Lang Nha Bảng

Q.3 - Chương 56 - Chu Huyền Thanh

trước
tiếp

Năm mới sắp tới, cuối cùng ba người Tiêu Cảnh Duệ, Ngôn Dự Tân và Tạ Bật cũng từ Hổ Khâu trở về kinh thành. Vừa về được một hôm, bọn họ đều giật mình khi thấy mình mới rời khỏi kinh thành hơn một tháng mà kinh thành đã gần như thay đổi, so với trước kia náo nhiệt đến nỗi gió thổi mây giăng [1].

[1] Nguyên văn Hán Việt của “Gió thổi mây giăng” là “Phong khởi vân dũng”: Thành ngữ Trung Quốc, diễn tả một sự việc phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và hùng vĩ.

Thái tử và Dự vương tranh giành, kỳ thật mấy năm gần đây bởi vì thực lực hai bên tương đương nên đã lâm vào bế tắc, ngoài mặt vẫn sóng yên biển lặng, đôi bên chưa có hành động gì nhưng chỉ cần một tác động nhỏ, cuộc chiến liền nhanh chóng nổi lên. Việt phi bị giáng tước, Lâu Chi Kính rơi đài, Khánh quốc công bị tịch biên nhà cửa, Hà Văn Tân bị phán trảm… Sự kiện này nối tiếp sự kiện kia thật làm người ta không ứng phó nổi. Nay, Việt phi phục hồi nguyên tước, liền có mấy tên Ngự sử đứng ra vạch lỗi bộ Lễ sắp xếp, chủ trì nghi thức tế lễ không chu toàn, Dự vương thừa cơ đứng ra mời mười vị đại Nho đức cao vọng trọng cùng nhau đề xuất kiến nghị lên triều đình, dị nghị mấy năm qua đãi ngộ đối với Việt phi đã vượt xa luân thường, về lễ nghĩa Thái tử không đủ hiếu thuận đối với Hoàng hậu.

Những chuyện khác tạm thời không nói, chỉ riêng việc Dự vương mời được mười vị lão tiên sinh này tái xuất đã chứng tỏ thực lực của hắn độ nào, có thể thấy mấy năm qua hắn kính trọng văn sĩ quả không uổng phí, đã thu phục được không ít lòng người. Trong số đó có một vị đã ẩn cư tại chùa Linh Ẩn ở phía Tây kinh thành nhiều năm là Chu Huyền Thanh lão tiên sinh. Ông ấy mới thật sự là người nặng ký nhất, xưa nay bất luận là hoàng thất hay công khanh muốn gặp ông cũng vô cùng khó khăn, vậy mà lần này ông lại di động đại giá, đích thân tới thành Kim Lăng, buộc người ta phải nhìn nhận lại tiềm lực của Dự vương bằng cặp mắt khác.

Song có một điều kỳ lạ là, sau khi vị Chu lão tiên sinh này vào kinh đã cố ý không tới ở trong Lưu Hạc Viên, nơi mà Dự vương an bài cho nhóm đại Nho cư ngụ, mà lại tới ở trong phủ Mục vương.

Theo một số tin tức lộ ra, dường như khi Chu lão tiên sinh khởi hành từ chùa Linh Ẩn là do Mục tiểu vương gia đích thân đánh xe đến đón, hơn nữa từ lúc đến Mục phủ chưa gặp qua bất cứ ai, cho dù Dự vương cũng không ngoại lệ.

Thế nhưng người mời Chu Huyền Thanh lão tiên sinh rốt cuộc là ai, ông gặp qua những ai đã chẳng còn quan trọng, mà trọng yếu nhất là ông ấy đã lấy danh phận đại danh dĩ thượng tấu lên triều đình kiến nghị Lương đế về những đãi ngộ vượt quá lễ nghi, với trình độ học vấn uyên thâm, luận cứ chặt chẽ, không phải là người tài năng vượt trội thì đừng vọng tưởng biện luận với ông. Chính vì thế bộ Lễ khó lòng ứng phó được, cho dù là người hết sức lông bông như Ngôn Dự Tân cũng đoán được kết cục đại bại của Thái tử.

