Tuấn Hạc mang nặng nỗi thương tâm, dong ruổi suốt đêm, trưa hôm sau đã đến Thiên Ma cốc. Chàng tần ngần đứng trước tòa tiểu đình, do dự không muốn cất tiếng gọi.
Chàng đến đây để nhờ vả vì đường cùng và với trái tim tan nát này, ân tình của Mạn Ngọc, Phương Phương sẽ gởi gấm vào đâu?
Nhưng Tiểu Bạch lại chẳng hề phân vân. Nó rất thích vườn cây ăn trái trong sơn cốc này nên đã hú lên cao vút để gọi cửa.
Tiếng hú của Thần viên khỏe mạnh khác hẳn với lũ vượn thường nên người trong cốc nhận ra ngay.
Một tỳ nữ lấp ló sau một tảng đá lớn, nhìn xem khách là ai. Nàng ta mừng rỡ rú lên :
– Ôi chao! Công tử đã trở lại.
Tiếng cơ quan phát động vang lên ầm ĩ. Làn sương mù trong thạch trận biến mất.
Ả tỳ nữ chạy đến nghiêng mình bái kiến :
– Nô tỳ là Đông Bách.
Nhận ra gương mặt hốc hác và đôi mắt sầu khổ của Tuấn Hạc, nàng kinh hãi hỏi :
– Công tử sao vậy?
Chàng gượng cười đáp :
– Tại hạ không còn chỗ để trở về nữa rồi. Mong cô nương vào báo với nhị vị tiểu thư rằng tại hạ muốn vào bái kiến.
Đông Bách xua tay :
– Bất tất phải bẩm báo. Mọi người trong cốc này đều hoan hỉ được gặp lại công tử.
Nàng xăng xái nắm dây cương dắt ngựa đi vào thạch trận. Con đường này không rộng và rất quanh co.
Đến bìa trận phía trong, nàng quay lại xô mạnh một tảng đá. Tức thì làn sương mù mịt lại hiện ra.
Đông Bách giải thích :
– Bọn nô tỳ sợ lão Giáo chủ Thiên Sư giáo đến nên phải đề phòng cẩn mật.
Lúc này, Mạn Ngọc, Phương Phương và mười bảy nữ tỳ kia đã ra đến. Họ hân hoan chào đón và khựng lại trước sắc diện đau khổ của Tuấn Hạc.
Mạn Ngọc ấp úng :
– Chẳng hay công tử đã gặp biến cố gì?
Tuấn Hạc thở dài :
– Văn gia bảo đã bị cường địch tập kích đêm hai mươi bảy tháng giêng. Toàn gia gần hai trăm người không một ai sống sót.
Đám nữ nhân kinh hãi ồ lên. Phương Phương sa lệ hỏi :
– Công tử có đoán ra lai lịch hay không?
Tuấn Hạc bi phẫn đáp :
– Có lẽ là bọn Thiên Độc giáo, Thiên Sư giáo và Biến Hình môn.
Chàng ngần ngừ một lúc, vòng tay nói :
– Tại hạ mạo muội cầu xin chư vị ra tay tương trợ, cho mượn Thiên Ma cốc làm nơi huấn luyện cao thủ, hầu báo phục mối gia thù.
Phương Phương nghiêm giọng :
– Mong công tử chờ cho một lát, chị em tiện nữ sẽ cùng nhau bàn bạc.
Nàng kéo hết đám nữ nhân ra thật xa.
Họ thì thầm, thương lượng gì đó rất mau chóng.
Thế rồi, cả bọn quay lại, nhất tề quỳ xuống trước mặt gọi :
– Cốc chủ!
Tuấn Hạc đang ngỡ ngàng không biết nói sao thì Mạn Ngọc mở lời :
– Bọn tiện nữ là những đứa trẻ mồ côi, không hề biết cha mẹ mình là ai. Nay Song lão đều đã qua đời, chẳng lẽ bọn tiện nữ đành ru rú suốt đời trong Thiên Ma cốc rồi chịu chết già hay sao? Nay, bọn tiện nữ đồng lòng làm tôi tớ cho công tử góp phần tiêu diệt bọn cường địch. Nếu công tử không nhận lời, bọn tiện nữ sẽ quỳ mãi nơi này.
Tiểu tỳ Đông Bách là người tinh ranh, lém lĩnh nhất bọn, tiếp lời :
– Bọn nô tỳ học được kiếm pháp mười mấy năm nay, chẳng lẽ lại dành để giết gà? Mong công tử đưa bọn nô tỳ xuất đạo vẫy vùng cho thỏa chí. Còn hơn là quanh quẩn mãi chốn này.
Cả đám nhất tề khen phải. Tuấn Hạc nhìn đám thiếu nữ mặt hoa da phấn, tuổi trên dưới đôi mươi kia, chua chát bảo :
– Cuộc chiến tranh trước mặt cực kỳ hung hiểm, sinh tử khó lường. Tại hạ đâu nỡ đưa chư vị vào tử lộ?
Bọn nữ nhân đồng thanh nói :
– Chúng nô tỳ tự nguyện, chẳng màng đến chuyện sống chết.
Tuấn Hạc không còn được lựa chọn, đành gật đầu :
– Được! Chư vị đứng lên đi, tại hạ nhận lời.
Các nàng hân hoan đứng lên, đến trước mặt chàng nghiêng mình báo danh. Tất cả đều không có họ riêng, mà theo họ của Song lão. Tên của mười tám nữ tỳ đặt theo tên của các loài hoa và thảo mộc :
Mẫu Đơn, Trà Mi, Ngọc Lan, Hoàng Cúc, Thanh Huệ, Phong Trà, Thược Dược, Tử Trúc, Tường Vi, Hồng Đào, Hàn Mai, Hải Đường, Bạch Lê, Nhược Liêu, Bạch Dương, Xuân Tùng, Thủy Sơn, Đông Bách.
Nhan sắc của họ tuy không bằng Mạn Ngọc và Phương Phương, nhưng nếu đem tiến cung thì chẳng giám khảo nào chê ca.
