Tống cung bí sử —- –
Thuận-Tông không hiểu nhiều về võ công Tây-vu. Nó hỏi Tự-Mai:
– Anh sáu! Anh thử đoán xem ai sẽ thắng.
– Hiện khó có thể đoán kết quả đi về đâu. Hai người chỉ học quyền, chưa luyện khí công, thành ra không phát chưởng được. Thắng hay bại đều trông vào sức lực cả.
Lưu Tường đánh liền bốn quyền như bão táp. Vi Chấn lui lại tránh đưởc hai quyền. Đến quyền thứ ba, bắt buộc y phải dùng cước đỡ. Bốp một tiếng, quyền đánh trúng gối. Đau quá, y nhảy lùi bước nữa tới mép đài. Lưu Tường đánh tiếp một quyền như vũ bão. Thình lình Vi Chấn trầm người xuống, luồn qua nách Lưu Tường, rồi quay lại đẩy một cái. Lưu Tường ngã lộn xuống đài.
Cử tọa vỗ tay hoan hô. Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
– Theo thể lệ, ứng viên Vi Chấn thắng trận đầu.
Lưu Tường đã lên đài. Vi Chấn tiến đến ôm lấy Lưu Tường:
– Đằng ý ngã có đau lắm không? Xin lỗi nhé.
– Không đau cho lắm. Mình chịu phục đấy.
Nói rồi cười. Cả hai ứng viên dắt nhau xuống đài, phơi phới như cuộc dạo chơi. Nếu không xem tận mắt, đố ai có thể tin rằng mới đây hai người dùng hết sức lực đấm đá nhau.
Quan khách kinh ngạc:
– Võ đạo Bắc-biên cao thực. Hai trẻ đấu với nhau mà như anh em tập dượt vậy. Tương lai chúng không tầm thường.
Nùng Tồn-Phúc xướng:
– Mời hai ứng viên Lê Thuận-Tông, Yên Đạt lên đài.
Yên Đạt vọt người lên đài như con én. Khi còn lơ lửng trên không nó đã chắp tay hướng cử toạ vái ba vái. Thấy võ công Yên Đạt cao hơn Lưu Tường, Vi Chân quá xa, dân chúng vỗ tay hoan hô vang dậy.
Lê Thuận-Tông khoan thai lên đài. Nó chắp tay vái bốn phía, rồi đứng thủ thế. Nùng Tồn-Phúc hô:
– Xuất chiêu.
Lê Thuận-Tông phát một chiêu Thiên-vương chưởng, mà Lê Văn dạy nó, hai tay chắp lại như hành lễ:
– Lê Thuận-Tông đệ tử phái Mê-linh xin tương kiến Yên huynh.
Yên Đạt không nhân nhượng, nó xuất một chiêu Võ-đang chưởng đánh thẳng vào mặt Thuận-Tông, cử chỉ cực kỳ vô lễ.
Thuận-Tông lùi một bước, tay phải nó khoanh tròn. Tay trái đánh thẳng. Đó là chiêu Loa-thành nguyệt ảnh của Cửu-chân chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại nhìn nhau.
Dưới đài Lê Văn cau mày:
– Khó quá, công lực tên này bỏ xa bọn Quách Quỳ, ngang với Triệu Tiết. Không biết Thuận-Tông có đương nổi không?
Đánh đến chiêu thứ mười, thình lình Thuận-Tông lùi lại, phát một chiêu trong Côi-sơn chưởng pháp. Chân từ Càn vị bước sang Tốn vị. Yên Đạt không biết gì về pho quyền này, y vung tay đỡ. Binh một tiếng, mắt nó đổ lửa, chân tay bải hoải như người đói, lồng ngực muốn nổ tung ra. Nó nhảy lui liền ba bước, trố mắt nhìn đối thủ.
Thuận-Tông tuyệt không ngờ quyền pháp Tự-Mai dạy nó lại linh nghiệm đến thế. Nó ngây người ra nhìn đối thủ.
Tự-Mai vỗ đùi than:
– Trời ơi! Nếu Thuận-Tông đánh tiếp chiêu Sơn-trung hoa lạc, chân từ Tốn bước sang Chấn thì tên Yên Đạt ắt bay xuống đài rồi.
Thuận-Tông thuận tay phát một chiêu trong Côi-sơn quyền pháp có kết quả. Nó đánh liền hai chiêu, trong khi chân từ Ly bước sang Khôn vị. Binh, binh. Yên Đạt rung động toàn thân. Nó lùi liền hai bước. Thuận-Tông đánh tiếp ba chiêu. Yên Đạt lại lùi ba bước nữa.
Lê Văn than:
– Khổ quá anh Tông chưa hiểu hết Dịch-lý, nên cứ chiêu một, chiêu một đánh ra. Giữa hai chiêu có khoảng trống, thành ra chỉ làm cho Yên Đạt bối rối, mà không hạ được nó. Giá anh ấy biết biến hoá chiêu nọ nối liền chiêu kia như mây trôi, như nước chảy, thì mười tên Yên Đạt kia cũng bỏ mạng rồi. Cơ chừng này, nó phản công đến nơi rồi.
Đến chiêu thứ mười hai, thình lình Yên Đạt tung ra một chưởng. Bình một tiếng, Thuận-Tông choáng váng bật lui, chân tay nó cảm thấy vô lực. Nó còn đang hoảng hốt, Yên Đạt không nhân nhượng, nó lại đánh liền bốn chiêu. Thuận-Tông vẫn dùng Côi-sơn quyền đỡ. Cứ sau mỗi lần đỡ, nó cảm thấy chân khí mất đi một phần.
Tự-Mai hỏi Lê Văn:
– Cà chớn. Em có biết Yên-Đạt dùng võ công gì không?
Lê Văn cau mày:
– Võ công Liêu-Đông. Võ-đang thuộc danh môn chính phái Hoa-hạ, tại sao Yên Đạt lại biết võ công Liêu-Đông?
Nghe Lê Văn nói, Tự-Mai kinh hãi, vì nó nhớ lại truyện cũ:
– Hồi Bảo-Hòa, Mỹ-Linh tới Thiên-trường. Bố mình giảng về sự khác biệt của thần công Yên-lãng với các phái khác. Bố mình có nói: Thần công Yên-Lãng hơi giống nội công phái Liêu-Đông. Thần công Yên-Lãng chỉ hoá giải, cùng hút công lực đối thủ khi đối thủ đánh mình. Còn nội công Liêu-Đông thì không thế, nó làm tiêu tán công lực đối thủ, rồi truyền độc tố vào người. Cơ chừng này Thuận-Tông nguy đến nơi rồi.
Yên Đạt dồn Thuận-Tông tới cuối đài bằng mười chiêu khác nhau. Đến chiêu thứ mười một, y dùng tất cả bình sinh công lực đánh một chiêu như sét nổ, hy vọng đẩy đối thủ xuống đài.
Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Con người học võ cũng thế, khi gặp nguy cấp, thường phản ứng tự nhiên. Tự nhiên thì chiêu số mình xử dụng hàng ngày sẽ xuất ra. Trong lúc Thuận-Tông gặp nguy hiểm, tính mệnh như treo trên sợi tóc, nó phát bừa một chiêu đỡ. Chiêu đó là Loa-thành nguyệt ảo gốc thuộc Cửu-chân. Bình! Một thân người bay bổng lên cao, rơi xuống giữa đài. Ai cũng tưởng người đó là Thuận-Tông, không ngờ là Yên Đạt.
Thuận-Tông vừa định đánh tiếp chiêu nữa, thì có tiếng chiêng báo hiệu đã được năm mươi hiệp. Hai bên hưu chiến.
Nùng Tồn-Phúc dơ tay nói:
– Đúng luật lệ, hai bên đấu với nhau được năm mươi hiệp. Tạm nghỉ nửa giờ rồi tái đấu.
Thuận-Tông xuống đài. Lê Văn thoa bóp các bắp thịt cho nó. Trong khi Tự-Mai dặn:
– Phải chú ý lắm mới được. Mình có hai loại võ công khắc chế với Yên Đạt. Khi thấy Yên Đạt dùng võ công Võ-đang thì mình dùng Côi-sơn quyền pháp. Còn khi thấy nó dùng võ công Liêu-Đông thì mình dùng võ công Mê-linh. Bất cứ trường hợp nào, mình cũng phải đánh nó một chiêu. Khi nó bị một chiêu khắc chế, ắt căn bản bị tuyệt. Bấy giờ mình phải đánh liên tiếp như sóng vỗ, như núi lở, như băng tan, như mây trôi, ắt nó bị hạ liền.
Nói rồi nó giảng chi tiết cách biến từ Côi-sơn quyền pháp sang Mê-linh quyền pháp. Nó giảng được một lần, đang định giảng tiếp về phương pháp từ biến từ võ công Mê-linh sang quyền pháp Côi-sơn, thì chiêng báo hiệu trận thứ nhì.
Lần này đã có kinh nghiệm, Thuận-Tông xuất chiêu trước bằng Côi-sơn quyền pháp. Yên Đạt thấy chiêu số của Thuận-Tông hung hiểm lạ thường, lại khắc chế với võ công của nó. Nó kinh hoảng lùi lại một bước tránh đòn. Thuận-Tông không nhân nhượng tiến lên đánh liền ba chiêu. Yên Đạt đỡ được hai chiêu, đến chiêu thứ ba nó đẩy ra một chiêu Liêu-Đông. Bình một tiếng, Thuận-Tông bật lui liền ba bước. Nó cảm thấy chân khí bị biến mất.
