Giang Nam mừng rỡ kêu lên: “Có đúng là Bích linh đơn không?” Dương Liễu Thanh cười nói: “Chả lẽ ta gạt ngươi, hãy mau uống vào, ba viên Bích linh đơn ít nhất cũng có được ba năm công lực! ” Giang Nam huơ chân múa tay, cười nói: “Ngày mai tôi không cần lên đường nữa! ” Trâu Giáng Hà ngạc nhiên, hỏi: “Lên đường làm gì? Ồ, té ra huynh đến đây rồi lập tức sẽ ra đi? Mấy năm không gặp mà huynh chỉ ở lại được hai ngày?”
Giang Nam nói: “Muội còn nóng tính hơn cả huynh, muội vẫn chưa hỏi rõ, ta chỉ nói một câu mà muội đã trách ta.” Trâu Giáng Hà bĩu môi nói: “Được, vậy tôi hỏi huynh, huynh sắp phải đi đâu?” Giang Nam nói: “Đi xin Đường Kinh Thiên một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Trâu Giáng Hà cười nói: “Huynh nghĩ thật hay ho. Đường ca ca tuy khẳng khái nhưng cũng không tùy tiện cho huynh một đóa Thiên Sơn tuyết liên. Thôi được, nay đã có ba viên Bích linh đơn thì không cần phải đi xin tuyết liên nữa, hãy mau uống vào.”
Giang Nam nói: “Không, tôi phải mang về cho đại tẩu của tôi.” Trâu Giáng Hà nói: “Huynh có đại tẩu từ khi nào?” Giang Nam nói: “Tôi gọi công tử của tôi là đại ca, vợ của y chẳng phải là đại tẩu của tôi hay sao?” Trâu Giáng Hà nói: “Ồ, tôi nhớ ra rồi, công tử nhà huynh là người họ Trần, có phải là Trần Thiên Vũ không?” Giang Nam nói: “Đúng thế, chúng tôi đã kết bái làm huynh đệ.”
Trâu Giáng Hà nói: “Ồ, té ra là huynh muốn lấy lòng nghĩa huynh với nghĩa tẩu, nhưng cũng đâu cần dùng loại linh đơn diệu dược hiếm có như thế này!” Giang Nam nói: “Tôi không thể không đem về! Nếu không có Thiên Sơn tuyết liên đại tẩu sẽ mất mạng!” Dương Liễu Thanh thấy họ càng nói càng rối, cười rằng: “Giang Nam, ngươi cứ từ từ mà nói, Hà nhi con đừng cắt lời.”
Giang Nam nói cả một hồi thì mọi việc mới rõ. Lúc này Trâu Giáng Hà mới biết vợ của Trần Thiên Vũ bị trúng độc tiễn cho nên Giang Nam mới đi xin Thiên Sơn tuyết liên, trong lòng hơi tiếc cho chàng nhưng càng bội phục nghĩa khí của chàng, vì thế mới cười nói: “Vậy huynh không thể uống ba viên linh đơn này được. Võ công còn có thể luyện được. Lúc trước cha của Đường Kinh Thiên là Đường Hiểu Lan là đệ tử của ông ngoại tôi, nay võ công của nhà họ Dương chúng tôi tuy không bằng phái Thiên Sơn nhưng nội công thì hơn họ.” Dương Liễu Thanh cười nói: “Hà nhi, con đừng nói bừa, bản lĩnh của Giang Nam hơn con rất nhiều, con định muốn nhận hắn làm đồ đệ?” nhưng Giang Nam lại vái Trâu Giáng Hà một cái rồi nói: “Sư phụ” rồi quay sang Dương Liễu Thanh nói: “Tiểu diệt không học được công phu căn cơ, nếu được dạy từ đầu thì tốt còn gì bằng!” Trâu Giáng Hà mỉm cười né tránh đại lễ của chàng, dưới ánh trăng chỉ thấy đôi gò má nàng hơi ửng hồng. Trâu Tích Cửu bước ra sân, ngửa đầu kêu: “Này, các người đứng trên đó làm gì? Hãy mau xuống tiễn khách.”
