Kỳ nhân dị sĩ — –
Nàng tự giảng:
– Hai câu có nghĩa từ Ân tới Chu cai trị Trung-nguyên, vàng ngọc súc tích. Hai câu này không có gì lạ.
Nàng đọc xuống hai câu dưới:
Trung-nguyên thống nhất, A-phòng cháy.
Đuổi hươu, Đông thành, Tây ra đi.
– Phải rồi hai câu này ý nói Tần thống nhất thiên hạ, rồi bị Hạng-Vũ diệt, đốt cháy cung A-phòng. Bấy giờ anh hùng thiên hạ nổi lên tranh nhau giang sơn, ví như đuổi con hươu. Đông tức Hạng Vũ. Lưu Bang lập nhà Tây Hán tức Tây. Như vậy câu sau ý nói Hạng Vũ thắng Lưu Bang.
Nàng đọc hai câu tiếp:
Đại phong một trận, anh hùng tận,
Châu bảo Vị-ương, lửa bốn bề.
– Sau khi Lưu Bang thắng Hạng Vũ, trở về quê làm bài thơ Đại-phong. Lưu đem châu bảo thời Ân, Chu, Tần cất ở điện Vị-ương. Rồi cuối đời Tây Hán, Vương Mãng làm phản. Y đốt cháy điện Vị-ương.
Nàng đọc tiếp:
Động-đình, Yên-Lãng, Nghi-Hòa đến.
Khúc-giang, sóng dậy, muôn đời ghi.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
– Đoạn này ý nói công chúa Yên-Lãng Trần Năng và hai công chúa Nghi-hoà Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa đào kho tàng ở hồ Động-đình lên, rồi chở về Khúc-giang. Nhưng chữ sóng dậy với muôn đời ghi ý chỉ gì?
Nàng chợt nghĩ đến những thuật ngữ:
– Sóng nghĩa là núi cao. Dậy nghĩa là hang sâu. Muôn là mười vạn. Một vạn trong thuật ngữ là một trăm. Vậy muôn thành con số một nghìn. Cả hai câu này ý nói: trong núi cao nhất, có hang sâu. Còn một nghìn là gì nhỉ?
Nàng mở bản đồ vùng Khúc-Giang ra. Này sông, này núi, trùng điệp. Nhìn một lượt nàng nghĩ thầm:
– Ta phải tìm núi nào cao nhất mới được!
Không khó khăn, nàng tìm ra giữa thung lũng gần núi Ô-thạch có ngọn Tuyệt-phong cao nhất. Nàng nhủ thầm:
– Ta phải thám thính ngọn Tuyệt-phong xem sao.
Đến đấy mệt mỏi, nàng bỏ sách vào bọc, mở cửa ra ngoài, ngồi nghe Thiệu-Thái, Lê Đức bàn truyện Lạc-long giáo.
Chợt một giáo đồ giữ trọng trách gác đầu thuyền vào cúi rạp người xuống trình với Lê Đức:
– Trình trưởng lão. Bên ngoài có một con thuyền nhỏ. Trên thuyền chứa bốn người. Ba người nằm ngủ, không rõ mặt. Một người đội nón buông câu. Thuyền đậu sát thuyền ta. Thuộc hạ đuổi, mà hắn không chịu đi. Xin trưởng lão định liệu.
Thiệu-Thái bảo y:
– Tuyệt đối tránh đụng chạm. Chúng ta đang ẩn thân. Tôi với Lê trưởng lão ra ngoài xem sao.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức ra đầu thuyền quan sát. Con thuyền mui che một nửa. Trong lòng thuyền trải chiếu, có ba người cuộn chăn nằm ngủ gáy khò khò. Còn một người ngồi buông câu. Cái nón che mất mặt, không hiểu y già hay trẻ.
Một giáo chúng nói:
– Này thuyền ai kia, lui ra chỗ khác. Tại sao lại cứ sán đến bên thuyền ta mà câu?
Người câu im lặng không trả lời. Y móc trong bọc ra một ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu véo von vọng đi rất ra. Hết bài tiêu, y cất cao giọng ngâm:
Thương-lang chi thủy thanh hề,
Khả dĩ trạc ngã anh.
Thương-lang chi thủy trọc hề,
Khả dĩ trạc ngã túc.
Ngâm xong, y ngâm sang tiếng Việt:
Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước chảy phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Rồi y lại cầm tiêu thổi. Lần mày y thổi bản Động-đình ca.
Tên giáo chúng cầm cây sào gõ vào nón ngư nhân. Y ngửa mặt nhìn lên, rồi nói một mình:
– Trời đất ôi! Xưa Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung khi còn làm nghề nặn nồi bán, bị bọn ngu xuẩn kẻ chợ khinh khi. Lúc chưa đạt vận Khương thái công, Hàn Tín đi câu cá, chúng nhân người trần mắt thịt coi thường. Nay ta câu cá trên sông, cũng bị bọn trôi sông dạt chợ khuấy phá. Hỡi ôi! Thiên hạ đều người trần mắt thịt cả.
Tuy nói vậy, mà y vẫn không di chuyển, cứ ngồi câu, bất kể đến tên giáo chúng. Y nói một mình:
– Hai con thuyền cùng đậu trên sông. Ta không hỏi tội người tại sao người đậu thuyền bên ta, người cũng đừng trách sao ta đậu thuyền cạnh ngươi mới phải chứ?
Lê Đức nói nhỏ với Mỹ-Linh:
— Tiếng người này dường như còn trẻ. Y cố ý gây sự với ta. Vậy ta lui thuyền ra chỗ khác.
Mỹ-Linh nhận thấy dáng người này rất quen, mà nàng không nhớ đã gặp ở đâu.
Nàng ra lệnh:
– Anh em dời thuyền xuống khúc dưới kia vậy.
Thuyền phu nhổ sào, cho thuyền di chuyển về phía trước. Con thuyền của ngư nhân cũng trôi theo song song. Bỗng con thuyền lớn lao vào phía bờ bên kia sông, là một bãi hoang.
Lê Đức kinh hãi hỏi:
– Ta bảo cho thuyền đi thẳng, tại sao lại áp vào bãi này.