Đã có kinh nghiệm, nó mượn đà lui lại. Trong khi Yên Đạt truy kích bằng hai chiêu Liêu-Đông. Thuận-Tông phát chiêu Hải-triều lãng lãng. Bình một tiếng Yên Đạt cảm thấy trời long đấtt lở, tai ù đi. Nó đang kinh hoàng thì lớp thứ nhì tới. Bình một tiếng, nó bật lui đến mép đài, thì lớp thứ ba đã bao trùm khắp người. Nó tung mình lên cao, chân đá gió một cái, người bay vào giữa đài.
Thuận-Tông chuyển mình một cái, lớp thứ tư như cái cầu vồng đánh về sau. Yên Đạt kinh hãi, nó đánh ra một chiêu Võ-đang. Bộp, cả hai lảo đảo lui lại. Kinh nghiệm, Thuận-Tông đổi sang Côi-sơn quyền, nó co chân đá vòng vào thái dương trái Yên-Đạt, trong khi tay đẩy thẳng về trước. Yên Đạt trầm người xuống tránh cước. Hai tay nó chụp lấy tay Thuận-Tông.
Thuận-Tông giật mạnh một cái, người Yên Đạt bay bổng lên cao rơi xuống dưới đài.
Khán giả vỗ tay vang dội hoan hô. Nùng Dân-Phú chờ Yên Đạt lên đài, y cho hai thiếu niên hành lễ với nhau, rồi hướng vào cử tọa:
– Tấu vua Bà. Thưa quý quan khách, theo thể lệ cuộc đấu thiếu niên Lê Thuận-Tông thắng trận nhì. Bây giờ tới trận chung kết. Lê Thuận-Tông đấu với Vi Chấn. Ai thắng sẽ trở thành người thừa kế Lưu lạc hầu, làm lạc hầu Thượng-oai.
Vi Chấn chắp tay hướng Thuận-Tông:
– Lê huynh võ công cao cường. Muôn ngàn lần đệ không thể là đối thủ. Đệ xin cung kính chịu thua.
Cử toạn vỗ tay vang dội.
Nùng Tồn-Phúc nói lớn:
– Theo thể lệ, ứng viên Lê Thuận-Tông trúng cách làm lạc hầu Thượng-oai.
Thuận-Tông ôm lấy Vi Chấn. Cả hai cười với nhau. Hai thiếu niên vái nhau rồi xuống đài.
Nùng Tồn-Phúc tiếp:
– Bây giờ tới bốn ứng viên Hà Thiện-Lãm, Hoàng Tích, Tu Kỷ, Nùng Sơn-Bi tranh tài làm lạc hầu Phong-châu. Mời bốn ứng viên lên đài.
Bốn thiếu niên lên đài hướng vào vua Bà hành đại lễ, rối rút thăm. Sau khi kiểm thăm, Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
– Trận đầu Hà Thiện-Lãm đấu với Hoàng Tích. Trận thứ nhì Tu Kỷ đấu với Nùng Sơn-Bi.
Tu Kỷ, Nùng Sơn-Bi xuống đài. Nùng Tồn-Phúc cho Lãm, Tích đứng đối diện nhau, rồi nhắc lại thể lệ cuộc đấu.
Nhớ chỉ dụ của vua Bà, Thiện-Lãm tự nhủ:
– Bất cứ trường hợp nào ta cũng không thể thẳng tay với Hoàng Tích. Ta cần tỏ ra lễ độ, mới mong thu phục nhân tâm vùng Bắc-biên này.
Nó chắp tay hành lễ:
– Hà Thiện-Lãm, đệ tử phái Tản-viên kính chào Hoàng huynh.
Hoàng Tích cũng chắp tay thành quyền:
– Đệ Hoàng Tích, đệ tử phái Tây-vu kính chào Hà huynh. Mong Hà huynh nhẹ tay cho.
Hoàng Tích phóng quyền đến vù một cái. Hà Thiện-Lãm nhận ngay ra đó là chiêu Long-hổ quyền, rất tinh diệu, hung hiểm, nhưng đường đường chính chính. Nó lùi lại một bước tránh đòn, miệng mỉm cười:
– Đệ nhỏ hơn Hoàng huynh hai tuổi. Vì vậy xin nhường Hoàng huynh một chiêu.
Hoàng Tích cười lớn:
– Hà huynh đệ là con cháu thánh Tản có khác, hành vi lễ độ phi thường.
Đấu được hai mươi chiêu, Thiện-Lãm thấy căn bản của Hoàng Tích rất vững chắc. Mỗi chiêu, công thủ, tiến thoái đúng khuôn phép, tỏ ra được huấn luyện rất cẩn thận. Nhưng công lực không được làm bao. Nếu nó muốn hạ Tích, chỉ cần đánh mươi chiêu Phục-ngưu thần chưởng thì xong ngay. Nhưng nó được Tự-Mai, Lê Văn dặn trước, nên cứ dùng những chiêu rất tầm thường, lại chỉ vận có năm thành công lực. Vì vậy trận đấu kéo dài.
Khán giả thuộc giới võ lâm chỉ nhìn qua cũng biết sự thực. Còn dân chúng thì cho rằng hai người ngang sức.
Hai người đấu với nhau đến chiêu thứ chín mươi, thì trống báo hiệu tới giờ nghỉ. Thiện-Lãm nhảy lùi lại xá một xá:
– Đa tạ Hoàng huynh nhẹ tay.
– Cảm ơn Hà huynh quá khen.
Hai người dắt nhau xuống đài. Khác với những cặp đấu trước. Khi xuống đài, ai về chỗ người đó, có đồng môn thoa bóp cho. Lần này hai đấu thủ cùng ngồi chung một chỗ, cùng uống nước suối, bóp chân, nắn tay cho nhau.
Thiện-Lãm với Hoàng Tích mới gặp nhau, mà như quen nhau từ bao giờ. Hai người cười nói, bàn tán về những chiêu đã đấu với nhau. Hoàng Tích nói:
– Hà huynh đệ này. Huynh nghe nói bất đứ đệ tử Tản-viên nào cũng có quyền dẫn bạn lên Tản-lĩnh chơi. Sau trận đấu này, huynh đệ đưa ta lên lễ thánh Tản đi.
– Gì chứ điều đó thì được. Huynh lên đấy sẽ thấy mây đi dưới chân mình. Hoa trên đó nở bốn mùa. Mùa này là mùa hoa cúc đây. Có hoa cúc vàng, có hoa cúc trắng, lại có cả hoa cúc tím nữa.
– Còn ngược lại ta sẽ dẫn huynh đi săn chim cu rừng rồi nướng ăn, Cu rừng nướng ngon lắm. Hơn hẳn cu dưới miền xuôi.
– Hoàng huynh là chỗ thế nào với lạc hầu Hoàng Sùng-Anh?
– Ta phải gọi người bằng chú họ. Vì các động của người thiếu nhân tài, người không muốn nhường ngôi cho ta, mà xin tuyển thay thế để có nhân tài. Bất biết ai thắng, người cũng nhường ngôi ngay, để người ngao du sơn thủy. À, nghe nói huynh đệ là nghĩa tử của vua Bà phải không?
– Đúng vậy. Mạ mạ nuôi đệ với Thuận-Tông từ hơn hai năm nay. Còn sinh phụ mẫu quê ở trấn Thanh-hoá.
– Ước gì huynh đệ thắng trận này, về làm lạc hầu Phong-châu, anh em mình tha hồ bàn truyện sao cho trang động mình trở thành giầu có.
– Vậy chúng mình cùng ước hẹn. Hễ ai thắng mấy người kia phải trợ giúp trong việc phát triển trang ấp.
– Lời huynh đệ sao giống ông Cú rừng quá. Hôm rồi ông Cú rừng tới thăm chú Sùng-Anh cũng khuyên chú rằng, bất cứ ai trong bốn chúng ta lên làm lạc hầu, cũng mời ba người còn lại giúp sức. Sáng nay chú có bàn với dưỡng phụ Tu Kỷ, ông ta lắc đầu không chịu.
– Sao vậy?
Đến đó, trống báo hiệu trận đấu thứ nhì. Hai trẻ dắt nhau lên đài. Trận đấu tiếp tục. Hoàng Tích vẫn dùng Long-hổ quyền của phái Tây-vu. Thiện-Lãm dùng Tản-viên quyền. Hai người vừa đấu vừa cười, giống như đùa vui. Đấu đến hiệp thứ trăm lẻ một, trống báo hiệu chấm dứt. Hai trẻ ôm choàng lấy nhau cười ha hả.
Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
– Cả hai trận, không ai hạ được ai. Bây giờ chờ cộng điểm.
Tồn-Phúc bàn cùng các giám khảo, rồi cộng điểm lại. Y tuyên bố:
– Về võ đạo cả hai bằng nhau, thái độ thanh thản, hoà thuận như anh em trong nhà. Về nội lực Thiện-Lãm sung mãn hơn Hoàng Tích. Về chiêu số ngang nhau. Như vậy Thiện-Lãm thắng cuộc.
Hai trẻ quì gối hướng vua Bà hành lễ, rồi lại hành lễ với giám khảo, sau đó dắt nhau xuống đài.
Nùng Tồn-Phúc gọi Tu Kỷ với Nùng Sơn-Bi lên đài. Sau khi nhắc lại qui luật cùng phương thức tuyển lựa, y hô lớn:
– Xuất chiêu.
Tu Kỷ lùi một bước, người y vọt lên cao, đá một hồi phong cước vào mặt Sơn-Bi. Sơn-Bi trầm người xuống tránh khỏi, y trả lại một quyền, trúng bắp chân Kỷ đến bốp một tiếng. Kỷ loạng choạng suýt ngã. Sơn-Bi thuận thế tung một quyền vào ngực nó.