Dương Liễu Thanh cười nói: “Giang Nam, đêm nay ngươi trấn áp quần hùng, họ đều muốn gặp ngươi, ta sẽ dẫn kiến cho ngươi.” Giang Nam nói: “Không, tôi không xuống.” Dương Liễu Thanh nói: “Sao, có gì e ngại ư?”
Giang Nam nói: “Không, đêm nay người đánh bại kẻ địch không phải là tiểu diệt, tiểu diệt làm sao có thể xuống nghe họ khen ngợi được!” Dương Liễu Thanh cười nói: “Đừng như trẻ con nữa.” Giang Nam lắc đầu quầy quậy: “Không, tiểu diệt phải tìm Kim Thế Di.” Dương Liễu Thanh nói: “Y lai vô ảnh khứ vô hình, biết tìm ở đâu?” Giang Nam nói: “Cô cô không biết tánh tình của Kim Thế Di, y biết tiểu điệt thật lòng tìm thì sẽ tự âm thầm đến tìm tiểu diệt.” Trâu Giáng Hà nói: “Được, muội cũng theo huynh!” Dương Liễu Thanh lắc đầu, nói: “Hai đứa trẻ này thật ngang bướng, giống lúc ta còn trẻ. Thôi được, dù sao trời cũng đã sắp sáng, sau khi trời sáng mà các con vẫn chưa tìm được tên ăn mày điên rồ ấy thì hãy mau quay về! ” Giang Nam tuy nói có vẻ tự tin nhưng thực sự trong lòng cũng không nắm chắc lắm, chàng và Trâu Giáng Hà ra ngọn núi phía sau, kêu lớn một hồi vẫn không nghe tiếng trả lời, Giang Nam dần nhụt chí, Trâu Giáng Hà cười nói: “Kim Thế Di đã đi xa, có lẽ y không nghe được huynh.” “Nói không chừng y đang đi sau lưng của tôi. Y chắc chắn sẽ nghe tôi gọi.” “Nếu y đi sau lưng của huynh, huynh không cần kêu y cũng biết.” Giang Nam nghe Trâu Giáng Hà nói thế cũng có lý, lòng thầm nhủ: “Có lẽ nào Kim Thế Di đã thực sự đi xa.”
Kim Thế Di không đi xa, nhưng chàng cũng không nghe tiếng Giang Nam gọi.
Lúc đó chàng đang đứng trên ngọn núi cao nhất ở sau hồ Đông Bình buông tiếng hú dài! Giang Nam công lực rất kém, tiếng kêu không vọng tới được ngọn núi ấy nhưng tiếng hú của Kim Thế Di thì đã truyền xuống bên dưới, đáng tiếc gió thổi ào ạt, Giang Nam không thể nghe được.
Kim Thế Di âm thầm trợ giúp Giang Nam, bỡn cợt bọn Hách Hạo Xương một hồi, trong lòng rất sung sướng, mà điều đắc ý nhất là chàng đã cho Giang Nam ba viên Bích linh đơn. Năm xưa Đường Kinh Thiên đã nhờ Băng Xuyên thiên nữ giữ lại cho chàng ba viên linh đơn này. Mấy năm nay chàng vốn định trả ba viên linh đơn cho Đường Kinh Thiên, nhưng chàng sợ gặp Băng Xuyên thiên nữ, bởi vì chàng tự nhận Băng Xuyên thiên nữ là tri kỷ duy nhất trong đời mình, mà nay nàng đã lấy Đường Kinh Thiên.
Lúc nãy chàng trao ba viên linh đơn cho Giang Nam, chàng biết Giang Nam muốn lên Thiên Sơn lấy tuyết liên để cửu U Bình, lòng thầm nhủ: “Ta dùng linh đơn của ngươi cứu bằng hữu của ngươi, ha ha, Đường Kinh Thiên ơi Đường Kinh Thiên, coi như ta không nhận ân huệ của ngươi!”