Cuối cùng trận biện luận trên triều giằng co suốt ba ngày mới hạ màn, Việt phi tuy vẫn được phục vị song trong buổi tế lễ không được cùng Hoàng đế Hoàng hậu bước lên đàn tế bái, khi Thái tử rưới rượu tế thiên sẽ quỳ xuống đất vuốt váy áo Hoàng đế Hoàng hậu; bộ Lễ thất trách, Trần Nguyên Thành bị cắt chức nhưng niệm tình tuổi tác đã cao nên cho phép giữ lại sĩ diện, tự mình cáo lão về quê. Và thân phận Thái tử là con vợ lẽ bị Dự vương cường điệu nói xa nói gần, dèm pha trước mặt triều thần, cực kỳ xấu hổ, hắn nhất thời không kìm chế được đã vung tay tát Dự vương một cái để rồi bị Lương đế trách mắng thậm tệ trước triều đình. Trong cục diện hỗn loạn đó, các hoàng tử chỉ duy có Tĩnh vương vẫn lặng lẽ bàng quan, từ đầu đến cuối tỏ ra phong thái không quan tâm, không muốn hơn thua được mất ngược lại thu hút sự chú ý và để lại không ít ấn tượng tốt trong lòng bá quan văn võ.

Cứ như vậy, bộ Hộ đổi chủ chưa bao lâu, bộ Lễ liền trở thành Bộ thứ hai đổi chủ.

Khi thấy tóc Trần Nguyên Thành đã điểm sương, tay run lẩy bẩy tháo chiếc mũ đã đội gần hai mươi năm, bàn tay giấu sau lưng của Tĩnh vương bất giác nắm chặt đến tái nhợt nhưng thần sắc thản nhiên, tựa hồ cảm xúc sẽ vĩnh viễn không còn có thể xuất hiện trên gương mặt thanh tú đó.

Nhưng đối với đại đa số người, có một chuyện vốn dĩ bọn họ không hề biết, phía sau sự kiện lần này cư nhiên tồn tại một Tô Triết, người mà từ đầu đến cuối đều tỏ vẻ thản nhiên không chút can hệ.

Tuyết ngừng rơi hai ngày chẳng những không thể giúp nhiệt độ khá hơn, mà do sáng sớm trời không mây nên tiết trời càng thêm rét lạnh. Cửa thành vừa mở, binh sĩ giữ cửa đã nhìn thấy một chiếc xe ngựa cực kỳ xa hoa được khoảng trăm tên kỵ sĩ hộ tống vội vã chạy ra.

Cho dù không nhận ra huy hiệu trước xe ngựa của phủ Mục vương, cũng có thể đoán biết người kia không phải người bình thường, tên thủ lĩnh lập tức bảo thuộc hạ nhường đường, cung kính cúi người nghênh đón đoàn người rời khỏi kinh thành.

Bởi vì thời tiết rất lạnh, người đánh xe hô hấp nhả ra từng ngụm khí trắng, nhưng được cái màn che rất dày, bên trong xe lại có lò sưởi nên không lạnh bao nhiêu.

Ngồi trong xe là hai người khách, một người cao tuổi, một người vẫn còn là thiếu niên, một vị mặc áo vải bông mang giày vải, một vị mặc áo gấm đầu đội mũ ngọc. Lão giả nhắm mắt dưỡng thần, suốt đường đi dường như thiếu niên cảm thấy nhàm chán, không ngừng nhích tới nhích lui.

“Chu gia gia, người không uống trà sao?”

Lão giả chẳng mở mắt, lắc lắc đầu.

Một lát sau, “Chu gia gia, người ăn một chút bánh nhé?”

Lão giả im lặng biểu hiện từ chối.

Qua một lát nữa, “Chu gia gia, người có muốn dùng một chút mứt gừng không?”

Rốt cuộc Chu Huyền Thanh cũng mở mắt nhìn hắn một cái. Mục Thanh mỉm cười thân thiết, cầm miếng mứt rừng đưa tới: “Cái này ăn ngon lắm.”

