Bốn người vờn quanh nha một hồi, đến khi dừng lại Mộ Dung Tích Sinh không còn biết ai là Cưu Thứ. Nhưng bọn Cưu Thứ cũng không nhận ra ai là Mộ Dung Tích Sinh, vì cả bốn người đều có thân pháp kỳ dị tuyệt luân.
Thoáng chốc sau, ai cũng cảm thấy mắt hoa lên, đều đứng lặng người, càng không muốn lên tiếng.
Mộ Dung Tích Sinh một kế đã thành, trong lòng thầm mừng, nghĩ :
– “Lúc này ta nếu bỏ đi, bọn họ tuyệt đối không nghĩ rằng ta đi trước, vì trong bốn người kẻ muốn đi trước, nhất định là Cưu Thứ”.
Còn Cưu Thứ quả nhiên đã nghĩ :
– “Ta ân oán chưa dứt, nếu bị Mộ Dung Tích Sinh giữ chân sẽ không đi được, chi bằng ta đi trước một bước, để cô ta lại cho hai người”.
Cùng lúc, Mộ Dung Tích Sinh cũng có suy nghĩ :
– “Ta lao người đi, hai người khác sẽ cho rằng là Cưu Thứ, họ muốn giữ chân ta nên không bao giờ bám theo. Nhưng Cưu Thứ là người muốn đi trước, thấy ta đi, cứ ngỡ rằng là người khác muốn đánh lừa ta, nên hắn nhất định bám theo”.
Nên biết rằng cô ta thiên tư tuyệt đỉnh, suy nghĩ thấu đáo, khó có ai sánh nổi.
Mộ Dung Tích Sinh liền nhún người lao đi.
Cưu Thứ lại nghi :
– Mộ Dung Tích Sinh nhất định không đi trước. Người đi trước ắt chính là Thụy Mộc Phương Chính. Anh ta muốn dẫn dụ Mộ Dung Tích Sinh bám theo, nhưng cô ta đâu bị mắc lừa. Đã không mắc lừa thì cô ta đứng lại nơi này, vậy ta nán lại nơi này làm gì? Nghĩ như vậy chàng liền phóng người đuổi theo.
Trong đình viện chỉ còn lại hai người là Thụy Mộc Phương Chính và Thạch Lân.
Cả hai vẫn không muốn lên tiếng.
Thạch Lân quả quyết rằng Mộ Dung Tích Sinh sẽ không đi trước. Người đi trước chính là Thụy Mộc Phương Chính. Anh ta muốn dẫn dụ Mộ Dung Tích Sinh đi, ngờ đâu cô ta vẫn đợi đến người cuối cùng.
Thụy Mộc Phương Chính lại thầm nghĩ :
– “Mộ Dung Tích Sinh nhất định cho rằng Cưu Thứ không dám thoái lui bước, bởi vậy Thạch Lân dẫn dụ cô ta không đi, Cưu Thứ nắm được cơ hội đó và đã đi rồi”.
Cả ba người tuy đều là thông minh tuyệt đỉnh, nhưng cuối cùng vẫn không hiểu được tâm tính của nữ nhân, nghĩ sai một bước sẽ sai lầm hoàn toàn.
Lúc này hai người đều cho rằng đối phương chính là Mộ Dung Tích Sinh.
Thụy Mộc Phương Chính nghe Mao Văn Kỳ hết lời khen ngợi sư tỉ của nàng, vốn muốn đọ chiêu thử với Mộ Dung Tích Sinh. Giờ không còn chần chờ gì nữa, liền vung chưởng đánh vào đối phương.
Thạch Lân lại nghĩ :
– “Cưu Thứ rõ ràng đã đi rồi, ta sao không giữ chân Mộ Dung Tích Sinh lại ở nơi này?”
Cả hai đều không thi triển võ công bổn môn, cũng không dám hé lời. Giao đấu đến mấy mươi chiêu, Thạch Lân võ công thâm hậu, liền hét một tiếng, chân phải xoạc ngang ta, tay trái gập lại dùng tửu quyền đánh thốc vào ngực Hắc Thiên Ma Phương Chính.