Sự có mặt của chàng công tử anh tuấn phi phàm Văn Tuấn Hạc đã đem lại sinh khí cho hai mươi xuân nữ cô đơn này. Họ không mong chiếm hữu được nhưng ai cũng có quyền mơ mộng. Tuổi thanh xuân luôn khao khát có được một hình bóng để tôn thờ, để say đắm. Nếu không, cuộc sống của họ sẽ rất vô vị.
Hơn nữa, các bậc vương hầu, đại phú đương thời có rất nhiều tỳ thiếp, vì vậy họ lại càng hy vọng.
Mạn Ngọc và Phương Phương cũng chỉ là người cùng chung cảnh ngộ, nhờ may mắn nên được Song lão sủng ái, nhận làm đệ tử chân truyền. Tình nghĩa giữa họ và đám nữ tỳ thân thiết như ruột thịt nên chắc cũng biết nghĩ đến chị em.
Ngay sáng hôm sau, Tuấn Hạc bắt tay ôn luyện võ công. Thấy vậy, các nàng cũng xách kiếm ra múa. Tuấn Hạc ngấm ngầm quan sát, nhận ra kiếm thuật của họ đều rất cao cường. Có điều bộ pháp không được minh khoái, như chưa hề luyện qua phép khinh công. Chàng hỏi thì Phương Phương đáp :
– Song lão sợ bọn tiểu muội bỏ trốn nên đâu dám dạy khinh công.
Tuấn Hạc bèn đem khẩu quyết của pho “Thiên Tinh Quá Hải” ra truyền lại. Dưới ánh mắt nghiêm khắc và buồn rầu của vị Cốc chủ đẹp trai, chẳng ai dám lười biếng ca.
Không hiểu họ đã bàn bạc với nhau thế nào mà đều đồng thanh xưng là tiểu muội. Tuấn Hạc hài lòng vì chẳng hề ưa hai tiếng nô tỳ.
Chàng đỡ băng khoăn khi thấy bản lãnh các nàng rất lợi hại. Nhất là khi họ chia thành từng cặp một.
Trong hai mươi nàng thì một nửa thuận tay trái. Đây chính là ý đồ của Song lão.
Họ đã nhờ đấu pháp “Tả Hữu Hợp Kiếm” này mà cầm đồng Tây Phật.
Nếu hôm trước, chàng không tinh ý nhận ra và dùng kế khích tướng để đơn đấu thì chưa chác đã qua khỏi hai trăm chiêu của Song lão.
Mấy ngày sau, trong bữa ăn tối, Tuấn Hạc nghiêm giọng bảo mọi người :
– Tại hạ đã thức ngộ ra lẽ vô thường của nhân gian và hiểu rằng nước mắt chỉ là vô ích. Vì vậy, chư vị chớ nên vì tại hạ mà đánh mất niềm vui của chính mình.
Thời gian qua, hầu như chẳng ai dám cười cả khiến lòng này vô cùng áy náy.
Đông Bách dương đôi mắt to tròn linh lợi nói :
– Vậy hôm nay bọn tiểu muội sẽ múa vài điệu để công tử được khuây khỏa.
Tuấn Hạc thấy ánh mắt giọi người sáng rực niềm vui, không nỡ phụ lòng, đành gật đầu :
– Chư vị cứ tự nhiên.
Đám thiếu nữ này quen múa hát từ nhỏ nên đã thành thói quen, họ vui mừng được biểu diễn.
Đàn sáo vang lên và những cô gái xinh đẹp kia tận tình cống hiến những điệu múa ảo huyền, diễm lệ.
Tuấn Hạc gượng vui mà xem, nhưng qua những thân hình, những gương mặt kia, bóng dáng Tiểu Băng và Doanh Doanh hiện về. Chàng mở mắt nhưng hồn chìm đắm trong hoài niệm và thống khổ.
Tuấn Hạc luôn tay nâng chén và say mèm lúc nào không biết nữa.
Khi đám vũ nữ dừng lại thì Tuấn Hạc cũng gục xuống bàn. Mạn Ngọc và Phương Phương vội dìu chàng vào phòng riêng.
Hai nàng cùng cởi y phục chàng rồi dùng khăn nóng lau sạch mồ hôi.
Phương Phương tủm tỉm :
– Đại tỷ ở lại chăm sóc công tử, tiểu muội về phòng đây.
Mạn Ngọc đỏ mặt, nắm tay giữ lại :
– Không được! Nhị muộ cũng phải ở lại.
Cuối canh ba, Tuấn Hạc tỉnh rượu thì nhận ra hai nữ nhân đang ngồi dưới đất, gối đầu vào mép giường mà ngủ. Chàng nhẹ nhàng bước xuống, ngồi bên kỷ trà, uống vài chung cho đỡ khát. Chàng nhìn khuôn mặt khả ái của hai nàng, lòng xót xa vô hạn. Trái tim chàng đã chết theo Tiểu Băng và Doanh Doanh.
Chàng biết họ yêu chàng và mai đây sẽ theo chàng vào chốn rừng gươm biển giáo. Chàng lấy tư cách gì để chiếm đoạt cuộc sống bình yên quý giá của họ?
Chàng có gì để đền bù cho họ?
Tuấn Hạc bỗng thức ngộ rằng mình đã sai lầm. Chàng không có quyền vì mối gia thù mà lôi kéo người khác vào chỗ chết. Bọn đệ tử Cái bang thì khác, họ là người của giang hồ và mang nặng trên vai mối thù của Tứ trưởng lão Cù Sở Hòa.
Bỗng Mạn Ngọc trở mình thức giấc.
Nhận thấy Tuấn Hạc đang uống trà, nàng hổ thẹn lay Phương Phương dậy, hai nàng đỏ mặt sửa lại xiêm y rồi cáo từ.
Tuấn Hạc ngăn lại, buồn rầu nói :
– Ngày mai tại hạ sẽ rời Thiên Ma cốc, tìm chỗ khác đào tạo thủ hạ. Chư vị còn quá trẻ tuổi xuân còn dài, không nên dự phần vào ân oán giang hồ.
Hai nàng thảng thốt sa lệ nói :
– Công tử đừng đi!
Phương Phương nức nở :
– Nếu công tử dứt áo ra đi xin cho bọn tiểu muội được làm người bảo toàn tông mạch họ Văn. Đứa bé kia sẽ là niềm an ủi cho phận hồng nhan bạc bẽo, nơi chốn quạnh hiu này.