Tài công kêu lên:
– Trình lão gia, bánh lái mắc kẹt, nên thuyền đâm vào bờ.
Lê Đức chạy vào cầm lái, lái thử, thì thuyền lại trôi ra giữa sông. Y mắng tài công:
– Bánh lái hỏng đâu?
Tài công cầm lấy tay lái, quả nhiên bánh lái không kẹt. Thuyền trôi dần theo giòng. Tới hạ lưu, thuyền phu cho cắm sào. Lê Đức nhìn ra, thủy chung con thuyền nhỏ vẫn đậu song song với thuyền mình, không tới trước, không lui một bước. Y nhìn rõ ngư nhân đang kéo một sợi dây dài cuộn thành đống nhỏ bên cạnh.
Lê Đức tỉnh ngộ:
– Mình đáng chết thực. Ngư nhân tung dây cột bánh lái, làm tài công tưởng bánh lái kẹt. Khi mình cầm lái, y buông dây, mình không rõ, chửi oan tài công.
Thuyền phu ngó xuống con thuyền nhỏ chửi:
– Này anh ngư nhân kia. Tại sao anh cứ theo ta mãi vậy?
Ngư nhân cũng không vừa:
– Này các người. Các người ỷ có thuyền lớn, theo sau thuyền ta mãi, làm sao ta câu được cá. Các người có lui ra chỗ khác không?
Biết bị khiêu khích, Lê Đức ra hiệu cho thuyền phu. Thuyền phu cầm cây sào chọc vào đầu ngư nhân. Ngư nhân chụp cây sào bật mạnh một cái. Thuyền phu bay vù lên cao, rồi rơi tòm xuống nước. Y lóp ngóp bơi lại mạn thuyền, bám dây leo lên.
Lê Đức bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Y ra hiệu. Một thuyền phu khác cầm cây chèo đập vào đầu ngư nhân. Ngư nhân bắt lấy cây chèo, rồi kẹp giữa hai đầu gối. Thuyền phu giật mạnh, mà cây chèo như đóng đinh vào cột không nhúc nhích.
Hai ba giáo chúng cùng chạy lại giật cây chèo, mà thủy chung không chuyển động. Trong khi ngư nhân vẫn ngồi nhàn nhã. Tuyệt ở chỗ, hai đầu gối y bất động, hai tay y cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Dù hai thuyền phu giật chèo, mà bản nhạc vẫn véo von không đứt quãng.
Đào Nhất-Bách bước tới cầm lấy cây chèo. Y vận sức giật mạnh. Cây chèo bật lên. Y với với giáo chúng thuyền phu ngã bổ ngửa trên sàn trông thực thảm não.
Mỹ-Linh kinh ngạc không ít. Võ công của Đào Nhất-Bách không thua Lê Đức làm bao. Ngặt vì y dùng sức mạnh. Ngư nhân thuận thế truyền thêm lực vào, thành ra Đào bị hai kình lực hợp lại, đến nỗi không giữ được thăng bằng.
Đào Nhất-Bách mất bình tĩnh. Y vọt người lên cao, nhảy xuống con thuyền nhỏ. Tay phóng chưởng tấn công. Ngư nhân cười nhạt, chiã cần câu lên trời. Mọi người kinh hãi la lớn, vì Nhất-Bách rơi xuống, ắt bị cần câu đâm thủng ngực.
Diễn biến xẩy ra đột ngọt, dù Mỹ-Linh, dù Lê-Đức có ra tay can thiệp cũng không kịp. Nàng chi còn biết kêu lên:
– Xin dung tình.
Ngư nhân rung động tay một cái, dây câu cuốn lấy thân hình Nhất-Bách. Cần câu gật mạnh, Nhất-Bách rơi xuống giữa thuyền nhỏ. Lạ một điều, y rơi không mạnh, mà sao lọt vào giữa lòng thuyền, rồi nằm bất động, không nói không rằng, trong khi mắt vẫn mở trừng trừng.
Ngư nhân cười dòn:
– Được con cá hồng này lớn quá. Đem vào chợ xẻ thịt bán lấy tiền uống rượu.
Đến đây, y giật mạnh sợi dây bên hông một cái. Cánh buồm kéo lên, con thuyền nhỏ chạy vun vút về hạ lưu.
Lê Đức hô lớn:
– Mau cho thuyền đuổi theo.
Khi thuyền nhổ sào chèo đi, thì con thuyền nhỏ đã mất hút ở cuối giòng sông.
Lê Đức lệnh cho thuyền ghé bờ. Y cầm tù và thổi lên một hồi. Lát sau có ba kị mã chạy tới. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức lên ngựa phi dọc theo bờ sông đuổi con thuyền nhỏ. Trong khi dưới nước, con thuyền lớn cũng chèo theo.
Không mất nhiều thời gian, Mỹ-Linh thấy con thuyền nhỏ cắm sào giữa sông. Bốn người nằm trong thuyền đã ngồi dậy. Năm người đang ngồi ăn cơm, thản nhiên như không có gì xẩy ra.
Mỹ-Linh dừng ngựa lên tiếng:
– Này! Mấy vị hảo hán kia. Người anh em ta không biết núi Thái-sơn, trót mạo phạm. Mấy vị hãy rộng lượng tha cho y một phen.
Ngư nhân ngồi câu ban nãy để tay lên tai làm như lắng nghe:
– Tiếng ai nói trên bờ vậy kìa?
Một ngư nhân khác tiếp:
– Dường như tiếng con gái. Cô này chắc đẹp lắm, tiếng trong, ngọt như cam thảo.
Mỹ-Linh nhắc lại câu nói ban nãy. Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
– Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua cá ư?
Mỹ-Linh bực mình:
– Không phải muốn mua cá, mà muốn chuộc lỗi.
– Cô nói cái gì? Trời ơi, tự nhiên tai tôi điếc đặc mất rồi. Cô muốn mua chão chuộc rán mỡ hay nấu rọc mùng ăn hả? Tôi chỉ câu được con cá hồng thôi. Cô nương muốn mua bao nhiêu cân, tôi xẻ ra bán cho. Mỗi cân một chỉ bạc.
