Thục Sơn Thiếu Niên

Q.3 - Chương 136 - Kẻ Đánh Lén

trước
tiếp

Cả nhóm ra khỏi rừng, trời đã tối hẳn, con đường thông lên Thục Sơn lăng viên phải vòng qua Vô Lượng phong, vì đi qua một khu rừng, nên tay mỗi đứa đều sáng rực ảo hỏa soi đường.

Đường Mật vô tình phát hiện Trương Úy gọi ảo hỏa nhuần nhuyễn hơn bình thường nhiều, hỏi: “Đầu to, sao giờ thi triển pháp thuật nhuyễn thế?”

Trương Úy cười: “Ta cũng phát hiện, tựa hồ qua lần ở Thiên âm lâm, sức mạnh của Trầm Địch tan mất.”

“A, chúc mừng ngươi. Hồn thú của Chỉ Vi cũng gọi được, lần này ba chúng ta có thể chính đại quang minh qua được kỳ điện thí thứ tư.” Đường Mật vui vẻ.

“Gì hả, trước đây chúng ta không chính đại quang minh hả?” Bạch Chỉ Vi đi bên cạnh phản kích.

Trương Úy cùng Đường Mật mỉm cười, Đường Mật bảo: “Đúng rồi, Bạch đại tiểu thư đã nói chính đại quang minh thì ai dám bảo không?” Mấy thiếu niên đều mỉm cười.

Thục Sơn lăng viên không có tường bao mà là vạt rừng thủy sam lớn nằm phía sau Vô Lượng phong, cây nào cũng là cổ thụ ngàn năm, đám lá xanh biếc hình lông vũ đan vào nhau dày khít, dù đi vào giữa ban ngày cũng thấy tối om như ban đêm. Gió núi lướt qua rít lên lanh lảnh kỳ dị hồi lâu không tan, như khúc hát bi thương của vong hồn.

Khu rừng này là cấm địa của Thục Sơn, lúc các thiếu niên đưa tang cũng chưa từng đặt chân vào, giờ ban đêm vào đây, dù gan mật lớn đến đâu cũng không khỏi sợ. Đội ngũ vốn sắp thành hàng bất giác sít lại, ai nấy thở thật khẽ, tay áo chạm nhau cũng thấy yên tâm hơn.

Ở trong rừng thường nhìn thấy những ngôi mộ đá nhỏ, nơi các bậc tiên hiền của Thục Sơn an nghỉ, đến giữa rừng là lăng mộ Vương Lẫm. Ngôi mộ hình bán nguyệt này lớn hơn mộ thường hai lần, không phải kiến trúc gì hùng vĩ mà xây từ đá trắng, ánh lên lấp lánh dưới màn đêm, ẩn dưới màu trắng là vân đỏ, xem ra thuộc hàng hi hữu.

Đường Mật tuân theo phuong pháp ra vào mộ trong di tín, đi một vòng quanh mộ, đánh mạnh lên một vài khối đá, bức tường phía nam từ từ lún xuống, lộ ra dãy bậc thang dẫn xuống lòng đất. Nó dẫn đồng bạn đi xuống mộ thất, giờ nó tương đối hiểu biết cơ quan thuật, cộng thêm chỉ dẫn trong di tín nên đi từ cửa xuống lòng mộ không hề phí sức, chừng một tuần trà sau, mấy đứa đến trước quan tài đá, bên trái quan tài có một giá đèn, đĩa đèn đã quay về chỗ cũ, treo ở trên đó.

Không chỉ chúng nhân thấy xuống đây quá dễ dàng mà Đường Mật cũng lấy làm may mắn vì đã lấy theo di tín của Mục Hiển, lúc đó nó không hiểu lấy đi có tác dụng gì nhưng trong lòng cho là quan trọng nên cứ lấy đi. Nó nhìn quan tài đến xuất thần, không hiểu vì sao đến thế giới này lại thường vô cớ nảy sinh cảm giác khi đến nời nào đó hoặc thấy vật gì đó quan trọng, có phải việc này liên quan đến quá trình nó đến thế giới này?

Mộ Dung Phỉ thấy nó đang ngẩn ra liền hỏi: “Đường Mật, cô nương thấy kỳ quái hả, vì sao lăng mộ này không có pháp thuật bảo vệ?”

Đường Mật tỉnh lại, nghĩ đến việc này liền hỏi: “Trong thư có viết rằng rừng sam vốn giảm hẳn sức mạnh pháp thuật, còn loại đá trắng xây mộ này miễn nhiễm mọi pháp thuật, dù có cao thủ sử dụng pháp thuật công kích lợi hại như Thiên lôi trảm cũng không phá hoại được. Nhưng Đọa Thiên đại nhân lại dựa vào tà thuật bố trí kết giới ở ngoại vi ngôi mộ, trong thư cũng có viết lại phương pháp giải khai, vốn ta tưởng với sức chúng ta khó lòng giải được, ai ngờ kết giới đã không còn nữa, xem ra pháp thuật thật sự chỉ duy trì được trăm năm.”

Mấy thiếu niên tuy đã nghe nó kể rằng sức mạnh của Vương Lẫm chỉ duy trì được trăm năm, nhưng giờ tận mắt nhìn thấy, lòng không khỏi mất mát, ai cũng quen với vòng tay che chở của Vương Lẫm, hiện tại không còn nữa, tất nhiên thấy bất an.

Dáng vẻ chúng nhân khiến Đường Mật đoán được tâm sự: “Không có gì quan trọng hết, năm chúng ta biết nhau, sức mạnh của Đọa Thiên đại nhân đã không còn rồi, dãy bậc đá phải nhờ vào chưởng môn và các tông chủ bày kết giới phòng ngự, bằng không Mục tông chủ đâu thể dễ dàng mở được.”

Chúng nhân lúc đó mới tỉnh ngộ: đúng là thế thật. Kỳ thật Thục Sơn từ lâu đã dựa vào sức mình để tự vệ. Hoàn Lan khẽ than: “Hóa ra thấm thoắt mà thời đại của họ đã qua rồi.”

Câu nói cực khẽ nhưng chấn động lòng mỗi người. Nếu bảo lời Đường Mật lúc trước “đây là thế giới của chúng ta” là những lời khích lệ thì hiện giờ tận mắt thất sức mạnh nhất trong truyền thuyết đã tan, nhân vật không thể ngã gục biến thành hình tượng thần linh chân chân chính chính chỉ để lễ bái chứ không còn ý nghĩa thực tế nào, thậm chí ngay cả ma huyết, vật khiến các tiền bối biến sắc, cũng không còn mang tính uy hiếp thực sự nữa, thì có lẽ thời đại đó đã qua rồi.

Trong sát na, tại sâu thẳm của khu mộ địa, thế giới mới hiện lên trước mặt các thiếu niên, theo phương thức không rõ ràng lắm, có thể nói là hơi mù mờ lại chứa đựng túc mệnh thần bí.

Đường Mật ấn cơ quan, từ góc phía bắc quan tài đá bắn ra một cái hộp, bên trọng chỉ chứa một lá thư chất giấy ngả vàng. Nó lấy bức thư ra, dựa vào ánh sáng ảo hỏa của đồng bạn đọc xong rồi nhướng mắt lên nói: “Trong thư, Đọa Thiên đại nhân nói rằng trung tâm phòng vệ Thục Sơn được đặt ở lòng hồ giữa Ảo hải, khi không còn cách gì nữa thì có thể cho phép điện giám Ngự Kiếm đường lấy đĩa đèn bên quan tài đá mang xuống hồ vào ngày mười lăm tháng Tám xem sẽ xảy ra chuyện gì. Việc này giải thích chuyện mùa hè năm ngoái ta thấy Mục điện giám xuất hiện tại cái hồ trong Ảo hải.”

Chúng nhân đều tỏ vẻ thất vọng, Bạch Chỉ Vi hỏi: “Cũng có nghĩa là Đọa Thiên đại nhân không dám chắc mình có chuyển thế được sau trăm năm hay chăng, cũng không dám chắc nếu chuyển thế thất bại rồi thì còn cách nào hay hơn để ức chế ma huyết và bảo vệ Thục Sơn, nên để các điện giám Ngự Kiếm đường đời sau tự nghĩ cách?”

“Đúng, ta cũng thấy thế.” Đường Mật nói đoạn, đưa bức thư cho đồng bạn xem.

Mộ Dung Phỉ nói: “Lịch đại điện giám khi chọn người kế nhiệm đều chọn bậc bác học đa tài, khác hẳn tiêu chuẩn chọn người võ công cao nhất làm chưởng môn, xem ra Đọa Thiên đại nhân cũng hy vọng hậu nhân có thể nghĩ ra cách nào hay hơn, nên chìa khóa tĩnh thất của người mới để lại cho điện giám.”

