Giang Nam Oán Lục

Chương 20 - Thiên Điểu, Hoàng Mao Đồng Xuất Thế - Thùy Tri Thế Thượng Hữu U Linh

trước
tiếp

Sáu tháng sau, võ lâm rung chuyển vì sự ra đời của Thiên Điểu bang. Họ tấn công Hoàng Thổ thành ở vùng cực Bắc Thiểm Tây, giết chết Trường Xuân chân nhân và Truy Mệnh Đao Sứ. Hướng thành chủ vì sinh mạng của gần ngàn thủ hạ đành cùng Hoắc Cừu rút quân chạy về Tây Hạ.

Chỉ một tháng sau, Khuất gia trang ở Giang Âm bị tập kích lúc nửa đêm, nhà cửa còn nguyên vẹn nhưng hơn trăm người đều biến mất. Nghe nói đêm ấy có đám mây đen sì sà xuống và hai khắc sau lại bốc lên. Đám mây ấy phát ra những tiếng ríu rít rất lạ tai!

Thiên Sư giáo chủ Trương Tỳ Vân vội đến Thiếu Lâm tự họp mặt với các Chưởng môn bạch đạo, bàn bạc cách đối phó. Trương Thiên Sư thở dài nói :

– Lão phu đã đến tận nơi quan sát và phát hiện trên mái ngói có rất nhiều phân chim. Như vậy, hành vi này rõ ràng là của Thiên Điểu bang!

Minh Tâm Tử – Chưởng môn phái Võ Đang thở dài bảo :

– Thiên Điểu bang thu phục Hoàng Thổ thành thì còn có thể hiểu được, vì họ cùng chung lãnh thổ. Nhưng việc thảm sát Khuất gia trang quả là quá lạ lùng! Chẳng lẽ họ có tư thù với họ Khuất!

Hư Trúc chân nhân – Chưởng môn phái Hoa Sơn góp ý :

– Theo bần đạo chỉ có hỏa khí của Liệt Hỏa giáo ở Nam Lĩnh là chống lại được bầy chim ăn thịt kia. Chẳng có động vật nào không sợ lửa cả!

Pháp Hoa thiền sư khen phải :

– Hay lắm! Lão nạp sẽ cho người mang thư đến Quảng Tây ngay!

Trương giáo chủ lộ vẻ băn khoăn :

– Giáo chủ Liệt Hỏa giáo là một người xấu xa, tàn ác, dã tâm lại không nhỏ. Không chừng lão ta nhân dịp này mà xưng bá đất Trung Nguyên!

Huệ Hà sư thái trấn an :

– Đất nước đang thanh bình, kỷ cương phép nước nghiêm minh, chẳng có bang hội nào dám công khai bức hiếp võ lâm đâu. Các phái chúng ta đoàn kết lại thì lo gì nữa?

Lời của bà rất chí lý nên bốn lão nhân kia đều tán thành, vừa mời Liệt Hỏa giáo, vừa chờ xem động tĩnh của Thiên Điểu bang! Việc trinh sát tình hình Tây Vực được giao cho Vạn Bác Hồ Tinh ở Lư Lăng!

Giờ đây Văn gia bảo đã được xây dựng lại trên nền cũ. Tất cả đều giống như xưa, chỉ có rừng tùng chung quanh là thưa thớt, nham nhở vì đám cháy năm nào!

Nhân số cũng chỉ có mấy chục tiêu sư thân tín. Bọn đao thủ Biến Hình môn vừa quy phục chưa được uống thuốc giải nên đã chết cả vì Yêu Độc đan.

Cuộc đào thoát kỳ diệu khỏi biển lửa ấy sẽ được nói đến vào một hồi sau. Giờ đây chúng ta hãy quay lại Trường An để gặp một nhân vật rất thú vị.

* * * * *

Trưa ngày mười tám tháng ba có một quái nhân lững thững đi vào thành Trường An – qua cửa Tây! Thân hình gã cao gầy nên trông như đang bơi trong bộ y phục rất cổ đã rách nhiều chỗ. Đặc biệt là mái tóc gã vàng chói như rơm, lông mày, lông mi cũng vậy. Hơn thế nữa, da mặt, da cổ, da bàn tay đều có lớp lông tơ vàng mượt. Bộ râu quai nón rậm rì bao kín nửa dưới khuôn mặt cũng có màu vàng.