Thực ra bản lĩnh Tu Kỷ cao hơn Sơn-Bi gấp bội. Chỉ vì y khinh địch, lại muốn biểu diễn ta đây, mà bị trúng hai đòn. Đau quá, hoá khùng, y lùi lại tung một chưởng vào ngực Sơn-Bi. Thấy chưởng phong ác liệt, Sơn-Bi khoanh hai tay trước ngực đỡ. Bình một tiếng, chưởng trúng ngực. Sơn-Bi bị đẩy lui hai bước. Nó nghiến răng lao vào người đối thủ. Sức lao của nó thực phi thường. Tu Kỷ né sang bên cạnh tránh khỏi, rồi túm lấy đầu nó giật mạnh trở lại.
Sơn-Bi biết nguy hiểm, nó không gỡ thế nắm, mà tống vào ngực đối thủ bằng cả hai quyền. Tu Kỷ bị trúng đòn đến binh một cái. Nó nghiến răng chịu đòn, tay trái chém vào cổ đối thủ. Sơn-Bi kinh hoảng nhảy vọt lên, đầu nó trúng hàm Tu Kỷ, làm răng cắn vào lưỡi. Tu Kỷ đau thấu tâm can.
Rõ ràng võ công mình cao hơn đối thủ, nhưng vì Sơn-Bi đánh toàn những đòn như người không biết võ, nên Tu-Kỷ bị trúng liên tiếp. Tay vẫn nắm tóc Sơn-Bi, nó giật mạnh kéo đối thủ lại gần, dùng tay trái đâm vào mắt phải đối thủ.
Sơn-Bi đau quá rú lên một tiếng, máu chảy đầy mặt, hai tay nó chụp hạ bộ Tu-Kỷ bóp mạnh. Tu Kỷ thét lên, dùng tay trái chọc vào mắt trái, rồi dùng hai tay gỡ tay Sơn-Bi ra. Sơn-Bi bị mù hai mắt, đau đớn cuồng loạn, nó cứ bóp chặt hạ bộ Tu-Kỷ. Trong khi Tu-Kỷ bóp cổ nó. Cả hai ngã lăn trên đài.
Đến đó trống báo hiệu hết trận thứ nhất. Nhưng hai trẻ cứ ôm nhau, lăn lộn trên đài.
Nùng Tồn-Phúc kinh hoảng vội chạy lại gỡ hai người ra, thì hai mắt Tu Kỷ trợn trừng, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Còn Sơn-Bi máu me đầy người.
Lê Văn vọt lên đài xem xét. Nó nói lớn:
– Nùng huynh chết rồi. Còn Tu huynh bị thương nặng, tuy không chết, nhưng e từ nay không còn làm chồng được nữa.
Hai đứa trẻ được đưa xuống đài. Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
– Tu-Kỷ thắng Sơn-Bi. Tuy nhiên vì Kỷ đánh tử thương Sơn-Bi, nên bị loại. Rút cục Hà Thiện-Lãm thắng cuộc, làm lạc hầu Phong-châu.
Lễ-bộ thượng thư lên đài, bà nói với Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm:
– Hai cháu đến trước vua Bà hành đại lễ.
Hai trẻ lễ đủ tám lễ.
– Hai cháu hướng các vị giám khảo lễ tạ.
Hai trẻ hướng bốn giám khảo lễ ba lễ.
– Ngày mai hai cháu sẽ đi cùng lạc hầu Hoàng Sùng-Anh, Lưu Nguyên tới lễ Hồ tiên cô cùng các liệt tổ phái Tây-vu, rồi Thuận-Tông theo Lưu lạc hầu, Thiện-Lãm theo Hoàng lạc hầu về tổ đường Thượng-oai, Phong-châu làm lễ cáo. Bắt đầu ngày mùng mười tháng ba sang năm, hai cháu đến lễ đền thờ Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông, Hùng-vương, An-dương vương rồi nhận chức.
Hơn tháng sau, sau khi chuẩn bị đi sứ xing, Khai-Quốc vương truyền:
– Việc ở đây xong. Năm em theo ta với chị Thanh-Mai lên đường đi sứ. Chúng ta sang Tống. Hãy nhớ rằng chúng ta kết hiếu với họ. Vì vậy kể từ khi vào đất Tống, tuyệt đối không dùng võ công. Chỉ dùng võ công khi tính mệnh bị lâm nguy. Mọi việc để quan quân Tống chịu trách nhiệm.
Vương nhìn Lê Văn:
– Riêng sư tỷ Thanh-Mai với chú mười tha hồ thi hành y đạo. Càng trị cho nhiều người càng tốt. Ta gây cảm tình trên đường đi. Chúng ta sẽ sang Ung, rồi đi Hổ-môn, qua Khúc-giang. Sau đó tới Trường-sa sẽ ngừng lại cánh đồng Tương, qua hồ Động-đình thăm động Tam-sơn, Quân-sơn nơi có di tích Quốc-tổ, Quốc-mẫu.
Vương chỉ Thiệu-Cực:
– Hệ thống tế tác của ta bên Tống ra sao? Cháu trình bày hiện tình triều Tống để mợ với các em biết, hầu còn đối phó.
Thiệu-Cực hú lên một tiếng, hai thiếu niên từ ngoài chạy vào. Chàng ra lệnh:
– Em sai một trăm con sói gác quanh tụ sảnh đường. Một trăm chim ưng tuần phòng trên trời. Tuyệt đối không cho bất cứ ai lai vãng quanh đây một trăm trượng.
Khai-Quốc vương hài lòng. Vương khen cháu:
– Các em phải chú ý học lấy những tinh tế, cẩn thận của anh Thiệu-Cực trên đường đi Tống.
Thiệu-Cực đem một cuốn trục treo lên, rồi chỉ vào đồ hình:
– Đây là tổ chức triều Tống. Các em phải chú ý thuộc lòng. Đầu tiên anh nói về những liên hệ hình thành triều Tống đã. Trước tiên Nhật-Hồ vốn người Việt lưu lạc sang Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo thu làm đồ đệ, rồi sai về phương Đông truyền giáo. Lão nhân gặp Lưu Trí-Viễn người bộ lạc Sa-đà, kết làm huynh đệ, lập ra bang Nhật-Hồ. Sau đó lão bỏ về Đại-Việt. Lưu Trí-Viễn nhờ bang chúng, nổi lên làm vua ở Đại-lương, xưng làm Hán Cao-tổ (Đinh-Mùi, 947).
Hà Thiện-Lãm hỏi:
– Em tưởng Hán Cao-tổ họ Lưu tên Bang chứ?
– Đúng thế, đó là truyện hơn nghìn năm trước. Sử gọi nhà Hán của Lưu Bang là Tây-Hán. Sau hơn ba trăm năm Tây-Hán bị Vương Mãng cướp ngôi, rồi Quang-Vũ khởi binh trung hưng cai trị ngoài hai trăm năm nữa, gọi là nhà Đông-Hán. Bây giờ Trí-Viễn họ Lưu tuy không liên quan với hai triều Hán kia, nhưng vẫn xưng là Hán.
Thiện-Lãm bật cười:
– Vậy nhà Hán này là nhà Hán »cùi».
– Cứ tam gọi như vậy đi. Trí-Viễn làm vua ít năm, truyền ngôi cho con tức Hán Ẩn-đế. Ẩn-đế làm vua được ba năm bị Quách Ngạn-Uy cướp ngôi lập ra nhà Chu «cùi» (Tân-Hợi, 951). Ngạn-Uy làm vua bốn năm rồi truyền ngôi cho con nuôi, cũng là cháu vợ tên Sài-Vinh (Giáp-Dần, 954). Tức Chu Thế-Tông. Chu Thế-Tông làm vua sau sáu năm thì chết, nhường ngôi cho con là Chu Cung-Đế. Cung đế làm vua hai năm, bị sư đệ của Chu Thế-Tông tên Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi lập ra nhà Tống (Canh-Thân, 960) .
Thuận-Tông kêu lên:
– Lộn xộn quá.
– Khuông-Duẫn làm vua mười bẩy năm thì băng, truyền ngôi cho em là Triệu Khuông-Nghiã (Bính-Tý, 976). Sau khi Khuông-Duẫn chết triều thần tôn Khuông-Duẫn làm Thái-tổ khải-vận, lập cực, anh võ, duệ văn, thần đức, thánh công, chí minh hoàng đế.
Miếu hiệu là Thái-tổ. Ta gọi là Tống Thái-tổ.
Lê Văn cười:
– Khi mình tiếp xúc bới vua quan nhà Tống, cứ đem cái tên dài thoòng mười tám chữ ra mà nói, ắt chúng khoái chí lắm.
Thiệu-Cực gật đầu cười:
– Khuông-Nghiã làm vua được hai mươi hai năm thì băng.Truyền ngôi cho con thứ ba là Triệu Nguyên-Hằng (Mậu-Tuất, 998). Triều thần tôn Nghiã làm Thái-tông thần công, thánh đức, văn võ hoàng đế .
Tôn Đản gật đầu:
– Hôm trước trên núi Chung-chinh sư tỷ Thanh-Mai đã nói về các con vua Thái-tông rồi. Ông Triệu Thành tên thực Nguyên-Nghiễm, con thứ tám Thái-tông tước phong Bành-vương sau đổi thành Kinh-vương, rồi Định-vương. Cuối cùng Bình-Nam vương. Chân-tông làm vua được hai mươi lăm năm thì chết, nhường ngôi cho con thứ sáu tên Trinh (Nhâm-Tuất, 1022). Ông này lấy niên hiệu Thiên-Thánh. Như thế Triệu Nguyên-Nghiễm là chú ruột hoàng đế Thiên-Thánh. Chúng ta đương phải đối đầu với ông ta. Vậy anh hãy trình bầy tiểu sử ông ta thực chi tiết cho chúng em nghe.
