Cô Nguyệt Minh nói xong, ngửa nhìn bầu trời sao.
Quý Nhiếp Đề ngồi trên một tảng đá trên gò đồi, cúi đầu suy tư.
Tương Thủy trải mình cách khoảng hai dặm sau lưng. Sau khi vượt qua Tương Thủy, Quý Nhiếp Đề mất đi tính kiên nhẫn xưa nay, cùng Cô Nguyệt Minh lên ngọn đồi nhỏ nói chuyện, đám thủ hạ chờ bọn họ dưới chân đồi.
Khôi Tiễn không chịu rời chủ nhân, quấn quít xung quanh.
Quý Nhiếp Đề thở dài: “Thật khó tin. Tiết Đình Hao không phải nói láo đó chứ? Mọi sự đều do hắn bịa đặt ra?”.
Cô Nguyệt Minh mục quang quay sang phía y: “Quý đại nhân thật nghĩ như vậy sao?”.
Quý Nhiếp Đề đón mục quang của y, trầm giọng: “Ta không phải nghĩ như vậy thật, mà là hy vọng sự thật là vậy, bởi đây không phải là chuyện ta có thể hiểu và tin chắc. Vừa nãy sau khi tiến vào Vân Mộng Trạch, chiến mã đột nhiên kinh hoàng thoái lùi, lại không thấy có sói lang xuất hiện, chỉ có Cô Nguyệt Minh ngươi đến, cũng là chuyện lạ ta không có cách nào giải thích được”.
Cô Nguyệt Minh trong lòng dâng hiện hình bóng xinh đẹp của Vô Song Nữ, thầm nghĩ nếu nàng tìm được di thể của Tiết Đình Hao, nhất định sẽ thương tâm vô cùng. Vụt lại đẩy nàng ra khỏi đầu não, trấn định tâm thần: “Tại sao các người có thể cho phép Qua Mặc tham dự chuyện này?”.
Quý Nhiếp Đề đôi mắt tinh quang nhoáng lên: “Là đề nghị của Tiền Thế Thần, trông cậy vào y thuật siêu phàm của Qua Mặc, tìm ra nguyên nhân cái chết của đoàn tầm bảo”.
Cô Nguyệt Minh cười lạnh: “Sự điều tra của Qua Mặc khẳng định bất lợi đối với Phu Mãnh, đúng không?”.
Quý Nhiếp Đề không đáp lời y, một hồi sau mới nói: “Ngươi hoài nghi Qua Mặc?”.
Cô Nguyệt Minh điềm đạm đáp: “Quý đại nhân trước hết hãy trả lời câu hỏi của ta”.
Quý Nhiếp Đề gật đầu: “Quả là như vậy, sau khi Qua Mặc nghiệm thi, phát giác tất cả các thi thể đều có dấu tích bị độc châm đâm trúng, vị trí đều nằm ở sau lưng, chỉ có Phu Mãnh mới có thể đắc thủ ám toán sau lưng bọn họ không chút phòng bị, mà theo vị trí thi thể ở hiện trường hung án, hiển thị Phu Mãnh hành sự trong sương mù, sát hại mọi người”.
Cô Nguyệt Minh bình tĩnh hỏi: “Trong thiên hạ có kịch độc lợi hại như vậy sao? Hơn nữa lập tức phát độc bỏ mạng, Quý đại nhân có nghe qua có thứ độc lợi hại như vậy chứ?”.
Tiếp đó đôi mắt sát cơ rừng rực, thốt: “Ta dọc đường tới đây, hai lần bị phục kích, nếu sở liệu của ta không sai, kẻ tập kích ta nhất định là Qua Mặc, mà Tiền Thế Thần dĩ nhiên không thoát khỏi có liên can, chỉ có gã biết được ta từ kinh sư đến”.
Sau khi Cô Nguyệt Minh kể lại tình huống hai lần bị tập kích, Quý Nhiếp Đề trầm ngâm: “Trên sự thật ta luôn luôn hoài nghi có người bên trong gây rối, chỉ là không nghĩ tới lại là Tiền Thế Thần. Chính như suy luận của ngươi, Phu Mãnh căn bản không có cách mở Sở hạp, sao lại có thể vì một vật không biết là gì mà dấn mình vào thế thân bại danh liệt, nhà tan người mất. Tiền Thế Thần cũng cùng một tình huống, so với Phu Mãnh lại càng không bằng, Phu Mãnh ít ra biết được cố sự của Mâu Xuyên, Tiền Thế Thần lại chỉ biết Phu Mãnh đi vào trong trạch tìm một cái hộp từ đời cổ đại để lại, Phu Mãnh cả chuyện quỷ vực cũng giấu giếm gã mà”.
Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: “Quỷ vực?”.
Quý Nhiếp Đề cười khổ: “Nếu cổ thành thật sự tồn tại, bọn ta sao tìm không ra? Không phải quỷ vực thì là gì?”.
Cô Nguyệt Minh thốt: “Qua Mặc thêm vào Tiền Thế Thần, chuyện không thể nào cũng có thể biến thành có thể, hơn nữa Phu Mãnh hoàn toàn không có lòng đề phòng, bị bọn chúng dùng hữu tâm để đối phó vô tâm, có bị kết liễu cũng không lạ gì. Ta tuy không rõ Tiền Thế Thần tại sao lại mạo hiểm cưỡng đoạt Sở hạp, lại khẳng định chỉ cần bắt hai người, rồi để ta dụng hình bức cung, khẳng định có thể hỏi ra nơi hạ lạc của Sở hạp. Đại nhân có đồng ý với lối nhìn của ta không?”.
Quý Nhiếp Đề hít sâu một hơi: “Hoàn toàn đồng ý”.
Cô Nguyệt Minh hơi ngạc nhiên: “Không ngờ đại nhân lại đáp sảng khoái như vậy. Tiền Thế Thần không phải là người của đại nhân sao?”.
Quý Nhiếp Đề có hàm ý: “Ai dám lừa gạt ta, kẻ đó phải chết. Bất quá muốn hạ thủ bắt sống hai người, cần phải sắp xếp bố trí nghiêm mật, ngàn vạn lần không thể lỗ mãng hành sự. Đương nhiên! Nếu ta điều động đại quân đến, bọn ta thích làm gì thì làm, chỉ tức hình thế trước mắt tuyệt không cho phép ta làm như vậy, nếu không hậu quả sẽ nghiêm trọng vô cùng”.
Cô Nguyệt Minh không hiểu: “Ta không hiểu”.
Quý Nhiếp Đề tựa như nghĩ đến chuyện gì đó, đôi mắt tinh quang loang loáng, từ từ thốt: “Cần phải chia ra vài mặt mà nói, Nguyệt Minh mới có thể hiểu hình thế vi diệu của Lạc Dương hiện tại. Trước hết là bản thân Tiền Thế Thần, gã không đơn thuần là một đại thần địa phương tay nắm binh quyền, mà là đại phú hộ có cơ sở sâu dày ở Giang Nam, gia tộc thế lực to tát, thâm căn cố đế, hơn nữa trường kỳ làm quan ở Giang Nam, bắt gã rất dễ sinh biến loạn”.
Cô Nguyệt Minh gật đầu tỏ ra đã hiểu.
Quý Nhiếp Đề thốt: “Thứ nữa là Đại Hà Minh mối họa ruột gan của triều đình, đại long đầu Hoàng Phủ Thiên Hùng không phải sợ, chỉ là một kẻ không có đại chí gì, nhưng tả hữu của y Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân lại hoàn toàn là một chuyện khác, từ sau khi bọn chúng ra mặt, thế lực của Đại Hà Minh khuếch triển bành trướng đến mức khí thế hừng hực, người sáng mắt đều nhận ra bọn chúng không cam tâm chỉ làm bang hội độc bá một phương. Nếu Giang Nam không ổn, triều đình lại điều động quân đội Nam hạ, nào có khác gì ép bọn chúng lập tức khởi binh tạo phản. Sức hiệu triệu của Đại Hà Minh ở một dải Đại Giang tuyệt không thể coi thường”.
Cô Nguyệt Minh nói: “Chỉ cần bọn ta bày cách dụ Tiền Thế Thần và Qua Mặc đến Vân Mộng Trạch, hạ thủ bắt sống bọn chúng, rồi tìm một cớ quang minh chính đại, phủ an dân chúng Giang Nam, chắc sẽ không dẫn tới sự cảnh giác của Đại Hà Minh”.
Quý Nhiếp Đề thốt: “Dưới tình huống bình thường, đề nghị của Nguyệt Minh là một biện pháp tốt, bất quá hiện tại đâu phải là tình huống bình thường. Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân giờ phút này đang ở trong thành Lạc Dương, hợp tác chặt chẽ với Tiền Thế Thần để dụ bắt Ngũ Độn Đạo, bất kỳ một hành động nào nhắm vào Tiền Thế Thần cũng sẽ như kéo một sợi tóc mà động tới toàn thân, gây ra hậu quá khó lường”.