Mạn Ngọc cũng gật đầu sướt mướt :
– Mong chàng đừng chê bỏ, chị em thiếp chỉ dám cầu xin có thế thôi.
Tuấn Hạc choáng váng vì mối chân tình và cũng vì vấn đề tông tự. Chàng đã quên bẵng đi việc mình là hậu duệ duy nhất của Văn thừa tướng.
Quan niệm “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, được nho gia nên Tuấn Hạc không dám lơ là.
Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi nói :
– Cảm tạ hai nàng đã nhắc nhở. Tại hạ không biết lấy gì mà đền đáp mối ân tình này.
Biết chàng đã chấp thuận, hai nàng mừng rỡ sụp xuống :
– Tiện thiếp bái kiến tướng công.
Tuấn Hạc xót xa đỡ họ lên xiết chặt vào lòng.
Phương Phương thỏ thẻ :
– Việc chàng chung thủy với vong thê, không ngó ngàng gì đến người khác, chỉ khiến bọn thiếp thêm ngưỡng mộ.
Tuấn Hạc ôm người đẹp trong tay mà lòng nặng trĩu đau thương, chẳng xao xuyến chút nào.
Phương Phương liếc yêu :
– Tướng công trơ như đá thế này, làm sao mau có người nối dõi được.
Nàng bèn đi về phía bàn, róc một chung trà bưng đến :
– Tùng ngộ nhi an là đạo thánh nhân. Kiếm vốn để giết người nhưng cũng có thể cứu người, tướng công uống đi.
Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, hiểu ngay trong chén trà có Xuân dược. Nhưng chàng cũng thầm khen Phương Phương khéo biện luận.
Uống cạn chén nước, Tuấn Hạc nghe lửa dục bùng lên. Chàng thầm tạ lỗi với vong linh Tiểu Băng và Doanh Doanh rồi quạt tắt đèn.
* * * * *
Trong bữa điểm tâm sáng hôm sau, chỉ cần nhìn hai gương mặt rạng rỡ như hoa đào của Mạn Ngọc và Phương Phương là đám tỳ nữ đã đoán ra nội tình. Họ xúm lại chúc mừng và gọi hai người là Cốc chủ phu nhân.
Tuấn Hạc vô cùng hổ thẹn với vong thê nói lảng sang chuyện khác :
– Ta có hẹn với một đệ tử Cái bang là Xảo Thủ Cái. Các nàng phải thường xuyên ra cửa cốc xem gã có đến hay không.
Phương Phương hỏi ngay :
– Bẩm tướng công! Chẳng hay Xảo Thủ Cái đến đây với mục đích gì?
– Ta muốn nhờ gã hóa trang, biến thành Thiên Ma đại lão Đinh Sơn Giáp. Có như thế mới mong che mắt được Giáo chủ Thiên Sư giáo. Lão ta nhất định sẽ đến đây để đòi mua Hàn Ngọc thần trượng.
Mạn Ngọc nũng nịu nói :
– Sao tướng công không nói sớm? Thiếp và Phương muội cũng tinh thông nghề dịch dung.
Phương Phương cướp lời :
– Ngoài ra, tướng công còn phải học thuộc thân thế, sự nghiệp cũng như bắt chước phong thái của lão ta. Vì Đại cốc chủ cũng là bạn đồng liêu của Trương Tỳ Vân. Trước đây, hai người ấy cùng là thủ hạ thân tính của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.
Tuấn Hạc ngỡ ngàng hỏi lại :
– Thế sao Đinh lão lại không ở lại triều đình mà hưởng vinh hoa phú quý?
Phương Phương cười đáp :
– Cũng như Trương Thiên Sư, Đinh lão hiểu rõ tâm địa của Thái Tổ nên rút lui ngay. Thiên tử đã ban cho lão hai vạn lượng vàng và chức Bố Y hầu kiêm chức Trấn Võ Thái Bảo. Ý của Thái Tổ là dùng Đinh lão để trấn áp các phái võ lâm. Ông ta sợ có ngày họ làm phản, khôi phục nhà Tống.
Tuấn Hạc cau mày :
– Với uy quyền to lớn như vậy, sao không thấy Đinh lão đại dương danh võ lâm mà lại giấu mặt nơi sơn cốc này?
Mạn Ngọc ứng tiếng :
– Song lão bị chứng vô sinh nên chỉ lo việc chữa trị, hầu có những nối dỗi. Họ đến tận Miêu Cương tìm loại Âm Dương thảo, đem về Thiên Ma cốc trồng cạnh suối nước nóng. Loại cỏ quý này có tác dụng bồi bổ nguyên dương và chữa được chứng vô sinh. Nhưng đã mấy năm rồi mà không có kết quả gì.
Tuấn Hạc nhớ lại Y kinh, lắc đầu bảo :
– Họ lầm rồi. Phải nấu chung với đậu đen mới có tác dụng.
Sau đó Mạn Ngọc đưa các nàng ra vườn luyện võ, còn Phương Phương đưa Tuấn Hạc vào thư phòng.
Nàng đem ra một tập sách dày :
– Tướng công! Đây chính là quyển hồi ức của Đinh lão đại. Trong này, lão ta ghi chép tỉ mỉ mọi việc xảy ra trong đời. Chàng cứ yên tâm nghiên cứu, việc chế tác mặt nạ đã có thiếp lo liệu.
Tuấn Hạc mải mê đọc, không để ý rằng mình đã uống cạn một bình trà lớn có mùi đậu đen là lạ.
Hôm sau, chàng lại xem đến quyển Thiên Ma bảo lục. Muốn giả dạng họ Đinh thì phải biết chút ít võ công của lão.
Hằng đêm, lúc chàng tắt đèn hai mỹ nhân mới vào phòng. Trong bóng tối, Tuấn Hạc đỡ hổ thẹn hơn, cùng họ ái ân say đắm. Sáng ra, khi chàng thức giấc thì họ đã rời phòng.
Sau nửa tháng trời, chàng nhận ra cơ thể mình sung mãn hơn trước, dù đêm đêm vẫn phải làm công việc duy trì nòi giông.
Mặt nạ đã chế xong, Tuấn Hạc đã thuộc làu tiểu sử và hành vi của Đinh Sơn Giáp. Chàng được các nàng hướng dẫn tận tình nên phong thái họ Đinh không sai một nét.