Thiệu-Cực gật đầu:
– Ông ta là con thứ tám vua Thái-tông, do bà Vương Đức-phi sinh ra. Tính cực kỳ hiếu thảo. Học văn thông minh quán chúng. Học võ mau hơn bất cứ hoàng tử nào. Tính tình hiếu hòa, hành sự cẩn trọng. Vua Thái-tông yêu thương đặc biệt, có ý muốn nhường ngôi cho. Nghiễm nghĩ rằng ai làm vua cũng được. Tống triều cần phải có một thân vương ra ngoài cầm quân, mở rộng biên cảnh, nên xin phụ hoàng truyền ngôi cho người khác.
Thấy cuộc đời Nguyên-Nghiễm hơi giống Khai-Quốc vương. Mọi người đưa mắt nhìn vương. Vương mỉm cười.
Thiệu-Cực tiếp:
– Vua Thái-tông cho chầu bên cạnh, hầu giảng giải việc trong ngoài, phép trị nước. Theo luật Tống, các con trai vua tuổi mười ba, mười bốn, đã được cưới vợ , phong chức tước, rồi cho mở phủ đệ riêng. Vua Thái-tông sủng ái Nghiễm, nên lưu giữ ở trong cung. Đến năm y hai mươi tuổi, mà vẫn được ở Hoàng-thành, vì vậy hoàng thân, phi tần đều gọi y là Nhị thập bát thái bảo. Nhị thập để chỉ tuổi hai mươi. Bát để chỉ Nghiễm con thứ tám.
Kim-Thành than:
– Vua Thái-tông thương ông ta, hóa ra hại ông ta. Giá như năm mười ba cho ông ta mở phủ đệ riêng, phong chức tước rồi dần dần thăng lên có phải năm hai mươi ông ta có địa vị cực cao không?
Thiệu-Cực gật đầu:
– Kim-Thành bàn đúng. Vì vậy khi vua Chân-tông lên ngôi vua, mới cho Nghiễm ra ngoài, được phong Kiểm-hiệu thái-bảo, Tả-vệ thượng tướng quân, Tào-quốc công.
Hà Thiện-Lãm gãi đầu:
– Chức tước gì mà dài quá vậy?
– Bản triều cũng như Tống, đối với các quan thì hoặc chức văn hoặc chức võ, rồi thêm tước vào. Đôi khi mới có người được giữ quyền cả văn lẫn võ. Còn đối với vua chư hầu, hoàng-tử, thường được phong cả chức văn, võ chức võ lẫn tước. Như Nguyên-Nghiễm đầu tiên được phong chức văn Kiểm-hiệu thái bảo tức đứng hàng thứ tư sau Thái-sư, Thái-úy, Thái-phó. Chức võ thì nhỏ xíu Tả-vệ thượng tướng quân. Còn tước mới có Tào-quốc công.
Kim-Thành à lên:
– Em biết ngay mà. Bây giờ vua Thái-tông băng rồi. Ông ta phải ra khỏi cung, với tước Quốc-công chưa được quyền mở phủ đệ riêng, chẳng có chân tay. Cũng tội.
– Khi vua Chân-tông cầm quyền, có những vấn đề liên quan tới vua Thái-tông, ông ta bỡ ngỡ, phải hỏi Nguyên-Nghiễm, nhờ y giúp đỡ. Nguyên-Nghiễm tận tình giúp anh rất đắc lực, lại tỏ ra không tham vọng quyền bính, mà chỉ muốn mở rộng giang sơn. Vì vậy vua hối hận, nên năm sau mới phong cho làm Bình-hải quân tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, kiểm hiệu thái phó, Quảng-lăng quận vương.
Thuận-Tông hỏi:
– Khi có cái chức Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, ông ta mới có quyền tuyển môn hạ văn võ riêng? Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức là quyền ngang Tể tướng. Tể tướng đương nhiên tham dự nghị sự triều chính, để cố vấn cho ông anh?
– Đúng thế. Ông ta nhã lượng, ôn nhu, khuất thân cầu hiền tài. Nhân tài theo về rất đông. Vua Chân-tông gia thăng cho Chiêu-võ, An-đức-quân tiết độ sứ, Vinh-vương. Rồi lại cải thăng Phận-âm kiêm thị trung, trấn nhậm vùng An-tĩnh, Võ-tín, gia Kiểm hiệu thái-úy kiêm trung thư lệnh. Như vậy quan lên đến tột đỉnh. Nhưng ông vẫn chưa chịu tuyển vương phi.
Mọi người bật cười nhìn Khai-Quốc vương, vì thấy hành trạng hai người giống nhau.
Thiệu-Cực tiếp:
– Vì vua Chân-tông muốn lập Lưu-phi làm Hoàng-hậu. Quần thần, thân vương nghị luận phân vân. Vua hỏi ý kiến Nghiễm. Ông lẳng lặng chỉ tay vào ngực, ý nói: Vua hãy tự quyết. Vua bèn phong Lưu-phi làm Hoàng-hậu. Lưu-hậu nhớ ơn Nghiễm. Lúc đầu phù trì cho ông ta. Sau bà thấy Nghiễm tinh minh mẫn cán, sợ khó lòng cho việc xen vào triều chính. Bà gây ra vụ cho một phi tần giá họa rằng tư thông với Nghiễm. Vua Chân-tông đoạt ấn Võ-tín, giáng làm Đoan-vương, giải tán phủ đệ. Ông bơ vơ phải đi ở nhờ phò mã Thạch Bảo-Cát.
Kim-Thành than:
– Tội quá.
– Sau, một võ lâm cao thủ, gia khách của Nghiễm, đang đêm lẻn vào cung bắt bọn thái giám, cung nữ tra ra manh mối, rồi đột nhập tẩm cung vua Chân-tông tâu hết mọi sự. Vua hối hận, giết hơn mười người, giải oan cho Nghiễm, phong Trấn-hải, An-hóa-quân tiết độ sứ, Bành-vương, rồi Thông-vương, Kinh-vương gia Thái-bảo.
Tự-Mai than:
– Vua gì mà đểu với em thế?
Khai-Quốc vương hỏi:
– Sao chú biết?
– Em mình có tài có công, mà vợ bầy kế hại em mình. Khi khám phá ra phải truất phế vợ, thăng chức tước cho em lớn hơn. Có đâu lại phong cho chức tước nhỏ xíu. Như vậy nhà vua vẫn coi như em có tội, ra cái điều thương hại, ân xá, rồi ban ơn cho chức tước mới. Thế võ lâm cao thủ ấy tên gì?
– Đông-Sơn lão nhân.
Mọi người cùng à lên một tiếng.
– Khi Thiên-Thánh hoàng-đế được lập làm Thái-tử. Vua Chân-tông muốn hoà giải thù oán giữa Lưu- hậu với Nghiễm, bèn phong cho Nghiễm làm Thái-phó dể dạy Thái-tử. Trong khi dạy học, Nghiễm thương yêu Thái-tử cực kỳ. Đến nỗi ăn ngủ, đi đâu chú cháu cũng ở cạnh nhau. Vua Chân-tông đau liệt dường, Lưu-hậu cầm quyền, bọn Khấu Chuẩn mưu đem quân vào cung truất phế Lưu-hậu, đưa Thái-tử làm Giám-quốc. Nguyên-Nghiễm đập tan mưu đó. Vì vậy Lưu-hậu kính nể Nghiễm vô cùng. Thái-tử lên ngôi tức Thiên-Thánh hoàng-đế, Lưu-hậu làm phụ chính, phong cho Nghiễm làm: Thái-úy, thượng thư lệnh kiêm trung thư lệnh, Định-vương. Khi tâu không phải xưng tên, tấu chương khỏi viết tên. Mới đây phong Thái-úy, thượng thư lệnh kiêm trung thư lệnh, quản Khu-mật viện, Bình-Nam vương. (1)
Ghi chú
(1) Đoạn này thuật nguyên văn trong Tống-sử trang 8705-8706.
Tự-Mai hỏi:
– Hiện ông Thiên-Thánh này bao nhiêu tuổi rồi?
– Ông ta sinh năm Canh-Tuất (1010) năm nay là năm Đinh-Mão (1027), ông ta đã mười tám tuổi. Như vậy lúc lên ngôi vua ông ta mới có mười ba tuổi. Khi vua Chân-tông sắp băng, di chiếu cho mẹ Nguyên-Trinh là Lưu hoàng-hậu quyền xử trị việc nước. Chương trình thôn tính Thổ-phồn, Tây-hạ, Đại-lý, Đại-Việt bắt đầu từ đây.
Tôn Đản dơ tay lên làm hiệu khâm phục:
– Bà này ghê đấy. Đối với ta bà là kẻ thù. Còn đối với Tống, bà là anh hùng. Dễ gì có đàn bà mà hùng tâm như thế.
– Đúng vậy. Nhân sĩ Tống tuy chỉ trích, nhưng vẫn khâm phục bà.
Tự-Mai hỏi:
– Em nghe nói Lưu hậu xuất thân thuộc gia đình nghèo khó lắm phải không?
– Nghèo khó còn khá, phải nói rằng ty tiện mới đúng.