Mỹ-Linh biết ngư nhân giả vờ:
– Này hảo hán, người bắt anh em của ta để làm gì? Y có đôi chút mạo phạm với người. Ta xin người lượng thứ cho.
Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
– Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua lươn ăn à? Tại hạ chỉ câu được con ngư nhân mà thôi.
Phía sau con thuyền của Lạc-long giáo đã đuổi kịp. Thuyền lớn kè mạn thuyền nhỏ. Chợt con thuyền nhỏ quay một vòng chạy ngược trở lại, buồm căng no, thuyền như bay trên mặt nước. Giáo chúng trên thuyền lớn chỉ còn biết la hoảng.
Mỹ-Linh, Lê Đức cho ngựa chạy theo. Con thuyền nhỏ táp vào bờ bên kia, rồi ngư nhân cùng bốn người đồng hành vác Đào Nhất-Bách lên bờ, chạy mất dạng.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức cùng xuống thuyền. Đỗ Lệ-Thanh hỏi Lê Đức:
– Lê trưởng lão. Tôi thấy dường như mấy ngư nhân này còn rất trẻ. Họ không có ác ý với bọn mình . Võ công của ngư nhân rất kỳ ảo.
Lê Đức phiêu bạt giang hồ cả đời người, thừa kinh nghiệm, y nói:
– Cái giật sào, hất giáo chúng xuống sông là biến chiêu Kình ngư qúa hải thuộc võ công Cửu-chân. Hai chân kẹp chặt sào, giống nội công Đông-a hay Tiêu-sơn. Khi chĩa cần câu lên, là chiêu Phong suy hoa lạc thuộc kiếm pháp Mê-linh. Lúc giật cần câu bắt Nhất-Bách chính là chiêu Thiên vương xung thiên trong Thiên-vương trượng pháp phái Sài-sơn. Tóm lại, võ công ngư nhân là võ công Đại-Việt.
Mỹ-Linh gật đầu:
– Lê trưởng lão nói đúng. Duy chiêu số gì, mà cái phao đập vào phía sau cổ Nhất-Bách, đến nỗi y bất động, tôi chưa hề nghe qua. Bây giờ chúng ta phải đuổi theo bốn người này cứu Đào trưởng lão.
Lê Đức ngơ ngác:
– Trời đất rộng bao la, biết họ đi phương nào mà đuổi. Hơn nữa chúng ta đang ở trên đất Tống. Quanh vùng này người của Khu-mật viện Tống nhiều như kiến . Chúng ta cứ thủng thẳng, sẽ truy tìm sau.
Chợt Thiệu-Thái nhìn lên không, thấy đôi chim ưng theo dõi Triệu Thành đang bay lượn gần ngay bờ sông. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
– Này biểu muội! Em thử đoán, sau khi Triệu Thành với bọn mình rời soái thuyền, tình trạng mấy người đó ra sao?
Mỹ-Linh lắc đầu:
– Khó đoán được lắm. Em chỉ biết một điều, những người bị Đỗ phu nhân phóng độc, không biết Lê tiểu thư có cứu được họ không?
Đỗ Lệ-Thanh gật đầu:
– Nếu Hồng-Sơn đại phu hiện diện thì cứu được. Tuy nhiên, dù không trị, trong vòng ba năm họ cũng không đến nỗi thiệt mạng. Khi rời thuyền, tiểu tỳ trao cho Đoàn đề đốc chai rượu, gói trong một bao kín, thác rằng đó là mật kế của công chúa. Sau khi bọn Minh-Thiên lên bờ, thuyền trên đường về Đại-Việt hãy mở ra. Trong đó thần có bức thư, nói cho biết rượu có pha thuốc giải.
Thiệu-Thái nhăn mặt:
– Vậy bọn Dư Tĩnh, Địch Thanh, Quách Quỳ phải chịu đau mãi hay sao? Tôi nghĩ chúng ta nên tìm chúng, rồi cho thuốc giải, hơn là để chúng đau như vậy.
Đỗ Lệ-Thanh biết ông chủ của mình lòng dạ lương thuần. Bà cung kính:
– Sau việc ở đây, tiểu tỳ cũng sẽ theo chủ nhân đi Biện-kinh. Tới nơi, tiểu tỳ tìm cách trao thuốc giải cho họ.
Thuyền đã trở về bến chợ. Mỹ-Linh bảo Đỗ Lệ-Thanh:
– Phu nhân với tôi lên bờ, chờ tên Luyện xem y có đến không?
Thiệu-Thái tường thuật vụ tên Luyện giả người coi chợ cho Lê Đức nghe. Y nhăn mặt ngẫm nghĩ:
– Tại trấn này, giáo chúng của mình có hàng nghìn. Tai mắt khắp nơi. Công chúa để thuộc hạ dọ hỏi tin tức y trước khi lên bờ gặp y.
Lê Đức gõ vào mạn thuyền ba tiếng. Một giáo chúng vào khoanh tay chờ lệnh. Y nói:
– Phiền chú lên mời đạo trưởng đạo Quảng-Đông xuống hầu giáo chủ.
Tên giáo chúng thưa:
– Trình trưởng lão, đạo trưởng Chu Tấn đã xuống thuyền chờ đón giáo chủ từ hôm qua. Vì chưa có lệnh giáo chủ, nên chưa dám xuất hiện.
– Thuyền của đạo trưởng ở đâu?
Tên giáo chúng chỉ sang con thuyền cực lớn đậu ngay trên bến:
– Thưa con thuyền kia.
– Mời đạo trưởng sang ngay.
– Thưa đạo trưởng bị lên cơn đau đớn cực kỳ, thành ra không ngồi dậy được.
Thiệu-Thái chợt nhớ lại hôm đại hội, còn thiếu chưởng quản đạo Quảng-Đông không về dự, thành ra chưa được giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Chàng vội đứng lên:
– Chúng ta sang đấy trị cho Chu huynh.
