Liễu Dật và Lang Vương đi vào trong Liên Hoa trấn, dọc đường y kể lại cho Lang Vương nghe những việc đã trải qua trong giấc mộng mười năm, từng lời từng câu làm cho Lang Vương kinh sợ, ngây ngẩn đủ đường, chỉ biết cảm thán cho nhân thế tang thương, đã biến một thư sinh trở thành Chân ma chi chủ.
Lang Vương hỏi tiếp: “Nay ngươi đã luyện thành ma công, tại sao không đi tìm người của Ma tộc ngay?”
Liễu Dật nói: “Đó chính là điều mà tại hạ muốn hỏi ngài, nghe nói mười năm qua đã xảy ra không ít sự tình, vì vậy tại hạ phải nhờ ngài chỉ điểm cho.”
Lang Vương cười nhẹ: “May thay ngươi không còn là kẻ lỗ mãng, không thì chắc chắn bị thiệt thòi.
Cần biết là bảy năm trước Ma môn tập kích và chiếm lĩnh được Thần Môn, sau đó tiền nhiệm môn chủ của Thần Môn là Quỳnh Phách dẫn đầu chín đại cao thủ đã quy ẩn của Thần Môn đoạt lại môn phái, từ đó tam giới đã thay đổi rõ ràng.”
“Tam đại môn phái của Tiên tộc với tam đại môn phái của Nhân gian giới hợp thành Nhân gian chính đạo, chính là một hình thức liên minh, không như một môn phái mới quật khởi, Nhân gian chính đạo không có chủ nhân, các cao thủ tập kết tại Côn Lôn sơn, thực lực không thể coi thường. Còn Ma tộc tam đại phái liên minh với môn phái mới quật khởi là Thiên thần đàm, hiệu xưng Ám chi ma đạo, các cao thủ tập kết tại Ma môn, còn có một lực lượng ẩn tàng phía sau Ma tộc là Quỷ tộc. Thiết nghĩ hiện tại Ma môn đã bố trí cơ quan, trận pháp vòng trong vòng ngoài, dù ngươi võ công cao, không thể tiến vào mà không bị phát hiện, may chăng ngươi giết chết được hai tên thủ lĩnh, cũng không thể trốn thoát được những người ở đó vây công, huống hồ thân phận hiện tại của ngươi là Chân ma, nếu như hành tung bại lộ, chọc giận Ma môn thì không thể đảm bảo chúng không kết hợp với Nhân gian chánh đạo, đến lúc đó người trong thiên hạ vây công, sợ rằng mối thù của ngươi khó mà báo nổi.”
Liễu Dật gật gật đầu.
Lang Vương nói tiếp: “Ngươi đã hồi sinh, không nên quá nóng lòng báo cừu, tránh sa vào ‘nhất thất túc thành thiên cổ hận’, với năng lực của chúng ta, cứ dần dần tiêu diệt tận gốc bọn chúng.”
Liễu Dật nói: “Đa tạ sư phụ đã chỉ điểm, Liễu Dật khẳng định không để cho bọn chúng chết một cách dễ dàng mà phải bắt chúng chịu mọi dày vò, từ từ chịu sự khủng bố của tử vong.”
Lang Vương nói tiếp: “Nếu quả thật chúng ta cần phát triển thế lực cần phải có hai thứ.”
Liễu Dật hỏi: “Là gì?”
Lang Vương đáp: “Thứ nhất, chúng ta phải có một cứ điểm, Vĩnh Hằng chi thành mà ngươi đã nói, chúng ta cần phải biến nó thành thực sự tồn tại. Thứ hai, chúng ta cần phải có người trợ giúp, nên biết rằng như thế sẽ bớt được nhiều phiền phức, khiến cho việc báo thù của ngươi nhẹ gánh hơn.”
Liễu Dật hỏi tiếp: “Sư phụ, hiện tại chúng ta nên làm gì?”
