòng ăn, nàng một mình lang thang hết phòng đến phòng khác. Và rồi, điều đó lại đã làm nàng thích, cuối cùng nàng khẳng định. Mình yêu thích vô cùng. Nàng thầm nghĩ, nó còn đẹp hơn cả Dunmonre trước đây, cũng như mãi mãi sau nầy.
Nàng đứng lặng im giữa vầng hào quang của các vị Hoàng đế, và tưởng tượng Rhet đến với nàng, tràn đầy ngưỡng mộ và ham muốn. Để được thế, thì phải chờ đợi nhiều năm nữa khi Cat trưởng thành, và chàng sẽ đau khổ khi nghĩ rằng mình đã bỏ lỡ cơ hội để nhìn con gái mình lớn lên, để trở thành người thừa kế xinh đẹp của gia tộc O Hara.
Scarlett chạy về phía cầu thang, vội vàng trèo lên và băng người qua hành lang dẫn đến phòng Cat. “Chào mẹ”, bé nói trong lúc bé ngồi bên chiếc bàn nhỏ, cẩn thận rót sữa vào một cái tách dành cho con mèo vằn của bé. Con Ochras, ngồi ở giữa bàn, chăm chú nhìn bé.
– Mẹ ngồi đi, mẹ, Cat nói.
Scarlett làm theo, ngồi vào một chiếc ghế nhỏ. Giá như Rhett ở đây rồi cùng ngồi với chúng ta nhỉ. Nhưng chàng đã không ở đây, chàng sẽ không bao giờ ở đây và nàng đành phải chấp nhận điều đó. Chàng sẽ ở với đứa con khác, những đứa con khác – con của Anne, Scarlett cố cưỡng lại ý muốn ôm chặt Cat vào lòng.
– Tôi thích hai miếng đường, cô O Hara ạ, nàng nói.
***
Đêm hôm ấy Scarlett không sao ngủ được. Nàng ngồi giữa cái giường kiểu Pháp, sau khi cẩn thận ủ mình trong chăn lông bọc lụa để giữ ấm. Nhưng điều nàng muốn là cảm nhận được vòng tay của Rhett quanh người nàng, nghe giọng trầm ấm của chàng chế nhạo buổi tiếp khách thất bại của nàng, cho đến lúc nàng phải bật lên cười và nhìn nhận mình đã sai lầm.
Nàng muốn được an ủi sau thất bại của mình. Nàng mong muốn tình yêu, nỗi lo âu và sự thông cảm của một người lớn. Trái tim nàng đã biết yêu, đã tràn trề tình yêu, nhưng nàng không biết dùng trái tim ấy làm gì.
Rhett đã cản trở, chàng hãy cút đi! Sao nàng lại không thể yêu John Morland nhỉ! Anh ấy rất dễ thương, hấp dẫn, cùng đi với anh ấy Scarlett cảm thấy vui Nếu thật lòng nàng muốn anh, nàng không nghi ngờ là nàng có thể làm cho anh ấy quên hẳn cô Grace Hastings được.
Nhưng không phải vậy, và đó mới là vấn đề. Nàng không hề muốn ai khác ngoài Rhett! Không đúng đâu nàng nghĩ, giống như một đứa trẻ. Và cũng giống như một đứa trẻ, nàng thiếp đi, sau khi đã khóc sướt mướt.
Khi nàng thức giấc, nàng đã trấn tĩnh lại. Mọi người đều ghét buổi tối ấy, thế thì sao! Colum không ở lại quá mười phút, thế thì sao! Giờ đây, cơ ngơi đã xây dựng xong, Charlotte cũng đang tích cực giăng tơ, như một con nhện siêng năng và bà ấy có nhiều dự tính cho tương lai. Từ đây đến đó, thời gian rất phù hợp cho cuộc đi săn, và bà Sims đã may cho nàng một bộ quần áo đi ngựa rất hợp với nàng.