Một chuyện nữa khiến cho chàng thích thú đó là chàng đã giúp Giang Nam nổi tiếng, lấy được lòng của Trâu Giáng Hà. Thế nhưng trong lòng chàng vẫn có chút bùi ngùi! Đường Kinh Thiên có Băng Xuyên thiên nữ, Trần Thiên Vũ có U Bình. Cả Giang Nam cũng có Trâu Giáng Hà. Còn bản thân chàng? Đến nay chàng vẫn độc lai độc vãng, tìm tri kỷ trong biển người mênh mông! Trong khoảnh khắc ấy hình bóng của Lý Tâm Mai cũng lướt qua trong đầu chàng, chàng biết Lý Tâm Mai đang tìm mình, chàng xem Lý Tâm Mai như áng mây bồng bềnh trên trời cao, còn mình là biển rộng với sóng lớn thét gào. Chàng lớn lên ở hải đảo, biển rộng vô tận, biển và trời nối liền một dải. Chỉ có ở nơi biển và trời liền nhau, mây trắng mới bắt được sóng biếc, tựa như gấm vóc phủ lên mặt biển. Biển cả và mây trời có hai tính cách khác nhau, mây như động nhưng thực sự là tĩnh, còn biển cả, khi bề mặt tĩnh lặng, tâm trạng của nó cũng dạt dào, mây đơn thuần mà biển phức tạp, mây tuy thường kiên nhẫn lắng nghe biển gào thét, nhưng nàng có thể hiểu được bí mật của biển không? Có hiểu được tâm trạng của biển không?
Lý Tâm Mai lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, nàng chưa bao giờ thấy bộ mặt xấu xa của cõi đời này, cũng chưa từng nếm trải đắng cay của cuộc đời, nàng vẫn là một thiếu nữ vô tư; còn Kim Thế Di? Tuy Kim Thế Di chỉ lớn hơn nàng năm sáu tuổi, nhưng chàng đã trải qua biển lớn cuộc đời. Chàng cảm kích sự quan tâm của Lý Tâm Mai đối với mình, nhưng chính vì thương hại nàng cho nên chàng mới tránh nàng.
Bởi vì chàng chấp nhận sống cuộc đời phiêu bạt trên giang hồ, tựa như sóng lớn không ngừng dập dềnh trên biển cả. Nếu để Lý Tâm Mai phải sống với chàng như thế, chàng cảm thấy đó là một tội lỗi.
Sắc trời dần dần sáng, sương mù ôm núi, mây trắng vờn quanh, Kim Thế Di đứng một mình trên ngọn núi cao tựa như một hòn đảo giữa muôn trùng biển khơi, chàng phát ra tiếng hú dài, mây trên đầu chàng vỡ ra như kinh hoảng trước tiếng hú của chàng.
Trong sương mù nhẹ bay chợt xuất hiện có một bóng đỏ, đó chính là tấm áo cà sa màu đỏ của Tàng Linh thượng nhân. Kim Thế Di thâu nhiếp tinh thần, chỉ trong khoảnh khắc Tàng Linh thượng nhân đã đến trước mặt chàng.
Kim Thế Di cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân cũng lao về phía Kim Thế Di rồi buông giọng cả cười. Kim Thế Di nện cây gậy sắt xuống đất, lạnh lùng hỏi: “Ngươi cười gì?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi cười gì?” Kim Thế Di nói: “Ta cười lúc nãy ngươi không dám động thủ với ta nhưng nay lại đuổi theo, có phải ngươi sợ thất bại trước mặt nhiều người hay không?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta cười ngươi sắp gặp phải họa lớn mà không biết?”
Kim Thế Di nói: “Ta chỉ biết người là đệ nhất của Mật Tông Tây Tạng, té ra ngươi còn là một kẻ xem bói nữa!”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Mạng của ngươi cần gì phải bói, ngươi chắc chắn đã gặp họa sát thân, ai bảo ngươi có di thư của Độc Long tôn giả? Ngươi lộ điện chỉ e ác ma đòi mạng sẽ theo ngươi!” Kim Thế Di cười lạnh: “Có phải ngươi muốn lấy mạng ta không? Hay lắm, hay lắm! Ta đã chán sống lắm, ngươi hãy đến thử xem sao.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta không phải ác ma, ta chỉ là người giúp ngươi giải nạn, không những có thể khiến người chuyển rủi thành lành mà còn giúp ngươi trở thành tông sư của một phái, cho nên muốn được họa hay phúc thì phải xem ngươi.” Kim Thế Đi đã đoán trước y sẽ nói những lời gì, nào ngờ y lại nói ra những lờikỳ dị như thế, chàng chỉ đoán được một nửa.