Trên gương mặt nghiêm nghị của Chu lão tiên sinh toát lên khí chất thanh khiết uy nghi làm người ta cảm thấy kính nể, vậy mà Mục tiểu vương gia Mục Thanh cố tình lơ đi khí chất này. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, hắn đã coi lão tiên sinh như một vị lão gia gia bình thường, nhất là khi Chu Huyền Thanh hùng biện khiến tất cả đối thủ á khẩu ở trên triều làm cho hắn vô cùng cao hứng mới đem ấn tượng ban đầu điều chỉnh thành ‘Một vị lão gia gia bình thường rất rất hiểu biết.”. Chính vì vậy mỗi ngày ở chung hắn luôn lấy thân thiết làm chính, khiêm tốn lễ độ làm phụ, hoàn toàn không có nửa điểm khách sáo.

Mục tiểu vương gia thiếu niên tuấn tú, năng động hoạt bát, không có chút gì kiểu cách ra vẻ địa vị vương gia, là một vãn bối đáng yêu đương nhiên Chu Huyền Thanh rất thích hắn, chẳng qua tính cách nghiêm túc nên thoạt nhìn vị lão nhân gia vẫn thản nhiên. Mục Thanh chìa miếng mứt gừng tới tận miệng, ông vẫn lắc đầu từ chối, không lộ ra chút thái độ gì đặc biệt.

“Không có dính răng đâu.” Mục Thanh tận tình giới thiệu, “Ăn một miếng được không?”

“Tiểu vương gia ăn một mình đi.” Chu Huyền Thanh lãnh đạm nói một câu, ông khẽ nheo mắt nhìn những dây tua gắn trên cửa xe, lặng im một lát mới đột nhiên hỏi: “Tiểu vương gia, tín vật đó, lão hủ có thể xem một lần nữa hay không?”

“À,” Mục Thanh nuốt vội miếng mứt gừng, cầm một chiếc khăn tay bên cạnh lau đi lớp đường dính trên tay rồi mới đưa tay vào lồng ngực lục tới lục lui một lúc lấy ra một chiếc bao vải bố nho nhỏ, đưa cho Chu Huyền Thanh.

Mở nút thắt ở miệng bao vải, trút ngược xuống lòng bàn tay, một con ve sầu bằng ngọc liền rơi ra, ve chạm trổ sống động, chất ngọc sáng bóng tuyệt mỹ, vừa nhìn qua đã biết là ngọc quý giá trị liên thành.

Bất quá đối với Chu Huyền Thanh thì ý nghĩa của con ve ngọc không nằm ở mặt giá trị liên thành của nó.

“Tiểu vương gia, ngài nói, người bảo ngài mang con ve ngọc này đến gặp ta đang ở ngoài thành chờ ta sao?”

Mục Thanh gật gật đầu, “Trên thư y nói như vậy. Nói là khi người rời kinh trở về chùa Linh Ần, y sẽ tới gặp người một lần.”

Chu Huyền Thanh “Ừ” một tiếng, ngón tay khép lại, nắm chặt con ve ngọc trong lòng bàn tay, nhắm mắt không nói.

Ước chừng sau nửa canh giờ, xe ngựa giật nảy lên một cái rồi ngừng lại, Mục Thanh xốc màn xe lên nhìn thoáng qua rồi quay đầu lại nói: “Chu gia gia, người mà người muốn gặp đến rồi.”

Hàng lông mi trắng của Chu Huyền Thanh lay động, run run níu vào tay Mục Thanh bước xuống xe ngựa, nhìn quanh một lượt thấy một nam nhân trung niên đang đi tới, lớn tiếng nói: “Chu lão tiên sinh, Tông chủ nhà ta chờ người đã lâu, thỉnh lão tiên sinh dời bước.” Nói xong, hắn liền thay Mục Thanh đưa tay ra đỡ cánh tay lão nhân gia, cẩn thận dìu ông đi qua bên đường, qua một khúc quanh tới một khe núi chắn gió, Mai Trường Tô tóc đen, mặc áo hồ cừu trắng đứng ở đó mỉm cười, khoan thai khom người thi lễ.