Lang Vương đáp: “Ta đi tìm Bạch Hổ, Kỳ Lân thuyết phục bọn họ, còn cả tộc nhân của ta, ngoài ra ta biết có một vị cao nhân luyện khí đang ở ẩn trong Liên Hoa trấn này, nguơi đên mời ông ta cùng sáng lập Vĩnh Hằng chi thành.”
Liễu Dật vâng lời: “Cũng tốt, chúng ta chia ra hành động, hiệu suất sẽ cao hơn.”
Lang Vương gật đầu: “Phía trước là Liên Hoa trấn rồi, có điều ta không có một chút manh mối về vị cao nhân này, đành từ từ tìm kiếm, Liên Hoa trấn không lớn, nhưng người không hề ít, không dễ tìm ra đâu.”
Liễu Dật gật đầu nói: “Tại hạ nhất định sẽ tìm được ông ta, được rồi, sư phụ đi đi.”
Lang Vương gật đầu, nói: “Vâng, ma chủ” đoạn quay người phất chiết phiến, ngự khí bay thẳng lên mây.
Liễu Dật đặt tay trái lên Bi Mộng Kiếm, tay phải buông thõng sau lưng, ngửa đầu nhìn trời than:
“Biển xanh đổi thay, tấm lòng si tưởng bay theo gió, bao lần chìm nổi, mười năm như giấc mộng, không nghĩ đến hôm nay y thư sinh lại quay về Liên Hoa trấn này.”
Liên Hoa trấn, mười năm đã trôi qua càng thêm vẻ phồn hoa, Liễu Dật thơ thẩn, người thì đông quá, làm sao y tìm được cao thủ luyện khí đó giữa bao nhiêu là người như thế này? Lại không có một manh mối, có khác nào mò kim đáy bể.
Đột nhiên, trước mắt y loé lên một đạo hồng quang, một thân ảnh quen thuộc lướt qua, nàng là ai?
Liễu Dật chuyển thân, thấy dưới cây hoa đào bên cạnh đường lớn, có một vị thầy bói, tâm niệm biến đổi, đột nhiên nhớ đến một điều gì đó.
Y đến ngồi dưới gốc cây hoa đào, bắt đầu bắt chước vị đoán mệnh tiên sinh, y nói: “Trên đoán trời, dưới đoán đất, đoán được cả quá khứ tương lai đây…” Vào lúc đó, một hắc y thiếu nữ đi qua trước mắt y.
Thân ảnh quen thuộc xiết bao, đúng là nàng, hắc y thiếu nữ trước mắt toàn thân vận kình trang, khăn tơ màu xanh đen được quấn chặt để bảo vệ cổ tay phải, tai trái thì không có gì che lại, rờ rỡ nước da ngăm đen mượt mà, y phục màu đen bó phần thân trên làm nổi bật các đường cong hoàn mỹ, để lộ ra ngoài một cách tự nhiên vòng eo mảnh khảnh và trơn mượt, thân dưới mặc đoản quần màu đen, cặp chân dài tuyệt mỹ đi một đôi giày da trâu màu đen cao đến đầu gối, tóc mai buông xuống bờ vai khiến mỗi khi nàng cất bước càng gia tăng thêm vẻ tiêu sái, động lòng người, tay nàng cầm một thanh kiếm đẹp đẽ lạ thường, cán kiếm màu bạc sẫm càng làm tôn thêm vẻ cao quý.
Không phải Thất Nguyệt thì là ai? Y phục vẫn như xưa, chỉ là nhan sắc đã biến đổi, mười năm không gặp, Thất Nguyệt trở nên xinh đẹp hơn, mê người hơn.
Liễu Dật kêu lớn: “Vị cô nương này, tại hạ thấy cô bước đi mông lung, thần sắc u ám, phải chăng có tâm sự? Để tại hạ giải tỏa cho cô nương.”