Lê Đức vẫy tay, thuyền phu nhổ sào, đẩy con thuyền sang sông, cặp vào con thuyền lớn. Lê Đức nhảy sang trước. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhảy sang sau. Một viên giáo chúng mở cửa thuyền khoanh tay:
– Thuộc hạ quản huyện đạo Khúc-giang, Thân Minh xin tham kiến giáo chủ cùng trưởng lão.
Thiệu-Thái vẫy tay:
– Miễn lễ. Phiền Thân huynh đệ đưa tôi vào thăm Chu đạo trưởng.
Thân Minh cúi đầu đi trước. Tới một khoang thuyền lớn, y nói vọng vào:
– Giáo chủ giá lâm.
Cánh cửa mở rộng. Bên trong có ba nữ giáo đồ quỳ gối hành lễ. Cạnh đó, một người râo tóc bạc phơ đang nằm thoi thóp thở. Thiệu-Thái vẫy tay cho Đỗ Lệ-Thanh:
– Phiền phu nhân thăm mạch Chu đạo trưởng dùm.
Đỗ Lệ-Thanh cầm tay Chu Tấn bắt mạch. Lát sau bà nói:
– Trình giáo chủ bệnh của Chu đạo trưởng không có gì đáng ngại. Chỉ vì quá một năm, không nhận được thuốc giải, thành ra độc chất hành hạ mà thôi.
Thiệu-Thái vận khí, vung chưởng vỗ vào đầu Chu Tấn một cái như gió thoảng. Chu Tấn đang rên rỉ, đau đớn. Y kêu lên tiếng kêu ối rồi ngồi bật dậy. Máu mũi y chảy ra xối xả. Một nữ giáo chúng vội trao cho y chiếc khăn lớn. Lạ thay, máu chảy đến đâu, da mặt Chu-Tấn hồng hào tới đó. Khoảng nhai dập miếng trầu, máu không chảy nữa.
Chu Tấn quỳ gối hướng Thiệu-Thái:
– Đa tạ giáo chủ cứu mạng.
Đỗ Lệ-Thanh cầm bút ghi một thang thuốc trao cho nữ giáo đồ:
– Đúng ra, Chu huynh bị Chu-sa độc chưởng hành hạ, giáo chủ dùng thần công trị, thì khỏi hẳn. Ngặt vì, quá hạn một năm, không thuốc giải, nên Chu huynh đau liệt dường hơn tháng. Vì vậy cần uống thuốc bổ dưỡng. Phiền cô nương ra chợ cắt cho ba thang thuốc. Đem về, mỗi thang dùng mười bát nước, nấu còn hai bát, trao cho Chu huynh uống. Mỗi ngày một thang.
Chu Tấn cung kính hướng Thiệu-Thái:
– Trước kia bọn thuộc hạ đi đâu cũng bị người ta khinh khiến là bọn tà ma ngoại đạo. Từ khi giáo chủ lên ngôi, công bố đường lối mới, cải danh thành Lạc-long giáo. Bọn thuộc hạ trở thành những người được hương đảng kính trọng. Tuy nhiên, sau đó thuộc hạ lên đường về Thăng-long tìm giáo chủ để xin trục độc chưởng, giáo chủ lại vắng nhà. Thuộc hạ trở về đây, bị lên cơn suốt hai tháng qua, tưởng đâu sẽ chết. Không ngờ hôm nay giáo chủ quang lâm giải ách cho.
Thiệu-Thái an ủi y:
– Sau đại hội, tôi phải lên đường khẩn, thi hành quốc sự. Hôm nay mới tới đây thăm anh em. Tôi có điều muốn hỏi Chu huynh.
– Xin chờ chỉ dụ giáo chủ.
– Hôm nay, khi lễ lăng Khúc-giang ngũ hùng, tôi gặp một người có hành vi kỳ bí. Y tên Luyện. Chu huynh có biết lai lịch y không?
Chu Tấn gật đầu:
– Trình giáo chủ, y họ La tên Luyện, gốc người Việt ở vùng Trường-yên. Trước thuộc giáo đồ bản giáo, giữ chức đạo trưởng huyện Nam-hải. Khi bản giáo cải danh thành Lạc-long giáo, y cùng một số người không phục, xin tách rời ra, vẫn giữ nguyên cơ sở, tự gọi tên là Hồng-thiết giáo Quảng-Đông. Y thường rình rập những người tế lăng Khúc-giang ngũ hùng cùng đền thờ hai vị công chúa thời Lĩnh-Nam.
– Chu huynh có biết y rình với mục đích gì không?
– Dường như y theo về bang Nhật-hồ Trung-quốc. Thuộc hạ cho người theo dõi, được biết y rình những người lễ đền với lăng, để tìm di tích kho tàng Tần-Hán.
Lê Đức hỏi:
– Y có liên hệ gì với Khu-mật viện Tống không?
– Không.
Lê Đức trầm tư nhìn lên bờ, rồi thuật lại vụ Đỗ Lệ-Thanh tung phấn độc vào người La Luyện cho Chu Tấn nghe. Chu Tấn vỗ tay reo lên:
– Như vậy thực hay biết bao. Dù muốn dù không y cũng phải xuất hiện, gặp Đỗ phu nhân, hầu xin thuốc giải. Bấy giờ ta muốn vo tròn, bóp méo thế nào y cũng phải chịu.
Thiệu-Thái không đồng ý:
– Xuất hiện dĩ nhiên y phải xuất hiện. Song đây thuộc đất nước người. Ta chẳng nên mua thù chuốc oán với bang Nhật-hồ Trung-quốc. Chu huynh! Chu huynh có biết tình hình bang Nhật-hồ Trung-quốc gần đây ra sao không?
Chu Tấn đáp:
– Thưa giáo chủ. Từ đời vua Tống Thái-Tông, đem quân vào diệt tổng đường cuối cùng của bang Nhật-hồ. Các cao thủ của bang này gần như bị tiêu diệt hết. Chỉ có ba trưởng lão. Một tên tên Đặng Đại-Bằng hiện làm bang chủ. Hai người nữa tên Phương Hổ, Phương Báo. Hai người này tách ra cùng năm người nữa xưng Trường-giang thất hùng. Họ lập ra bang Trường-giang. Ngoài ra còn con gái chưởng môn tên Đỗ Lệ-Thanh, cùng con rể tên Hồ Dương-Bá cùng một số cao thủ bị bắt giải về kinh.