Chu Huyền Thanh nheo nheo mắt, tỉ mỉ đánh giá y một lượt, mở nắm tay đang bóp chặt ve ngọc ra, hỏi: “Con ve ngọc này là của ngươi?”

“Vâng ạ”

“Từ đâu ngươi có?”

“Là được Lê Sùng Lê lão tiên sinh tặng.”

“Lê Sùng là gì của ngươi?”

“Tại hạ từng theo học Lê lão tiên sinh.”

Chu Huyền Thanh cau mày, nói tiếp: “Năm đó, Lê huynh là Thái phó, không phân biệt bình dân, mở một trường học ngoài cung tận tình dạy dỗ, môn hạ đệ tử không có một vạn cũng đến tám ngàn, có thể nói trải khắp thiên hạ. Nhưng xét sâu xa thì người có thể để hắn đắc ý cũng không có được mấy người, lão hủ và hắn là bạn học, giao tình không quá mức thâm sâu nhưng những người đó ta đều biết mặt, còn túc hạ… Lão hủ mới gặp lần đầu…”

Mai Trường Tô cười mỉm: “Tại hạ học nghệ không tinh làm xấu hổ danh tiếng ân sư, thời gian theo học không lâu, lão tiên sinh không biết vãn bối là chuyện đương nhiên.”

Chu Huyền Thanh ngưng mắt nhìn y thật lâu, thở dài đáp: “Thôi, ngươi có tín vật của Lê huynh, lão hủ tự nhiên hổ trợ, chỉ là chưa từng nghĩ cách biệt mấy năm, nay gặp lại ve ngọc lại vì chuyện trong triều… Năm đó Lê huynh bị giáng chức rời kinh, ưu uất phát thệ vĩnh viễn không trở lại, lão hủ không biết lần này thượng triều có hợp tâm ý của hắn hay không…”

Ánh mắt Mai Trường Tô phẳng lặng, điềm đạm nói: “Ngày đó ân sư bị hoạch tội chỉ vì bất bình nói thẳng nên bị liên lụy. Người biết rõ làm trái mặt rồng nhưng vẫn lời ngay nói thẳng, không hề hối tiếc, đó chính là khí khái chân chính của một đại gia danh sĩ. Cho nên vãn bối nghĩ rằng, cái gọi thế sự vạn vật, vốn dĩ không thể lường được. Ẩn cư núi rừng hay trở về triều đình hào nhoáng, chỉ cần tâm như gương sáng, không làm trái luân thường, không hồ ngôn loạn ngữ, thì cần gì chấp nhất bản thân đang ở nơi đâu?”

Hàng mày trắng của Chu Huyền Thanh nhướn nhẹ, đôi mắt mờ vì tuổi già đột nhiên lóe sáng, gật đầu nói: “Mặc dù ngươi theo học hắn không bao lâu nhưng lại hiểu rõ hắn như thế, xem ra hắn đem ve ngọc này tặng cho ngươi cũng là tuệ nhãn. Không biết ngươi có hiểu ngụ ý của Lê huynh khi tặng ngươi ngọc này chăng?”

Mai Trường Tô từ từ khoanh tay, khẽ ngẩng đầu giương cằm suy tư, trầm ngâm nói: “Lộ trọng phi nan tiến, phong đa hưởng dị trầm. Vô nhân tín cao khiết, thuỳ vị biểu dư tâm?” [2]

[2] Bốn câu này là bốn câu cuối trích trong bài thơ Tại Ngục Vịnh Thiền, nghĩa là Trong Ngục Vịnh Ve Sầu của Lạc Tân vương thời nhà đường. Bài thơ làm ra vào năm thứ 3 Nghi Phong (678) đời Cao Tông. Đương thời Lạc Tân vương đang nhậm chức Thị ngự sử, vì dâng sớ bàn luận sự việc chạm đến Võ hậu (Võ Tắc Thiên), bị dèm pha, vu vào tội tham nhũng giam vào ngục. Bài thơ thể hiện nỗi ưu uất, cô đơn khi bị hàm oan.