Đó chính là chiêu “Ảo Loan Trửu” trong Võ Đương thập tam nhị thế quang hoa của võ công bổn môn.
Thụy Mộc Phương Chính kinh ngạc lùi lại năm xích, thốt lên :
– Thạch Lân!
Thạch Lân cũng lắm phần ngạc nhiên, vội thu hồi thế quyền, miệng lẩm ba6?m :
– Ngươi… ngươi lẽ nào là Thụy huynh?
Thụy Mộc Phương Chính giậm chân thở dài :
– Nhầm rồi, nhầm rồi, chúng ta đều nhầm rồi.
Thạch Lân hết sức kinh ngạc, bay người lên bờ tường, nhưng thấy bốn bề là màn đêm đen tối, Cưu Thứ và Mộ Dung Tích Sinh biến đi hướng nào không hay.
Thụy Mộc Phương Chính gượng cười nói :
– Đúng là tự mình làm hại mình. Chúng ta muốn giúp Cưu Thứ dứt khỏi Mộ Dung Tích Sinh, không ngờ vô tình lại giúp cho Mộ Dung Tích Sinh.
Thạch Lân nói giọng lo lắng :
– Cưu Thứ nếu nhìn nhầm Mộ Dung Tích Sinh là chúng ta, thì hậu quả sẽ không thể lường được.
Thụy Mộc Phương Chính ngẫm nghĩ giây lát, trong lòng đúng là dở khóc dở cười, liền hô :
– Đuổi!
Thạch Lân lắc đầu than :
– Sợ rằng không đuổi kịp.
– Không kịp cũng phải đuổi.
Hai người liền lao người đi trong màn đêm bao la vô tận.
* * * * *
Cưu Thứ chạy đi ngoài mấy mươi trượng mới đuổi kịp bóng người phía trước.
Chàng vẫn một mực nhận định bóng người trước mặt chính là Thụy Mộc Phương Chính. Bởi vậy liền cất giọng gọi :
– Thụy huynh ơi, đợi tiểu đệ một tí.
Mộ Dung Tích Sinh nhận ra giọng nói chàng, trong lòng mừng rỡ nhưng nét mặt vẫn giữ thái độ bình thản, từ từ dừng lại :
Cưu Thứ lướt lên trước mặt, tươi cười nói :
– Vừa rồi may chỉ có bốn Hoàn Hồn, nếu không thì tiểu đệ đã loạn cả đầu.
Thụy huynh, Mộ Dung Tích Sinh quả là một nữ nhân không phải tầm thường, chỉ đáng tiếc là dung nhan quái ác, nếu không thì đúng là tài mạo song toàn, khó có người sánh nổi.
Chàng có biết đâu người cùng sánh vai với chàng lại là Mộ Dung Tích Sinh.
Trong lúc chàng nói cười, hai người đã vượt thêm ngoài mấy mươi trượng.
Cưu Thứ nói xong, Mộ Dung Tích Sinh chợt rẽ sang hướng trái.
Cưu Thứ buột miệng hỏi :
– Thụy huynh, bên này là hướng nào?
Chàng bỗng cảm thấy thủ uyển tê buốt, đã bị đối phương gõ trúng mạch môn huyệt đạo.
Nên biết rằng Cưu Thứ thấy Mộ Dung Tích Sinh rẽ hướng, trong lòng vẫn không hề có ý hoài nghi.
Cưu Thứ giật bắn người quát :
– Ngươi là ai?
Mộ Dung Tích Sinh ngũ chỉ như móc câu chộp vào mạch môn, tay trái vung lên điểm liên tiếp vào hai vùng đại khuyệt Khúc trì ở tay Cưu Thứ, khiến cho chàng không thể cử động được, nhưng hai chân vẫn đi được.