Tiếp đó đem đầu đuôi ngọn nguồn đại kế Khâu Cửu Sư bắt trộm kể ra, sau đó nói: “Bắt Tiền Thế Thần thì dễ, Qua Mặc lại hành tung phiêu hốt, tính cách thâm trầm, là hạng có trí, lại võ công cao cường, tinh thông Đạo môn dị thuật, nếu nghe động tịnh ẩn náu trước, muốn bắt hắn cũng khó không thua gì bắt Tiết Đình Hao, cho nên nếu không nắm chắc hoàn toàn, tuyệt không thể khinh cử vọng động, đả thảo kinh xà”.
Cô Nguyệt Minh không ngờ một chuyện giản giản đơn đơn lại biến thành phức tạp hẳn, chướng ngại trùng trùng, nghĩ ngợi một hồi, quyết đoán: “Qua Mặc giao cho ta xử lý, chỉ cần hắn thật là kẻ đánh lén ta, ta có cách bắt sống hắn, sau đó lại đối phó Tiền Thế Thần”.
Quý Nhiếp Đề lắc đầu: “Ta không phải không tín nhiệm năng lực của Nguyệt Minh, giả như ngươi chỉ muốn chém đầu Qua Mặc, ta còn an tâm để ngươi đi thu thập hắn. Nhưng nếu muốn bắt sống hắn, cho dù là Nguyệt Minh cũng không đủ sức, một nước đi không hay, bị hắn thông tri cho Tiền Thế Thần biết, mà Tiền Thế Thần vì để giữ mạng, sẽ quay đầu về Đại Hà Minh, hậu quả không dám tưởng tượng. Chỉ có dưới một tình huống bọn ta mới có thể hoàn toàn không hiềm kỵ”.
Cô Nguyệt Minh đang rầu không biết lúc nào mới có thể lấy Sở hạp về, hoàn thành nhiệm vụ, nghe vậy tinh thần phấn chấn, hỏi: “Là tình huống gì?”.
Quý Nhiếp Đề trầm giọng: “Là trước hết giết chết Khâu Cửu Sư, người này vũ dũng cái thế, rất được bang đồ dân chúng ủng hộ, chỉ cần trừ khử hắn đi, Nguyễn Tu Chân chỉ còn nước đợi bị làm thịt, Đại Hà Minh không còn đáng sợ nữa”.
Cô Nguyệt Minh hai mắt sáng lên, lẩm bẩm: “Khâu Cửu Sư!”.
Quý Nhiếp Đề thốt: “Nguyệt Minh trước hết đến Lạc Dương gặp Tiền Thế Thần, giả như không có chuyện gì, không gặp ta, lại không gặp Tiết Đình Hao. Qua vài ngày ta mới về Lạc Dương, lợi dụng đoạn thời gian đó bẩm báo với Phụng công công, xem có thể rút một đội tinh nhuệ bí mật lẻn đến, đến lúc ta hoàn thành bố trí, ngày tận thế của Tiền Thế Thần và Qua Mặc cũng đã đến”.
° ° °
Sau khi Ô Tử Hư đi, Chu Bàn Tử thư thả thở phào một hơi: “Hồng Diệp Lâu bọn ta khẳng định gặp số đỏ, chừng như ông trời đích thân an bài, đột nhiên lòi ra một Họa Tiên, Hồng Diệp Lâu có thể danh truyền thiên cổ hay không, phải trông vào tên dê xồm thánh thủ hội họa rất rành nghề thừa nước đục thả câu này. Ủa! Thần tình của con gái ngoan sao lại biến thành cổ quái vậy? Không phải đã dời đổi luyến tình, đi thương tiểu tử đó chứ?”.
Bách Thuần bực dọc: “Di tình biệt luyến cái gì? Làm gì có chuyện đó. Bất quá tám bức họa mỹ nhân mà tên tiểu tử hiếu sắc đó sẽ tạo ra thật khiến người ta trông đợi, cũng làm cho con càng có hứng chăm lo cho khánh điển ăn mừng mười năm của bọn ta”.
Chu Bàn Tử vui vẻ thốt: “Mặt này ta hoàn toàn trông cậy vào con gái ngoan, ta thật không giúp được gì hết. Yến hội đương nhiên do ta phụ trách, mặt đó ta rành rồi, đầu bếp nổi danh xa gần ghi tên đến trợ trận cũng hơn mười người, bào chế món ăn đúng mùa có đặc sắc địa phương, chọn vật liệu cũng để một tay ta bao hết, phương diện đó hoàn toàn không cần lo lắng”.