Hoàn Lan đặt thư xuống, tán đồng: “Hiện tại xem ra mọi thứ đều như Đường Mật đoán, trong giấy phút sau cùng, Đọa Thiên đại nhân đã dao động với thuyết luân hồi chuyển thế nên chọn cách người cho rằng có thể khống chế được, chính là tà thuật, để duy trì sức mạnh bảo vệ Thục Sơn. Nhưng sau trăm năm, bản thân Người cũng không dám chắc là chuyển thế được nên thứ để lại sau cùng cho hậu nhân là những bố trí quan trọng nhất về pháp thuật, hy vọng hậu nhân có thể nghĩ ra cách riêng.”

Đường Mật nói: “Như vậy giải thích được vì sao khi Mục điện giám sắp chết lại đưa chìa khóa cho ta, vì có quá nhiều thứ cần giải thích. Lúc ấy ta hỏi điện giám nghi ngờ ai giết mình, nhất định điện giám nhớ đến việc bản thân đang làm và chuyện tranh chấp với chưởng môn, và cho rằng việc đó đáng hoài nghi nhất.”

Trương Úy đưa thư cho Bạch Chỉ Vi, lắc đầu, hỏi Đường Mật với vẻ mê hoặc: “Ngươi vẫn bảo Đọa Thiên đại nhân gửi hy vọng sau cùng vào chuyển thế, nhưng rồi nghe chưởng môn nói với Ngân Hồ rằng lúc họ nghênh tiếp đại nhân chuyển thế có thấy bóng người rồi lóe lên hỏa quang gì gì đó, thật ra là sao hả?”

Đường Mật đáp: “Chỗ đó ta chưa nghĩ thông, luôn cho rằng trong việc Đọa Thiên đại nhân chuyển thế còn có gì đó mắc mứu. Di tín của người nhắc đến Tị thất và Tịch Chiếu phong nhưng ta cùng Bạch Chỉ Vi nghe ngóng khắp Thục Sơn vẫn không biết đó là nơi nào.”

Mộ Dung Phỉ xen lời: “Tị có ý rời đi, căn nhà rời đi có phải chỉ phần mộ?”

Đường Mật sáng bừng trong lòng: “Đọa Thiên đại nhân chết như thế nào?”

Mộ Dung Phỉ nói: “Nghe nói đại nhân biết ngày tháng của mình không còn nhiều liền bái biệt chưởng môn, điện giám và chư vị tông chủ ở chính mộ địa này, tự đóng cửa mộ. Chưởng môn lúc đó tự trông mộ trăm ngay, thấy đá trắng trước mộ có máu tươi chảy ra, biết rằng đại nhân đã khứ thế.”

“Có phải tòa mộ này không? Âm dương chi tâm là nói đến quan tài đá?” Đường Mật thử đoán.

Cả nhóm đều thấy có lý, thương lượng xem có nên mở quan tài ra xem không. Chỉ là trừ lòng kính ngưỡng với Vương Lẫm ra thì trong mộ thất tối om này, cả nhóm chỉ dựa vào ảo hỏa lập lòe trên ngón tay chiếu sáng, dưới áp lực vô thanh vô tức từ bốn bề dồn lại, quả thật cũng hơi sợ những nơi ảo hỏa không chiếu đến có ẩn tàng quái thú gì đó. Sau rốt Trương Úy, Hoàn Lan, Mộ Dung Phỉ gan dạ hơn hợp lực đẩy quan tài ra xem.

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi thò đầu vào nhìn, trong quan tài đá chỏ có một bộ xương mặc áo xanh, thoạt nhìn không có cả đò tùy táng nhưng sạch sẽ vô cùng, tuy nói vốn nên tìm trong quan tài nhưng không ai chịu, nên đành thôi.

Mắc tội khinh nhờn tiền bối để mở quan tài đá ra xem cũng không thấy gì, chúng nhân đều thất vọng, Đường Mật liền gọi tất cả đi xem những nơi khác trong mộ hòng phát hiện được gì chăng. Thoáng sau, Bạch Chỉ Vi gọi khẽ: “Các ngươi đến đây.”

Bạch Chỉ Vi dùng ảo hỏa chiếu sáng một bức tường mộ, trên bức tường trắng có dấu vết hình tròn cao chừng nửa thước, không theo quy tắc nào. Chất đá trong hình tròn hơi khác chung quanh, không lưu ý tất không phát hiện. Đường Mật sờ lên rồi bảo: “Chất đá này mịn hơn, hình như dùng thứ gì khác lấp vào lỗ.”

Chúng nhân cho rằng đó là cơ quan nhưng rồi kiểm tra mấy lần vẫn không thấy gì, đành tạm để lại, tiếp tục xem xét mộ thất còn chỗ nào bất thường không. Một lúc sao, cả nhóm phát hiện ra những dấu vết hình tròn tương tự trên tường đá và vách thạch quan, đâm ra sinh nghi.

“Là gì đây nhỉ, như thể mộ bị thủng rồi mới lấp vật liệu khác vào. Lẽ nào do chuột đào?” Đường Mật không hiểu.

Lòng Bạch Chỉ Vi máy động: “Có phải Xích phong tứ dực xà? Trong sách có dạy rằng yêu xà cảm nhận được từ xa bảo vật trong mộ huyệt rồi xâm nhập vào. Nhưng chúng chỉ nuốt bảo vật chứ không gây hại cho mộ huyệt, phương pháp xâm nhập vào là ăn đá và đất cát trên tường mộ rồi bài tiết những gì ăn được ra để lấp lại.”

Bạch Chỉ Vi thoáng đỏ mặt, có vẻ hơi ngượng, Đường Mật nói thẳng ruột ngựa: “Hiểu rồi, dùng phân rắn lấp vào động.”

Trương Úy, Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ không thấy lời nó có vấn đề gì, Trương Úy tiếp tục: “Xem ra là vậy, ăn vào phải thải ra, tuy là cùng một thứ nhưng đã được dạ dày nghiền nhỏ rồi, chất đã thay đổi.”

Mộ Dung Phỉ lần lần một dấu vết: “Ừ, có lẽ còn dùng cả tân dịch trong thân thể mới khít thế này.”

Bạch Chỉ Vi đỏ mặt, ho khan hai tiếng, luống cuống chuyển đề tài: “Nên nơi này đã bị Xích phong tứ dực xà xâm nhập.”

Thảo luận đến phân rắn, mấy đứa mới nhận ra rằng không nên tập trung vào đó, Hoàn Lan chỉ vào ngọn đèn trên nắp quan tài hỏi: “Kỳ quái, chúng ta thấy ngọn đèn này trong bụng Xích phong tứ dực xà, được yêu xà nhận định là bảo vật thì sao khi yêu xà vào đây lại không nuốt nó?”

Cả nhóm thoáng nghĩ, quả nhiên thấy không ổn, mộ thất này hiển nhiên bị Xích phong tứ dực xà quét sạch, ngay cả quan tài đá cũng có dấu hiệu bị xâm nhập, chỉ còn lại một đĩa đèn.

Đường Mật nghĩ có phải nơi này bảo vật tùy táng quá nhiều, yêu xà không nuốt nổi thêm ngọn đèn nữa? Nhưng đem theo vô số trân bảo nhập táng không phải là tác phong của Vương Lẫm. Nó chợt nhận ra còn có chỗ chưa thông về ngọn đèn, bèn yên tâm lại, chắp nối kỹ càng mọi manh mối rải rác, tựa hồ nắm bắt được điều gì đó, cấp thiết hỏi: “Chỉ Vi, Hoa Anh chết rồi thì di vật có thể lọt ra ngoài không? Ví như được Đọa Thiên đại nhân lấy đi.”

Bạch Chỉ Vi không hiểu sao nó lại hỏi thế, mím môi suy nghĩ: “Hoa Anh được Sở vương lúc đó sủng ái, vương lệnh cho nàng ta tự tận ban xuống quá đột nhiên nên viện thủ không đến kịp, bằng không, tuy Hoa Tuyền chết rồi nhưng một tay nàng ta lập lên Xích Ngọc cung làm hậu thuẫn, sao lại dễ dàng bó tay chịu chết. Nàng ta được ban chết rồi, lập tức bị phong bế cung điện và hạ táng, toàn bộ đồ vật yêu thích đều được táng cùng, với mức độ bảo vệ bên ngoài vương lăng cùng cơ quan bên trong lăng tẩm thì dù Đọa Thiên đại nhân muốn thần bất tri quỷ bất giác tiến vào cũng không phải dễ. Nhưng hai, ba chục năm trước từng xảy ra loạn, lăng mộ vương gia bị hủy hoại, nhiều trân bảo tùy táng trong các lăng tẩm bị trộm mất.”