Mạn Ngọc cười bảo :
– Giờ đây, tướng công có thể đưa bọn thiếp đi khắp thiên hạ được rồi. Với vai trò Trấn Võ Thái Bảo, bất cứ môn phái nào cũng phải mở cửa nghênh đón.
Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, hôn lên trán nàng :
– Ngọc muội giỏi lắm. Ý kiến của nàng rất tuyệt diệu.
Vào cuối tháng hai, Hồ Diện Cái đưa một trăm đệ tử Cái bang đến Thiên Ma cốc Tuấn Hạc nôn nóng hỏi ngay :
– Các hạ có dò la ra tin tức gì không?
– Bẩm trưởng lão, bang chúng ở Giang Âm, Nghi Xương, Ôn Châu đều xác nhận ba bang hội kia có sự điều động nhân lực hồi giữa tháng giêng. Còn về kế hoạch tung hỏa mù thì bổn bang đã thực hiện xong. Giờ đây, thiên hạ đều tin rằng Văn nhị công tử vì quá đau đớn nên đã đâm cổ rồi nhảy xuống Trường Giang tự vẫn. Nhờ vậy lực lượng mai phục ở Lư Lăng đã rút đi gần hết.
Tuấn Hạc nghe xong, hỏi thêm :
– Cục diện võ lâm hiện nay thế nào?
Luân Hồi ma cung và Thiên Độc giáo có tương sát hay không?
– Bẩm trưởng lão! Ma cung đã ba lần tấn công Thiên Độc giáo ở Nghi Xương nhưng đều thất bại. Gần đây, Biến Hình môn đã đến tăng cường cho Ôn giáo chủ nên Luân Hồi Đế Quân kém thế, không dám xuất quân nữa. Chủ yếu là do chất độc của đối phương quá lợi hại.
Tuấn Hạc liền triệu tập mọi người rồi tuyên bố ý định của mình :
– Anh em Cái bang sẽ ở lại Thiên Ma cốc để rèn luyện pho kiếm pháp “Tả Hữu Hợp Kiếm”, dưới sự hướng dẫn của hai mươi nữ nhân kia. Phần ta sẽ cải trang đến Hợp Phì giúp Ma cung tiêu diệt Thiên Độc giáo. Cù Y Thảo sẽ theo ta để lo việc liên lạc.
Xảo Thủ Cái là một hán tử tam tuần nhỏ bé, mắt lớn, mắt nhỏ. Gã cung kính nói :
– Thuộc hạ xin được theo hầu để giúp trưởng lão dịch dung khi cần thiết.
Phương Phương cười nhạt :
– Tài nghệ các hạ được bao nhiêu mà dám múa môi. Ta đi theo tướng công mới là phải đạo.
Xảo Thủ Cái cười hề hề :
– Té ra phu nhân cũng là cao thủ trong nghề. Thuộc hạ đành phải rút lui.
Phương Phương bước ra tươi cười bảo :
– Chắc các hạ không phục chứ gì?
Dứt lời, nàng đưa tay vuốt mặt, lập tức biến thành người khác. Trong vòng nửa khắc nàng thay diện mạo đến tám lần khiến mọi người phục lăn.
Xảo Thủ Cái le lưỡi bái phục :
– Thuộc hạ xin tâm phục.
Phương Phương đến bên Tuấn Hạc nũng ri!u nói :
– Mong tướng công cho thiếp đi theo cùng. Từ nhỏ đến giờ, thiếp chưa lần nào ra khỏi dãy Hoàng Sơn này.
Mạn Ngọc cũng nói :
– Thiếp còn được đi theo Song lão đi Miêu Cương, chứ Phương muội suốt đời chỉ ru rú trong sơn cốc. Hơn nữa, có Phương muội tháp tùng, đối phương sẽ ít nghi ngờ hơn.
Con người nào phải gỗ đá mà không biết rung động? Con tim chai đá của Tuấn Hạc cũng phải mềm đi vì ánh mắt thiết tha của Phương Phương. Chàng gật đầu ưng thuận :
– Thôi được! Phương muội sẽ đi theo Năm ngày sau, một cỗ xe song mã xuất hiện trước cửa Hợp Phì đệ nhất khách điếm.
Thượng khách là một cặp phu thê quyền quý. Nam nhân tuổi độ năm mươi, mặt trắng như ngọc, râu ba chòm đen nhánh Còn nữ nhân kia chỉ mới hơn nhị thập da hơi ngăm ngăm nhưng dung mạo diễm lệ phi phàm.
Chỉ nhìn hai bộ y phục bằng tơ lụa thượng hạng và những viên bảo ngọc lấp lánh trên đầu nữ nhân cũng đủ biết họ thuộc hàng đại phú.
Bọn tiểu nhị khom lưng tươi cười mời thần tài vào. Khách điếm này sang trọng bậc nhất Huy Châu, giá mướn phòng cũng mắc đến đau ruột, nên chỉ có bậc quan quyền và đám lái buôn giấy mực giàu sụ là dám vào mà thôi.
Gã xà ích lái xe lúc nãy cũng là võ sĩ hầu cận. Gã giao xe cho bọn tiểu nhị rồi bước vào nói với chưởng quỹ :
– Thương đại thiếu gia và phu nhân ở Cảnh Đức trấn.
Chỉ cần khai báo như vậy là đủ, ở Cảnh Đức trấn chỉ có một Thương gia trang Phú Xương Địch Quốc.
Gã xà ích nói tiếp :
– Lão hãy cho dọn hai phòng thượng hạng liền nhau. à, còn ta là Hồ Thảo, võ sĩ hộ viện.
Dù luật triều đình đã quy định là khách trọ phải trình thẻ thuế thân, nhưng chỉ có các khách điếm hạng trung hoặc bình dân là thực hiện. Còn ở những nơi mà vàng bạc ngự trị thì thẻ thuế thân là những xấp Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, hoặc những thỏi vàng lấp lánh.