Lại nói: “Tiết mục ăn mừng áp trận sau tiệc đêm để con gái ngoan lãnh đạo bảy mỹ nữ kia biểu diễn ca vũ, còn mấy tiết mục khác không biết an bài làm sao?”.
Bách Thuần khổ não thốt: “Có chút vấn đề nhỏ, Sư Mẫn Tử ảo thuật trứ danh nhất Dương Châu đã ngã bệnh, không có cách nào đúng hẹn đi biểu diễn ảo thuật ở sảnh đường, thật làm cho dạ yến mất màu”.
Chu Bàn Tử cau mày: “Lão có đồ đệ không?”.
Bách Thuần đáp: “Người bọn ta mời toàn là người có mặt mũi ở Giang Nam, nếu dùng hàng hạng nhì, sẽ bị người ta đàm tiếu, thà không ăn còn hơn”.
Chu Bàn Tử đau đầu: “Lẽ nào phải trương bảng chiêu sính khắp nơi kiểu chiêu sính họa sư? Ài! Hy vọng sau Họa Tiên lại có Ảo Thuật Thánh”.
° ° °
Ô Tử Hư ngồi thừ giữa sảnh đường, cái bao lớn đặt trên bàn tròn, trên trán lấm tấm mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. Đó là vì hắn bỗng nghĩ tới một vấn đề, mà vấn đề này hắn chưa từng nghĩ tới, với tác phong cẩn thận chu mật đó giờ của hắn, sao lại có thể sơ suất như vậy?
Mãi cho tới một khắc trước khi ngồi xuống, hắn còn tin chắc Tiền Thế Thần sau khi nhìn thấy dạ minh châu sẽ bất chấp tất cả mua cho được kỳ trân hãn thế đó, nhưng có thể chỉ là ý tưởng mong mỏi một chiều của hắn. Tại sao mình trước đây không nghĩ tới mặt này? Cảm giác đó cứ như bị quỷ mê.
Sự tỉnh ngộ này làm cho hắn phát lãnh tận đáy lòng.
Chỉ tức bây giờ có muốn chạy cũng chạy không được, toàn Đại Giang nam bắc, đối với hắn mà nói, địa phương an toàn nhất là Hồng Diệp Lâu trong Lạc Dương thành, quan trọng hơn là thân phận họa sư riêng của Bách Thuần, giúp cho hành động bán bảo vật của hắn biến thành áo trời không lộ đường may, nếu không đi thử, cứ như vào núi vàng mà về tay không, lúc đó sẽ vô cùng hối hận không thu tám đĩnh vàng của Bàn lão bản.
May là bây giờ đang có thân phận Họa Tiên yểm hộ, chỉ cần Tiền Thế Thần đến Hồng Diệp Lâu, hắn có thể tùy theo tình huống mà triển khai sắp xếp, quyết định kế hoạch bán bảo vật có thể tiến mà cũng có thể thoái. Hắn là người hiểu biết lợi dụng hoàn cảnh nhất, mà Hồng Diệp Lâu đang dâng cho hắn hoàn cảnh lý tưởng nhất. Vì tương lai, hắn cần phải kiên trì đi tới.
Ở tình huống cơ hội bán bảo vật phô bày trước mắt như vầy, bất kể hắn mê gái tới cỡ nào, cũng tuyệt không thể lên giường quấn quít với bất cứ một nữ tử nào trong Lâu. Mình biết chuyện mình, chiếu theo tình hình trong dĩ vãng, một khi phát sinh quan hệ xác thịt với nữ tử, sáng hôm sau thức dậy hắn có thể rơi vào vực sâu hụt hẫng, tâm ý nguội lạnh, bất kỳ chuyện gì cũng không gượng sức nổi, chỉ muốn lập tức bỏ đi, vĩnh viễn không quay về nữa, giống như một người một mực tìm kiếm một thứ bảo vật quý giá gì đó, đến khi bảo vật lọt vào tay, phát giác nó căn bản không phải là vật mình truy tìm, sự thất vọng không có cách nào đè nén nổi đó sẽ khiến cho mình sụp đổ. Đó là lời nguyền của số phận đối với hắn.
Bách Thuần thì sao?