Đường Mật thấy sự tình đúng như suy tính, liền nói với chúng nhân: “Đã vậy các ngươi thử nghe suy đoán của ta xem sao. Ngọn đèn này là để chúc mừng sinh nhân tỷ muội Hoa Tuyền, Hoa Anh, ngọn hiện treo ở đây là tặng Hoa Anh. Lúc ấy hai tỷ muội mới mười sáu, giao tình với Đọa Thiên đại nhân vẫn còn tốt đẹp, tặng đèn thì nhất định phải tặng cho mỗi người, hiện giờ ngọn đèn ở đất tất có nguyên nhân.”

“Nguyên nhân gì?” Bạch Chỉ Vi hỏi.

“Đọa Thiên đại nhân muốn lấy làm kỷ niệm. Theo lý, ngọn đèn trong tay Hoa Tuyền thì đại nhân rất dễ dàng lấy được khi đánh vào Triệu cung, còn ngọn của Hoa Anh thì không dễ, nên đại nhân muốn lấy vật gì đó của Hoa Anh làm kỷ niệm thì đến Xích Ngọc cung lấy Vị Sương kiếm sẽ hợp lý hơn, Xích Ngọc cung dù gì cũng là chốn đại nhân đã vào quá quen thuộc. Như vậy thì ngọn đèn này vốn là của Hoa Tuyền.” Đường Mật đáp.

“Vì sao ở đây lại có ngọn đèn của Hoa Anh?” Mộ Dung Phỉ hỏi.

“Theo ta nghĩ, ở đây vốn treo ngọn đèn của Hoa Tuyền. Lúc chuyển thế của Đọa Thiên đại nhân xảy ra chuyện, kết giới phòng vệ bên ngoài lăng mộ tan biến, Xích phong tứ dực xà vốn tin nhạy với bảo vật, tất cảm được mà vào đây, vì thế bọn ta mới thấy ngọn đèn của Hoa Tuyền và cái lược của ta trên mình yêu xà. Khi đó, các vị điện giám, tông chủ, chưởng môn chỉ theo lời dặn đi bố phòng lại kết giới chứ không dám xâm nhiễu lăng mộ, sở dĩ, họ thấy ngọn đèn của bọn ta mới không biết là vật trong mộ, lập tức hủy đi. Còn nếu ngọn đèn của Hoa Anh cũng bị trộm cùng với bảo vật trong lăng mộ nước Sở thì rất có thể do cơ duyên xảo hợp bị ai đó lấy được, người này ngày nào cũng quan sát ngọn đèn sẽ dễ dàng nhận ra lai lịch của nó, như Mộ Dung Phỉ từng phát hiện, mà người này lại có thể ra vào lăng mộ thì sẽ thấy giá đèn đặc chế ở đây, cộng thêm được đọc thư để lại trong hộp đá, và biết Xích phong tứ dực xà từng tìm được ngọn đèn thì sẽ dễ dàng phán đoán ra trên giá đặt thứ gì.” Đường Mật ngừng lời đợi chúng nhân phản ứng.

Ai nấy đều im lặng, nín thở đợi Đường Mật nói tiếp, nhưng ngay cả Trương Úy cũng nghe rõ, tuy nó không chỉ mặt đặt tên ai nhưng phù hợp điều kiện chỉ có mấy người.

Đường Mật tiếp lời: “Người đó biết rằng muốn dụ Mục điện giám vào ngày mười lăm tháng Tám, cũng là ngày sinh thần của chị em Hoa Tuyền, vào hồ Ảo hải để ta thấy điện giám sử dụng tà thuật thì ngọn đèn này không thể thiếu. Nhưng hiện nay ngòn đèn ban đầu đã bị hủy, nhất định người đó rất vui mừng vì lấy được ngọn đè này, nên mói treo ở đây.”

Nó hít sâu một hơi, cảm giác tảng đá ngàn cân đè lên ngực mình nhẹ hẳn đi: “Nếu lão bản Dị bảo quán tìm được ai lấy đĩa đèn từ trong mộ ra thì chúng ta sẽ có chứng cớ bắt thóp kẻ đó.”

Cả nhóm rời lăng mộ, bàn bạc một hồi đều thấy còn lâu mới đến rằm tháng Tám, không thể đến hồ Ảo hải tra xét, ai nấy cứ lưu ý thấy việc gì khả nghi, đặc biệt là từ các nhân vật chủ chốt như Tiêu Vô Cực, Cố Thanh Thành thì càng phải chú ý, dùng hồn thú đưa tin ngay.

Tiếp đó, Đường Mật bận rộn vô cùng, công trình tu sửa cơ quan ở Thục Sơn vẫn tiếp tục, lúc nào rỗi là nó bị Chúc Ninh kéo đi, cùng Âu Dương Vũ kiểm tra mọi nơi, thuận tiện hỏi thăm về Tị thất và Tịch Chiếu phong nhưng không thu được kết quả gì.

Để chuẩn bị cho kỳ thi lên điện cuối cùng trong ngũ đại điện thí, Lễ Thủy điện học tập rất bận rộn, yêu cầu của điện phán cũng nghiêm khắc gấp nhiều lần. Đường Mật cho rằng yêu cầu của Mộ Dung Trinh Lộ về Ngự kiếm thuật đạt đến độ biến thái, chỉ cần hơi sai sót là bị phạt luyện tập một trăm lần. Nên dù Hoàn Lan vẫn là đệ tử đốc thúc nhưng không còn nữ kiếm đồng nào phân thần chú ý đến y nữa, với những thiếu nữ thông minh này, thiếu niên đẹp trai xa xăm đó không chân thực như trừng phạt hiện ngay trước mắt, dù thật sự có ý với y cũng đành nén xuống đáy lòng. Đường Mật nghĩ: Kỳ thật đại đa số mọi người không khác gì Trang Viên, ngoài miệng nói mạnh nhưng trong lòng không thích thật sự, còn thích thật sự thì sẽ vùi xuống đáy lòng, không dễ nói ra miệng.

Nó chợt thấy có lỗi với Quân Nam Phù, quả thật lúc đó xuất thủ vừa chuẩn vừa độc. Đột nhiên nó hiểu vì sao Trương Úy tác giận, cần tìm cơ hội xin lỗi Quân Nam Phù vậy. Sát na nghĩ như thế, nó cảm giác mình thật sự giống một thiếu niên, bất giác ngẩng nhìn thinh không trong trẻo giữa tháng Tư Thục Sơn biếc xanh một màu, mỉm cười hoan hỉ.

Nhưng bảo nó dành thời gian ta thì quả thật khó khăn, ban tối mà có thời gian thì đều cùng Bạch Chỉ Vi lén vào địa cung đọc sách Vương Lẫm để lại, xem có tìm thêm được manh mối nào không. Thục Sơn nguyệt báo vẫn phải tiếp tục, tháng Tư cỏ Đồng quản chuyển đó càng là lúc cập rập, thời gian rỗi của nó và Lý Lý đổ hết vào tờ tạp chí. Vì thấy vất vả, nó nghĩ ra cách mới kiếm thêm tiền, lấy lý do thêm nội dung liên quan đến cỏ Đồng quản mà giá bán cũng tăng thành hai đồng. Thành ra nội dung nguyệt báo không tăng bao nhiêu nhưng kiếm được gấp đôi.

Thật ra nó cũng thấy may mắn, nhân vật chính của nguyệt báo lần này là người quen — Bạch Chỉ Vi. Vì sao cô nổi tiếng thì quả thật bất ngờ. Vốn cô không xinh đẹp lắm, từ bé đã mang khí chất lạnh lẽo, không bắt mắt như những thiếu nữ cười nói ngọt ngào, linh hoạt, thiếu niên cùng tuổi thấy cô khó tiếp cận chứ đừng nói tiến xa hơn. Nhưng một năm nay cô lớn rất nhanh, cao hơn Đường Mật một cái đầu, thoáng cái đã hoàn toàn thoát khỏi dáng vẻ trẻ con, thân hình mảnh mai, mắt sáng mày thanh, thể hiện rõ phong vận chân chính của một thiếu nữ. Chú ý đến đóa hoa nở thầm này không phải kiếm đồng Ngự Kiếm đường mà một buổi sáng, Bạch Chỉ Vi, Đường Mật và Trương Úy đang đi lên Khí tông thì một thiếu niên mặc áo màu nguyệt bạch không hiểu từ đâu chui ra, cúi gằm đầu, trán nhỏ mồ hôi thấy rõ, ấp úng hồi lâu không thành câu hoàn chỉnh, sau cùng đưa ra một nhánh cỏ Đồng quản đỏ rực rồi cắm đầu chạy mất. Bạch Chỉ Vi hoang mang nhìn theo thân ảnh thiếu niên, quay sáng hỏi Đường Mật cười ha hả cạnh đó: “Đường Mật, người đó không nói gì, y tên gì hả?”