Mộ Dung Tích Sinh vẫn tiến về phía trước, tay nắm chặt vùng mạch môn đối phương, lạnh lùng nói :
– Ta là Mộ Dung Tích Sinh có dung nhan quái ác đây!
Cưu Thứ sửng sốt kinh ngạc nói không ra lời, hai tay bại xuội, thân hình bị cô ta kéo đi, không vùng vẫy được.
Chàng vừa cấp hoảng với hối hận, ngẫm nghĩ giây lát bèn nói :
– Mộ Dung cô nương, cô cũng biết nam nữ thụ thụ bất thân, kéo tay như vậy há không quá thất lễ sao? Thật thất lễ!
Mộ Dung Tích Sinh lạnh giọng :
– Ngươi nếu không muốn ta kéo thủ uyển ngươi, thì ta điểm mê huyệt của ngươi cũng được. Một trong hai cách đó cứ tùy ngươi lựa chọn, ta không ép buộc.
Cưu Thứ cả kinh. Chàng lúc này còn mong có đường thoát thân, nếu bị điểm mê huyệt thì càng thảm trạng hơn, liền nói :
– Không sao, không sao, thế này cũng được rồi.
Cưu Thứ ngầm than trong lòng, ngầm hận mình thông minh nhất thế, lúc này lại bị mắc lừa nữ nhân. Đi được một đoạn, chàng buột miệng hỏi :
– Mộ Dung cô nương, cô nương muốn tại hạ cùng cô nương đến gặp lệnh sư, hay là gặp lệnh sư muội Mao cô nương?
Mộ Dung Tích Sinh cất giọng hỏi :
– Ngươi có biết sư muội ta ở đâu không?
– Tại hạ lúc này tuy không biết, nhưng nếu tìm nhất định sẽ ra.
Cưu Thứ nghĩ rằng dù sao cũng phải đi tìm cha con họ Mao, nên mới trả lời như vậy. Trong lòng thầm suy tính :
– Nếu cô ta cùng đi tìm, ắt sẽ không điểm mê huyệt, cũng không thể nắm thủ uyển ta suốt chặn đường. Chỉ cần cô ta nới lỏng tay, ta sẽ lao người tẩu thoát.
Chỉ có như vậy may ra…
Chợt nghe Mộ Dung Tích Sinh hỏi :
– Ngươi có chắc không?
Cưu Thứ vội trả lời :
– Chắc chắn mà, nếu cô nương không tin thì tại hạ…
– Đã nắm chắc thì ta cùng ngươi đi tìm, đường đi cũng tùy ngươi chọn lấy. Nhưng nếu ngươi tìm không ra thì… hừ, ngươi nên biết tuy dung nhan ta quái ác, nhưng cũng không bằng thủ đoạn quái các của ta đâu.
Cưu Thứ ứng thanh lia lịa. Trong lòng thầm tự trách mình :
– Người ta thường nói: người dù chửi mắng khinh miệt nữ nhân đến bao nhiêu, họ chưa hẳn đã hận ngươi. Nhưng ngươi nếu quở mắng cô ta xấu, cô ta nhất định sẽ hận ngươi suốt đời. Đáng hận ta đã vô tình phạm sai lầm lớn đó, Mộ Dung Tích Sinh ắt sẽ không tha…
Mộ Dung Tích Sinh lạnh lùng lên tiếng :
– Ngươi chớ có mong thoát thân. Ta luôn canh giữ sát bên ngươi, khi ngủ ta điểm mê huyệt của ngươi, khi thức ta phong trú thủ uyển ngươi. Ngươi nếu loạn động ta sẽ chặt chân trái ngươi, thay vào đó chân gỗ. Dù sao ta dung nhan xấu xí, làm vậy để khỏi có sự hiềm khích nam nữ.
Cưu Thứ than thầm :
– “Quả nhiên không ngoài điều ta đoán liệu”.
Mộ Dung Tích Sinh bỗng quát :
– Đi hướng nào? Đi nhanh!