Kim Thế Di biết mấy năm nay, những ma đầu lợi hại trong tà phái đang âm thầm đi tìm mình. Sự phân biệt giữa chính và tà đương nhiên dựa vào hành vi mà phán đoán, mà về cách tu tập nội công, đường lối giữa hai bên cũng rất khác nhau. Nội công của chính phái coi trọng thuần chính hòa bình, nội công càng sâu thì càng có ích đối với bản thân. Nội công của tà phái coi trọng hung tàn mãnh liệt, cái gọi là tàn có nghĩa là có thể khiến cho người ta tàn phế; cái gọi là liệt là có thể âm thầm đả thương người ta, tựa như ma quỷ nhập hồn không thể nào giải thoát được. Cho nên nội công của tà phái dễ luyện hơn nội công của chính phái, nhưng nội công càng cao thì càng có hại đối với bản thân, tẩu hỏa nhập ma cũng là một trong những hiện tượng này. Kim Thế Di vốn luyện loại nội công thuộc tà phái, may mà khi chàng tẩu hỏa nhập ma đã được Đường Hiểu Lan dùng nội công chính phái của phái Thiên Sơn giải cứu, lại còn cho chàng uống năm viên Bích linh đơn, lúc đó chàng đang ngất xỉu ở dưới chân núi Chu Mục Lang Ma, sau khi tỉnh đậy tuy đã biết là Đường Hiểu Lan cứu mình nhưng không biết ông ta đã cho mình uống năm viên Bích linh đơn cho nên mấy năm vừa qua chàng hoàn toàn không có hiện tượng tẩu hỏa nhập ma, vả lại cảm thấy nội công càng lúc càng tinh thuần, cả chàng cũng hơi ngạc nhiên.
Còn các ma đầu tà phái thì lại không biết, bọn chúng nghe đồn Độc Long tôn giả đã để lại cho Kim Thế Di một quyển Độc long bí kíp, loại võ công trong bí kíp này có thể giúp cho chàng không bị tẩu hỏa nhập ma, bọn họ truy tìm Kim Thế Di là để lấy Độc long bí kíp. Nào ngờ Độc Long tôn giả cũng chết bởi tẩu hỏa nhập ma, võ công trong Độc long bí kíp tuy lợi hại nhưng cũng không có cách nào giúp ông ta tránh khỏi tẩu hỏa nhập ma.
Kim Thế Di biết Tàng Linh thượng nhân là một trong những ma đầu đang đuổi theo mình, nhưng không ngờ Tàng Linh thượng nhân lại bảo giúp chàng. Điều đó khiến cho chàng kinh ngạc.
Tàng Linh thượng nhân nhìn chàng rồi nói: “Ngươi không tin sao? Ta hỏi ngươi, từ xưa đến nay, người không phải xuất thân từ chính phái mà luyện được võ công đến mức cao nhất là ai?” Kim Thế Di buông giọng cả cười, Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta biết ngươi đang cười điều gì, ngươi tưởng rằng ta muốn nói đến Độc Long tôn giả sư phụ của ngươi? Nếu đó là sư phụ của ngươi, ngươi đương nhiên không cần ta giúp đỡ.” Kim Thế Di hừ một tiếng rồi ngạo mạn nói: “Không phải sư phụ của ta thì là ai?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Tôn sư võ công tuy lợi hại, nhưng nhiều nhất là chỉ có thể tránh được cái họa do luyện nội công tà phái. Ông ta có thể dung hợp nội công của hai phái chính tà, luyện thành một loại nội công không phải chính cũng chẳng phải tà, lại vượt hơn hẳn hai phái tà chính hay không?” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Nếu luyện đến cảnh giới đó thì đã đến mức siêu phàm nhập thánh, hơn hẳn các bậc tôn sư võ học từ xưa đến nay!” Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, ta chính là muốn ngươi trở thành một bậc đại tôn sư như thế! Ta quen biết một người, ngươi có muốn cùng ta bái y làm sư phụ không?” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ta và ngươi hẹn y tỉ thí, nếu y chịu nổi ba trăm gậy của ta ta sẽ cam lòng bái y làm sư phụ!”