Rồi không hiểu tin đồn từ đâu ra, có người nói đệ nhất mỹ nữ Ngự Kiếm đường kỳ thật là một kiếm đồng tên Bạch Chỉ Vi chứ không phải Quân Nam Phù như vẫn đồn đại. Việc này dẫn đến tranh luận kịch liệt xem ai mới là đệ nhất mỹ nữ. Lúc đầu “Bạch phái” người ít thế bạc nhưng khi sa vào nghịch cảnh, con người ta lại bùng phát vô hạn, nên rất nhanh Bạch Chỉ Vi trở thành ‘tiểu thiên hậu’ mới.

Đường Mật tất nhiên không bỏ qua chủ đề này, đóng cửa phòng phỏng vấn cô: “Ngươi thấy ai là Ngự Kiếm đường đệ nhất mỹ nữ?”

“Ta nhận định ai thì người đó là đệ nhất thật ư?”

“Ủng hộ ngươi là đệ nhất mỹ nữ phần lớn là các nữ kiếm đồng, ngươi thấy thế nào?”

“Hơi kinh ngạc.”

“Người thế nào thì ngươi sẽ tặng lại cỏ Đồng quản?”

“Ngươi cũng bảo là ta không muốn trả lời thì thôi.”

“Nghe nói ngươi khiến các nam kiếm đồng cảm thấy áp lực, ngươi thấy sao?”

“Ngươi phải hỏi các nam kiếm đồng.”

Tuy liên tục có người tặng Bạch Chỉ Vi cỏ Đồng quản nhưng Sử Thụy không đến, khiến Đường Mật lấy làm lạ, tìm cơ hội hỏi y: “Ngươi sao thế? Không biết năm nay Chỉ Vi thu được bao nhiêu có đâu nhỉ? Nhánh của ngươi đâu?”

Sử Thụy có phần buồn bã: “Có tác dụng gì, không phải nhánh cỏ đầu tiên chuyển màu đỏ, tặng cũng phí thôi mà.”

“Sao ngươi không tìm nhánh đó? Hiện tại muộn rồi.”

Sử Thụy tỏ vẻ ấm ức, nhăn nhó: “Ta nghe lời ngươi nói rằng Thuật tông thường là nơi cỏ Đồng quản chuyển đỏ đầu tiên vì ở đó có ôn tuyền, liền tốn công kết giao với tạp dịch Thuật tông, y đồng ý giúp ta giám sát hai ngọn suối của đó, khi cỏ Đồng quản chuyển đỏ thì hái hộ ra, ai ngờ y chỉ hơi lơi lỏng một chút là bị người ta lấy mất.”

Với chức nghiệp của ký giả, Đường Mật hiếu kỳ: “Ai hái?”

“Một nơi là Tạ điện giám, một là Cố tông chủ.” Nghe đến tên Cố Thanh Thành, lòng nó buồn hẳn, không còn hứng thú hỏi nữa.

Đường Mật vẫn không được yêu thích như mọi năm, dù quan hệ với các nam kiếm đồng khá tốt, bình thường vẫn xưng huynh gọi đệ, nhưng cỏ Đồng quản thì không thể tặng huynh đệ được. Đặng Phương năm ngoái vì nó nhúng tay mà y vẫn còn giữ chục nhánh cỏ, giờ đã ép thành cỏ khô, nếu không ai tặng thì cứ lấy hết ra khoe. Tất nhiên, y nói xong liền bị vỏ kiếm Vị Sương làm từ da xích mãng đập cho sưng u một cục.

Năm ngoái, Mộ Dung Phỉ tặng nó cỏ Đồng quản. Năm nay không tặng nữa, không phải nó đoán ra mà chính miệng y nói. Sáng hôm đó, nó và Bạch Chỉ Vi, Trương Úy vừa đến Vong Ưu phong của Thuật tông, từ xa thấy một đội nam nữ đứng dưới ánh nắng sớm vàng nhạt, không ai nhìn rõ dung mạo họ. Thiếu nữ đó mặc áo đen, tấm lưng thẳng lên để lộ tâm trạng khẩn trương. Ba đứa ở xa chỉ thấy thiếu nữ đưa ra một ngọn cỏ mềm màu đỏ, chốc sau đến gần hơn nhận ra thiếu niên được tặng chính là Mộ Dung Phỉ, giọng y cũng bay tới: “Đa tạ, bất quá Phỉ chưa từng tặng lại ai cỏ Đồng quản, năm nay cũng không ngoại lệ.”

Huyền y thiếu nữ nói: “Ta biết, bất quá ta muốn tặng thôi mà.” Đoạn dứt khoát quay người đi khỏi, khiến Đường Mật bội phục tính cách thẳng thắn của nhi nữ Thục Sơn.

Ba người đến trước mặt Mộ Dung Phỉ, Đường Mật cười quỷ dị: “Mộ Dung Phỉ, không phải tác phong của ngươi, trước đây ngươi nói những lời kiểu này khéo lắm.”

Mộ Dung Phỉ thấy ba đứa đến, mỉm cười đáp: “Năm nay chợt nghĩ thông, không muốn làm người tốt kiểu vô vị đó nữa. Năm trước chẳng phải cô nương cười tại hạ không dám đắc tội với ai ư.”

Bạch Chỉ Vi hừ khẽ: “Tiếc là ngươi nói dóc, từng tặng lại Đường Mật rồi mà.”

Mộ Dung Phỉ thần sắc thản nhiên: “Không phải tặng lại. Đấy là tại hạ tặng Đường Mật. Nhưng năm nay không tặng nữa.” Đoạn y liếc Bạch Chỉ Vi: “Cũng không tặng ai khác?”

“A, vì sao? Vì sao? Ngươi làm lòng ta đau lắm, ngày nào ta cũng háo hức đợi ngươi tặng.” Đường Mật giả bộ nhăn nhó, ngữ điệu khoa trương.

Mộ Dung Phỉ bật cười, thông minh như y tất hiểu rõ Đường Mật chẳng phải người vô tâm, Bạch Chỉ Vi không phải tâm lạnh như băng nhưng tâm tư hai cô đều không ở đây. Đóa hoa trước mắt tuy say lòng nhưng tỏa mùi hương khiến người ta phiền não, cũng may y chưa lún sâu quá mức, chỉ cần cố khắc ý giữ tình cảm ở đáy lòng là được. Có bạn như hai cô cũng là may mắn trong đời.

“Vì ta thấy tặng cỏ Đồng quản cho bằng hữu thì cổ quái quá, dù là nữ bằng hữu cũng vậy.” Y đáp.

“Chà vậy là nói ta cổ quái hả? Năm nay ta cũng không tặng nữa, dù sao hai người cũng không thiếu.” Trương Úy chen lời.

Đường Mật nhăn mặt: Năm nay coi như không nhận được nửa cọng.

Có hôm luyện kiếm ở Kiếm tông xong xuôi, Hoàn Lan phụ trách đốc thúc đến cạnh nó, hỏi khẽ: “Đường Mật, chốc nữa có bận không?”

“Không, đi ăn cơm tối thôi.” Nó tùy ý đáp.

“Vậy đừng ăn vội, có việc quan trọng tìm ngươi.” Hoàn Lan nói đoạn, ra hiệu cho nó đi theo.

Đường Mật theo sau y, lòng thoáng đoán rằng có việc, thời điểm này nam nam nữ nữ đều mẫn cảm hơn hẳn, hà huống nó đã biết tâm ý y, liền bảo: “Đi đâu đây, có gì nói luôn đi.”

Cước hộ Hoàn Lan nhanh dần, thấy nó còn dung dăng phía sau liền kéo tay áo: “Nào, đi mau.”

Lúc đó vầng dương ngả xuống trời tây, thái dương màu vàng chanh ẩn quá nửa sau đỉnh núi ở cực tây Thục Sơn, Hoàn Lan dẫn Đường Mật nhảy lên tảng đá đột ngột nhô lên, chỉ vào ngọn núi ở mé tây hỏi: “Đường Mật, có biết tên ngọn núi kia không?”

Đường Mật đưa mắt nhìn, ngọn núi đó rất kỳ lạ, lưng chừng đỉnh núi hình bình ngọc như bị chém một đao, hé ra một khe vừa sâu vừa hẹp xuống tận chân núi, tuy nó biết tên nhưng lại cố ý nói sai: “Biết, là núi Đoạn Bối.”

Hoàn Lan ngẩn ra, nhưng không quan tâm vì sao nó đáp bừa: “Không phải, là Nhất Tâm phong.”

Vầng dương hoàn toàn chìm xuống sau Nhất Tâm phong, cả Thục Sơn chìm vào bóng tối, chỉ có khe núi dài trên Nhất Tâm phong lóe lên ánh sáng màu vàng đỏ, cuốn nốt tia sáng sau cùng vào màn đêm. Hoàn Lan hít sâu một hơi: “Ngươi thấy ánh đỏ trong khe núi có giống cỏ Đồng quản không?”