Chu nói đến đây, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Đỗ Lệ-Thanh một cái, rồi hỏi:
– Sau truyện ra sao?
– Hồ Dương-Bá cùng vợ xin Tống triều ân xá cho thân thuộc. Hai người nguyện làm bất cứ điều gì cho Tống triều để chuộc tội. Dù sao Thái-tổ nhà Tống cũng là thần tử của triều Chu, từng là thuộc hạ của họ Đỗ. Vì vậy triều đình không nỡ tuyệt tình với người cố cựu. Bấy giờ Khu-mật viện nhà Tống đang mang cái hận bị Đại-Việt đánh ở Chi-lăng, Bạch-đằng, mới đưa ý kiến chấp nhận lời xin của Đỗ Lệ-Thanh cùng Hồ Dương-Bá. Tống triều cho Hồ Dương-Bá cùng Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt, tiềm ẩn, gây thế lực, chờ một mai quân Tống sang sẽ làm nội ứng.
Chu Tấn nhìn sang bên kia sông, như tìm kiếm ai, rồi tiếp:
– Trong khi đó Đặng Đại-Bằng đi khắp nơi tụ tập dư đảng của Hồng-thiết giáo, lập lại bang Nhật-Hồ. Nhưng bang không mạnh, vì họ chỉ biết đánh người, gieo độc chất, rồi cho uống thuốc giải hằng năm. Còn bang chủ lại không biết xử dụng Hồng-thiết mật công, hầu giải độc vĩnh viễn cho đệ tử. Gần đây, họ chế ra phấn độc Chu-sa, tuy không lợi hại bằng Chu-sa độc chưởng, nhưng ai cũng xử dụng được. Họ đã gieo vào người Lưu thái hậu. Họ tưởng rằng sẽ khống chế được Lưu hậu. Không ngờ Lưu hậu lại có tay sai làm trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt, cung cấp thuốc giải cho bà.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Lê Đức, như cùng nói:
– Không biết Đàm Can hay Hoàng Văn đã làm việc này?
Chu-Tấn thấy ba người nhìn nhau, y biết thượng cấp có điều gì bí mật, nhưng y không dám hỏi. Y tiếp:
– Đặng Đại-Bằng cho người sang Đại-Việt tìm Đỗ Lệ-Thanh, Hồ Dương-Bá. Nhưng tuyệt vô âm tín.
Đỗ Lệ-Thanh hỏi Chu Tấn:
– Chu đạo trưởng có biết những người sống sót của họ Đỗ hiện giờ ra sao không?
– Không! Tôi chỉ nghe lờ mờ rằng họ sống yên ổn ở Biện-kinh.
Đỗ Lệ-Thanh nắm lấy tay Thiệu-Thái:
– Chủ nhân! Người Việt có câu Cáo chết
ba năm, quay đầu về núi. Tiểu tỳ xa nhà hơn bốn chục năm có dư. Nay tiểu tỳ dám xin chủ nhân cho tiểu tỳ về Biện-kinh thăm nhà một chuyến.
Thiệu-Thái an ủi bà:
– Phu nhân yên tâm. Sau việc ở đây, tôi phải đi Biện-kinh. Bấy giờ sẽ cùng giúp phu nhân tìm thân nhân. Tôi có ơn với Triệu Thành, tôi xin y cho phu nhân đem toàn gia sang Bắc-biên hay Thăng-long sống.
Từ lúc Lê Đức tôn Thiệu-Thái làm giáo chủ. Y thấy lúc nào Đỗ Lệ-Thanh cũng đi theo chàng. Y cho rằng bà là lão bộc nuôi chàng từ nhỏ. Tuyệt đối y không biết bà gốc tích ra sao. Bây giờ nghe bà với Thiệu-Thái đối thoại, y không khỏi ngỡ ngàng. Tuy nhiên y không dám tò mò vào truyện gia đình chàng.
Bọn giáo chúng bưng thuốc vào trao cho Chu Tấn. Y bưng uống một hơi sạch, rồi hỏi Thiệu-Thái:
– Thuộc hạ nghe giáo chủ muốn hành hương đền Sa-khẩu. Vậy khi nào khỏe mạnh thuộc hạ xin tháp tùng, dẫn đường.
Mỹ-Linh thấy Đỗ Lệ-Thanh có vẻ không muốn đi thăm Sa-khẩu. Nàng hỏi:
– Phu nhân không đi cùng chúng tôi ư?
– Tiểu tỳ có hơi khó ở. Xin công chúa miễn cho phải theo hầu.
Chu Tấn truyền dọn cơm ăn. Ăn xong y nói:
– Xin giáo chủ cùng công chúa nghỉ ít ngày, rồi thuộc hạ xin dẫn giáo chủ, công chúa cùng Lê trưởng lão lên đường. Chúng ta dùng một con thuyền nhỏ đến Sa-khẩu, hơn đi đường bộ bằng ngựa.
Ít lâu sau, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh thấy Chu Tấn đã bình phục. Hai người bàn truyện đi hành hương Sa-khẩu.
Chu Tấn ra ngoài. Y cầm cây cờ xanh phất một cái. Lập tức từ bên kia sông, một con thuyền bậc trung nhổ sào, chèo sang bên này. Thuyền ghé vào thuyền lớn. Chu Tấn nhảy sang trước. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lê Đức nhảy theo. Bốn giáo chúng chèo thuyền cúi gập người xuống hành lễ.
Chu Tấn mở của khoang thuyền, mời ba người vào. Trong thuyền trang trí rất thanh nhã. Hai bên có hai hàng ghế bọc gấm mầu hồng. Ở giữa kê một cái bàn sơn son thiếp vàng. Vách thuyền treo những bức trướng lụa, trên vẽ tranh về Phù-Đổng thiên vương đánh giặc Ân, bà Triệu đánh Ngô, Ngô vương đánh Tống.