Thất Nguyệt dừng bước, dưới gốc hoa đào có một nam tử hắc y bạch phát, trên mặt đeo khăn màu trắng bạc, chỉ thấy được đôi mắt đang nhìn nàng.
Thất Nguyệt nhìn Liễu Dật, hỏi: “Ông là toán mệnh tiên sinh?”
Liễu Dật gật đầu: “Chính thị, tại hạ thấy hình như cô nương có mối thương tâm, có lẽ vì tưởng nhớ cố hữu mới đến Liên Hoa trấn.”
Thất Nguyệt nghe xong, thình lình bước tới, nhẹ nhàng ngồi xuống đối diện Liễu Dật, gật đầu: “Tiên sinh nói đúng đó.”
Chỉ mấy lời của Thất Nguyệt đã làm tim Liễu Dật đập thót một cái, y đã đoán đúng, nha đầu ngốc này cũng giống với Lang Vương, vẫn không quên y, đến đây để thăm viếng.
Liễu Dật nói tiếp: “Tại hạ nghĩ người mà cô nương đi tìm, thì có phải là người cô nương yêu thương?”
Thất Nguyệt càng lấy làm kinh ngạc, nhìn vị toán mệnh tiên sinh, gật gật đầu.
Liễu Dật trong lòng máy động, nói tiếp: “Chắc người mà cô nương đem lòng thương yêu, hiện giờ đã sang một thế giới khác, nhưng cô nương vẫn không quên được?”
Thất Nguyệt đáp: “Tại sao tiên sinh biết hết?”
Liễu Dật đảo mắt, không để lộ biểu tình, Thất Nguyệt nghĩ, có lẽ vị tiên sinh này đang tự cười thầm.
Liễu Dật nói tiếp: “Nếu tại hạ không biết, làm sao gọi là toán mệnh tiên sinh được?”
Y lại hỏi: “Cô nương đã bao giờ tự hỏi là mình có thực sự yêu y chưa? Cô nương có thể nói cho tại hạ ái tình là gì chăng?”
Thất Nguyệt nở nụ cười đẹp đẽ thê lương, phảng phất như thánh nữ trên trời: “Ta chỉ tình nguyện yêu đơn phương, làm gì có tư cách nói tình yêu là gì?”
Liễu Dật lắc đầu: “Tình ái thì không có giới hạn, trong lòng cô nương thích tức là yêu rồi, cô nương cứ nói ra, tại hạ giải đáp cho. ”
Thất Nguyệt nhìn y, vừa nghĩ vừa nói: “Ta cũng không rõ, mơ hồ lắm, giống như là một sự việc xảy ra trong chớp mắt, trái tim đập nhanh, đó là một loại cảm thụ, làm ta dù thống khổ lại thấy hạnh phúc, có lẽ đó là một cảm giác làm tim ta tan nát nhưng lại thấy ngọt ngào, hoặc giả… đó là trải nghiệm, hủy hoại ta nhưng ta lại thấy mỹ lệ.”
Liễu Dật cảm thấy trái tim như bị níu giữ, thật ngột ngạt, nhìn vào đôi mắt nàng, tựa hồ nhớ tới một việc nào đó: “Cô nương thấy thế có đáng không?”
Thất Nguyệt cười nhè nhẹ: “Đáng hay không đáng, không thể dùng mấy từ để đánh giá, trong tình yêu, ta đã học hỏi được rất nhiều, có lẽ yêu là bao dung, khi nhìn thấy y và người y yêu cùng chết một chỗ, ta thì rất cao hứng, hoặc giả yêu là phải biết buông tay.”
Y đột nhiên hiểu rõ, mặc dù giữa ma và người có sự phân biệt, chỉ có một điều không phân biệt, đó là tâm, ma có thể có nhân tâm, người cũng có thể có ma tâm.