Đường Mật hiểu ngay ý, lòng thắt lại, không biết dùng cách gì ngăn y đừng nói ra, nhìn khe núi đỏ chằm chằm, lòng rúng động kêu lên: “À, ta hiểu rồi, đó có thể là Tịch Chiếu phong, đỉnh núi sau cùng được tịch dương chiếu sáng. Đúng, đúng, hắc vụ cốc ở bên dưới, trong cốc là mộ Ma vương, cũng coi là một phần mộ, gọi Tị thất không phải hợp lắm ư? Đúng không, Hoàn Lan.”

Đoạn nó không đợi Hoàn Lan kịp phản ứng, vừa chạy vừa kêu lên: “Hoàn Lan, đi mau, chúng ta phải cho những người khác biết phát hiện trọng đại này.”

Việc lớn nhất tháng Tư với Thục Sơn là lễ thọ vào cuối tháng, năm nay vì táng lễ của Mục Hiển nên người Thục Sơn ở các nơi về rất đông, lúc các kiếm đồng đến lượt tế bái, Đường Mật bị ánh nắng to ngoài Trùng Dương điện trên Vô Lượng phong khiến đầu óc nặng trịch, lúc vào trong điện tối tăm thì mắt hoa lên, một lúc sau mới kịp thích ứng.

Hiện giờ nó là kiếm đồng lâu năm, vị trí đứng tế bái ở hàng đầu, lần đầu tiên nhìn rõ hình vẽ Vương Lẫm ở sau bài vị. Ông ta không anh tuấn như nó tưởng tượng, khóe mắt hơi rủ xuống toát lên vẻ tán mạn, lông mày rậm rịt là điểm nổi bật nhất trong ngũ quan. Gương mặt đó vốn đượm vẻ hòa hoãn nhưng cằm lại cứng cáp kiên nghị khiến người ta tin rằng ông ta chính là Đọa Thiên từng vung kiếm chém Ma vương.

Đường Mật thất thần nhìn ảnh Vương Lẫm, đầu óc trống rỗng, phảng phất mất đi mọi ký ức, mã đến khi Bạch Chỉ Vi kéo áo thì nó mới tỉnh lại, vội quỳ xuống.

Tế lễ kết thúc là thời điểm thết yến khách bên ngoài Vô Lượng điện, năm nay sư hí đến lượt kiếm đồng của điện mà Tư Đồ Thận học, Đường Mật nghe nói một trong hai người đóng sư tử vàng là Quân Nam Phù thì liếc nhìn Trương Úy. Không hiểu gã biết hay không mà thần tình cực kỳ chăm chú, một lúc sau mới nhận ra Đường Mật nhìn mình, ngoẹo đầu cười: “Không hay như lúc các ngươi diễn.”

Kết quả tổ sư tử vàng thắng, lúc mấy kiếm đồng bỏ trang phục xuống, gã thấy Quân Nam Phù giữ vị trí đuôi, còn đầu sư tử là Tư Đồ Thận, thần sắc gã hơi cứng lại rồi nhìn sang chỗ khác. Đường Mật khẽ nắm tay gã, thì thầm vào tai: “Đầu to, ta sẽ tìm cơ hội xin lỗi Nam Phù, ngươi đừng để tâm. Không đáng đâu.”

Trương Úy nhìn Đường Mật, gương mặt thiếu nữ luôn nở nụ cười tinh nghịch, lúc đó trời xuân trong veo, nó lại không dùng ngữ khí cao cao tại thượng mà mang ba phần thương lượng, bảy phần quan tâm, tuy không nói ra những lời ấm áp song lòng y như tắm gió xuân, thoáng đãng hẳn, bật cười đáp: “Được rồi, ta hiểu.”

Mấy kiếm đồng đóng sư tử lui xuống, Tiêu Vô Cực bước lên đài cao trước Vô Lượng điện nói mấy lời cảm tạ tân khách rồi bày tỏ đau xót vì mấy năm nay Thục Sơn liên tục mất đi nhân vật trọng yếu, đặc biệt phẫn khái trước việc điện giám Ngự Kiếm đường Mục Hiển chết dưới tay hồn thú của Ma vương, tất nhiên có đề cập đến chuyện ma đạo lại hưng vượng, thuận tiện tự trách mấy câu.

Mấy câu tự trách này vốn là lời khách sáo, võ lâm hào kiệt ở dưới vốn không ai nói gì, đột nhiên Tạ Thượng đứng cùng hàng với Tư Đồ Minh, Cố Thanh Thành cách sau lưng Tiêu Vô Cực không xa hừ lạnh rồi bảo: “Vậy thì nên giao chứ chưởng môn ra đi để bù tội.”

Tạ Thượng dùng nội lực nên đệ tử Thục Sơn và quần hào võ lâm đều nghe rõ. Sát na, cả quảng trường trước đại điện lặng ngắt, nghe rõ cả tiếng thở, ai nấy đều nhìn hai bóng xám bất động trên đài cao, không hiểu xảy ra chuyện gì.

Tiêu Vô Cực từ từ quay lại, dùng khẩu khí uy nghiêm của chưởng môn một phái hỏi: “Tạ điện giám có ý gì?”

“Tỷ võ chưởng môn hai mươi năm trước, sư phụ là ta đây tự bỏ đi, hai tay dâng chức chưởng môn cho đồ đệ ngươi, tiếc là cho ngươi nhiều thời gian như thế mà Thục Sơn ngày càng tệ, giờ ta cần thu hồi lại chức vị đấy.” Y cố ý nhấn mạnh hai chữ sư phụ, ánh mắt nhìn Tiêu Vô Cực đầu uất hận.

Sát na Tiêu Vô Cực chạm vào ánh mắt đó liền hiểu được mấy phần, biết không thể chối được: “Ý Tạ điện giám là hôm nay tái hiện lại trận tỷ võ hai mươi hai năm trước, trước mặt hào kiệt võ lâm?”

Tạ Thượng cười lạnh: “Nếu đồ nhi thấy như thế mà tâm phục khẩu phục ra đi thì đương nhiên tốt nhất.” Cố Thanh Thành và Tư Đồ Minh đều động dung, Cố Thanh Thành nói: “Xin chưởng môn và điện giám cân nhắc, dù có mâu thuẫn gì cũng là chuyện cũ, hà tất phải như thế.”

Hào kiệt võ lâm có mắt phần lớn từng là đệ tử Thục Sơn hoặc có vô vàn quan hệ, không ai ngờ trong thời khắc này hai nhân vật quyền lực cao nhất lại trở mặt, thi nhau khuyên can. Mặc kệ bao nhiêu người, Tạ Thượng đều bỏ ngoài tai, quyết ý tỷ võ với Tiêu Vô Cực.

Tiêu Vô Cực hiểu tính y hơn hết, biết y võ công tạo nghệ cực cao nhưng tính vẫn như thời trẻ, đã quyết định gì là bất chấp tất cả, không đạt được mục đích không dừng. Tiêu Vô Cực vốn cẩn thận lo xa, thấy khó tránh khỏi giao đấu, bản thân không nắm chắc tí nào, tâm niệm xoay chuyển: “Tạ điện giám, ở vị trí chúng ta mà đánh đấm trước mặt ngần này hào kiệt võ lâm thì không ổn, nếu nhất quyết tỷ thí thì đổi sang cách khác được chăng?”

“Ngươi muốn tỷ thí thế nào?”

“Cực và điện giám cũng chọn ra một đệ tử Thục Sơn, trong thời gian ba nén hương truyền cho một pho võ công do chúng ta tự sáng tạo, rồi để hai đệ tử đó tỷ võ, thế nào?” Tiêu Vô Cực hỏi. Lão đề xuất ý kiến này tất nhiên đã tính toán, một là e dè võ công Tạ Thượng lợi lại, hai là hai mươi năm nay lão quả thật khổ công sáng tạo một pho kiếm pháp mới thoát thai từ Thục Sơn kiếm pháp, còn Tạ Thượng có thể cũng sáng tạo được nhưng cũng có thể không, nếu không thì trong vòng ba nén hương bảo y sáng tạo ra một pho võ công mới, dẫu là kiếm tiên cũng không thể. Thứ ba, dù Tạ Thượng có sáng tạo võ công thì Tiêu Vô Cực cũng hiểu đệ tử Thục Sơn hơn, nhất định chọn được người thích hợp, cuối cùng dù đệ tử thua nhưng chỉ cần bản thân lão không thua tất vạn sự đều có thể vãn hồi.

Tạ Thượng cũng nghĩ đến những điều đó nhưng y kiêu ngạo vô cùng, đồ đệ là Tiêu Vô Cực còn dám nói thế thì y đáp ứng luôn: “Được, ngươi chọn người trước đi.”