Tuy Minh Thái Tổ đã cấm dùng vàng bạc để thanh toán, nhưng trong thực tế, người dân Trung Hoa vẫn ngấm ngầm sử dụng. Họ tin tưởng vào những thỏi kim loại bền chắc kia hơn là những tờ giấy mỏng manh, dễ bị hủy hoại. Trung Hoa là đất nước loạn lạc liên miên, nhà cửa đa số có kết cấu bằng gỗ. Nếu tích trữ tiền giấy thì có ngày đi ăn mày.
Vì vậy đôi mắt lão chưởng quỹ sáng rực lên khi nghe tiếng vàng bạc khua nhẹ trong đống hành lý của thượng khách.
Ngay sau bữa cơm trưa, Hồ hộ viện rời khách điếm, đi đến tối mịt mới về, gã vào phòng chủ nhân thì thầm bàn bạc gì đó.
Sáng ra, dùng điểm tâm xong, phu thê Lương đại thiếu gia đủng đỉnh che dù đi dạo. Khi đến trước tòa Thiên Hương đại tửu lâu họ ghé vào. Đến tầng ba, hai người mới chịu an tọa. Trời còn khá sớm nên tửu khách chẳng được mấy người.
Uống rượu vào giờ này chỉ có những kẻ nghiện ngập hoặc đám đệ tử của Trích Tiên Lý Bạch. họ Lý bao giờ cũng vừa uống rượu, vừa làm thơ.
Quả nhiên, ở đây cũng có một kẻ say thơ. Đó là công tử Tần Thái Bách. Gã ngồi sát lan can, ngắm làn mưa phùn đang phủ mờ cảnh vật Hợp Phì.
Thái Bách cạn liền ba chung mà không tìm ra thi tứ, đành mượn bài Thanh Minh của Đỗ Mục đời Đường:
Thanh minh thời tiết vụ phân vân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia, hà xứ hữu
Mục đồng dao chí Hạnh Hoa thôn
(Dịch thơ)
Thanh minh lất phất tiết mưa phùn
Khiến khách đường xa thấm nỗi buồn
Quán rượu đâu đây, nhờ mách hộ
Mục đồng xa chi Hạnh Hoa thôn
Họ Tần đắc ý, tự thưởng mình một chung rượu. Bỗng từ bàn bên vang lên tiếng ngâm sang sảng. Đây là bài Khiến Hoài cũng của Đỗ thi sĩ:
Lạc phách giang hồ tái tửu hành,
Sở Yên tiên tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.
(Dịch thơ)
Lang bạt giang hồ chén chén nhanh,
Lưng ong gái múa giữa tay mình.
Dương Châu chợt tỉnh mười năm mộng,
Được tiếng lầu xanh gã bạc tình
Tần Thái Bách nghe xong cười ha hả đứng lên vòng tay nói :
– Không ngờ lão huynh cũng là bậc nhã sĩ. Tiểu đệ là Tần Thái Bách, xin phép được với cao.
Gã là kẻ chỉ biết sống vì thơ, coi nhẹ của cải và mọi thứ trên đời, nên bưng chén bước ngay sang bàn của khách.
Tuấn Hạc tươi cười :
– Tại hạ là Phương Sơn Lâu. Còn đây, thuyết thê Đinh Phương Phương. Mời công tử an tọa.
Thái Bách chỉ nhìn qua, vòng tay chào mỹ nhân rồi ngồi xuống. Gã chẳng cần hỏi lai lịch, say sưa nói ngay :
– Mùa thu năm ngoái, tiểu đệ được may mắn hạnh ngộ với một bậc anh hùng trong thi đàn, hai bên ngâm vịnh vô cùng tương đắc. Nay phải chăng lại gặp được tri âm?
Gã nâng chén mời rồi ngâm nga:
Kim nhật hoa tiềm ẩn,
Cam tâm túy sở bôi.
Đây là hai câu đầu trong bài ngũ ngôn tứ tuyệt Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn của Lư Vũ Tích. Quả thực dưới vườn dưới kia có vài khóm mẫu đơn đang khoe màu sắc.
Tuấn Hạc mỉm cười đọc tiếp:
Khả liên nhật mộ yên hương lạc,
Giá dữ xuân phong bất dụng môi.
Hai câu này tuy là thất ngôn nhưng ý tứ cực kỳ thích hợp, vần điệu không chê vào đâu được Ý cả bài là:
Nay nhắp chén bên hoa.
Cố say lấy vài ly.
Thương thay chiều tối tìm hương sắc,
Chàng gió đông nào mối lái chi?
Tần Thái Bách vỗ đùi, vòng tay bái phục :
– Tôn huynh quả là bậc tài hoa xuất chúng, chỉ trong sát na đã tìm ra hai câu trong bài Nam Viên của Lý Hạ. Tiểu đệ tự thẹn không bằng được.
Bỗng gã lộ vẻ nuối tiếc :
– Giá mà Van nhị công tử còn sống thì Thái Bách tôi đâu cô đơn đến thế này.
Không ngờ một kẻ có tài bảy bước làm thơ lại bạc mệnh như thế.
Tuấn Hạc cảm động nói :
– Tại hạ xin thay họ Văn để làm bạn văn chương với công tử có được chăng?
Họ Tấn gượng cười :
– Có lẽ không nên, tiểu đệ là người xui xẻo bất tường, kết giao với ai cũng chỉ làm hại người ấy mà thôi.
Tuấn Hạc mỉm cười, nhìn vào mắt gã ngâm khẽ:
Ngô cung hoa thảo mai u kính,
Tấn đại y quan thành cổ khâu.
Thái Bách giật mình nhìn chăm chú gương mặt người đối diện, như cố tìm một bóng hình trong quá khứ. ánh mắt, nụ cười kia nào có xa lạ gì? Họ Tần run giọng :
– Văn công tử đấy ư?
Tuấn Hạc gật đầu, đưa tay gỡ nhanh mặt nạ. Gương mặt thực chỉ lộ ra trong khoảnh khắc nhưng cũng đủ để Thái Bách nhận ra cố nhân. Gã vui mừng khôn xiết siết chặt tay chàng thì thầm :
– Túc hạ làm ta đau xót đến đứt ruột đi được.
Tuấn Hạc nghiêm giọng :
– Tại hạ mang nặng huyết thù, đành phải giả chết để chờ ngày báo phục. Lần này đến đây, trước là thăm Tần huynh, sau có việc muốn nhờ cậy.