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi muốn đánh y ba trăm gậy? Đáng tiếc y đã chết gần ba trăm năm nay!” Kim Thế Di tức giận nói: “Ngươi lặn lội đường xa từ Tây Tạng đến đây chỉ muốn đùa như thế thôi sao?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Không, không phải là chuyện đùa. Ngươi có từng nghe cái tên Kiều Bắc Minh chưa? Y là người sống vào thời Thành Hóa triều Minh, là lãnh tụ của tà phái đương thời, cả sư phụ của thủy tổ phái Thiên Sơn là Hoắc Thiên Đô cũng từng bại dưới tay y, hành tung của y rất kỳ dị. Tuy thời gian đã khá dài nhưng đến nay vẫn còn lưu truyền!” Kim Thế Di nói: “Lúc đó y đối chọi với học trò của đại hiệp Trương Đan Phong, từng gây ra cơn sóng gió, sau này bị chính phái võ lâm vây đánh, cuối cùng chết dưới kiếm của Trương Đan Phong. Hoắc Thiên Đô là người khai sáng ra kiếm thuật phái Thiên Sơn, còn Hối Minh thiền sư mới chính thức khai tông lập phái. Võ công của Kiều Bắc Minh đã sớm thất truyền. Ngươi muốn bái một người chết làm thầy? Nói thực, dù Kiều Bắc Minh có sống lại ta cũng không phục y!”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi biết một mà không biết hai. Kiều Bắc Minh không hề chết dưới kiếm của Trương Đan Phong, ông ta chỉ bị trọng thương sau đó chạy đến một đảo nhỏ ở miền Đông Hải. Mặc cho ngươi có phục y hay không, nhưng y đã dung hợp được võ công tuyệt thế của hai phái chính tà, đối với chúng ta, những kẻ không đi bằng đường chính rất có ích!” “Những kẻ không đi bằng đường chính”mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói chính là những người trong tà phái, Kim Thế Di nghe thế thì giật mình, nén không được hỏi: “Tại sao ngươi biết tiếp đó ông ta chạy đến hải đảo? Chuyện này đã xảy ra ba trăm năm trước, sao ngươi lại dám nói chắc chắn như thế?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Sau này có một hải khách gặp sóng gió trên biển, trôi dạt đến hải đảo ấy, lúc đó Kiều Bắc Minh đã quá trăm tuổi, biết không còn sống được bao lâu nữa cho nên đã làm một cỗ quan tài bằng gỗ dày, trong quan tài có chứa hương liệu tốt nhất để thân xác không bị thối rữa, ngươi có biết tại sao ông ta lại coi trọng thân xác của mình không?” Kim Thế Di nói: “Bởi vì ông ta sống ở hoang đảo quá lâu cho nên một lòng mong muốn trở về cố hương.” Đó là bởi vì từ nhỏ sống với Độc Long tôn giả ở Xà đảo, chàng mới hiểu được tâm trạng này. Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, khi còn sống, ông ta không thể trở về trung thổ, sau khi chết cũng mong muốn có thể trở về. Lúc đó ông đã hợp nhất nội công của hai phái chính tà, tin rằng từ xưa đến nay không ai bì nổi, nhưng đáng tiếc không có truyền nhân. Mà tuổi thọ của ông ta lại có hạn, lúc đó đã quá già yếu, biết rằng không thể nào vượt biển trở về. Vì thế đã phát lời thề rằng ai có thể đưa quan tài ông trở về Trung Nguyên chôn cất thì coi như đó là đệ tử cách thế của ông ta, lấy được võ công tuyệt thế của ông ta. Đáng tiếc người hải khách ấy là thương nhân, chẳng hiểu gì về võ công, cũng chẳng có ý học võ. Nhưng ông ta đã sống cùng Kiều Bắc Minh trên hải đảo ba tháng trời, nghe Kiều Bắc Minh kể lại nhiều chuyện lạ trong võ lâm, lại còn bảo đã giải quyết xong những vấn đề khó khăn trong võ học. Người hải khách nghe ông ta thao thao bất tuyệt nhớ được rất nhiều lời của ông ta, đương nhiên chỉ là nhớ mà thôi chứ không hiểu được sự ảo diệu trong đó.” Kim Thế Di càng nghe càng thấy li kỳ, nhìn vẻ mặt của y cũng không phải là giả.