Hắn chưa từng gặp một nữ nhân nào khiến cho hắn động lòng như Bách Thuần, nàng có phải là ngoại lệ duy nhất không? Thật là hy vọng sau một đêm chung đụng với Bách Thuần, hắn vĩnh viễn không muốn bỏ đi. Vì để biết chân tướng, hắn chịu hy sinh bất cứ cái gì, bao gồm cả tương lai của hắn. Cho nên trước khi đụng chạm với Bách Thuần, tuyệt không thể đụng chạm với nữ nhân khác. Đối với người khác mà nói, đó chắc không phải là một quyết định gian nan, nhưng đối với hắn mà nói, lại như người đói đối diện rượu thịt thơm ngon đầy bàn, lại cưỡng bách mình đợi món ăn cuối cùng.
Hắn yêu cầu được một chỗ cư trú độc lập yên tĩnh, là vì tiện lợi cho hành động của hắn, hơn nữa muốn tìm chỗ cất giấu dạ minh châu và bất cứ một vật gì có thể tỏ lộ thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn, ví như “áo trộm” mà hắn tận tay chế tạo, dây móc câu, áo lặn, ống đồng thở dưới nước, giày vải bước đi không phát tiếng động.
Nghĩ đến đó, hắn vứt bỏ hết mọi lo âu, thò tay mở cái bao trước mặt.
° ° °
Cô Nguyệt Minh quất ngựa phi nhanh trên quan đạo tối tăm, làm bạn với y chỉ có tinh quang nguyệt sắc, bần thần trong lòng.
Có lẽ y không còn được tái kiến nữ lang không hẹn mà gặp ở bến đò kia, hoặc có lẽ y sẽ gặp lại ở Lạc Dương, không có chuyện gì có thể khẳng định được.
Từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ của Phụng công công, số phận tựa như không còn nắm chắc trong tay mình nữa. Nỗi sợ hãi đã biến thành hiện thực, nữ lang quả là người có quan hệ với Sở hạp, sợi dây số phận đã trói bọn họ lại với nhau, y không thể suy đoán được sự phát triển trong tương lai.
Giải trừ quân ngũ, hồi phục lại sự tự do cho bản thân là khát vọng lớn nhất của y, nhưng vào giờ phút này, chuyện đó biến thành xa vời phi thường, không còn trọng yếu nữa.
Quý Nhiếp Đề không có bất cứ một tác dụng bó buộc nào đối với y, Cô Nguyệt Minh y chỉ y theo phương thức của mình mà hành sự. Y tuy thích làm theo ý mình, lại tuyệt không phải là người không ngó ngàng tới đại cục, tính toán của riêng mình cũng đặt nền móng trên đắn đo sâu xa.
Y tuyệt không thể để Sở hạp lọt vào tay Quý Nhiếp Đề.
Nếu Phụng công công quả là muốn chiếm lấy Sở hạp, vậy Sở hạp liền trở thành pháp bảo duy nhất mà y có thể làm cho Phụng công công tuân thủ lời hứa. Phụng công công chỉ đáp ứng giải trừ quân chức của y, đâu có đáp ứng không giết chết y.
Y khẳng định kẻ đánh lén mình là Qua Mặc, thử hỏi trên thế gian có bao nhiêu cao thủ vừa hiểu biết yêu pháp lại vừa võ công cao cường như Qua Mặc chứ? Mà y không đi kiếm chuyện với Qua Mặc, Qua Mặc cũng sẽ đến kiếm chuyện với y, tiên phát chế nhân, y không thể chịu kém.
Còn về Khâu Cửu Sư, y và đối phương không thù không oán, sao lại ngu đến mức đi làm công cụ sát nhân cho Quý Nhiếp Đề? Đối với người phe Phụng công công, y không có hảo cảm.
Nếu có thể lợi dụng cơ hội Quý Nhiếp Đề không có mặt, làm thịt Qua Mặc, lấy được Sở hạp, y liền có thể ngang nhiên mà đi, lãng quên cổ thành, lãng quên lời nói của Tiết Đình Hao, lãng quên tất cả, y thật không muốn đi nghĩ tới chuyện quỷ quỷ thần thần hư vô phiêu diêu.
Nhưng y có thể lãng quên nữ lang kia không?
° ° °
“Rượu thịt đến đây!”.
Ô Tử Hư nghe tiếng kêu của Thiền Dực, liền từ mái ngói nhảy xuống, linh hoạt như con mèo xuyên qua song cửa vào trong, về lại phòng ngủ tầng hai, phủi hết bụi bặm trên mình, khoác ngoại bào lên, theo cầu thang xuống tầng dưới.