Thái Bách sốt sắng nói :
– Tại hạ đã xem công tử như tri kỷ, dẫu việc to tát đến đâu cũng chẳng từ nan.
Tuấn Hạc mời cạn chén tương phùng rồi mới hỏi :
– Tần huynh đã tỏ lai lịch của mình chưa?
Thái Bách tư lự đáp :
– Sau khi ở đại hội Hoa Sơn về đến nhà tại hạ đã hỏi thẳng gia phụ. Người xác nhận rằng Luân Hồi Đế Quân chính là gia tổ…
Tuấn Hạc giật mình :
– Lệnh tôn được bao nhiêu niên kỷ?
– Gia phụ mới hơn năm mươi.
Thái Bách nói tiếp :
– Người cam đoan gia tổ không phải là tai sai của Triều Nguyên, mà ngược lại còn là thủ hạ của Minh Thái Tổ. Lúc cuộc kháng chiến kháng Mông sắp thành công thì gia tổ hy sinh. Vì vậy, Ma cung cũng thoái xuất giang hồ. Còn bốn vị Điện chủ bỏ sang Mông Cổ để tìm bản đồ kho báu. Mười năm trước, họ trở lại Trung Nguyên, yêu cầu gia phụ trùng hưng Ma cung. Họ bảo rằng đó là di chí của gia tổ. Gia phụ đồng ý trở thành Luân Hồi Đế Quân – đời thứ hai. Nhưng khi Ma cung lớn mạnh, tứ vị Điện chủ kia dùng quyền cố mệnh, lấn áp Cung chủ. Gia phụ chán nản, để mặc họ tung hoành, không dể ý đến sự vụ Ma cung nữa.
Nhân lúc Thái Bách thấm giọng bằng một chung rượu ngon, Tuấn Hạc hỏi gã :
– Vậy lệnh tôn có nói vì sao lại chấp nhận cho Tần huynh ra tranh chức Minh chủ hay không?
Thái Bách cười đáp :
– Thực ra, trong bốn vị Điện chủ kia có một người rất trung thành với gia phụ. Đó là Nam điện Điện chủ hay Đào Hoa khuê chủ Hồng Hợp Khuê. Hồng lão có chân trong ban giám đài nên hứa sẽ bảo đảm thắng lợi và an toàn cho tại hạ. Hôm ấy khi công tử uy hiếp Bách này, lão đã ngấm ngầm phóng một mũi độc châm vào lưng để giải cứu. Nhưng không hiểu sao lại chẳng có tác dụng?
Tuấn Hạc cười đáp :
– Tại hạ cũng đã biết điều ấy, nhưng không rõ ai đã xuất thủ?
Thái Bách kể tiếp :
– Nhờ lời tố cáo của công tử nên âm mưu của Đông điện Điện chủ bị vạch trần. Lão ta liền cùng Tây điện Điện chủ trốn ngay về Nghi Xương. Còn Bắc điện Điện chủ là một lão già ngốc nghếch, ba phải, chẳng có tâm cơ gì, do bị hai lão kia lôi kéo nên mới dự phần. Nhưng thực tâm lão không hề nghĩ đến chuyện tạo phản nên đã nhận lỗi với gia phụ. Hiện nay, hai lão Nam, Bắc điện chủ kia đang sát cánh với gia phụ để tiêu diệt Thiên Độc giáo.
Tuấn Hạc đã nắm rõ nội tình, liền nói thực :
– Mong Tần huynh tiến cử tại hạ với lệnh tôn để Hạc này có cơ hội báo phục mối huyết cừu. Thiên Độc giáo và Biến Hình môn chính là hai trong bốn hung thủ đã thiêu hủy Văn gia bảo.
Thái Bách gật đầu ngay :
– Chuyện ấy không khó, Bách tôi có thể làm được. Nhưng xin hỏi ngoài hai bang hội kia, còn kẻ nào đã nhúng tay vào máu?
Tuấn Hạc nghi ấn răng đáp :
– Nếu tại hạ đoán không sai thì chúng là bọn Thiên Sư giáo và Khuất gia trang.
Tần Thái Bách chính sắc nói :
– Tại hạ còn sống đến nay là nhờ công tử và Văn bảo chủ. Bách tôi sẽ đưa công tử đến Hồ Quảng. Lực lượng Ma cung đang đóng ở một căn cứ bí mật, cách Nghi Xương hơn trăm dặm.
(Đầu đời nhà Minh, Hồ Bắc và Hồ Nam được gọi chung là Hồ Quảng).
* * * * *
Đêm cuối tháng ba, vùng trung du Trường Giang lất phất mưa phùn, nên ngàn sao tắt lịm, trời tối đen như mực.
Phía sau ngọn đồi thấp cạnh bờ Bắc Trường Giang – Cách Nghi Xương vài dặm về phía Đông, xuất hiện năm trăm kiếm thủ mang mặt nạ gỗ. Mục tiêu của họ là Tổng đàn Thiên Độc giáo trên đỉnh đồi.
Ba lần trước, đoàn quân này không có cách vượt qua khu rừng đầy độc dược độc vật nên phải đánh thẳng vào cổng chính. Chưa lên đến đỉnh đồi họ đã phải rút lui vì thương vong quá lớn. Đối phương phục sẵn trong rừng cây hai bên đường, dùng cung nỏ, ám khí mà tấn công.
Nhưng đêm nay, họ vào bằng lối phía sau, xuyên qua khu rừng rậm rạp và nguy hiểm. Thiên Độc giáo chủ tự hào mình là cao thủ số một của Độc môn nên cho rằng không ai giải được chất kỳ độc trong khu rừng. Do đó, lực lượng phòng vệ phía sau rất mỏng.
Dẫn đầu đoàn cao thủ Ma cung là một người không mang mặt nạ gỗ mà bịt mặt bằng khăn vải đen. Kế đó là Luân Hồi Đế Quân cùng hai vị Điện chủ. Đế quân đeo tấm mặt nạ bằng vàng óng ánh.
Đám giáo chúng Thiên Độc giáo cũng ỷ y nên xúm lại đánh bài, uống rượu dưới hiên những căn nhà gỗ. Chúng chẳng tội gì tuần tra trong một đêm lạnh lẽo và ướt át như thế này.