Kim Thế Di nửa tin nửa ngờ, hỏi: “Sau này người hải khách ấy như thế nào?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Kiều Bắc Minh giúp y chặt cây kết bè, mùa xuân năm sau gió mùa nổi lên thì ông ta trở về trung thổ.” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi bịa câu chuyện này thật hay, đáng tiếc đã lộ sơ hở.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Sơ hở chỗ nào?” Kim Thế Di nói: “Người hải khách trở về nếu bị đắm giữa đường thì bí mật ấy sẽ nằm dưới đáy biển. Dù cho y may mắn có thể vượt biển trở về trung thổ, chắc chắn có thể tung tin ra, người trong võ lâm đương nhiên kẻo tới, có lẽ nào cho đến hơn ba trăm năm sau mà vẫn không ai biết?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi hỏi rất đúng, nhưng người hải khách ấy không trở về trung thổ mà trôi sang Ba Tư. Sau đó y cưới vợ sinh con, đời sau của y cũng trở thành người Ba Tư, không về Trung Quốc nữa.”
Kim Thế Di nói: “Nếu như thế tại sao ngươi lại biết?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ba mươi năm trước, ta nhận được lời mời của quốc vương nước Nê Bách Nhĩ, lúc ta ở nước Nê Bách Nhĩ dã quen biết một võ sĩ Ba Tư, ta cùng y đã đến nước A Phú Hán, thuận đường ghé Ba Tư chơi một chuyến. Nhờ thế ta gặp được hậu nhân của người hải khách ấy, cả nhà y đã quên tiếng Trung Quốc, cả chữ Trung Quốc cũng chẳng biết.” Kim Thế Di nói: “Nếu y không biết nói tiếng Trung Quốc, nhưng tại sao có thể nhớ tổ tiên của mình đã từng trôi dạt ở một hoang đảo, gặp một kẻ tên Kiều Bắc Minh?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Người hải khách ấy đã ghi lại nhật ký hải hành, sau khi thoát khỏi hoang đảo đã ghi thêm vào nhật ký. Hậu nhân của người hải khách gặp ta, biết ta từ Trung Quốc đến thì rất vui mừng.” Kim Thế Di nói: “Do đó y bảo tổ tiên của y cũng là người Trung Quốc, lại còn đưa quyến nhật ký hải hành của tổ tiên y cho ngươi xem?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đoán không sai tí nào, chính là như thế. Giờ thì ngươi đã tin chưa?” Kim Thế Di nói: “Tin ngươi thì thế nào?” “Kiều Bắc Minh đã hứa rằng, ai có thể đưa quan tài của y trở về trung thổ thì người ấy chính là đệ tử cách thế của y, nói như thế chắc chắn trong quan tài có bí mật, rất có thể y đã cất bí kíp trong quan tài. Nếu không sau khi y chết thì làm sao có thể truyền thụ cho đệ tử?”
Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi đã biết bí mật này tại sao không tự mình đi tìm mà lại muốn cùng hưởng với ta? Ta với ngươi đâu có giao tình gì?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Có ba nguyên nhân ta muốn đi cùng ngươi là bởi vì ta không biết đi biển, còn ngươi lại lớn lên trên Xà đảo ở miền Đông Hải; thứ hai ngươi cũng biết nội công của ta không phải tu luyện theo chính phái, giờ cũng đã nguy ngập, trong vòng ba năm lúc nào ta cũng có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Ngươi có thể tránh được kiếp nạn tẩu hỏa nhập ma, chắc là đã biết được cách giải cửu trong di thư của lệnh sư, ta không dám mượn sách của ngươi, nhưng mong ngươi chỉ điểm cho ta vượt khỏi kiếp nạn này. Nếu không có thể ta chưa tìm được quan tài của Kiều Bắc Minh thì đã chui vào quan tài trước.”
Kim Thế Di nói: “Làm sao ngươi biết sư phụ đã để lại di thư cho ta?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Thật không dám giấu, lúc còn sống Đổng Thái Thanh đã từng nói với ta.”