Cưu Thứ ngước mắt nhìn màn đêm phía trước, toàn cả một màu đen tối mịt mù, Mao Cao ở nơi nào chàng đâu có biết. Thôi đành nghe theo mệnh trời vậy.
Chàng vững tin rẽ sang hướng trái.
* * * * *
Qua chấn động ở Hàng Châu anh hùng thịnh hội, võ lâm Giang Nam thật sự đã lặng dịu đi nhiều. Nhưng người trong võ lâm vẫn cảm thấy lắm phần kỳ quái.
Vì những nhân vật chủ yếu trong Hàng Châu thịnh hội từ đó trở đi đều lặng biến đâu mất. Không những Mao Cao biến mất tung tích, mà ngay cả Uông Nhất Bằng, Chu Bạch Vũ, Ngân Hạc đạo trưởng… cũng không biết đi đâu mất. Còn nhân vật Cưu công tử thần bí cùng chẳng có ai thấy bóng dáng đâu cả.
Nhưng trong giang hồ lại lan truyền một tin rất bất ngờ.
Linh Xà Mao Cao không chịu an thân thủ phận, đã ngầm triển khai thế lực, vả lại thanh thế còn hùng mạnh hơn trước nữa, và càng thần bí hơn nhiều.
Nguồn tin lan truyền khắp, nhưng tung tích của Mao Cao ở đâu, trong võ lâm không người nào biết cả.
Mùa hạ về đêm, những đám mây đen kéo phủ khắp trời, chẳng có ánh trăng sao, những tiếng sét vang rền, những trận cuồng phong lùa qua vùng núi đồi hoang dã, báo hiệu một cường bão táp mưa sa sắp đổ xuống.
Ở trên một cánh đồi hoang cách đường cái khá xa nằm giữa vùng Đơn Dương và Trấn Giang, có một ngôi miếu hoang đổ nát điêu tàn, chìm bóng trong đồi núi tịch mịch, trông giống như đầu một con thú lớn đang quỳ phục.
Tiếng côn trùng kêu rả rích, gió lùa từng cơn, sấm chớp liên hồi, bỗng có năm bóng người băng qua đồi hoang, chạy về phía ngôi miếu hoang.
Đến trước cửa miếu, bọn họ cùng đảo mắt nhìn quanh, sau khi xác định xung quanh không có hiện tượng gì khác lạ rồi mới tiến vào chánh môn đã bị sập một nửa.
Trong khuôn viên cây cỏ um tùm, chính giữa có một ngôi điện thờ đã sụt lỡ, cánh cửa hư hỏng, bậc cấp bằng đá phong rêu phủ mờ.
Hai người đi phía trước bước lên tầng cấp, đưa tay đẩy nhẹ cửa, cánh cửa được mở ra, bụi trần xõa xuống đầy mặt.
Cả năm người cùng lùi lại, đợi bụi trần lắng xuống rồi mới bước vào trong điện thờ. Người dẫn đầu nhẹ tay đóng cửa lại.
Ánh sáng bừng lên, ngọn đèn đã được thắp sáng.
Trong ánh đèn tỏa chiếu, thấy trong điện mạng nhện giăng đầy, khắp nơi đều có bụi đóng dày đến cả thốn. Ngoài án thờ thần minh ở chính giữa còn nguyên vẹn ra, tượng thần và án thờ hai bên đều bị đổ nát, rõ ràng đã lâu ngày không có người hương khói.
Thậm chí ngay cả trên án thờ là tượng Phật gì cũng khó nhận ra.
Người cầm đèn là một thiếu niên diện mạo tuấn mỹ, anh ta đánh mắt thị ý cho đồng bọn.
Một thiếu niên khác cũng có diện mạo tuấn mỹ liền phóc nhẹ lên án thờ chính giữa, cẩn thận đưa hai ngón tay án lấy hai đầu vai của bức tượng thần, vận nội lực truyền sang từ từ.