Tây lục thiền thanh xướng,

Nam quan khách tứ thâm.

Bất kham huyền mấn ảnh,

Lai đối bạch đầu ngâm.

Lộ trọng phi nan tiến,

Phong đa hưởng dị trầm.

Vô nhân tín cao khiết,

Thuỳ vị biểu dư tâm?

Dịch nghĩa:

Mái Tây nghe ve kêu

Cửa Nam ngẫm trăm điều

Bóng đêm kham chẳng được

Tóc trắng đành tỉ tê

Sương nặng khôn bay nhảy

Gió đưa tiếng vọng về

Ai người trong trắng nhỉ

Để tỏ nỗi ủ ê

Nguồn: http://amvc.free.fr/Damvc/Nam%20Dao/Tho/ThoDuong/1SoDuong.htm

Chu Huyền Thanh khép nhẹ mắt, lắng đọng nỗi lòng thật lâu không phát ra một tiếng động, trong khi thần sắc Mai Trường Tô bình tĩnh, lơ đãng nhìn về phía chân trời không nói lời nào. Hai người đứng dưới cái lạnh lay lắt, vắng lặng của mùa đông không lên tiếng, lại không có chút gì ngượng ngùng, phảng phất như thể muốn yên tĩnh hoài niệm một chút về những năm tháng quá khứ xa xôi.

“Khi còn sống, được gặp cao đồ của Lê huynh, âu cũng đã mãn nguyện,” Chu Huyền Thanh chậm rãi thả ve ngọc vào tay Mai Trường Tô, nói thì thầm, “Lão hủ không biết túc hạ đến kinh thành vì đại nghiệp lớn lao gì, ta chỉ hy vọng ngươi chớ quên thanh danh liêm khiết của ân sư ngươi, mong ngươi tự mình bảo trọng.”

Sắc mặt Mai Trường Tô cung kính, khom người nói: “Lời hay của tiên sinh, vãn bối xin ghi nhớ. Mùa đông lạnh giá, lão tiên sinh không ngại tuổi cao, vì bạn cũ không ngại đạp tuyết đường xa, vãn bối thật sự cảm kích.”

Chu Huyền Thanh khoát tay áo đáp: “Thấy ve ngọc, đừng nói là vào kinh một chuyến, cho dù có bảo lão hủ đến biên thùy xa xôi cũng không có gì khó. Nay việc ngươi phó thác đã thành, lão hủ cũng phải về chùa thanh tu, từ biệt tại đây.”

Mai Trường Tô nâng tay ý bảo người hộ vệ trung niên đang đứng cách mấy trượng bước tới đỡ ông, đồng thời hạ người thật sâu hành lễ: “Thỉnh lão tiên sinh đi thong thả.”

Chu Huyền Thanh “Ừ” một tiếng, nương vào tay người hộ vệ xoay người đi được vài bước, chợt dừng chân, quay đầu lại nói: “Năm đó Lê huynh có một học trò yêu quý, tuy là hậu nhân nhà tướng, tính tình háo thắng nhưng là kỳ tài thông minh hiếm gặp, đọc hơn vạn cuốn sách, nếu lúc đó ngươi cũng ở đó, nói không chừng ngươi và hắn có thể gọi là Song bích đương thời.”

[3] Chỗ này Chu tiên sinh đang kể về ai đó, không biết cả nhà có biết không ta? Hi hi, Song bích ý chỉ: hai người họ tài hoa tuyệt thế, như hai viên ngọc quý.

Màu da tái nhợt của Mai Trường Tô dưới cái lạnh càng nhợt nhạt hơn băng tuyết, môi nở ra nụ cười thanh lãnh, nói khẽ: “Lão tiên sinh quá khen. Nhân vật như thế, chỉ hận vãn bối vô duyên không thể được chiêm ngưỡng phong thái đó.”

“Phải rồi… người nọ… Sẽ không thể nào gặp lại được nữa…” Chu Huyền Thanh thong dong nói, trong mắt hiện lên một chút bi thương, quay người rời đi không một lần nhìn lại.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.