Kim Thế Di vỡ lẽ ra, cười rằng: “Té ra ngươi chịu đến giúp cho Hách Hạo Xương kỳ thực là muốn xem thử Đồng Thái Thanh đã chết hay chưa.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Nếu không phải vì chuyện này, chả lẽ ta lại đi bức hiếp một người đàn bà như Dương Liễu Thanh sao? Khi còn sống Đổng Thái Thanh đã bảo, y đi tìm một quyển sách của lệnh sư ở Xà đảo, sau đó mới kết giao với ngươi. Theo y nói, Độc long bí kíp là võ công do lệnh sư sáng tạo, mà quyển di thư ông ta trao lại cho ngươi lại có ghi cách phá giải tẩu hỏa nhập ma.” Kim Thế Di cười thầm, té ra Đổng TháiThanh đến Xà đảo chỉ tìm được một quyển nhật ký của sư phụ chàng, trong đó có một trang quan trọng nhất là dự đoán núi lửa ở Xà đảo sẽ bùng nổ mười năm sau khi ông ta chết, đồng thời ghi lại cách tránh nạn này chứ chẳng phải võ công ảo diệu gì cả.
Còn quyển nhật ký này không phải là do Đổng Thái Thanh đích thân giao cho chàng mà bởi Phùng Lâm cướp được từ tay Đổng Thái Thanh, sau đó Phùng Lâm đưa cho Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan gặp Kim Thế Di ở Hy Mã Lạp Nhã mới trao cho chàng. Sở dĩ Đổng Thái Thanh nói dối như thế là muốn xúi giục các đại ma đầu ở tà phái đối đầu với chàng. Kim Thế Di biết được đầu đuôi câu chuyện nhưng vẫn không vạch trần lời nói dối của Đổng Thái Thanh mà cười ha hả với Tàng Linh thượng nhân: “Té ra ngươi tính toán như thế, nếu Đổng Thái Thanh chưa chết, có lẽ ngươi sẽ tìm đến y.” Tàng Linh thượng nhân cười ngượng ngùng: “Không, ta chỉ muốn hỏi thăm thử xem chuyện này có đúng hay không.” Ngập ngừng rồi lại nói: “Kim Thế Di, ngươi cần gì phải đa nghi như thế? Cuộc giao dịch này đều có lợi cho đôi bên chúng ta, ngươi giúp ta phá giải mầm họa tẩu hỏa nhập ma, ta giúp ngươi tìm bí mật trong quan tài của Kiều Bắc Minh, nói không chừng vì thế mà ngươi sẽ trở thành một bậc võ học tôn sư xưa nay chẳng ai bằng!”
Kim Thế Di buông giọng cười rằng: “Đa tạ tấm thịnh tình, nhưng nói như thế ta được lợi hơn ngươi rất nhiều.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Chẳng phải sao?” Kim Thế Di nói: “Ngươi đã nói hai nguyên nhân, còn một nguyên nhân nữa?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Chúng ta liên thủ với nhau thì trên đời này có ai địch nổi? Đó là nguyên nhân thứ ba mà ta tìm đến ngươi.” Kim Thế Di nói: “Té ra ngươi sợ có người biết phong thanh cho nên muốn ta giúp đỡ.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đừng quên rằng, nay đang có vài đại ma đầu âm thầm truy đuổi ngươi, ngươi cần ta giúp đỡ hơn là ta cần ngươi giúp đỡ.”
Kim Thế Di lại cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân nói: “Này, vậy ý ngươi thế nào?” Kim Thế Di nói: “Người đã tốt với ta như thế, lẽ nào ta lại không chấp nhận? Được, bây giờ ta sẽ giúp ngươi trừ mầm họa tẩu hỏa nhập ma.” Tàng Linh thượng nhân cả mừng, hỏi: “Ngươi có bí quyết gì truyền thụ?” Kim Thế Di nói: “Không, ngươi hãy cúi xuống.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Cúi xuống làm gì?” Kim Thế Di nói: “Ta sẽ đánh vào mông ngươi ba cái!” Tàng Linh thượng nhân thộn mặt ra, đột nhiên cả giận, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng đã cướp lời: “Tàng Linh thượng nhân, ngươi cần gì phải nghi ngờ? Võ công của sư phụ ta rất ảo diệu, đánh ba cái vào mông có thể khiến cho trăm huyệt của ngươi thông suốt, chân khí nghịch chuyển từ dưới lên trên, tất cả mầm họa trong người ngươi đều bị tiêu trừ!” Tàng Linh thượng nhân nửa tin nửa ngờ: “Ngươi có đùa đấy không?” Kim Thế Di nói: “Nếu ngươi không tin thì thôi vậy.” Tàng Linh thượng nhân đành phải phục ở dưới đất, để cho chàng đánh ba cái vào mông.