Gã không búi tóc mà cột túm lại bằng dải lụa đen ở đỉnh đầu. Còn đôi dày dưới chân thì hoàn toàn cũ kỹ với mũi vểnh lên. Nếu gã không có dáng đi oai phong bệ vệ, và thiếu thanh trường kiếm trong tay, thì chắc bọn trẻ con đã xúm lại chọc ghẹo.

Trên vai quái nhân tóc vàng có một tay nải nặng bằng gấm trắng. Chẳng ai đoán ra có gì trong ấy?

Gã ta ghé vào một tiệm bán y phục may sẵn, hỏi mua quần áo! Chủ tiệm thấy gã nói tiếng Hán sành sõi, bật cười bảo :

– Không ngờ người Tây Dương lại thông thạo ngôn ngữ Trung Quốc như vậy!

Gã lặng lẽ không biện bạch, lấy thỏi vàng hình vuông ra trả. Nén vàng sáng rực khiến chủ tiệm hoài nghi. Lão xem xét rất kỹ và còn cắn thử nữa. Trên mặt khối vàng có chữ Nhất Dật, như vậy tương đương với hai mươi bốn lượng!

Lão chủ đặt lên cân, quả đúng trọng lượng! Lão hoan hỉ thố lại bằng một xấp tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao. Vị khách kia bỗng nói :

– Túc hạ có thể cho ta đổi thêm ít tiền giấy nữa không?

Gã móc ra thêm mười Dật nữa. Lão chủ tiệm tự hỏi trong tay nải kia chắc là có hàng trăm thỏi như vậy? Đổi tiền xong, quái nhân đi sang khách điếm đối diện. Viên chưởng quỹ nhìn vẻ xơ xác, kỳ dị của khách với ánh mắt nghi ngại. Quái nhân rút tờ tiền giấy trăm lượng đặt lên mặt quầy, lạnh lùng bảo :

– Một phòng thượng hạng!

Lão ta hoan hỉ cười toe toét :

– Xin mời đại gia lên lầu! À! Tiểu nhân quên không hỏi quý danh?

Gã tóc vàng trầm giọng :

– Mạc Luân ở Đông Thăng! Túc hạ cho dọn ngay cơm lên phòng!

Gã tắm gội rất lâu, nhưng không cạo râu, cạo mặt gì cả. Tuy nhiên, trong bộ y phục mới bằng gấm trắng trông Mạc Luân dễ coi hơn. Nếu gã nhuộm râu tóc thì cũng chẳng khác gì người Hán vì mắt đen tuyền!

Mạc Luân xách cả tay nải đựng vàng và trường kiếm theo. Xuống đến khách sảnh ở lầu dưới, gã nghiêm nghị hỏi lão chưởng quầy :

– Ở thành Trường An này, nơi nào bán ngựa tốt?

Lão chưởng quầy mau mắn đáp :

– Tiểu nhân có một vị tiểu huynh chuyên nuôi ngựa quý ở cửa Nam thành. Để tiểu nhân gọi xe ngựa đưa đại gia đến đấy!

Mạc Luân lắc đầu :

– Không cần xem, cứ bảo người ấy đem lại con ngựa tốt nhất là được. Ta muốn có nó vào sáng mai!

Gã rời khách điếm, nhảy lên chiếc xe ngựa gần nhất, điềm đạm nói :

– Hãy đưa ta dạo một vòng quanh Trường An!

Nhưng xe ngựa vừa chạy ngang qua cửa tòa Vị Thủy đại tửu lâu, gã bảo xà ích dừng lại! Mạc Luân đưa ra tờ tiền giấy trị giá đến mười lượng bạc. Gã phu xe nhăn nhó :

– Tiểu nhân làm gì có tiền để thối lại?

Họ Mạc lạnh lùng bảo :

– Vậy thì khói thối!

Gã nhét tiền vào tay tên xà ích rồi bỏ đi. Thì ra trước cửa tòa tửu lâu đang có một vị hòa thượng to béo đứng khất thực. Lão ta mặc bộ tăng bào rách rưới, tay không cầm bình bát mà lại chìa ra một chiếc thau đồng móp méo, nứt nẻ.