Thất Nguyệt đột nhiên đưa ra một đĩnh nguyên bảo: “Tiên sinh, thuật đoán của ngài thật chính xác, ngài có thể đoán giúp ta một việc, y ở thế giới kia có khỏe không?”
Liễu Dật nhìn nén bạc, lại nhìn vào ánh mắt đầy hy vọng của nàng, y thực sự không muốn làm tổn thương nàng nên gật đầu.
Y vung mạnh bàn tay phải đeo găng tay da màu đen ra, chớp đã quán thâu chân lực Lan Nhĩ Phi Na, từ lòng tay cuộn lên luồng gió xoáy cuốn tung những cánh hoa quanh gốc đào lên cao, khi y dừng tay lại, bốn mươi chín cánh hoa đào theo thế bắc đẩu thất tinh được bày ra ngay ngắn.
Y nhìn cánh hoa, lắc đầu nói: “Y ở thế giới kia cũng không lấy gì làm tốt đẹp, tịnh không ở cùng với Cát Lợi Nhi, lão trời già đáng chết đã chia cắt bọn họ ra hai thế giới khác nhau.”
Thất Nguyệt nhìn cánh hoa trên mặt bàn, nhẹ nhàng cất tiếng: “Mười năm rồi, mỗi khi đêm khuya vắng người, ta luôn cầu nguyện, chúc phúc cho y. Nhưng hiện nay y không được hưởng phúc thì ông trời thật đáng chết.”
Thất Nguyệt bất ngờ lấy thêm một nén bạc, nói: “Tiên sinh, ta thỉnh cầu ngài bói cho ta một điều cuối cùng, ta muốn biết y… y ở thế giới đó có lúc nào nghĩ tới ta không, giúp ta đoán nốt việc này, nghĩ đến một lần là được rồi.” Ánh mắt chứa chan hy vọng.
Liễu Dật nhìn vào mắt nàng, thực tâm không muốn làm nàng đau lòng, tay phải phất nhẹ một cái, một luồng gió nổi lên cuốn bay những cánh hoa, rơi tan tác xung quanh…
Thất Nguyệt nhìn vào hình xép của những cánh hoa trên mặt bàn, không thể kìm nén nỗi đau trong lòng, nước mắt lã chã rơi, gió ngừng, hoa rụng, trên mặt bàn hiện lên một chữ “nhớ.”
Liễu Dật nhìn nàng rơi nước mắt, bỗng thấy trong lòng trỗi lên cảm giác xót xa: “Nếu tại hạ đoán không nhầm, y từng nói một câu với cô nương.”
Thất Nguyệt vội gạt lệ: “Câu nào cơ?”
Liễu Dật nói tiếp: “Tìm lấy một người mà cô nương yêu, và người đó cũng yêu cô nương, cùng sống thật hạnh phúc.”
Thất Nguyệt đột nhiên nở nụ cười đẹp đẽ thê lương, cười mà rơi nước mắt, càng khiến người ta có cảm giác lòng nàng đang quặn đau: “Sao tiên sinh biết được? Y cũng từng nói một câu, cuối cùng thì bây giờ ta cũng hiểu.”
Liễu Dật lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Y nói gì?”
Thất Nguyệt nhìn mắt y, ngừng lại một chốc rồi nói tiếp: “Khi trong lòng khắc ghi hình bóng của một người, làm sao có thể chứa đựng hình bóng của một người khác? Đa tạ tiên sinh, nhìn thấy chữ đó, ta đã thỏa mãn nhiều rồi”. Nói xong, nàng quang người lướt nhanh về phía trước.
Liễu Dật hiểu rằng, nàng đang đau lòng, bây giờ nàng muốn tìm một nơi yên tĩnh khóc thật to cho vơi bớt nỗi niềm…
______________________
(1): Lệ rơi vỡ quả tim vàng, hoa đào năm cũ đã tàn còn đâu. / Lòng tan nát, người xưa rơi lệ hoa đào ba