Khai-Quốc vương nhìn Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
– Xuất thân như thế mới hiểu dân tình. Ngay Tự-Mai, Lê Văn nếu không lăn lộn mấy năm qua, chưa chắc đã có trình độ ngày hôm nay. Cháu trình bầy tiểu sử Lưu-hậu thực chi tiết, bằng cách nào bà từ một cô gái nghèo hèn, mà leo lên tới tột đỉnh quyền uy?
– Lưu thái-hậu không rõ họ gì. Bà gốc người vùng Thái-nguyên sau di về đất Hoa-dương thuộc Ích-châu. Khi tuyển cung, bà phải khai lý lịch tổ tiên. Không biết tổ tiên là ai, bà bịa ra rằng: Tổ tên Diên-Khánh, làm quan dưới triều Tấn, Hán tới chức Hữu kiêu-vệ đại tướng quân. Phụ thân tên Thông, lĩnh chức Hổ-đô chỉ huy sứ, lĩnh thứ sử Gia-châu. Trong lần tùng chinh Thái-nguyên bị tử trận. Bà là con gái thứ nhì trong nhà. Trước đây, một đêm thân mẫu bà nằm mơ thấy mặt trăng rơi vào bụng, sau đó mang thai, sinh ra bà.
Tự-Mai, Lê Văn cùng nhìn nhau cười khúc khích. Thiệu-Cực hỏi:
– Hai em cười gì?
Tôn Đản bào chữa cho Mai, Văn:
– Hai đứa này nó cười, vì sáng nay bọn em bàn nhau rằng người Hoa luôn huyền thoại thần thánh vua, quan, anh hùng của họ. Vua thì cứ phải là rồng là Thanh-y đồng tử giáng hạ. Võ phải Vũ-khúc tinh quân, Bạch-hổ tinh quân. Văn phải sao Thái-bạch kim tinh, Văn-khúc tinh quân. Cái ông Tống Thái-tổ cũng bình thường như trăm người khác. Thế mà họ bịa rằng ông ta vào đền, thấy ngựa gỗ, nhảy lên cỡi, lập tức thần nhập vào, ngưa phi như bay. Bây giờ cái bà Lưu-hậu thối tha này được bọn văn quan bợ đít, bịa ra rằng mặt trăng rơi vào lòng mẹ. Vì vậy hai đứa nó mới cười.
– Bà ta mồ côi cả cha lẫn mẹ trong lúc còn bế ngửa. Bấy giờ có Lưu Cung-Mỹ người đất Thục bỏ tiền ra mua làm tôi tớ, rồi đưa về kinh sư. Năm mười lăm tuổi, được tuyển làm cung nữ hầu hạ vua Chân-tông, bấy giờ Chân-tông còn là Hoài-vương.
Tôn Đản đưa mắt nhìn Tự-Mai, rồi cười:
– Chắc chắn cái ông Thái-tử Hằng bị cô cung nữ khôn ngoan chăng lưới bắt. Nên sau mới thành Hoàng-hậu rồi Thái-hậu.
Khai-Quốc vương gật đầu:
– Đúng thế. Triều Tống tuyển phi tần cho các Thái-tử cũng khắt khe như bản triều. Vì vậy những cô gái con quan, tuổi mười ba đến mười lăm bị đưa vào cung, ngây ngây ngô chẳng biết gì. Vì vậy đâu có làm cho các Thái-tử say mê? Bà Lưu hậu sống mồ côi, làm tôi tớ từ nhỏ, có thừa thói lưu manh dân dã mà lọt vào cung, bà ta thiếu gì bùa phép làm cho ông Thái-tử Hằng mê mệt.
Thiện-Lãm nói bâng quơ:
– Khi gặp được người mà mình mê, bất kể xấu đẹp, già trẻ, sang hèn, mình vẫn hạnh phúc hơn đối với người khác.
Cả bọn năm thiếu niên cùng cười khì. Tôn Đản cau mày suy nghĩ, rồi hỏi Thiệu-Cực:
– Anh nghĩ gì về xuất thân của Lưu hậu?
Thiệu-Cực hỏi ngược lại:
– Em nghĩ sao?
– Em thấy xung quanh Lưu-hậu bao trùm màn bí mật rất khó giải thích. Một là theo quan chế nhà Tống khi một vị quan được phong tới tước công, một phi tần lên tới bậc quý-phi, Hoàng-hậu. Bộ Lễ sẽ tâu trình phong chức tước cho cha mẹ, truy phong tổ tiên đến tam đại. Anh em, cháu gọi bằng bác, chú, cô cũng được ban chức quan. Thế mà khi bà được phong Hoàng-hậu, chỉ đưa tên có một người chủ cũ là Lưu Cung-Mỹ để nhận ân điển. Rõ ràng bà biết tổ tiên, cha mẹ là ai kia mà? Đã biết cha mẹ, ắt biết rõ mình họ gì chứ? Hà cớ lấy họ của người chủ, mà bà đã làm nô bộc cho y? Tại sao bà không đưa tên cha mẹ, ông bà cùng họ ra?
Mọi người đều công nhận lý luận của Tôn Đản đúng. Nó tiếp:
– Hai là: Hiện bà lên tới Thái-hậu, uy quyền bao la. Kẻ thù cũng lắm, người theo cũng nhiều. Thế thường khi kẻ yêu, người ghét muốn suy tôn hay công kích đều nhắm vào gia đình họ hàng. Thế mà triều Tống với hàng vạn quan chức, không ai tìm được tông tích bà. Lý lịch bà rất lờ mờ. Vậy bà là ai?
Khai-Quốc vương gật đầu:
– Chính ta cũng thắc mắc như Đản, mà không sao giải thích được. Kỳ này tới Biện-kinh ta phải dò cho ra. Thôi Thiệu-Cực tiếp.
Thiệu-Cực tiếp:
– Nhưng cuộc đời bà đâu có giản dị như vậy? Nhũ mẫu của Thái-tử Hằng là Thái-Quốc phu nhân vốn người nghiêm khắc. Bà đem truyện Thái-tử sủng ái một cung nữ xuất thân bần tiện tâu với vua Thái-tông. Vì vậy Thái-tử Hằng phải đưa bà ra ngoài hoàng thành, gửi ở nhà quản gia tên Trương Kỳ. Khi Thái-tông băng, Thái-tử Hằng lên ngôi vua tức Chân-tông. Vua đem bà ta vào cung phong làm Mỹ nữ. Vì bà ta không có thân tích họ hàng, cũng chẳng biết cha họ gì, mới lấy họ Lưu của Cung-Mỹ, coi Lưu Cung-Mỹ như anh ruột. Hai năm sau được phong làm Tu-nghi (2), rồi leo tới chức Phi.
Ghi chú
(2) Quan chế hậu cung triều Tống có nhiều bậc khác nhau. Hãy kể các bà vợ của vua. Vua có nhiều vợ quá, thành ra phải đặt thứ bậc để dễ cai quản. Cao nhất là vợ chính của vua, gọi là hoàng hậu. Kế tiếp đến các bà phi: quý-phi, thục-phi, đức-phi, hiền-phi. Các bà nghi: đại-nghi, quý-nghi, thục-nghi, thục-dung, thuận-nghi, thuận-dung, uyển-nghi, uyển-dung, chiêu-nghi, chiêu-dung, chiêu-viên, tu-nghi, tu-dung, tu-viên, sung-nghi, sung-dung, sung-viên. Các bà tiệp-dư. Các bà mỹ-nhân. Các bà tài-nhân, quý-nhân. Các bà thấp nhất là cung nữ. Cộng hai mươi bẩy bậc khác nhau.
Cho nên độc giả không lấy làm lạ rằng làm vua có đủ thứ thuốc bổ, thầy thuốc giỏi, mà ông nào đến tuổi bốn mươi nếu chưa chết, thì cũng hết xí quách! Chịu sao nổi hằng trăm bà!
Kim-Thành hỏi:
– Bấy giờ vua Chân-tông có Hoàng-hậu chưa?
– Rồi. Khi Chân-tông lên ngôi ( Mậu-Tuất, 998) bắt buộc phải lập Hoàng-hậu họ Quách, do vua Thái-tông cưới cho. Đến niên hiệu Cảnh-đức thứ tư (Đinh-Mùi, 1007) Quách hậu băng. Vua muốn lập Lưu phi lên làm Hoàng-hậu, quần thần cực lực phản đối. Nguyên-Nghiễm khuyên vua nên tự quyết. Vua giữ nguyên ý, lập Lưu phi làm Hoàng-hậu.
Tự-Mai than:
– Thế là từ một cô gái lọ lem, côi cút, không họ, không quê, bỗng nhiên thành mẫu nghi thiên hạ. Bà ta mà cai trị hậu cung, đố ai cựa quậy nổi.
– Bấy giờ bà ta lớn tuổi mà vẫn chưa con. Một văn quan tên Đinh Vị xui bà đi cầu tự. Sau khi cầu tự, bà mang thai, sinh ra một Hoàng-nam, tức Thiên-Thánh hoàng-đế hiện nay. Hai năm sau có thai, sinh ra một Công-chúa. Công chúa tên Huệ-Nhu.
Lê Văn hỏi:
– Công chúa Huệ-Nhu sau gả cho ai?
Thiệu-Cực bật cười:
– Chưa, vì cô ta còn nhỏ, mới mười sáu tuổi. Em hỏi làm gì vậy? Bộ muốn làm Phò-mã chăng?
– Em nghĩ kỳ này nhân đi sứ, anh cả hỏi cô Huệ-Nhu cho một trong bẩy đứa này. Như vậy mình mất ít lễ cống, mà lợi một cô Công-chúa. Biết đâu nhờ cuộc hôn nhân, khiến Tống bỏ tham vọng chiếm Việt chăng.