Lão đứng ngay giữa cửa nên rất trở ngại cho khách ra vào. Bọn tiểu nhị hết lời năn nỉ nhưng lão vẫn không chịu đi.

Bọn chúng xúm lại xô đẩy cũng chẳng hề nhúc nhích. Còn đấm đá chỉ tổ đau tay mà thôi! Hòa thượng cười ha hả bảo :

– Hôm nay bần tăng chưa quyên đủ ba chục lượng, quyết không rời chỗ này!

Lão chưởng quầy đấm ngực kêu trời :

– Quyên giáo kiểu này có khác gì ăn cướp! Chẳng lẽ bổn điếm ngày nào cũng phải bù cho đủ số ba chục lượng hay sao?

Hòa thượng thản nhiên đáp :

– Không đâu! Ngày mai bần tăng sẽ đến tiệm bên kia đường!

Mạc Luân bước đến cất giọng khàn đặc hỏi :

– Đại sư quyên tiền để làm gì? Dẫu bao nhiêu tại hạ cũng có thể cúng dường được!

Hòa thượng to béo giật mình nhìn khách lạ. Lão dò hỏi :

– Thí chủ là người phương nào, mà râu tóc vàng như rơm vậy?

– Tại hạ là người Tây Vực!

Hòa thượng cười hì hì :

– Bần tăng là Vô Giới, dám hỏi danh tính thí chủ?

– Tại hạ là Mạc Luân! Hay chúng ta lên lầu làm vài chén rượu rồi đàm đạo?

Vô Giới lộ vẻ mừng rỡ nhưng khựng lại ngay :

– Bần tăng không kiêng rượu thịt! Nhưng còn phải quyên giáo trước đã!

Mạc Luân hỏi ngay :

– Đại sư định xây chùa ư?

Vô Giới buồn rầu đáp :

– Không phải! Bần tăng định xây một ngôi mộ cho người bạn đã chết!

Mạc Luân chấn động, lặng im một lúc mới nói :

– Đại sư cần bao nhiêu?

Vô Giới gãi đầu :

– Chắc phải hơn ngàn lượng vì bần tăng sẽ xây chùa cạnh mộ để được gần gũi y!

Mạc Luân chớp mắt, lặng lẽ móc trong tay nải ra một nắm ngọc bỏ vào chiếc thau đồng. Trị giá của nó không dưới ngàn lượng bạc. Vô Giới giật mình, cầm một viên lên xem thử và hỏi :

– Thí chủ đừng chọc ghẹo bần tăng nhé! Đây là ngọc hay pha lê vậy?

Mạc Luân nghiêm giọng :

– Toàn là của thật cả! Trong tay nải này còn đến gấp trăm lần như vậy. Đại sư có muốn lấy thêm không?

Vô Giới xua tay :

– Không cần đâu! Nhưng bần tăng phải đi kiểm tra trước đã. Nếu đúng là ngọc thật bần tăng sẽ rất vui lòng uống với thí chủ một phen.

Lão lật đật bỏ chạy như bị ma đuổi.

Bọn tiểu nhị và lão chưởng quầy ôm bụng cười :

– Không ngờ chỉ vài viên pha lên mà đuổi được lão hòa thượng quỷ quái kia đi!

Mạc Luân không nói gì, bước thẳng vào tửu lâu. Gã lên tầng hai ngồi ngay lan can phía Tây ngắm cảnh tịch dương trên rặng Tần Lĩnh. Vừa mới ăn cơm xong nên gã chỉ gọi hai đĩa nhắm nhỏ và một vò rượu Lan Sinh lâu năm. Tên tiểu nhị bưng rượu lên cười hì hì nói :

– Vò rượu này để đã ba mươi năm, giá là hai chục lượng. Chỉ mong đại gia đừng trả bằng những viên pha lê như lúc nãy!

(Người Trung Hoa đã chế tạo ra thủy tinh từ thời nhà Thương nhưng còn thô sơ thời Đông Hán Vương viết rằng “các đạo sĩ đã nung luyện năm loại đá làm thành loại ngọc ngũ sắc. Đó chính là những viên thủy tinh hay pha lê”)

Hai khắc sau, Vô Giới chạy vào hỏi chưởng quỹ :

– Thí chủ tóc vàng đâu rồi?

Lão ta sợ hãi nói :

– Hắn lừa gạt đại sư nên bỏ đi rồi!