Chỉ trong chớp mắt, bốn mươi tên giáo chúng biến thành những cái xác không hồn. Đoàn quân Ma cung nương theo bóng đêm tỏa ra, vây chặt lấy những cơ ngơi của Tổng đàn. Những túi dầu trên vai họ được lấy xuống, rưới vào những bức vách gỗ.
Khi nghe tiếng huýt sáo, các nơi đồng thời châm lửa. Dù trời mưa lất phất nhưng chất dầu kia vẫn bốc cháy bừng bừng.
Đây chính là loại dầu mỏ khai thác từ lòng đất, nó được gọi bằng nhiều tên :
Thạch Du, Thạch Tất (Sơn đá), Thạch Chi Thủy (nước mở đá).
Vào thời nhà Hán, người Trung Hoa đã phát hiện và khai thác mỏ dầu lửa đầu tiên ở huyện Cao Nô thuộc Tượng Quận – tức Diên Châu ngày nay. Đến thời nhà Minh, họ đã biết cách lọc dầu mỏ để thắp đèn.
Cho nên, chưa đầy nửa khác, ngọn lửa đã lan tràn khắp Tổng đàn Thiên Độc giáo. Tiếng quát tháo hòa với tiếng kêu cha gọi mẹ vang dậy đêm trường. Trong cơn hoảng loạn, bọn giáo chúng mất cả dũng khí và trở thành mồi ngon cho bọn kiếm thủ Ma cung.
Thiên Độc giáo chủ Ôn Thiếu Bảo, Giang Lăng Thần Nữ, Đông điện chủ, Tây Điện chủ cùng các cao thủ đầu não quát vang, cố điều động thuộc hạ chống chọi. Họ đang ngủ say nên y phục chẳng chỉnh tề chút nào cả.
Luân Hồi Đế Quân ngửa cổ cười vang dội :
– Ôn Thiếu Bảo! Chắc lão không ngờ có ngày hôm nay chứ gì?
Dứt lời, ông cùng các đại cao thủ Ma cung ập vào tấn công.
Người áo đen bịt mặt kia không tham chiến mà tiến thẳng về phía thạch lao ở mé hữu Tổng đàn. Trên đường tiến của gã có đến mấy chục tên giáo chúng vong mạng vì lỡ dại cản đường.
Đến nơi, Mông Diện Nhân vung kiếm chặt đứt khóa sắt, đạp cửa nhảy vào. Gã nhô cây đuốc trên vách, chạy dọc dãy lồng sắt, tíu xem có ai không?
Đến lồng cuối cùng, gã mừng rỡ nhận ra có một tù nhân áo đen đang nằm sóng soài trên ổ rơm. Nhìn vóc dáng gầy nhỏ, có thể đoán được đó là một nữ nhân.
Người bịt mặt vung kiếm phá khóa lồng, đến lật ngửa người ấy lên xem thử.
Gương mặt nạm đen vằn vện kia là của Ôn Tiểu Băng. Người bịt mặt chính là Tuấn Hạc, chàng ôm chặt lấy ái thê vừa khóc vừa gọi :
– Tiểu Băng! Tiểu Băng! Ta đến cứu nàng đây!
Nhưng Thiên Độc Thánh Nữ vẫn hôn mê trầm trầm, không hề tỉnh lại.
Tuấn Hạc kinh hãi thăm mạch rồi mớm cho nàng năm viên linh đan. Chàng cởi thắt lưng, cột chặt Tiểu Băng vào lưng mình rồi cõng ra ngoài.
Đôi mắt chàng sáng rực lửa căm hờn nhưng ẩn chứa niềm hạnh phúc. Chàng chỉ vào tìm cầu may, không ngờ lại cứu được người mình yêu quý nhất đời.
Chàng không ngó ngàng gì đến cuộc chiến giữa Ma cung và Thiên Độc giáo, chỉ mong sao đưa ái thê đào thoát an toàn. Do đó, Tuấn Hạc xuất thủ cực kỳ ác độc không để một tên nào có cơ hội phản kích. Thanh trường kiếm loang loáng dưới ánh lửa hồng trông như lưỡi hái đẫm máu của tử thần.
Với pho khinh công “Thiên Tinh Quá Hải”, Tuấn Hạc lướt đi như bóng dơi đêm, triệt hạ tất cả những vật cản trên đường.
Cuối cùng chàng vào được khu rừng phía sau đồi, thoát ra ngoài.
Tần Thái Bách không tham chiến, đứng giữ đàn ngựa cách chân đồi hơn dặm. Gã nhận ra chàng, thảng thốt hỏi ngay :
– Công tử cõng ai trên lưng vậy?
Tuấn Hạc nghẹn ngào đáp :
– Tại hạ may mắn tìm thấy thuyết thê Ôn Tiểu Băng trong thạch lao. Quả trời cao có mắt, tại hạ phải đưa nàng về căn cứ ngay.
Thái Bách hớn hở nói :
– Xin chúc mừng công tử! Tại hạ sẽ hộ tống nhị vị.
Gã giao đàn ngựa cho mấy tên đệ tử Ma cung rồi cùng Tuấn Hạc đi ngay.
Trên đường đi, Thái Bách nói với giọng đầy hy vọng :
– Tại hạ cho rằng nếu Thánh Nữ thoát chết thì những người khác trong Văn gia bảo cũng có thể vẫn còn sống.
Tuấn Hạc phấn khởi đáp :
– Tại hạ cũng nghĩ như thế, Vạn Bác Hồ Tinh là người đa mưu túc trí, thông tuệ tuyệt luân, lẽ nào không có cách đưa mọi người đào thoát an toàn?
Mặt trời vừa lên được một sào thì bọn Tuấn Hạc về đến căn cứ bí mật của Ma cung.
Cơ ngơi này nằm sâu trong một khu rừng rộng, gồm nhiều dãy nhà gỗ.
Phương Phương và Hồ Diện Cái nghe tiếng vó ngựa dồn dập phi vào, vội chạy ra xem. Họ đang nóng ruột lo lắng cho Tuấn Hạc.
Chàng ôm Tiểu Băng tung mình xuống đất vui vẻ nói :
– Phương muội! Trời còn thương nên ta còn tìm được Tiểu Băng.