Chỉ nghe két một tiếng nhẹ, tượng thần dần dần hạ xuống dưới, bày ra một hang động rộng độ mấy xích.
Thiếu niên cầm đèn đưa tay vẫy ba người sau lưng, nhỏ giọng :
– Theo tôi!
Anh ta cầm đèn chui vào hang động trước.
Ba người kia gồm một đại hán mặt đen có râu mép vểnh lên, một trung niên mặt trắng, và một đại hán thấp nhỏ, có tướng mạo hung hãn. Họ cùng ngước mắt nhìn nhau, rồi lặng lẽ theo vào trong hang động, nét mặt có vẻ băn khoăn lo lắng.
Thiếu niên án tay trên tượng thần cũng chui người vào theo, tượng thần lập tức trở lại vị trí như ban đầu, cửa hang cũng được bít kín.
Anh ta chân vừa đáp xuống hầm ngầm, liền gật đầu thị ý với thiếu niên cầm đèn, ý nói mọi việc đều chu mật ổn thỏa.
Thiếu niên bưng đèn gật đầu hiểu ý, rồi cất bước tiến về phía trước.
Năm người chậm rãi men theo một con đường ngầm hẹp, mùi không khí ẩm thấp và hôi hám xông vào mũi làm ngột ngạt khó chịu.
Hai thiếu niên đi trước dẫn đường, dường như rất quen thuộc đối với con đường ngầm này, đi một mạch không hề dừng chân. Qua vài lần rẽ hướng, đột nhiên…
Một luồng gió lạnh ập tới làm tắt cả ngọn đèn, con đường ngầm trở nên tối mịt, khiến người ta tưởng tượng như ở cõi địa ngục vậy.
Từ trong bóng tối có một giọng nói trầm lắng vang lên :
– Xuân lôi kinh triết.
Hai thiếu nien lập tức ứng thanh :
– Linh giao đằng tiêu.
Nhận được mật hiệu, trong bóng tối có tiếng hừ vọng lại, hai thiếu niên cùng cúi mình nói giọng cung kính :
– Đệ tử Thiết Bình, Âu Dương Minh mời ba vị Hoài Âm tam kiệt đến yết kiến ân sư.
Thì ra hai thiếu niên đối phương chính là Đoạt Mệnh sứ giả Thiết Bình và Ngân Đao sứ giả Âu Dương Minh thuộc mười hai đại đệ tử của Mao Cao.
Họ vừa dứt lời, trong đường ngầm lập tức bừng sáng lên. Giọng nói trầm lắng đó lại từ trong bức rèm rủ sát đất phía bên trái vọng ra :
– Mời vào!
Thiết Bình và Âu Dương Minh cùng cúi người ứng thanh, dẫn Hoài Âm tam kiệt vén bức rèm tiến vào.
Sau bức rèm là một căn mật thất rộng độ một trượng, trên án thờ có cắm hai ngọn đèn sáp to bằng cổ tay, đặt ngay giữa án thờ là một cái bồn bằng đồng, đường kính độ một xích. Trước án thờ có một người đang ngồi với dáng hình cao ốm, lưỡng quyền cao, mũi ó mắt diều hâu.
Người đó chính là Linh Xà Mao Cao, vốn lặn mất tung tích từ ngày bị chúng phản thân ly, cơ nghiệp gầy dựng nhiều năm bị thiêu hủy.
Thấy gã ta mặt mày héo hắt, nếp nhăn trên trán càng hằn sâu hơn, hầu như không thể hồi phục được phong thái hào khí như trước đây, chỉ có ánh mắt sắc bén vẫn không hề giảm đi chút nào.
Gã ta ánh mắt không chớp chú nhìn bọn Hoài Âm tam kiệt.
Thiết Bình và Âu Dương Minh bước đến hai bước, quỳ xuống hành lễ, đoạn đứng dậy cúi mình bẩm báo :
– Bọn đệ tử phụng mệnh đi Đại giang nam bắc chiêu tập anh hùng hào kiệt về quy tụ. Nay có Hoài Âm tam kiệt khảng khái tương trợ, đệ tử mời vào đây để yết kiến.