Thanh-Mai thấy đề nghị của Lê Văn có lý, nàng vuốt tóc nó:
– Được rồi, chị sẽ làm như em đề nghị, nhưng những ai ở đâu ra bẩy đứa?
– Anh Thiệu-Thái, Thiệu-Cực với năm đứa trời đánh này có phải thành bẩy không?
Tự-Mai cốc lên đầu Lê Văn:
– Suy nghĩ kỹ rồi hãy nói nghe. Xui anh cả hỏi vợ cho ông ỉn, e chị Mỹ-Linh xé xác chú ra chấm mắm tôm ăn tươi. Hỏi cho Cú vọ ư? Từ nay đừng hòng ăn bún riêu của chị Thanh-Trúc. Còn hỏi cho Thuận-Tông, Thiện-Lãm thì Kim-Thành, Trường-Ninh sẽ bằm chú ra làm chả trứng đó. Rút cục chỉ còn hai đứa mình.
Tuy Tự-Mai nói đùa, nhưng cũng làm cho Thanh-Trúc, Kim-Thành, Trường-Ninh ngượng ngập. Thanh-Mai đưa mọi người về thực tại:
– Được rồi, triều Tống có hàng trăm công chúa chị sẽ hỏi cho Tự-Mai, Lê Văn, mỗi đứa hai ba cô. Thôi Thiệu-Cực tiếp đi.
– Lưu hậu tính khải ngộ, nghe nhiều, nhớ giai. Khi vua Chân-tông làm việc, bà ngồi hầu cạnh. Tấu chương, phong tặng việc việc bà đếu nhớ từ đầu đến cuối. Mỗi sự vua quên bà lại nhắc nhở từng chi tiết một.
Tôn Đản thở dài, tỏ vẻ lo lắng:
– Lúc đầu nghe nói Lưu hậu cầm quyền, em tưởng bà ta cũng như Lã hậu, Mã hậu đời Hán, Võ hậu đời Đường. Không ngờ bà ta tài trí như vậy! Hèn gì bà muốn chiếm hết các nước xung quanh. Mình phải đối đầu với bà, thực khó thay.
– Đúng vậy. Niên hiệu Thiên-hy nguyên niên tháng giêng (Tân-Dậu, 1021) vua Chân-tông bệnh nặng. Mọi tấu chương, do bà ngồi bên đọc, rồi vua ban chỉ sao, bà phê như vậy. Sau dần dần bệnh vua nặng, bà tự duyệt phê. Từ đó, trên thực tế bà đã làm vua rồi. Lạ một điều, những quyết định, phê chuẩn của bà rất sáng suốt, thứ lớp, việc sau với việc trước nhất nhất hợp nhau. Bấy giờ bà mới nghĩ đến thực sự cầm quyền. Đầu tiên bà mượn quyền vua thăng chức tước cho các quan để họ không chống bà. Mùa Thu tháng bẩy ngày Đinh-Tỵ, tể tướng Khấu Chuẩn mật nghị với quần thần, làm tấu chương tâu lên vua cho Thái-tử làm giám quốc.
– Chết ông Khẩu Chuẩn rồi!
Trường-Ninh buột miệng than.
Thiện-Lãm hỏi:
– Sao Trường-Ninh biết?
– Cứ suy ra thì biết. Bà thay vua cầm quyền đã lâu, mọi sự đều tốt. Khi quyền vào tay, đời nào bà chịu buông ra? Tấu chương của Khấu Chuẩn đưa lên, bà ta đọc xong ắt nổi giận, giả chiếu chỉ của vua cách chức ông ta liền.
– Truyện không dễ đâu. Vì Chuẩn làm tể tướng, tước phong tới Công, uy quyền quán chúng. Chuẩn vô tội dễ gì cách chức được. Bà ta tìm cách lôi kéo quần thần.
Khai-Quốc vương dơ tay ra hiệu cho Thiệu-Cực:
– Cháu trình bầy thành phần quan chức triều Tống bấy giờ đã.
– Vâng! Uy quyền nhất bấy giờ là Thông-vương Nguyên-Nghiễm tức Bình-Nam vương Triệu Thành, em vua, lại là thầy dậy Thái-tử. Trước đó mấy năm bà luôn luôn tâu vua thăng chức tước cho Nguyên-Nghiễm, để Nghiễm lo bảo vệ ngôi vua cho học trò. Ông này giữ binh quyền, cùng ngự lâm quân trong tay. Người của bà gồm Hướng Mẫn-Trung mới được phong Tả bộc-xạ, Trung thư thị lang, kiêm Lễ-bộ thượng thư, bình chương sự. Đinh Vị làm bình chương sự. Phùng Thừa lĩnh Lại-bộ thượng thư, kiêm Khu-mật-viện sứ, đồng bình chương sự. Nhậm Trung-Chính, Chu Khởi làm Khu-mật-viện phó sứ. Lý Địch lĩnh Lại-bộ thị lang, kiêm Thái-tử thiếu bảo bình chương sự. Nhưng bà ta có bốn nhân vật cực kỳ lợi hại, ẩn dưới lớp áo thị vệ. Võ công bốn người này cao hơn bọn Vũ Nhất-Trụ nhiều.
Tự-Mai ngồi nhổm dậy:
– Ai thế?
– Không rõ tên tuổi thực. Tên giả một người là Tôn Đức-Khắc, một người là Lê Lục-Vũ. Một người gốc Chân-lạp tên Khiếu Tam Bản. Một người gốc Thái tên Sử-vạn Na-vượng.
Thiệu-Cực ngừng lại cho mọi người theo dõi kịp, rồi tiếp:
– Cũng tháng bẩy, năm đó, ngày Canh-Dần, bà gọi Đinh Vị vào, truyền chỉ miệng cho y bắt Khấu Chuẩn cùng những ai ký vào tờ biểu giam lại. Một mặt bà sai người bí mật báo cho Khấu Chuẩn biết tin đó.
Tự-Mai xuýt xoa:
– Khôn. Bà biết Chuẩn không tội khó có thể hạ bệ y. Bà làm như vậy, một là y cúi đầu rút biểu lại. Hai là y dùng binh quyền lật bà. Chờ cho y chuẩn bị, bà tóm cổ hết, với tội trạng rành rành Phản nghịch. Y chạy đâu cho thoát?
– Đúng thế. Chuẩn sai Nhập-nội đô tri Chu Hoài-Chính đem cấm quân vào cung phế Lưu-hậu, đưa Chuẩn làm phụ chính Thái-tử. Hai người dưới quyền Chính là Dương Sùng-Đản, Dương Hoài-Cát đến gặp Đinh Vị tố cáo mọi sự. Đang đêm Vị dẫn hai người nhập cung trình bầy với hậu. Khu-mật-viện sứ Tào Lợi-Dụng cũng được thông báo tin đó. Lợi-Dụng khải với Kinh-vương Nguyên-Nghiễm. Nghiễm nghe tin, vội vào cung ôm cháu tức Thái-tử để che chở, rồi huy động binh mã dẹp loạn. Đám cao thủ của Khấu Chuẩn bị Tào Lợi-Dụng, Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ giết hết. Nguyên-Nghiễm truyền lệnh bắt hết phe đảng Khấu Chuẩn, làm biểu tâu lên rằng Chuẩn mưu thí chúa.
– Thế thì Nguyên-Nghiễm bất trí, bị Lưu hậu cho vào tròng.
Kim-Thành bàn.
Khai-Quốc vương lắc đầu:
– Trường hợp đó, nếu chú ở vào địa vị ông Nguyên-Nghiễm chú cũng mắc mưu trong nhất thời. Tại sao? Khấu Chuẩn đem binh vào cung khó có thể tin rằng y chỉ truất phế Lưu hậu. Biết đâu y cướp ngôi vua thì sao? Hơn nữa khi binh nhập Hoàng-thành, nơi vua, cung tần, thân vương, hoàng-tử ở, ắt sẽ có cuộc chém giết kinh khủng, làm sao có thể bảo toàn tông tộc nhà vua? Vả Chuẩn làm việc đó thực vô pháp, vô thiên. Cho nên Nghiễm vì sự nghiệp tổ tiên, vì bảo hộ tôn thất cùng thương cháu, thương học trò, phải hành xử như thế.
– Cậu luận đúng. Nguyên-Nghiễm không mắc mưu. Sau khi bắt hết phe đảng Khấu Chuẩn, ông điều tra ra manh mối. Nhưng Chuẩn không thể chối tội phản nghịch. Việc này xẩy ra vào niên hiệu Thiên-hy thứ tư (Tân-Dậu, 1021) mùa Thu tháng bẩy ngày Đinh-Sửu. Bọn Chu Hoài-Chính bị giết. Thái-tử thái phó Khấu Chuẩn bị giáng xuống làm Thái-thường tự khanh. Hàn-lâm học sĩ Thịnh-Độ, Khu-mật trực học sĩ Vương Thự đều bị bãi chức. Từ đấy Lưu-hậu mặc sức tung hoành. Nhưng bà vẫn khéo léo lấy lòng Nguyên-Nghiễm, vì Nguyên-Nghiễm cầm binh quyền trong tay. Mùa Thu tháng tám năm đó, ngày Nhâm-Dần, biếm Khấu Chuẩn làm Đạo-châu tư-mã.
Thiệu-Cực lấy ra một số thẻ tre khắc chữ, rồi tiếp:
– Vua đau yếu liệt dường. Bà vẫn cầm quyền suốt năm đó. Năm sau, cải nguyên là Càn-hưng ( Nhâm-Tuất, 1022). Mùa Xuân tháng hai ngày Giáp-Thìn phong cho Đinh Vị làm Tào-quốc công. Phùng Thừa làm Ngụy-quốc công. Tào Lợi-Dụng làm Hàn-quốc công.