Tiêu Vô Cực biết trước Tạ Thượng không cự tuyệt, nhìn đệ tử Thục Sơn ở Vô Lượng điện, gọi: “Hoàn Lan, lại đây.”

Tiêu Vô Cực vốn cho rằng Tạ Thượng sẽ trù trừ nhưng không ngờ y gọi luôn: “Trương Úy, ra đây.”

Tạ Thượng dứt lời, Trương Úy ở dưới cũng kinh hãi kêu a một tiếng. Lúc chúng nhân thấy từ đám đông bước ra một thiếu niên áo lam thêu ba đóa hoa vàng thì tiếng thì thầm vang lên: “Kiếm đồng, sao lại là kiếm đồng?”

“Mới ở Lễ Thủy điện thôi.”

Trương Úy cũng bất ngờ, tuy mấy ngày nay cả nhóm vẫn để ý đếm hành động của mấy nhân vật cao cấp như Tiêu Vô Cực nhưng không thấy lão và Tạ Thượng có gì đáng phải trở mặt, sao giờ Ngân Hồ lại đột nhiên như vậy? Gọi gã ra tỷ võ càng kỳ quái hơn. Giấy khắc bị điểm danh, gã nhìn Đường Mật hỏi ý kiếm, dù nó thông minh thế nào cũng không thể đưa ra quyết định ngay, đành bảo: “Tận toàn lực là được, chúng ta tính từng bước.”

Trương Úy cũng hiểu ra, bước khỏi đám đông, cúi người thi lễ: “Đệ tử có mặt.”

Tạ Thượng dẫn Trương Úy đến một gian viện ngách phía sau Vô Lượng điện, quan sát thiếu niên kỹ càng một lượt. So với lúc mới gặp hai năm trước, Trương Úy cao hơn nhiều, gương mặt đượm vẻ trẻ con đã xuất hiện góc cạnh, chỉ riêng đôi mắt trong veo là vẫn thế. Y thầm mãn ý, mỉm cười hỏi: “Hiện tại huynh dạy đệ một pho kiếm pháp khổ công nghiên cứu suốt hai mươi năm nay, tên Ảo Loạn bát kiếm, tám chiêu này trông đơn giản nhưng thật ra rất thâm ảo, người tâm lực cực mạnh thì không thể sử dụng. Tám chiêu này dựa vào kiếm hồn hữu lực mới thi triển được, lúc sử dụng sẽ mê loạn bát thức của đối thủ gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, tàng thức, mạt na thức và a lại da thức. Mới học thì chỉ cần mê loạn được ngũ thức của đối thủ là khá lắm rồi, nếu loạn được tàng thức thì địch nhân sẽ không thể khống chế bản thân, còn loạn được mạt na thức, địch nhân sẽ sa vào ảo ảnh do đệ sáng tạo ra, cuối cùng khi loạn được a lại da thức, địch nhân tất hoàn toàn mất đi tự ngã, trở thành con rối cho đệ khống chế?”

Trương Úy biến sắc, có vẻ không tự tin: “Võ công lợi hại thế này, đệ, đệ sao có thể học ngay.”

“Không sợ, tuy nói là lợi hại như thế nhưng bản thân huynh cũng chỉ đạt được đến loạn tàng thức. Tâm lực của đệ có lẽ không mạnh nhưng tác dụng lớn nhất của tâm lực với kiếm pháp này chỉ là đừng để bản thân bị mê hoặc. Đệ có Trầm Phong có kiếm hồn chi lực cực mạnh, lòng lại không lay động trước ảo ảnh, vốn là nhân tuyển cực tốt cho kiếm pháp này. Ta đã xem đệ múa kiếm trong Thiên âm lâm, kiếm hồn mạnh như thế tất kiếm chủ đời trước gặp phải biến cố gì đó đặc thù.” Tạ Thượng đặt tay lên Trầm Phong: “Nếu huynh đoán không lầm thì kiếm này là của hài tử đó, Thẩm Mục, đúng không? Đệ giống nó đến tám phần.”

Trương Úy từng nghe Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nói về việc giữa gã và Thẩm Mục, lần đầu tiên nghe nói mình giống với vị tướng quân vẫn được phụ thân nhắc đến, nhưng giờ không phải lúc cả nghĩ, liền bảo: “Tạ điện giám, giờ đệ đã khôi phục tâm lực, sức mạnh giúp đệ không nhìn thấy ảo ảnh đã tan biến sau lần ở Thiên âm lâm.”

Tạ Thượng không ngờ như vậy, thần sắc hơi biến đổi, trầm ngâm hồi lâu: “Không sao, tuy phiền nhiễu một chút nhưng đệ vẫn khác mọi người. Đệ hiểu rõ và đối diện với ảo ảnh siêu cấp nhưng vẫn không mất đi cảm tri, đúng không? Vậy là đủ rồi. Đệ có biết trạng thái tâm có tường bao quanh thì chính bản thân cũng dựng lên được, một là dựa vào tâm lực cực mạnh, mọi tuyệt đỉnh cao thủ Thục Sơn đều làm được, hai là dựa vào ngộ tính không linh trời sinh, không hề có cảm giác với ảo ảnh, Đọa Thiên đại nhân thuộc nhóm này. Hơn nữa tư chất của đệ thuần tịnh, từng trải nghiệm cảm giác bất mê bất hoặc đó, có thể học được.”

Dứt lời, y tuốt bội kiếm, một cây kiếm dài bản hẹp, ánh lên màu lam, kiếm phong bất động cũng có hàn khí tràn ra. Y giơ kiếm ngang ngực, dùng khởi thức chắc chắc nhất diễn lại chiêu đầu tiên: “Đệ xem cho kỹ nhé, ta múa chậm để dạy đệ chiêu thức, rồi dạy tâm pháp sau.”

Trương Úy chăm chú nhìn Tạ Thượng múa, hiểu được năm phần về chiêu thức kiếm pháp này. Không hẳn vì chiêu thức kiếm pháp do Tạ Thượng sáng tạo đơn giản mà vì gã từng xem qua bích họa trong Thục Sơn bí động, nhận thức về không cao hơn hẳn kiếm đồng cùng tuổi, tuy còn thiếu quá trình tu luyện và thực chiến nhưng lĩnh ngộ và lý giải được đến như thế cũng là bất phàm.

Tạ Thượng thấy gã nhìn quan một lần mà vẫn thần sắc an nhiên, biết trong lòng gã đã có chủ định liền đưa tay diễn lại đoạn bảo gã tự luyện hai lần, thấy khá trôi chảy rồi mới dạy tâm pháp. So với chiêu thức, tâm pháp cực kỳ khó khăn, yêu cầu kiếm hồn và kiếm chủ nối thông với nhau qua tâm lực, phối hợp chiêu thức phát ra sức mạnh mê loạn bát thức. Trương Úy gắng sức cũng chỉ nắm được sáu phần, thời gian ba nén hương trôi qua, Tạ Thượng tuy chưa hài lòng lắm nhưng cũng đành, vỗ vai gã bảo: “Đi thôi, thế là đủ rồi.”

Lúc rời khỏi Vô Lượng điện, Hoàn Lan cảm giác ánh mắt chúng nhân đều nhìn về mình, cước bộ hơi ngừng lại rồi bước tiếp. Dù biết được coi là kỳ tài trăm năm khó gặp của Thục Sơn, y vẫn không quen bị chú ý, trước khi lên Thục Sơn, y vẫn là vị ấu đệ rụt rè của huynh trưởng Hoàn Thương, tránh xa vòng quyền lợi, sống đời sống đơn thuần. Đến khi vào Ngự Kiếm đường, thiên phú và tài hoa tiềm tàng trong thân thể y hiển lộ ra, chỉ mình y mới biết kiếm đồng thiên tài được người người ngưỡng mộ chẳng qua chỉ là thiếu niên cô đơn sa vào mê cung, đứng ở rìa nhìn mây bay trên trời.

Sau lưng y có người bước tới, y không ngoái lại nhưng thân thể tự căng lên theo phản ứng phòng ngự. Có lúc y cũng ngạc nhiên trước khả năng sắc bén của thân thể, khác nào vũ khí hoàn mỹ được trời cao tạo ra. Người sau lưng y nói: “Hoàn Lan, chuẩn bị sẵn sàng chưa?”

Giọng nói đó khiến y lỏng người ra, ngoái lại bảo: “Xong rồi, Trương Úy, việc này Đường Mật nghĩ sao?”

“Tận lực tỷ thí là được, đến đâu hay đến đó.”

“Được, vậy là hay nhất.” Hoàn Lan nói đoạn, bước ra bài trống ở Vô Lượng điện.

Cọc gỗ chuẩn bị cho sư hí trên bãi trống đã được rút đi, thiếu niên áo đen và lam đứng ở hai góc, tay đặt lên kiếm, đợi thời cơ ra tay. Tân khách phần lớn xuất thân Thục Sơn song vẫn bội phục đệ tử do Ngự Kiếm đường dạy dỗ thành, tư thế đứng yên không hề sơ hở kia chính là của bậc cao thủ.