Nói xong, cả hai cùng thoái lùi ba bước, đứng ra giới thiệu bọn Hoài Âm tam kiệt.
Gã đại hán mặt đen là Thiết Chưởng Úy Trì Văn, đứng đầu trong Hoài Âm tam kiệt. Gã trung niên mặt trắng là nhị đệ Ngọc Diện Phán Tạ Đông Phong, và gã đại hán thấp nhỏ là Lôi Điện Kiếm Bành Quân.
Ba người đều là những hào khách thủy lục vùng Hoài Dương, đều có nhất thân độc môn võ công.
Mao Cao và ba người này tuy chưa bao giờ gặp nhau, nhưng đối với danh hiệu Hoài Âm tam kiệt gã ta lâu nay đã từng nghe. Lúc này nét mặt âm trầm u ám có sáng lên được phần nào, gã nghiêng mình nói :
– Ba vị có đến đây tương trợ, Mao mỗ rất cảm kích. Nhưng chuyện này không phải đơn giản, vả lại vô cùng nguy hiểm, các vị nên suy nghĩ kỹ đi.
Thiết Chưởng Úy Trì Văn ôm quyền đáp :
– Mao đại ca hiệp danh vang lừng rộng khắp, bọn tại hạ hôm nay được giúp một phần sức lực, quả là điều mong ước bấy lâu nay. Dù ngàn trùng nguy hiểm, bọn tại hạ cũng không chối từ.
Mao Cao ánh mắt thoắt động, mặt thoáng hiện nụ cười, nói qua vài lời cám ơn, đoạn lấy từ trong người ra món vật quý phân tặng ba người, nói :
– Xin các vị nhận lấy món vật nhỏ này để biểu thị một chút kính ý của Mao mỗ, đợi đến ngày khôi phục cơ nghiệp, các vị sẽ được hậu đãi.
Bọn Hoài Âm tam kiệt quay mặt nhìn nhau, đưa tay nhận lấy món vật đó, miệng cảm tạ rối rít.
Mao Cao nói tiếp :
– Mao mỗ ẩn cư nơi này, chuyện trù hoạch khôi phục cơ nghiệp trước khi chưa phát động cần phải tuyệt đối giữ bí mật, ba vị ắt cũng hiểu được nỗi khổ tâm của Mao mỗ, cho nên…
Nói đến đó gã ta đằng hắng một tiếng, ánh mắt nhìn xéo về phía cái bồn bằng đồng trên án thờ.
Hoài Âm tam kiệt ngước mắt nhìn nhau. Úy Trì Văn cất cao giọng :
– Bọn tại hạ đã nguyện sống chết vì Mao đại ca, mọi điều đều tuân mệnh.
Úy Trì Văn nói xong, Ngân Đao sứ giả Âu Dương Minh liền rút thanh ngân đao ra, cầm hai tay đưa cho gã ta.
Úy Trì Văn nghiêm túc nhận lấy thanh ngân đao, cùng với Tạ Đông Phong và Bành Quân bước tới trước án thờ, đưa mắt nhìn vào trong cái bồn đồng, thấy bên trong đầy máu và rượu, lẫn lộn với rất nhiều ngón tay út bị chặt đứt.
Cả ba cùng biến sắc, Úy Trì Văn quay nhìn nét mặt lạnh bạo của Mao Cao, ngầm nghiến răng vung đao chém đứt ngón tay út bên trái rơi vào trong bồn.
Tạ Đông Phong và Bành Quân cũng lần lượt cầm đao chém đứt ngón tay út bên trái.
Sắc mặt trở nên tái xanh.
Bồn máu rượu càng trở nên nồng nặc hơn.
Thiết Bình liền bước tới nghiêng bồn rót ra ba bát máu rượu lợn cợn bốc mùi tanh nồng nặc đưa ra trước mặt bọn Hoài Âm tam kiệt.