Kim Thế Di giở gậy lên đập liên tục ba gậy vào mông của y, rồi đột nhiên chàng cười lớn: “Ta đang đùa với ngươi đấy!”
Tàng Linh thượng nhân nổi giận đùng đùng nhảy vọt lên, rút phắt đôi đồng bạt lên, hai cái bạt vỗ vào nhau đánh choang một tiếng, rồi lập tức giáng về phía Kim Thế Di bằng một chiêu Song phong quán nhĩ, Kim Thế Di hất hai cái đồng bạt ra kêu lên: “Ngươi chẳng phải muốn hợp tác cùng ta sao?” Tàng Linh thượng nhân cả giận mắng: “Sao lại có lẽ này, ta có tấm lòng Bồ Tát mà người lại bỡn cợt ta.” Kim Thế Di cười lạnh: “Nếu ngươi có tấm lòng Bồ Tát thì ta chính là Phật Tổ đại từ đại bi. Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, không thừa cơ đánh chết ngươi thì đã đủ đại từ đại bi rồi chứ? Hừ, Kim Thế Di này độc lai độc vãng, cần gì phải hợp tác với nhà ngươi?” Tàng Linh thượng nhân múa tít đôi đồng bạt đánh tới, Kim Thế Di thấy y đánh quá mạnh mẽ, chiêu số kỳ diệu thì cũng không dám khinh địch, sau khi chàng né được ba chiêu của y thì quát rằng: “Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, nhường ngươi ba chiêu, nếu ngươi đánh nữa thì ta không lưu tình.” Tàng Linh thượng nhân vỗ hai cái đồng bạt vào nhau phát ra tiếng kêu đinh tai nhức óc rồi lại giáng xuống đầu Kim Thế Di, Kim Thế Di nói: “Ngươi thật đáng ghét!” thế rồi chàng giở cây gậy sắt gõ xuống, chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau vang lừng cả bốn bên, Tàng Linh thượng nhân lùi bước đột nhiên phóng vọt người lên, hai cái đồng bạt múa ra một cuộn hàn quang rộng đến cả trượng vuông bao trùm Kim Thế Di vào ở giữa, Kim Thế Di cười lạnh: “Ngươi thực sự muốn liều mạng với ta ư?” thế rồi chàng kéo cây gậy, rút ra một thanh thiết kiếm, tay phải cầm kiếm tay trái cầm gậy tấn công mạnh mẽ đến nỗi đất trời nghiêng ngả, chỉ trong chốc lát tiếng bạt của Tàng Linh thượng nhân dần dần nhỏ lại, ánh hàn quang cũng bị phá tản mát. Kim Thế Di chợt quát lớn một tiếng. cây gậy sắt vung lên. lại gõ xuống một chiêu Ngũ đỉnh khai sơn, một tiếng choang thật lớn vang lên, đôi đồng bạt của Tàng Linh thượng nhân vỡ ra làm tư, tai mắt mũi miệng đều đổ máu.
Tàng linh thượng nhân cũng thật ghê gớm, đã bị nội thương mà vẫn có thể cất bước chạy như bay, vừa chạy vừa mắng: “Kim Thế Di, nhà ngươi là tên quái vật không thông tình đạt lý, chết đến nơi mà vẫn không biết. Ta không cần trả thù, những kẻ đối địch của ngươi kéo tới thì ngươi có nước chết chắc!” Kim Thế Di cười ha hả: “Ngươi hãy giữ hơi lại, đừng nổi giận, chỉ e ngươi phải đến gặp Diêm Vương trước.” Tàng Linh thượng nhân quả nhiên không dám mắng nữa trong chớp mắt đã chạy mất dạng. Kim Thế Di cười rộ lên một hồi, đột nhiên nhớ lại bí mật mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói, tim đập thình thình, chàng vội vàng chạy xuống núi.
Đó chính là: Võ công tuyệt thế tìm ở đâu? Hãy xem phong ba Đông Hải nổi.