Phương Phương là người hào sảng, rộng rãi như nam nhân nên thật tình mừng rỡ :
– Ôi chao! Sao mà may mắn thế! Tướng công mau đưa Ôn đại thư vào phòng cho thiếp săn sóc.
Tuấn Hạc bồng Tiểu Băng vào phòng của mình, đặt nàng xuống giường. Phương Phương nhìn rõ gương mặt nam đen, xấu xí, giật mình kinh hãi. Nàng quay sang bảo Tuấn Hạc :
– Thiếp cứ ngỡ Ôn đại thư là bậc tiên nữ giáng phàm nên ngày đêm tướng công thương nhớ, không ngờ người lại xấu xí như vậy. Tướng công quả là bậc kỳ nam tử hiếm có trên đời.
Mắt nàng rực rỡ niềm yêu thương và ngưỡng mộ.
Tuấn Hạc buồn bã nói :
– Nhan sắc nữ nhân như hoa sớm nở tối tàn! Chỉ có tình yêu là đáng trân trọng mà thôi Tiểu Băng vì ta mà chịu biết bao tai họa rồi. Lần này, nàng bị Thiên Độc giáo chủ hạ thủ, biết có thể hồi phục được hay không? Ta thuộc làu Y kinh của ân sư, nhưng lại chẳng có chút kinh nghiệm nào về dược thảo và bệnh chứng.
Chàng ngồi xuống chẩn mạch, vạch mắt xem xét và cởi cả y phục nàng ra, nhưng không tìm thấy manh mối. Phương Phương vào nhà sau bưng lên thau nước ấm, lau mình cho Tiểu Băng và thay y phục sạch.
Trưa hôm ấy, Luân Hồi Đế Quân dẫn thủ hạ về đến. Ông phấn khởi nói :
– Nhờ có thuốc giải độc của Văn công tử mà chúng ta đại thắng trận này. Trừ Ôn giáo chủ và Giang Lăng Thần Nữ, không một ai thoát chết cả. Lão ta nhờ có Thiên Độc Thần Châu hộ thân nên bổn tòa không ngăn cản nổi.
Tuấn Hạc gượng cười :
– Xin chúc mừng Cung chủ.
Đế quân cười bảo :
– Bổn tòa cũng xin chúc mừng công tử đã cứu được ái thê Tuấn Hạc buồn rầu đáp :
– Thuyết thê đã bị Ôn lão hạ kỳ độc. Tại hạ đã tận lực mà không sao tìm ra bệnh lý.
Nam điện Điện chủ tức Đào Hoa khuê chủ nói :
– Lão phu cũng biết chút y thuật nhưng không thiện về chất độc. Chỉ có Hằng Sơn Thiền Ông là giỏi cả y đạo lẫn Độc môn.
Tuấn Hạc mừng rỡ vái dài :
– Cảm tạ tiền bối đã nhắc nhở. Thiền ông chính là bá phụ của tiện nội. Tại hạ phải lên đường ngay mới được.
Hồng lão giật mình :
– Té ra lão trọc kia lại là bào huynh của Thiên Độc giáo chủ. Thế mà lão phu không hề hay biết.
Luân Hồi Đế Quân lấy ra một hộp gỗ nhỏ :
– Đây là viên Tuyết Sâm Bảo Mệnh hoàn. Tuy nó không có tác dụng giải độc nhưng tăng cường sức đề kháng cho cơ thể Công tử hãy cho Tiểu Băng uống vào mới đủ sức cầm cự cho đến lúc gặp Thiền ông.
Tuấn Hạc biết linh đan này cực kỳ quý giá, vội vòng tay bái tạ. Đế quân cười khanh khách :
– Công tử còn Bách nhi và còn giúp bổn cung đại phá cường địch. Công lao ấy bổn tòa chẳng dám quên. Sau này, có gì sai bảo xin cứ nói.
Thái Bách dắt ra chiếc xe song mã, mui phủ kín bằng da. Đây là xe riêng của Đế quân. Gã vui vẻ nói :
– Xe này được chế tạo đặc biệt nên rất êm ái. Tại hạ còn bỏ thêm vài tấm nệm bông nữa.
Phương Phương và Hồ Diện Cái vào trong thu xếp hành lý. Thấy chỉ còn cha con Đế quân, Tuấn Hạc hạ giọng hỏi :
– Tại hạ muốn biết trong hai tấm họa đồ của Cung chủ và Trương Thiên Sư, tấm nào là thật? Theo tại hạ được biết thì Giáo chủ Thiên Sư giáo đã dám bỏ ra ba vạn lượng vàng để mua thanh Hàn Ngọc thiền trượng của Tây Phật. Nghe nói vật ấy chính là chìa khóa mở cửa đá của kho tàng.
Đế quân sững sờ :
– Như vậy có lẽ cả hai tấm họa đồ đều giống nhau. Trong bản của bổn tòa cũng vẽ một chiếc chia khóa có hình dáng giống như thiền trượng. Nhưng bổn tòa không ngờ rằng đó lại là bảo vật của Tây Phương tự. Thế lão họ Trương đã mua được vật ấy chưa?
Tuấn Hạc chính sắc nói :
– Nếu kho tàng kia đúng là của người Mông Cổ để lại thì Cung chủ nên tìm cho được và nộp vào quốc khố. Tài sản ấy vốn là của bách tính Trung Hoa.
Luân Hồi Đế Quân mỉm cười :
– Không được đâu! Kho tàng này là của một tay đại phú thời nhà Tùy. Nếu công tử có hứng thú thì khi xong việc ở Sơn Tây, về Hợp Phì cùng bổn tòa đi tìm xem thử.
Tuấn Hạc gật đầu :
– Tại hạ sẽ đi Cam Túc hỏi mượn Hàn Ngọc thiền trượng. Nếu chúng ta không nhanh tay, Thiên Sư giáo sẽ đắc thủ, chẳng khác nào hổ thêm cánh.
Chàng vào phòng bồng Tiểu Băng đặt lên xe rồi cáo biệt. Hồ Diện Cái làm xà ích, còn Tuấn Hạc cỡi ngựa đi song song.
Phương Phương vén rèm cửa ở hông xe, nói với Tuấn Hạc :
– Tướng công. Tần công tử quả là hảo bằng hữu, xe chạy rất êm và đầy đủ lương thực, rượu ngon.