Vô Giới gầm lên :

– Lừa gạt cái mả cha ngươi! Đó là ngọc thật! Hắn đâu, hãy nói mau!

Sợ lão không tin, Vô Giới rút ra một xấp tiền dầy cộm dí vào mũi :

– Đây là hơn ngàn lượng bạc, lão tin chưa?

Mùi tiền thơm phức đâu lạ lùng gì, lão chưởng quầy choáng váng nói như mơ :

– Ngọc thật ư! Người ấy đang ở trên lầu!

Vô Giới đẩy lão ra, chạy thẳng lên lầu.

Thấy Mạc Luân, lão bước đến, ngồi đối diện cười hì hì :

– Thí chủ quả là bậc đại thiện nhân! Bần tăng xin cảm tạ!

Có tiền trong túi, Vô Giới vững bụng gọi rượu thịt ê hề, lão ăn như rồng cuốn, tưởng chừng nhịn đói đã lâu! Mạc Luân lặng lẽ nhìn hòa thượng ăn uống, đôi mắt đầy vẻ trìu mến, Vô Giới no căng bụng, vơ chén róc đầy. Hai người uống liền mười chén, ai cũng ngà ngà.

Mạc Luân nhìn ra ngoài, thấy bầy én bay lượn trong ánh hoàng hôn, lòng nao nao cảm xúc buột miệng ngâm:

Khuất khúc tân từ tửu nhất bôi,

Khứ niên thiên khí cựu đình đài.

Tịch dương Tây Hạ kỷ thời hồi

Vô khả nại Hà hoa lạc khứ.

Tự tằng tương thức Yến qui lai.

Tiểu viên hương kích độc bồi hồi.

(Dịch thơ)

Xong một bài từ nhấp một ly.

Lầu xưa hơi cũ vẫn còn y.

Bóng chiều qua lại miền Tây Hạ

Chẳng thể làm sao hoa khỏi rơi

Én kia quen cũ bay liền cánh

Mình ta vườn nhỏ bước bồi hồi.

Ngâm xong, Mạc Luân nâng chén uống cạn. Vô Giới róc thêm chén khác rồi hỏi :

– Phải chăng thí chủ có kỷ niệm buồn ở đất Tây Hạ?

Mạc Luân gật đầu.

– Thí chủ đến Trường An có việc hay đi du sơn ngoạn thủy?

– Tại hạ muốn đi thăm Giang Nam một chuyến!

Vô Giới mừng rỡ nói :

– Bần tăng cũng có ý định ấy. Hay là chúng ta đồng hành cho vui?

Mạc Luân gật gù :

– Thế thì tốt lắm! Đại sư đi sắm sửa y phục. Rồi đến Vị Thủy đại khách điếm tìm tại hạ!

Vô Giới cười vang :

– Bần tăng cũng biết nơi ấy người áo rách không vào được!

Lão cao giọng gọi tiểu nhị tính tiền.

Còn ít bạc lẻ lão không cho mà lấy lại và cười bảo gã :

– Mấy đồng này coi như bần tăng quyên của thí chủ vậy!

Tiểu nhị tức muốn hộc máu nhưng không dám phát tác!

Khi hai người khách đi khỏi, chưởng quầy và bọn tiểu nhị xúm lại bàn tán :

– Chắc hai kẻ này quen nhau trước và bày ra trò bố thí ngọc ngà để lòe thiên hạ đấy thôi.

Chỉ mình gã phu xe là biết người tóc vàng kia rộng rãi. Nhưng gã chẳng bao giờ chịu nói ra. Biết đâu đấy là của cải ăn cướp thì sao?

Sự đời quả nực cười!

* * * * *

Đêm hôm ấy, có một bóng đen đột nhập vào Tần gia trang ở cửa Đông thành Người này trùm kín toàn thân trong lớp vải đen. Thân pháp của hắn nhanh như ánh sao băng qua bầu trời và phiêu phưởng nhẹ nhàng tựa bóng u linh.