Thuyền nhổ sào. Buồm kéo lên. Thuyền từ từ hướng về phía Bắc. Chu Tấn nói:
– Từ đây đến Sa-khẩu ước hơn nửa giờ. Hôm nay ngày rằm, dân chúng các nơi đến lễ đông lắm. Vì vội quá thuộc hạ không kịp biện lễ. Cứ tới cổng đền, thuộc hạ mua sắm cũng vừa.
Thình lình có tiếng tiêu véo von vọng lại. Mỹ-Linh nhận ra người ta tấu bản Động-đình ca. Tiếng tiêu phát ra từ một con thuyền nhỏ, đang vượt qua thuyền mình. Khi con thuyền vừa vựơt qua, Mỹ-Linh thấy rõ ràng trên thuyền có bốn ngư nhân đã bắt sống Đào Nhất-Bách. Nàng chỉ cho Lê Đức. Lê Đức hô thuyền phu:
– Mau đuổi theo con thuyền kia thực gấp.
Bốn thuyền phu ra sức chèo phụ với buồm. Con thuyền lao đi vun vút. Nhưng con thuyền nhỏ phía trước càng lao nhanh hơn. Đuổi được một lát, Mỹ-Linh nhận ra rằng, thuyền nhỏ của ngư nhân dường như cố ý trêu ghẹo mình. Vì thuyền Chu Tấn bơi nhanh, thuyền phía trước cũng bơi nhanh. Thuyền Chu Tấn bơi chậm, thuyền phía trước cũng bơi chậm.
Chu Tấn chạy ra ngoài, rút thêm mái chèo. Y chèo phụ với thuyền phu. Thuyền vọt lên như lao. Trong khoảng nhai dập miếng trầu, thuyền Chu Tấn gần đuổi kịp thuyền phía trước. Một ngư nhân quay lại để ngón tay cái lên mũi nheo mắt cười như trêu ghẹo.
Chu Tấn nói với Lê Đức:
– Xin trưởng lão đứng trên mũi thuyền chờ sẵn. Đợi thuộc hạ chèo mạnh mấy cái nữa, hãy nhảy qua.
Nói rồi y gồng tay chèo mấy cái. Hai thuyền chỉ còn cách nhau một trượng. Lê Đức nhảy vọt qua.
Nhanh như chớp, từ trên thuyền trước hai cái cần câu vung lên. Lê Đức còn lơ lửng trên không định dơ tay bắt. Y nghe thấy hai tiếng véo, véo. Rồi như hai cục sỏi, một trúng mông y, một trúng vai y. Y cảm thấy toàn thân tê liệt, kình lực mất hết. Y rơi xuống thuyền trước đến rầm một cái.
Thiệu-Thái nhanh mắt nhìn rõ: Hai cần câu vung lên, hai cái phao trúng mông chỗ huyệt Hoàn-khiêu, trúng vai chỗ huyệt Thiên-tông. Vì vậy Lê Đức hoàn toàn bị tê liệt như khúc gỗ. Chàng kinh hãi:
– Võ công gì mà kỳ lạ? Tại sao hai cái phao đụng vào người, mà Lê Đức như tê liệt? Đúng ra võ công Lê Đức cao thâm khôn lường. Song có điều trong đêm tối y không nhìn thấy hai cái phao, với hai sợi dây câu. Vì vậy y mới thất bại.
Giữa lúc đó từ thuyền trước bay lại mấy viên sỏi kình lưc cực mạnh kêu lên tiếng vi vu. Thiệu-Thái vung tay bắt được hai viên. Còn một viên trúng sợi dây buồm. Sợi dây đứt đánh phựt một cái. Con thuyền Chu Tấn quay ngang, rồi trôi chậm lại.
Trên thuyền trước vang lên tiếng cười:
– Ồ, lại được con cá tự nhiên nhảy vào thuyền mình.
Tiếng nói vừa dứt, thuyền vượt sông về phía trước mất dạng.
Mỹ-Linh hô nối lại dây buồm, rồi đuổi theo.
Thiệu-Thái kinh hãi:
– Võ công ngư nhân thực kỳ lạ. Y vận công búng sỏi bằng âm kình làm đứt được dây buồm, hơi giống Vô-ngã tướng thiền công của mình. Không biết bọn này là ai?
Thuyền đi được một quãng, từ phía thượng lưu, chỗ con sông hẹp lại, hiện ra hai con thuyền cực lớn đậu giữa giòng ngăn mất lối đi. Chu Tấn kinh hoàng, hô lớn:
– Thuyền nào kia, làm ơn lách sang bên cạnh, nhường chỗ cho chúng tôi qua được không?
Có tiếng đáp lại:
– Mong anh em thông cảm. Tháng này, tiết trời khô khan, nước sông nông. Thuyền chúng tôi chở nặng, khẳm quá, mắc cạn, không nhúc nhích được.
Mỹ-Linh nhìn lại: Quả nhiên người ta đang xếp hàng, truyền tay nhau chuyển hàng lên bờ, hầu thuyền khỏi mắc cạn. Nàng nghĩ thầm:
– Bốn ngư nhân hành động như đùa bỡn, mà thực ra có tính toán. Họ chuẩn bị bắt Lê Đức, rồi bỏ chạy qua lối này. Thuyền họ nhỏ, lách qua được. Thuyền mình lớn hơn, không lối đi.
Chu Tấn chỉ vào mỏm sông phía trước:
– Chỗ có nhiều ánh sáng đèn đuốc kia là đền Sa-khẩu.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhìn theo: Trên mỏm sông, một ngôi đền lờ mờ hiện trong đêm, với ánh đèn như sao sa.
Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
– Làm sao bây giờ?
Mỹ-Linh thở dài:
– Bốn ngư nhân bắt Lê Đức, Đào Nhất-Bách, hẳn có chủ ý, kế hoạch. Nhất định họ sẽ trở lại. Chúng ta không cần tìm làm gì. Bây giờ ta ghé bờ, lên bộ đi lễ vậy.
Thiệu-Thái nói với Chu Tấn:
– Chu huynh! Từ hôm tôi tới trấn này, có linh cảm thấy một màn bí mật bao trùm xung quanh, mà như người đi đêm không hiểu tai sao?