Thời khắc nguy hiểm nhất đã qua, hiện tại trên mình hắn không còn có bất cứ một chứng vật nào có thể vạch trần thân phận của hắn, hắn hoàn toàn “thanh bạch”.
Trên bàn đặt ba dĩa đồ ăn tinh trí, đây không phải là Ô Tử Hư đòi hỏi quá đáng, mà là để tranh thủ thời gian, cố ý chọn mấy món cần chăm chút tốn thời gian.
Ô Tử Hư có hai tiểu tỳ hầu hạ, đến bàn tròn ngồi xuống, nhìn sang Thiền Dực đang đứng bên kia bàn thốt: “Thiền đại thư sao không ngồi xuống ăn với tôi. Hì! Rượu thịt còn nóng, khẳng định từ nhà bếp tới đây không cần phải đi mấy dặm đường”.
Đám tiểu tỳ bày chén đũa rót rượu cho hắn che miệng cười khúc khích, bọn họ tuy không thanh tú bằng Thiền Dực, nhưng cũng có thể coi là có nhan sắc, xuân ý gợi dâng tức thời.
Thiền Dực không cười chút nào, mặt phấn cứng đờ, trừng hắn một cái: “Ngươi tự mình ăn được rồi! Rượu thịt đến từ nhà bếp phía đông. Nhà bếp cung ứng cho khách nhân có năm cái, ba cái ở gian đại sảnh và hai gian hai cánh ở con đường chính, hai cái còn lại chia nhau ở đông tây lưỡng viện. Phong Trúc Các thuộc phạm vi đông viện, rượu thịt đương nhiên do đông viện cung ứng”.
Quay sang hai tiểu tỳ nói: “Các ngươi ra ngoại đường chờ đợi”.
Hai tiểu tỳ vâng lệnh đi ra, khiến cho Ô Tử Hư vừa định chọc bọn họ cười cảm thấy thất vọng, may là Thiền Dực còn ở lại.
Thiền Dực tuy vẫn không giả lả với hắn, nhưng thái độ đã có nhiều chuyển biến, ít ra chịu nhìn hắn, lại có hỏi có đáp.
Ô Tử Hư rành thủ đoạn thăm dò cửa hông nhất, dựa bàn nhai nhóp nhép, bâng quơ hỏi: “Chỗ đẹp nhất của Hồng Diệp Lâu là chỗ nào?”.
Thiền Dực chằm chặp nhìn hắn, xem thần tình chắc đã mất hết tính nhẫn nại chịu đựng hắn, miễn cưỡng đáp: “Đương nhiên là mười tám nhà thủy tạ trên bờ hồ của đông tây lưỡng viện, chỉ tiếp đãi đại quan quý nhân, có tiền cũng không mua được”.
Ô Tử Hư lập tức hai mắt phát sáng: “Ta muốn cái tốt nhất, khà! Đó là cái ông chủ của các ngươi tận miệng đáp ứng ta. Nhà thủy tạ nào là tốt nhất?”.
Thiền Dực lộ vẻ khinh bỉ: “Đông tây lưỡng viện đâu đâu cũng đặc sắc, đều là chỗ tốt nhất, còn phải xem sở thích cá nhân”.
Ô Tử Hư chậm rãi nhơi nhơi thốt: “Cứ nói thí dụ, ví như Bố chính sứ ti Tiền Thế Thần có địa vị nhất Lạc Dương thành của các ngươi, gã chọn tòa thủy tạ nào?”.
Thiền Dực lộ thần thái cộc cằn cơ hồ bị chọc tức chết, đáp: “Sử ti đại nhân mỗi lần đến đều tới Thư Hương Tạ ở tây viện, đó là nơi sứ ti đại nhân chuyên dùng, ngươi đừng có tính tới Thư Hương Tạ”.
Ô Tử Hư lòng mừng thầm, sợ nhất là Tiền Thế Thần mỗi lần đến đều chọn nơi khác nhau, đã có địa điểm cố định, thật hết sức có lợi cho hành động của hắn, tuy mãi cho đến giờ phút này hắn vẫn là vô kế khả thi đối với việc làm sao đơn độc gặp được Tiền Thế Thần.
Thiền Dực không còn nhịn được nữa: “Giờ Ngọ ngày mai ta sẽ đến đây, dẫn ngươi đi mua vật liệu trộn màu vẽ, ngươi cần người đến hầu ngươi chứ?”.
Ô Tử Hư liền gật đầu, còn chưa có cơ hội lên tiếng, Thiền Dực đã lẻn đi như tránh ôn thần.