Khai-Quốc vương thở dài:
– Tiếc thực! Lưu hậu là một nhân tài như vậy, mà lại sinh làm người Hoa, kình chống Đại-Việt. Vì bảo vệ tổ nghiệp, bất đắc dĩ chúng ta phải đối đầu với bà. Bấy giờ bà thực sự làm vua rồi còn gì nữa?
– Năm đó, mùa Xuân tháng hai, ngày Mậu-Ngọ vua hôn mê, di chiếu truyền ngôi cho Thái-tử Trinh, phong Lưu hậu làm Thái-hậu tạm cầm quân quốc trọng sự.
Lê Văn nhăn mặt:
– Có thực thế không? Em nghĩ trong lúc vua hấp hối, đâu biết những ai bên cạnh? E rằng chiếu chỉ đó do bà sai người viết, rồi để vào tay vua. Vua phê là xong.
Thiệu-Cực xoa đầu Lê Văn:
– Em thông minh thì thông minh thực. Em đoán đúng. Nhưng lời bàn của em trật hết. Vì em không biết luật lệ cung đình.
– Luật lệ như thế nào?
– Khi vua ban chiếu về vấn đề trọng đại như vậy, sẽ truyền quan Lễ bộ thượng thư hoặc tả, hữu bộc xạ hoặc Trung thư lệnh soạn rồi kiềm ấn. Vua có hai ấn. Một để ở tẩm cung vua do Hoàng-hậu giữ. Một để ở Thừa-đức điện do Tể-tướng giữ. Khi vua ban chiếu thường, dùng ấn ở đâu cũng được. Trường hợp trọng đại như liên quan đến Hoàng-hậu, phải dùng ấn ở điện Thừa-đức. Còn ban chiếu liên quan đến Tể-tướng, phải dùng ấn ở tẩm cung.
Chàng nhìn Lê Văn:
– Lưu hậu khôn ngoan, đâu dại gì làm như em nghĩ. Bà cho triệu Tả bộc-xạ kiêm Lễ-bộ thượng thư Hứa Mẫn-Trung, cùng bình chương sự Đinh Vị, Lại-bộ thượng-thư kiêm Khu-mật-viện sứ Phùng Thừa vào nghe vua truyền chỉ. Ba người đó là chân tay bà, khó ai biết sự thực ra sao.
Khai-Quốc vương gật đầu:
– Cậu nghĩ rằng thực. Tại sao ? Cứ trong lý mà suy. Chiếu chỉ có hai phần quan trọng. Một là nhường ngôi cho thái tử Trinh. Hai là cử bà cùng giải quyết việc nước. Về việc thứ nhất, vua Chân-tông rất bằng lòng Thái-tử. Việc truyền ngôi cho Thái-tử là lẽ đương nhiên. Còn cử Lưu-hậu cùng Vua giải quyết việc nước cũng hợp lý. Vì khi Thái-tử được truyền ngôi mới có mười ba tuổi. Lịch đại các triều đều cho phép Thái-hậu buông rèm thính chính với ấu quân. Đối với Lưu hậu, khi vua Chân-tông khoẻ mạnh, mà bà đã cùng ông chung lo quốc sự, thì nay con lên ngôi vua, bà được cử giúp con không có gì lạ cả. Thôi, Thiệu-Cực tiếp.
– Luật lệ triều Tống cấm không cho đàn bà đến những điện Sùng-đức, Sùng-chính, Thừa-minh. Vì vậy Thái-hậu không thể dự các buổi triều. Đinh Vị thỉnh Lưu hậu ngự biệt điện để hội triều thần.
Trường-Ninh bật cười:
– Cái ông Đinh Vị đã có công tôn phò bà, mà không hiểu gì về bà. Đề nghị đó nhất định bà không chịu.
Thấy cháu có nhận xét tinh tế, Khai-Quốc vương mừng lắm. Vương hỏi:
– Tại sao cháu đoán ra?
– Luật triều Tống đâu có cho con cái dân dã làm Vương-phi? Dù có làm Vương-phi sau cũng không thể tôn phong Hoàng-hậu. Đây vua Chân-tông vẫn làm. Một điều bà được ưu đãi vượt luật. Thế thường, cổ kim người hầu cận vua lúc làm việc, thường là phụ chính đại thần, có luật nào cho Hoàng-hậu ngồi cạnh giúp vua giải quyết tấu chương, cùng quyết đoán mọi sự? Thế mà vua Chân-tông lại nhờ bà. Hai điều ra ngoài luật. Đã có hai điều đó rồi, bà ta không coi luật vào đâu nữa. Vì vậy bà ta sẽ nhất định không ngồi ở biệt điện.
– Đúng vậy! Bà sai hoạn quan Trương Cảnh-Tông tuyên chỉ với triều đình rằng : Khi tiên đế còn tại thế, ngày đêm ta phụ bên cạnh. Nay đối với con ta, ta lại phải lùi về biệt điện ư?. Thế rồi triều thần rước bà cùng vua ngự ở điện Thừa-minh. Vua ngồi bên trái, bà ngồi bên phải. Từ đấy, bất cứ chỉ dụ gì của vua cũng do bà cả.
Thiệu-Cực chỉ vào sơ đồ tổ chức triều Tống:
– Sau khi Thiên-Thánh hoàng-đế lên ngôi vua. Việc đầu tiên, bà phong chức tước đền ơn cho người phò tá. Vua lên ngôi được tám ngày tức ngày Bính-Dần phong cho sư phụ cũng là chú vua tức Kinh-vương Nguyên-Nghiễm được tôn làm Định-vương, khi tâu không phải xưng danh, được đeo kiếm khi chầu vua, lĩnh Thái-úy phụ quốc (3), quản Khu-mật-viện, thống đốc binh mã, quản chế nội ngoại sự. Đinh-Vị lĩnh Tư-đồ kiêm thị-trung, thượng thư tả bộc-xạ. Phùng-Thừa lĩnh Tư-không kiêm thị-trung Khu-mật-viện sứ, thượng thư hữu bộc-xạ. Tào-lợi-Dụng lĩnh thượng-thư tả bộc-xạ kiêm thị trung. Cả ba ông Đinh, Phùng, Tào đều được phong quốc công.
Ghi chú
(3) Tống sử quyển 161 đến quyển 172 (Trang 3760- 4154) Quan chế nhà Tống phân biệt rất nhiều loại, nếu kể hết ra, e ngang với công chức của một quốc gia văn minh ngày nay. Sau đây tôi xin tóm lược:
Nhà Đường mất nghiệp năm Đinh-Mão (907). Trung-quốc lâm cảnh rối loạn, chia làm nhiều sứ quân thôn tính nhau. Mỗi sứ quân lên làm vua được mấy năm, lại bị sứ quân khác thôn tính. Mỗi sứ quân đều là hậu duệ của một triều đại trước, nên sử thêm chữ »Hậu» vào để phân biệt. Thời gian này bao gồm 52 năm (907-960). Sử gọi thời đại này là Ngũ-quý hay Ngũ-đại.
Tống nối tiếp nhà Hậu Chu, vì vậy lúc đầu phỏng theo nhà Đường. Các đời vua sau, cải tiến dần, thành hẳn một hệ thống. Những triều Nguyên, Minh, Thanh tuy có thay đổi, nhưng vẫn giữ căn bản của triều Tống.
Xin kể những chức quan tối cao:
1. Tam sư, Tam công
Đây là những chức quan cao nhất. Tam sư gồm Thái-sư, Thái-phó, Thái-bảo. Tam công gồm Thái-úy, Tư-đồ, Tư-không. Những chức này dùng gia phong cho thân vương, tể tướng. Nếu không kiêm chức tước khác, thì chỉ để làm cảnh, chứ không tham dự chính sự. Như một thân vương được phong Thái-bảo, thì khi triều hội đứng trên Tể-tướng, nhưng không nắm quyền gì cả. Nhưng nếu một vị nào đó được phong Thái-bảo, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, tức tể tướng. Thì vẫn tham dự chính sự với nhiệm vụ tể thần.
Thường từ Tư-đồ gia Thái-bảo, Thái-phó gia Thái-úy. Thời Đường, Thái-úy dưới Tam-sư. Nhưng vì chức quan này thống lĩnh quân đội, nên sau trở thành quan trọng, đặt trên Thái-phó.
2. Tể-tướng
Phụ tá thiên tử, thống bách quan, bình thứ chính. Không sự gì trong nước mà không thống lĩnh. Năm 1989, một sinh viên văn khoa Paris (Sorbonne) trình luận án về sử học đời Tống, đã ví chức tể tướng với Premier ministre của đệ ngũ Cộng-hòa Pháp. Tôi bác, yêu cầu dùng nguyên chữ tể tướng, rồi chú giải ở dưới. Bởi thủ-tướng của Pháp không có quyền về phủ Tổng-thống, Lưỡng-viện quốc hội, Tối-cao Pháp-viện, Quốc-gia tư-vấn viện v.v. Ngược lại tể tướng đời Tống phụ tá thiên tử cả những vấn đề nội cung. Như khi một bà phi chết, Lưu thái hậu muốn an táng theo lễ nghi cung nữ. Tể-tướng Lã-di-Giản không chịu, yêu cầu táng theo nghi lễ một phi-tần.