Chu Tấn cũng nghiệm thấy vậy. Y vò đầu bứt trán:
– Thuộc hạ bị bệnh hơn tháng nay. Việc bản giáo do anh em thay thế. Thuộc hạ vừa mới tỉnh, chưa hỏi tự sự, nên khó có thể đoán bọn này là ai. Chứ từ xưa đến giờ, trong các bang hội, môn phái ở đây, Hồng-thiết giáo mình vẫn mạnh nhất. Dù An-vũ sứ, dù Chuyển-vận sứ, dù khu mật viện Quảng-Đông lộ nghe đến bản giáo cũng không dám gây hấn, huống hồ các bang hội, môn phái. Từ sáng đến giờ bọn này hoành hành không còn úy kị gì nữa. Chúng nghiên cứu ta kỹ, rồi mới ra tay, như vậy hẳn chúng biết có sự hiện diện của giáo chủ. Đã biết giáo chủ ở đây, mà còn phá phách đùa bỡn, tức chúng mặc nhiên tuyên chiến rồi. Được, thuộc hạ lập tức triệu tập anh em, tìm hiểu chúng, rồi ta sẽ ra tay cũng không muộn.
Thiệu-Thái an ủi Chu Tấn:
– Chu huynh đừng vội nóng. Có phải chúng ta yếu thế, bất lực đâu? Chẳng qua chúng ta sợ ném chuột vỡ đồ mà thôi. Vì tại đây đang có Bình-Nam vương nhà Đại-Tống cùng Chuyển vận-sứ, An-vũ sứ Quảng-Đông lộ, khu-mật viện sứ cùng với mấy vạn thiết kị. Nếu chúng ta hội họp e gặp khó khăn. Tốt hơn hết, Chu huynh ra lệnh cho anh em tìm hiểu gốc gác chúng, rồi ta hãy ra tay cũng không muộn.
Vừa lúc đó, phía trước có tiếng reo hò. Thì ra hai con thuyền mắc cạn đã đi được. Phải khó nhọc lắm, họ mới di chuyển khỏi quãng sông chật hẹp, rồi lách sang một bên, cho thuyền Chu Tấn đi.
Chu Tấn bàn:
– Tới đền Sa-khẩu, xin Giáo chủ cùng Công-chúa đi lễ. Tiểu nhân lên bờ, gặp anh em, truyền lệnh cho họ tìm ra kẻ bắt hai trưởng lão.
Mỹ-Linh dặn Chu Tấn:
– Dù kẻ địch thế nào chăng nữa, Chu huynh cũng không được giao chiến. Chờ bọn tôi đã.
Chu Tấn vâng dạ lĩnh mệnh.
Thuyền đến mỏn Sa-khẩu. Dọc bến sông, thuyền đậu như bát úp. Phải khó nhọc lắm, Chu Tấn mới tìm được chỗ đậu. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh lên bờ. Một nữ giáo chúng tên Sương được lệnh theo hầu. Mỹ-Linh tới gian hàng bán lễ vật. Nàng mua hương, hoa, quả, trao cho Sương mang, rồi theo làn sóng người đi vào đền.
Đền làm quay mặt về hướng Nam. Vào qua cổng, toả ra hai con đường bọc lấy một hồ sen hình bán nguyệt. Giữa hồ sen có gò. Trên gò một cây cờ Lĩnh-Nam cực lớn, bay phất phới.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhận ra cây cờ đó là cờ thời vua Trưng. Vòng qua bờ hồ trước đền, có cái sân lát đá xanh.
Trong sân, một bên có cây đa, một bên có cây đề cao chót vót, ước hơn mười trượng, gió thổi vào lá reo lên những tiếng ào ào.
Sau sân tới đền. Đền không lớn lắm. Phải bước lên chín bậc mới đến hành lang. Hành lang lát gạch đỏ.
Có hai thiếu nữ mặc áo vàng, chạy ra tiếp rước. Quen thuộc, hai cô đỡ lấy mâm lễ vật, đon đả mời Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Một thiếu nữ hỏi bằng tiếng Việt:
– Quý khách từ Đại-Việt sang lễ Công-chúa, hay thuộc tử đệ võ phái thời Lĩnh-Nam?
Thiệu-Thái hỏi:
– Sao cô biết chúng tôi người Việt?
Thiếu nữ mỉm cười:
– Tại em thấy anh chị trang phục theo lối Việt. Vì anh chị đeo kiếm, nên em mới hỏi anh chị chỉ đi lễ hay tử đệ võ phái hành hương.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cực kỳ tôn kính anh hùng thời vua Bà. Vì vậy, trước đền thờ hai ngài, Mỹ-Linh không dám nói dối. Nàng đáp:
– Chúng tôi vừa hành hương như thập phương, lại vừa thuộc hàng con em đệ tử. Chị ơi! Đi lễ, ai cũng như ai. Sao phải phân ra làm hai loại như vậy?
Cô gái cười:
– Nếu chị thuộc thập phương, chỉ lễ, rồi về. Còn con em đệ tử, sẽ được mời vào hậu đường chiêm ngưỡng tượng hai công chúa rồi được mời ở lại đền chơi mấy ngày.
Thiệu-Thái thấy thể lệ tiếp đón, chàng vui vẻ:
– Lỡ ra, thập phương muốn chiêm ngưỡng tượng hai công chúa, họ nói dối là con em, tử đệ thì sao?
Cô gái cười rất tươi:
– Khi người ta không tin hai Công-chúa, hỏi người ta đi lễ làm gì? Còn đã tin, ai dám nói dối?
Thiệu-Thái gật đầu công nhận lời cô gái đúng. Hai người được dẫn tới chính điện. Sáu bàn thờ rất lớn, trên bầy đầy lễ vật. Phía sau bàn thờ, một chiếc màn bằng gấm đỏ, trên thêu hai con rồng chầu. Đỉnh hương bốc khỏi nghi ngút.
Thiệu-Thái bảo Sương:
– Cô nương cứ ra bờ sông chờ chúng tôi.