Hoàn Lan nổi danh khoái kiếm, lần này Tiêu Vô Cực dạy y Phá Quang kiếm pháp, khoái kiếm có thể cắt được cả ánh sáng, hết sức hòa hợp với kiếm lộ của y. Tiêu Vô Cực thành danh lâu năm, xưa nay nổi danh với kiếm pháp khoáng đạt, khí thế hùng hồn, nhưng kiếm pháp tự sáng tạo lại thiên về chữ “khoái”, ít nhiều cũng khiến Hoàn Lan kinh ngạc. Tiêu Vô Cực nhận ra suy nghĩ của y: “Ta học kiếm từ bé, luôn thua người ta chữ nhanh, đừng nói so với Mục tông chủ của các con mà kém cả Tư Đồ tông chủ, vì thế lúc mới đầu cũng chú ý đến chữ nhanh, tư thế một thức kiếm cũng luyện cả trăm lần. Sau này mới biết mỗi người một thiên phú, ta không bằng người ta ở khía cạnh đó nhưng lại hơn ở mặt khác, kiếm pháp vì thế mà thú vị. Bất quá, trong lòng ta luôn giữ chấp niệm, luôn muốn thắng bằng chữ khoái. Luyện kiếm mấy năm nay chợt đốn ngộ về chữ khoái, hóa ra mình luôn theo đuổi cái nhanh của thân thể mà quên rằng kiếm hồn còn có thể xuất kiếm nhanh hơn.”

Hoàn Lan không hiểu: “Lam chi biết kiếm hồn khả dĩ tăng thêm kiếm lực, giúp rập được cho ảo thuật nhưng không biết có thể tăng tốc cho kiếm.”

Tiêu Vô Cực không đáp, chậm rãi biểu diễn lại kiếm pháp một lần. Hoàn Lan cả kinh, pho kiếm này do những chiêu thức công kích sắc bén nhất trong kiếm pháp Thục Sơn tổ thành nhưng không có chiêu thức phòng thủ. Tiêu Vô Cực thu kiếm lại, bảo y: “Con có biết vì sao không có chiêu phòng thủ không? Trong lúc kiếm hồn hoàn toàn bạo lộ sẽ tự chống lại nguy hiểm, còn nhanh hơn động tác thân thể nhiều, đối phương càng mạnh thì kiếm hồn phản ứng càng rõ. Con nên học cách lợi dụng sức mạnh kiếm hồn tự phát này để chế ngự thanh kiếm, tất sẽ xuất kiếm nhanh hơn cả ánh sáng.”

Nắng tháng Tư rọi lên gương mặt thiếu niên sáng rỡ khiến đối thủ không thể dấy lên lòng phòng bị. Hoàn Lan nhìn thiếu niên đó, lòng thoáng tiếc nuối, nếu gã là Mộ Dung Phỉ thì tốt, mạnh hơn cũng được, bàn tay nắm chặt chuôi kiếm trượt xuống. Động tác này với đệ tử Thục Sơn mang hàm nghĩa bất thường, ra hiệu cho đối thủ xuất kiếm trước, một kiểu nhân nhượng không làm mất mặt người khác.

Trương Úy biết Hoàn Lan cho rằng thực lực cua gã kém hơn, liền mỉm cười: “Đa tạ.” Đoạn tuốt kiếm tấn công. Khí thế nhát kiếm này khiến Hoàn Lan cũng bất ngờ, lòng chợt kinh hãi xen lẫn vui mừng tuốt kiếm đón đỡ. Trương Úy chưa từng thấy ai phản kích nhanh như thế, như điện quang lóe lên, kiếm khí của gã đã bị xé nát, Tuyết Thương lặng lẽ xẹt tới. Cũng may kiếm hồn chi lực của gã cực mạnh, Tuyết Thương tăng tốc đột ngột nên tốc độ giảm dần, hơn nữa Ảo Loạn bát kiếm thiên về phòng thủ, nhát kiếm xoay sang phòng ngự của gã cực kỳ tinh diệu, đỡ được chiêu thức của Hoàn Lan. Hoàn Lan chuyển cổ tay, lại xuất kiếm, lần này bị Trương Úy đón đỡ chính diện, kiếm hồn chi lực của gã dồn tới, sức mạnh khiến Hoàn Lan bất ngờ. Sau hai chiêu, song phương đều biết đối thủ không hời hợt, lòng đều hoan hỉ, tinh thần dấy lên, lao vào nhau.

Chúng nhân đều khen ngợi không ngớt kiếm pháp của Hoàn Lan, so ra Trương Úy chỉ biết phòng ngự quả thật chật vật. Riêng Đường Mật và Bạch Chỉ Vi không biết cổ vũ bên nào, chỉ thấy kiếm pháp hai bên đều cực kỳ đặc biệt, kiếm chiêu của Hoàn Lan nhanh đến mức khiến người ta thấy được kiếm lộ còn kiếm pháp của Trương Úy tựa hồ không thiên về công kích nhưng phòng thủ tinh diệu, đấu năm sáu hiệp với Hoàn Lan mà vẫn trụ được.

“Tiểu tử Trương Úy thua đến nơi rồi.” Bên cạnh Đường Mật chợt vang lên giọng nữ trầm thấp. Nó ngoái lại nhìn, không hiểu Ngọc Diện đến từ lúc nào.

Đường Mật không kịp hỏi Ngọc Diện vì sao xuất hiện ở đây, mà hỏi: “Vì sao?”

“Kiếm pháp Ngân Hồ dạy quá cao thâm, còn xa tiểu tử đó mới nắm vững được.” Ngọc Diện chăm chú nhìn trận đấu: “Kiếm pháp này thoạt trông phòng ngự tinh xảo nhưng tựa hồ chỉ muốn tiêu hao thời gian với địch, nhất định không phải bản ý của kiếm pháp.”

Đường Mật nhớ lại lúc ở Thiên âm lâm cũng vì tiêu hao lâu mà sa vào ảo cảnh, liền bảo: “Có thể cứ tiêu hao thế sẽ khiến đối thủ sa vào bẫy rập gì đó.”

Ngọc Diện nhướng mày, vằn vện trên mặt vặn vẹo: “À, khó lắm. Nếu thật sự như thế, bản thân Ngân Hồ e rằng mới thực hiện được chứ để một hài tử thực hiện thì hơi khó, bất quá Ngân Hồ hành sự vẫn thế, chỉ theo ý thích cá nhân.”

Quả nhiên, Ngọc Diện mới nói xong, thế thủ của Trương Úy dần bị thế công dồn dập của Hoàn Lan xuyên thủng, một chiêu hơi chậm liền bị Hoàn Lan chém xéo một kiếm vào ngực, y phục rách toạc cả tấc, máu tươi trào ra.

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi không ngờ Hoàn Lan xuất thủ nặng như vậy, kinh hãi kêu lên. Không ngờ Hoàn Lan không dừng tay là đâm thêm một kiếm, Trương Úy chật vật đỡ được, tay áo bị cắt thêm một đoạn. Hoàn Lan chợt thu kiếm về: “Có mùi máu, ngươi bị thương hả?”

Trương Úy nhân cơ hội nhảy lùi lại, thoát khỏi vòng chiến, vòng tay: “Đúng, ta thua rồi, kiếm pháp của Hoàn Lan thật khiến người ta bội phục.”

Hoàn Lan không đổi sắc mặt: “Trương Úy, từ rày ta sẽ coi ngươi là đối thủ.”

Trương Úy bịt vết thương, mỉm cười: “Đa tạ.”

Tiêu Vô Cực lớn tiếng: “Thắng phụ đã định. Tạ điện giám còn gì để nói?”

Tạ Thượng xanh lét mặt mày, nhìn Hoàn Lan hỏi: “Hài tử, nhận sai hướng rồi, Trương Úy ở sau lưng ngươi cơ, lẽ nào nhĩ thức đã giảm đi rồi?”

Hoàn Lan theo ý thức quay người đi, nhận ra bị gạt liền vội quay lại, không nói gì.

Tạ Thượng chậm rãi bước đến trước mặt Hoàn Lan, xua xua tay, thấy mắt y không nháy liền hừ lạnh: “Nhãn thức bị phong bế, không nhìn thấy gì nữa, xem ra thiệt thức cũng đã bị phong bế nốt. Còn nữa thân thức của ngươi tất bị phong bế quá nửa, không cầm nổi cả kiếm mà dùng nội lực hút kiếm, đúng không?” Y chợt quay sang bảo Tiêu Vô Cực: “Giờ y chỉ còn nhĩ thức và tị thức để sử dụng, vài chiêu nữa là bại. Trương Úy tự nhận thua, chứ nếu đấu tiếp thì sao thua được.”