Chức Tể-tướng triều Tống có hai tên gọi. Khi đàm thoại thì gọi là Tể-tướng. Còn trong văn kiện thì gọi là Đồng bình-chương sự. Thường có Tả, Hữu tể-tướng. Ông nào lĩnh thêm chức Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử thì ở trên. Ông nào lĩnh thêm chức Tập-hiền viện đại học sĩ ở dưới.
Đặc biệt thời Thần-Tông, vì thiếu người nên đặt ra “Tam tỉnh” là Thị-trung, Trung-thư lệnh và Thượng-thư lệnh. Trong tòa Thượng-thư lệnh có hai chức Tả bộc-xạ và Hữu bộc-xạ, được gọi là Tể-tướng. Tả bộc-xạ kiêm Môn-hạ thị-lang lĩnh nhiệm vụ Thị-trung. Hữu bộc-xạ kiêm Trung-thư thị lang lĩnh nhiệm vụ Trung-thư lệnh.
3. Xử tướng
Thân-vương, Khu-mật viện sứ, hay Tiết-độ-sứ mà kiêm nhiệm Thị-trung, Trung-thư lệnh, Đồng-bình chương gọi là xử tướng. Những người này không dự chính sự đươc gọi là xử tướng.
4. Tham tri chính sự.
Tức phó Tể-tướng
5. Dưới những bậc tể thần trên, có các cơ quan cao cấp sau:
– Khu-mật viện, tương đương với Hội-đồng an ninh quốc gia ngày nay, chỉ huy trực tiếp quân đội, tình báo, an ninh quốc nội, quốc ngoại.
– Tuyên huy viện, tương đương với ngày nay là bộ phủ Tống-thống, bộ Tài-chánh.
– Tam-ty sứ, Tương dương với nha tổng giám đốc thuế vụ.
– Hàn lâm học sĩ viện. Trông coi việc soạn chế, cáo, lệnh. Khi ban lệnh liên quan đến việc: Lập hoàng hậu, phong thân vương, bái Tể- tướng, Khu-mật-viện sứ, Tam công, Tam thiếu, cùng các chức từ Khai-phủ nghị đồng tam tư, Tiết-độ-sứ, gia phong, gia Kiểm-hiệu thì gọi là chế. Còn như phong đại thần từ Đại-trung đại-phu, Quan -sát sứ trở lên, thì dùng chiếu.v.v
– Thị độc, thị giảng. Chức quan giảng sách, đọc sách cho vua.
– Sùng-chính điện thuyết thư. Sùng-chính điện là nơi vua thiết đại triều. Sùng-chính điện thuyết thư phụ trách đọc các tấu chương, giải thích kinh nghĩa cổ điển liên quan đến chính sự đương thời.
– Chư điện học sĩ. Rất nhiều như: Quan-văn điện đại học sĩ, Đoan-minh điện đại học sĩ v.v.
– Chư các học sĩ. Rất nhiều như Đông-các điện đại học sĩ, Long-đồ các đại học sĩ, Thiên-chương các đại học sĩ v.v.
– Chư tu tuyển trực các. Rất nhiều như Tập-anh điện tu tuyển, Hữu-văn điện tu tuyển v.v.
– Đông-cung quan. Các quan trực thuộc Đông-cung thái tử, giúp thái tử tập chính sự. Những vị quan này thường là chức quan triều đình kiêm nhiệm. Bởi vậy khi thái tử lên ngôi vua, không bị bỡ ngỡ. Các chức này gồm Thái-tử thái sư, Thái-tử thái phó, Thái-tử thái bảo, Thái-tử thiếu sư, Thái-tử thiếu phó, Thái-tử thiếu bảo v.v.
– Vương phủ quan. Các quan thuộc phủ thân vương.
– Lục bộ gồm: Lại-bộ, Hộ-bộ, Binh-bộ, Hình-bộ, Công-bộ.
Tự-Mai cười lớn:
– Chết tổ bà ông Đinh Vị rồi.
Bật ra câu nói tục, nó biết rằng quá vô phép, ở nơi bàn quân quốc trọng sự. Nó nhìn vua Bà Bắc-biên như tạ lỗi. Vua Bà biết ý, cười:
– Phải, chỉ có câu đó mới diễn tả cái nguy của gã Đinh Vị.
Thuận-Tông hỏi:
– Như vậy ông Đinh Vị nhảy một lúc đến năm bậc thăng quan, sao lại chết tổ bà?
Tự-Mai bẹo tai sư đệ:
– Tông nhớ nhé! Bây giờ em đã là Lạc-hầu Thượng-oai phải tiếp xúc hàng ngay với biết bao nhiêu loại người, khôn ngoan có, ngu đần có, trung thực có, xảo quyệt có, gian mạnh có. Không cẩn thận, e bị mắc bẫy nguy đến tính mệnh cũng không đáng kể. Nhưng hỏng đại kế dân tộc mới đáng sợ.
– Tự-Mai nhấn mạnh:
– Về việc Đinh Vị được Lưu hậu ban cho từ một chức nhỏ, bỗng chốc thăng nhảy vọt đến bốn năm bậc rõ ràng bà không hề có chủ ý tưởng thưởng, mà đưa y vào chỗ chết. Y đang từ một chức Bình-chương sự tức một chức quan dưới quyền Khấu Chuẩn, trông coi việc đọc các tấu chương từ các nơi gửi về, rồi làm bản tóm lược đưa Khấu để đệ lên vua. Vì được tín cẩn trong vụ hạ bệ Khấu, bỗng chốc lên đến Tư-đồ, một chức lớn nhất trong ba chức vụ đầu não triều đình. Nghiã là cao hơn Định-vương Nguyên-Nghiễm. Vô tình y bị Lưu hậu cho ngồi lên bàn chông. Tại sao? Một bị đồng liêu ghen ghét. Hai là bất tài, ngồi vào vị trí tể thần. Ba là do phản bội người trên mà lên chức, mà triều Tống toàn Nho-gia trọng khí tiết, nên ai cũng ghét y.
Thuận-Tông như người tỉnh ngủ. Nó cảm động:
– Đa tạ đại ca. Sau khi thưởng công, chắc Lưu hậu tính tới bọn chống bà, để từ nay mầm mống ấy không còn nữa.
Thiệu-Cực gật đầu:
– Đúng thế. Cũng vẫn niên hiệu Càn-hưng nguyên niên (Nhâm-Tuất, 1022) mùa Xuân, tháng hai ngày Mậu-Thìn, trước đã biếm tể tướng Khấu Chuẩn làm Đạo-châu tư-mã, nay biếm nữa, hạ xuống còn tư-hộ tham quâm Lôi-châu. Thượng-thư hộ bộ thị lang Lý Địch làm Hằng-châu Đoàn-luyện phó sứ. Tuyên-huy Nam-viện sứ Tào Vi làm Tả-vệ đại tướng quân.
Thuận-Tông lắc đầu:
– Đàn bà mà thù ai thì người đó phải chết. Tốt hơn hết đừng gây truyện với đàn bà.
Nói đến đó biết lỡ lời, nó đưa mắt nhìn vua Bà. Rồi nói lảng:
– Lúc nãy anh nói bà đưa Đinh Vị lên để hại y. Thế sau này Đinh Vị có bị hại không?
– Bị chứ. Đinh Vị đắc thế mà làm lớn, cũng không tự biết cái nguy. Y bị quan Ngự-sử đàn hặc vì phạm nhiều tội: Trong khi tang vua Chân-Tông, mà y ăn tiêu xa hoa, tuyển thêm mỹ nữ. Nhất là y ăn bớt tiền xây lăng tẩm vua Chân-tông. Cho nên bị biếm làm Nhai-châu tư hộ tham quân.
Những gì Thiệu-Cực thuyết trình, vua Bà Bắc-biên đều thuộc nằm lòng. Bây giờ bà mới lên tiếng:
– Thiệu-Cực đã trình bầy những bí mật về triều Tống. Mục đích để cho Khai-Quốc vương phi cùng năm cháu biết. Bây giờ chúng ta sang những vấn đề thực tế hơn, bí hiểm hơn: Xung đột trong nội bộ triều Tống. Xung đột lớn nhất, không thể cứu vãn là phe Lưu hậu với phe Định-vương Nguyên-Nghiễm tức Triệu Thành.
Bà chỉ Thiện-Lãm:
– Con làm lạc hầu rồi. Con thử luận xem, sự xung đột ấy có những gì? Nội dung ra sao. Nguyên do từ đâu?
Thiện-Lãm kính cẩn đáp:
– Con thấy cuộc xung đột này rất đặc biệt. Thứ nhất về Lưu-hậu. Bà tuy cầm quyền, lấn quyền, nhưng quyền đó của con bà. Tức bà lấn con. Thứ nhì Thiên-Thánh hoàng-đế với bà rất hợp ý nhau. Bà lại có chân tài, nên thời gian qua, làm cho nước giầu dân mạnh. Thứ ba, khác với Lã-hậu, Mã-hậu thời Hán, Võ hậu đời Đường, cầm quyền, dâm đãng, rồi mưu cướp sự nghiệp cho giòng họ mình. Ngoại thích lộng hành, đổi niên hiệu, đổi triều đại. Nên quần thần, dân chúng chống đối. Ngược lại Lưu-hậu nhất tâm nhất chí xây dựng cho họ Triệu, không dâm dãng, không dùng ngoại thích. Vì vậy mầm chống đối ít. Năm nay Thiên-Thánh hoàng-đế mười tám tuổi, biết đâu bà chẳng trả quyền cho con? Định-vương Nguyên-Nghiễm khó có thể tìm ra khe hở hạ bà. Nhưng bà có một yếu điểm lớn là dùng dư đảng bang Nhật-hồ Trung-quốc làm chân tay. Trong khi triều