Sương vâng dạ lui gót.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh quỳ gối lễ. Mỹ-Linh khấn:
– Tấu lạy nhị vị Công-chúa điện hạ. Đệ tử tên Lý Mỹ-Linh, tước phong công-chúa Bình-Dương, hiện làm chưởng môn phái Mê-linh. Nhân quốc sự, đệ tử qua đây, xin cúi đầu kính lễ nhị vị Công-chúa điện hạ. Cầu nhị vị Công-chúa điện hạ phù hộ cho đệ tử tìm thấy kho tàng thời Tần-Hán, hầu đem về xây dựng nước giầu dân mạnh.
Nàng lạy thêm bốn lạy rồi đứng đậy. Cô gái hướng dẫn hai người vào nhà ngang. Ban trị sự đền ân cần tiếp đón. Một phụ nữ lớn tuổi mang sổ quyên giáo ra. Thập phương kẻ cúng trăm đồng, người cúng một quan.
Vòng đến trước Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, liếc nhìn thanh gươm hai người đeo bên hông. Bà đưa mắt cho một lão già râu tóc bạc phơ. Lão đến trước hai người cúi đầu hành lễ:
– Phải chăng cô nương họ Lý. Còn công tử họ Thân?
Mỹ-Linh kinh ngạc:
– Sao tiên sinh biết rõ thế?
Lão cung kính nói:
– Cách đây mấy ngày, nhị vị công chúa báo mộng rằng sắp có một gái họ Lý khuê danh Mỹ-Linh, một trai họ Thân tên Thiệu-Thái. Cả hai thuộc hàng con em đệ tử của nhị vị công chúa. Nhị vị công chúa dặn chúng tôi phải chờ đợi hầu tiếp đón chu đáo.
Ông mời hai người vào một phòng khách, trang trí thanh nhã, cung cung kính kính mời ngồi. Cả ban trị sự gồm mười người đều có mặt. Họ đưa mắt cho nhau, rồi cùng quỳ gối hành đại lễ. Lão già nói:
– Bọn chúng tôi, gồm mười người, trong ban trị sự đền, được nhị vị công chúa báo mộng rằng hai vị thuộc con em đệ tử hai ngài. Sau này hai vị sẽ làm những truyện kinh thiên động địa. Sự nghiệp còn hơn nhị vị Công-chúa. Nếu hai vị sai bảo gì, chúng tôi phải tuyệt đối tuân hành. Vì vậy, chúng tôi xin kính cẩn cúi đầu nhận sự sai bảo của hai vị.
Mỹ-Linh, vội nói lời miễn lễ, ân cần mời ban trị sự ngồi. Họ thay nhau giới thiệu:
– Trưởng ban trị sự họ Trần tên Cương. Phó Trần Yên. Thủ quĩ Trần Sơn.
Mỹ-Linh thấy cả mười người đều họ Trần. Nàng ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao ban trị sự đều họ Trần?
Trần Cương đáp:
– Nguyên đất này, xưa được phong cho Phương-chính hầu Trần Tự-Minh. Sau này con cháu người lập nghiệp khắp vùng. Hồi Khúc-giang ngũ hùng làm vua Nam-hải, ban luật rằng chỉ người họ Trần mới được bầu vào ban trị sự đền.
Mỹ-Linh cầm sổ quyên giáo. Nàng viết: Lý-Mỹ-Linh. Thân-thiệu-Thái kính cẩn dâng mười nén vàng, để tu bổ đền.
Thời bấy giờ, một nén vàng nặng mười lượng. Mỗi lượng vàng ăn một trăm lượng bạc. Mỗi lượng bạc ăn mười quan tiền. Thành ra số vàng Mỹ-Linh cúng tới mười vạn quan tiền. Với số tiền này, có thể xây được bốn ngôi đền lớn hơn đền hiện tại.
Ban trị sự được hai Công-chúa báo mộng, những tưởng Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thuộc giới võ lâm, giầu có. Nếu cúng, cao nhất một quan là cùng. Nào ngờ hai người cúng số vàng quá lớn. Họ mở to mắt ra, không nói lên lời.
Khi khởi hành, Mỹ-Linh đã có chủ tâm:
– Nếu ông nội, hay phụ vương, hay thúc phụ chính thức sai người sang tu bổ đền thờ hai vị anh hùng thời Lĩnh-Nam, ắt triều Tống cho rằng Đại-Việt mưu đồ gì, e khó khăn cho việc thờ cúng. Âu ta mượn cớ hành hương, cúng vào quĩ. Như vậy không ai nói gì được.
Nàng mở bọc lấy ra mười nén vàng, sáng chói. Trên nén vàng đều có khắc chữ Thiên-thánh nguyên niên. Trần Cương cầm thỏi vàng lên coi, rồi nói:
– Thực may mắn! Cô nương cúng vàng đại Tống. Chứ nếu vàng Đại-Việt, bọn lão hủ phải nấu ra ngay, bằng không e rắc rối to.
Mỹ-Linh cũng sợ khó khăn cho ban trị sự. Nàng viết thêm bằng chữ Hán: Số vàng mười nén này, trăm họ góp lại. Chúng tôi thay mặt kính dâng. Viết xong nàng nghĩ:
– Ta bảo vàng của trăm họ cũng đúng. Vì vàng này vốn của Triệu Thành đền cho người bị Lý Tự phóng ám tiễn giết chết trong đại hội giỗ Lệ-Hải bà vương. Số vàng bồi thường, một phần phủ tuất gia đình nạn nhân. Một phần xung vào công khố Đại-Việt. Hôm ra đi, chú hai dặn ta mang vàng Tống chi dùng, để khỏi bị lộ chân tướng. Bây giờ ta mới biết việc phòng trước quả thực thuận tiện.
Ban trị sự thấy Mỹ-Linh thêm vào mấy chữ, họ nhìn nhau, như cùng thông cảm về sự tinh tế của nàng. Trần Cương chỉ vào một bà lão đầu bạc như cước:
– Đây bà Trần Thị-Như. Bà đã trai giới ba ngày để hướng dẫn hai vị vào hậu điện diện kiến nhị vị Công-chúa điện hạ.