Bọn Hoài Âm tam kiệt đưa hai tay ra bưng lấy bát máu, lùi lại ba bước, cùng quỳ hàng ngang trước mặt Mao Cao, nói giọng tôn kính :
– Bọn tiểu đệ Úy Trì Văn, Tạ Đông Phong, Bành Quân từ nay trở đi nguyện làm thuộc hạ trung thành của Mao đại ca, tuyệt đối không tiết lộ những điều cơ mật, nếu trái với lời thề thì đầu xa khỏi cổ như ngón tay bị chặt này vậy.
Cả ba cùng ngẩng cổ uống sạch bát máu.
Cảm thấy một luồng khí tanh từ vùng ngực xung lên tận cổ.
Mao Cao nét mặt rạng rỡ hẳn lên, tươi cười nói :
– Mời ba vị đứng dậy. Từ nay về sau các người là huynh đệ cùng sinh cùng tử với Mao mỗ, có phúc cùng hưởng, gặp họa cùng chịu, còn nếu Mao mỗ…
Gã ta chưa nói hết lời, bỗng nghe có tiếng người gọi từ trên điện thờ của hoang miếu vọng xuống :
– Mao đại hiệp hiện giờ ở đâu?
Mao Cao thoáng mặt biến sắc, hai luồng hung quang quét nhìn Thiết Bình, Âu Dương Minh và bọn Hoài Âm tam kiệt trầm giọng hỏi :
– Khi các người vào đây, có bị để lộ hành tung không?
Thiết Bình cúi mình đáp giọng cung kính :
– Bọn đệ tử khi vào đâ hành tung rất bí mật, cũng không phát hiện có ai theo dõi cả. Nghe khẩu khí người đó nói ra, xem ra hầu như không phải…
Có tiếng bước chân từ trong đường hầm vọng lại làm cắt đứt lời nói của anh ta.
Mao Cao mặt càng biến sắc, phẩy tay quạt tắt ngọn đèn, nhưng vẫn ngồi nguyên trên ghế, ánh mắt quắc lên nhìn về phía rèm cửa, ngầm vận lực chuẩn bị đối phó…
Năm người kia cũng tản ra ẩn phục ở góc phòng.
Nghe tiếng bước chân từ xa đang tiến lại gần…
Mao Cao từ từ đứng dậy, vận chân lực tụ ở hai tay. Nghe tiếng bước chân đi đến cạnh phía ngoài bức rèm đột ngột dừng lại, tiếp đó là tiếng gọi vang lớn :
– Mao… đại… hiệp…
Tiếng gọi vọng lên trong hang động làm rung rinh cả màng nhĩ.
Mao Cao nhẹ bước đi đến cạnh bức rèm, hướng tay về phía trước, cất giọng hỏi :
– Ai?
Gã ta chưởng lực thâm hậu, cách bức rèm cũng đủ để đánh người thụ thương :
Nghe bên ngoài có tiếng đáp lại :
– Côn Luân Không Ảo cầu kiến.
Mao Cao thoáng trầm ngâm, lùi người lại, tay hoa lên một cái, ngọn đèn lập tức bật sáng lên. Gã ta cũng đã quay trở về ngồi lại ở vị trí cũ, trầm giọng bảo :
– Vén rèm, mời khách!
Thiết Bình và Âu Dương Minh cùng bước tới, quay thủ uyển lấy ra một thanh tiểu đao phóng về phía cửa, bức rèm lập tức được cuốn lên.
Trong ánh đèn lập lòe, thấy một vị tăng cao to vận áo cà sa, mày rậm mắt to, tay cầm chuỗi hạt đang đứng bên ngoài. Đó chính là Không Ảo đại sư.
Bên cạnh Không Ảo đại sư là một trung niên đại hán vận áo ngắn màu xanh, chân đi dép cỏ, tợ như một nông dân, nhưng ánh mắt lại sắc như dao.