Tiêu Vô Cực cũng nói cứng: “Hoàn Lan không thu kiếm về, nhát kiếm tiếp theo sẽ lấy mạng Trương Úy, làm gì còn hai ba chiêu nữa.”

Tạ Thượng cười ha hả: “Hay, dùng âm mưu hoặc miệng lưỡi thì ta không lại ngươi. Nhưng ngôi chưởng môn Thục Sơn theo di huấn của Đọa Thiên đại nhân sẽ truyền cho người võ công tối cao, đấy là đạo lý.” Đoạn không cho Tiêu Vô Cực cơ hội, y xuất kiếm.

Tiêu Vô Cực biết tính Tạ Thượng nên đã phòng bị, thấy y tấn công liền vung kiếm nghênh đón. Hai thanh kiếm chưa va nhau, song phương đều bị kiếm khí của đối phương quét trúng, không tiến thêm nữa nửa tấc. Tạ Thượng lại biến chiêu chém xéo xuống, Tiêu Vô Cực một lần nữa xoay tay phòng ngự được.

Tân khách còn có người định ra can nhưng lúc này đều bị trận đối quyết giữa hai đại cao thủ hấp dẫn, nín thở quan sát cẩn thận. Những người ở gần vì cảm giác được khí lạnh từ kiếm khí tỏa ra, bị bức phải lùi lại mấy bước. Chỉ có Đường Mật và Bạch Chỉ Vi không để tâm vào trận tỷ võ, thương lượng xong liền chia ra, Bạch Chỉ Vi đến chỗ Trương Úy, Đường Mật đi tìm Hoàn Lan.

Lúc đó Hoàn Lan đã lui ra rìa, vì nhãn thức bị phong bế, không dám tùy ý động đậy, chợt nghe Đường Mật gội: “Đi ngay, cẩn thận bị kiếm khí quét trúng.” Đoạn thiếu nữ kéo tay y bước đi. Y cảm giác lướt qua đám đông, rõ ràng rất đông nhưng đều dễ dàng xuyên qua, không hề chạm vào ai, chỉ có tà áo phất qua. Tuy không nhìn thấy nhưng y biết Đường Mật dọn đường cho mình, lòng ấm hẳn, muốn nắm chặt tay nó nhưng thân thức cũng giảm đi, tay không còn nghe theo điều khiển.

Đường Mật kéo Hoàn Lan đến chỗ vắng người, hỏi đầy lo lắng: “Thế nào, vẫn không nhìn rõ hả, đầu to dùng tà thuật gì hả, có cần ta gọi y đến giải trừ không?”

“Không cần, khác hẳn với pháp thuật.” Hoàn Lan đáp, “ban nãy Trương Úy có bảo tình trạng này không kéo dài, chốc nữa sẽ hết.”

Đường Mật lúc đó mới yên tâm: “Bàn tay đó thật sự không cầm kiếm được nữa?”

Hoàn Lan gật đầu, biết Đường Mật và Trương Úy giao hảo rất thân, lòng thoáng bất an, giải thích: “Đúng, dùng nội lực hút kiếm rất hao nội lực, không duy trì được mấy chiêu, lại vì ta không nhìn thấy nên mới xuất độc chiêu.”

“Ừ, hiểu rồi, Hoàn Lan thắng rất tuyệt.”

Hoàn Lan máy động, chợt dấy lên dũng khí: “Đường Mật, gần đây ngươi luôn tránh ta hả?”

Nhất thời Đường Mật không biết nói gì, biết thằng nhóc này kỳ thật mẫn hơn hơn nó tưởng tượng nhiều, nhiều lúc không thể đối đãi với y như với trẻ con, tùy tiện giở bài ra là xong. Nó trầm ngâm một lúc: “Ta tránh vì có nhiều việc quan trọng cần giải quyết, trước khi xong ta không thể nghĩ đến những việc khác.”

Y trầm mặc, thông minh như y, tất nhiên hiểu ý. Một lúc sao, mắt y dần mơ hồ nhìn thấy tà áo đỏ, không hiểu sao lại hỏi: “Có phải nếu mắt ta không thấy gì thì ngươi sẽ ở cạnh ta mãi?”

“Sao đột nhiên lại hỏi chuyện này, có phải mắt không hồi phục được không?” Đường Mật hỏi, đưa tay khua khua trước mắt y, dáng vẻ cuống lên.

“Không, gần đây đọc nhiều sách quá, cảm giác mọi thứ hơi mơ hồ.” Hoàn Lan thuận miệng tìm lời giải thích.

“À, nếu cận thị thì phải tìm cách chưa ngay, hiện tại mới là giả cận thị.” Đường Mật nói với khẩu khí chuyên gia.

“Cận thị?”

“Ừ, đúng.” Đường Mật vừa nói vừa nhăn nhó: “Dạy các ngươi mấy động tác này vậy.” Rồi nó đặt ngón tay lên huyệt Tình Minh gần mắt để thị phạm, nghĩ ra Hoàn Lan không nhìn thấy gì, liền điểm lên huyệt của y: “Bảo vệ thị lực, dự phòng cận thị, đầu tiên là xoa huyệt này.”

“Đường Mật, lẩm bẩm gì thế hả?” Hoàn Lan không hiểu, nhận ra ngón tay thiếu nữ điểm lên mi tâm mà như đâm vào lòng mình khiến lòng y mềm hẳn lại.

“À, đúng rồi, còn nữa, từ nay ít ăn đồ ngọt thôi, dễ cận thị lắm.” Đường Mật tiếp tục nói.

“Ta không ăn đồ ngọt. Đường Mật, câu vừa nãy ta hỏi, ngươi còn chưa trả lời.”

“Ừ, đúng rồi, có thể là thiếu vi ta min nhóm B.”

“Cái gì cơ? Đường Mật, hỏi mà ngươi vẫn chưa trả lời.”

“Hả, hỏi gì ta? Vi ta min nhóm B thì ngươi ăn nhiều gan lợn là được.”

“Ta không hỏi chuyện đó mà…”

“Tiếp theo là giờ thứ hai, có học không hả? Không học thì ta đi đây.”

“Học.”

Thiếu niên đột nhiên nghĩ không hỏi thì thôi vậy, nếu cứ thế này cũng tốt.

Trong lúc Đường Mật cười nói, mắt Hoàn Lan dần nhìn thấy mọi vật, lúc đó cả hai mới nhớ ra còn hai cao thủ tuyệt đỉnh đang giao đấu, trước mặt có cả biển người ngăn cản, liền nhảy lên cây cổ thụ, chọn cành to ngồi xem.

Hoàn Lan cảm giác tình cảnh này quen quá, hai nắm trước, cũng vào ngày xuân thế này, y và nữ hài ngồi bên cũng lên cổ thụ ngoài Vô Lượng điện xem tỷ võ, thời gian qua như điện, hôm nay cả hai lại ngồi cùng một chỗ, cứ như túc mệnh luân hồi.

“Hoàn Lan, là chỗ này, hình như cả cây lá cũng thế.” Đường Mật chăm chú nhìn tỷ võ, tựa hồ vô tâm thốt ra một câu.

“Ừ.” Thiếu niên nhất thời không biết nên nói tiếp thế nào, lòng đột nhiên hớn hở.

Hai người tỷ võ đang giằng co ban đầu chúng nhân đều cho rằng Tạ Thượng có cơ hội thắng cao hơn, không hẳn vì y thành danh sớm hay là sư phụ của Tiêu Vô Cực, mà vì kiếm pháp ban nãy y dạy Trương Úy thật khiến người ta kinh ngạc. Ai cũng biết kiếm pháp và pháp thuật không thể đồng thời thi triển, đặc biệt là Thục Sơn kiếm pháp chú trọng dùng tâm lực ngự kiếm, nếu muốn phân tâm lực thi triển pháp thuật thì khác nào tự tìm đường chết. Chúng nhân đều hiểu pho kiếm pháp ban nãy cũng như pháp thuật có thể phong bế cảm quan của địch nhân, không cần tính tới tâm pháp và chiêu thức thế nào, chỉ nghĩ thôi cũng đủ lạnh mình, đại đa số mọi người nếu dùng võ công đó e rằng chưa mê loạn được địch nhân thì bản thân vì cưỡng cầu tâm lực chia đôi mà tự mê loạn trước.

Người võ lâm xem ở bên ngoài đều kinh thán trước việc Tạ Thượng trong vòng ba nén hương dạy được một kiếm đồng như thế, thầm kỳ vọng được thấy toàn bộ uy lực của pho kiếm pháp dưới tay y. Không ngờ Ngân Hồ đấu với Tiêu Vô Cực lâu như thế nhưng không sử dụng Ảo Loạn bát kiếm, chỉ dùng công ph


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.