Mao Cao lạnh giọng hỏi :
– Tại hạ Mao Cao, nhị vị đến đây có ý gì?
Không Ảo đại sư quét ánh mắt nhìn hai thanh tiểu đao găm trên cửa, chậm rãi nói :
– Bần tăng không quản ngàn dặm đến đây, đó là lẽ nào lại là đạo đãi khách của Mao đại hiệp sao?
Mao Cao hừ một tiếng, gằn giọng :
– Đạo đãi khách của Mao mỗ như thế nào, còn phải xem ý của nhị vị đến đây thiện hay ác.
Không Ảo đại sư ngẩng đầu cười đáp lại :
– Nếu có ác ý thì bần tăng dù muốn đến đây bái phỏng, trước hết cũng cần phải gặp Cưu Thứ, đúng vậy không?
Mao Cao vụt người đứng dậy, quát :
– Vậy ngươi là ai?
Không Ảo đại sư điềm tĩnh trả lời :
– Người xuất gia đã quên đi thân này là ai, giờ đây bần tăng chỉ biết một việc.
– Việc gì?
– Bần tăng và nam tử của Cưu Độc không thể cùng tồn tại song song trên đời này được.
Mao Cao chợt nở nụ cười, nói :
– Mời vào!
Không Ảo đại sư cùng người kia bước vào trong căn mật thất.
Mao Cao dịu giọng :
– Mao mỗ cùng đường tắt lối, có thất lễ trong việc đãi khách, xin nhị vị lượng thứ.
Gã ta bỗng rấm nét mặt lại, chuyển giọng :
– Nhưng nơi này đã là chốn ẩn thân cuối cùng của Mao Cao, tự hỏi trong giang hồ rất ít người biết, nhị vị làm sao lần tìm đến được chỗ này, thật khiến cho Mao mỗ khó hiểu.
Không Ảo đại sư cười lớn nói :
– Bần tăng đâu có được thần thông như vậy… hắc… hắc…
Ông ta chỉ tay sang người cùng đi, nói tiếp :
– Nếu không có vị Lương thí chủ này thì bần tăng không thể tìm ra nơi này.
Ngược lại, nếu có Lương thí chủ thì không có chỗ nào trong giang hồ bần tăng tìm không ra cả.
Mao Cao quét ánh mắt nhìn họ Lương, nhướng mày nói :
– Các hạ lẽ nào lại là Lương đại hiệp, Lương Thượng Nhân vang danh giang hồ sao?
Lương Thượng Nhân mỉm cười đáp lời :
– Không dám, tại hạ đâu dám nhận hai chữ đại hiệp. Chẳng qua suốt ngày lặn lội trong đám tiểu nhân ở chợ đò nên biết được nhiều tin tức mà thôi.
Mao Cao niềm nở nói :
– Tại hạ vốn nghe Lương đại hiệp giao du khắp thiên hạ, không có gì không biết, hôm nay mới được gặp, quả là danh hạ vô hư. Chỉ đáng hận Hồ tứ đệ chưa thể giới thiệu Lương đại hiệp cho tại hạ gặp mặt, nếu không thì hôm nay hẳn tránh được sự hiểu lầm nhau.
Nên biết rằng Mao Cao từ lâu đã có ý muốn thu phục Lương Thượng Nhân, từng lệnh cho Hồ Chi Huy đi thuyết phục, hôm nay thấy ông ta đến đây, Mao Cao đương nhiên rất mừng rỡ.
Gã ta suy nghĩ giây lát, đoạn trầm giọng hỏi :
– Mao mỗ trốn ẩn nơi này, nhị vị giá lâm không biết có gì chỉ giáo?
Không Ảo đại sư niệm câu Phật hiệu, đoạn lấy từ trong người ra một chiếc hài nhỏ được làm rất tinh xảo đưa đến trước mặt Mao Cao, hỏi :
– Thí chủ có nhận ra chủ nhân của vật này là ai không?