Hắn nhanh chóng lướt khắp khu hậu viện như muốn tìm ai đó. ánh trăng mười tám vằng vặc trên cao không hề làm hắn lo sợ. Đến một căn phòng còn sáng đèn, hắn nhìn qua khe cửa, thấy một mỹ nhân đang ngồi nhìn ngọn nến lung linh. Nàng vô cùng xinh đẹp nhưng gương mặt lại đầy vẻ đau khổ. Bỗng nàng thở dài não ruột nước mắt trào ra. Mỹ nhân gạt lệ đứng lên, hai tay đưa ra phía trước, chậm chạp dò dẫm từng bước đi. Thì ra nàng bị mù!

Người bịt mặt chấn động tâm thần, đứng lặng người một lúc. Dường như đã tìm ra chủ ý, hắn vào các phòng gâ đấy, điểm huyệt toàn bộ những người đang ngủ. Những luồng chỉ kình từ ngón tay gã vượt qua khoảng cách nửa trượng rất dễ dàng. Công phu cách không chỉ lực đạt đến mức này là điều khó mà tin được.

Khi biết chắc rằng tất cả đều ngủ mê man, hắn đẩy cửa phòng nữ lang mù, bước vào và đóng lại. Thính giác của người khiếm thị rất tinh tường, vì vậy nữ lang kia phát giác ra ngay. Nàng ngồi ở mép giường, mỉm cười hỏi nhỏ :

– Tưởng đại thư chưa ngủ sao? Vào đây chơi với tiểu muội!

Hắc y nhân vận công truyền âm, khiến giọng nói văng vẳng như từ cõi mơ hồ nào đấy!

– Doanh muội! Ta là Tuấn Hạc từ cõi âm trở về thăm nàng đây!

Giọng nói quen thuộc, thân thiết kia khiến Doanh Doanh vui mừng khôn xiết, nàng đứng bật dậy lắp bắp :

– Tướng công! Có thực là tướng công không?

Hắc y nhân ngâm nga:

Phủ năng chính đắc tăng nhi liễu,

Vũ đả lê hoa thâm bế môn.

Đây là hai câu cuối trong bài Tử Gia Cô Thiên của Tần Quán đời Tống! Nghĩa của nó là:

Vừa lúc chong đèn cài cửa kín,

Hoa lê tầm tã trận mưa tuôn.

Hai câu này là mật hiệu để phu thê nhận ra nhau. Thuật dịch dung của Biến Hình môn quá linh diệu nên sau khi cứu được Doanh Doanh khỏi Ôn Châu, mỗi lúc gần gũi nàng và Ôn Tiểu Băng chàng đều ngâm nga câu đầu và họ đọc câu sau!

Ý thơ trong bài thì khác nhưng đem vào chốn phòng the lại nồng thắm ái ân!

Doanh Doanh bật khóc :

– Tướng công! Dầu chàng có là hồn ma bóng quế thiếp cũng không sợ, hãy đến đây với thiếp!

Đôi tay nàng quờ quạng vào không khí như muốn tìm Tuấn Hạc. Chàng đau đớn nói :

– Ta đã giết nhạc phụ, còn mặt mũi nào mà kề cận nàng nữa! Lần này gặp nhau cũng là lần cuối cùng!

Doanh Doanh xua tay nức nở :

– Không! Không! Tướng công vì bức bách mới phải làm như vậy! Gia phụ đã mất cả lương tri, bao phen hãm hại phu thê chúng ta, như vậy đâu còn là cha con nữa! Nay thiếp đã mù lòa, khốn khổ thế này cũng là chịu tội thay cho tướng công rồi! Thiếp chưa thể chết theo chàng là còn vì từ mẫu!

Nói đến đây, uất khí công tâm, Doanh Doanh ngã lăn ra đất bất tỉnh. Nhưng Tuấn Hạc đâu thể để nàng rơi xuống đất, chàng lướt đến đỡ, đặt nàng lên giường rồi xoa bóp các huyệt đạo quanh đầu cổ.

Lát sau, Doanh Doanh hồi tỉnh.

Nàng mừng rỡ ngồi lên, đưa tay vuốt ve gương mặt Tuấn Hạc. Thấy hàng râu rậm rạp, nàng mỉm cười bảo :

– Sao tướng công không chịu cạo râu?

Tuấn Hạc giả giọng âm u :

– Ta chết nơi đất lạ, chẳng ai thờ cúng nên làm gì có dao mà cạo?

Doanh Doanh bật thốt :

– Thiếp nghe nói đại ca Văn Tuấn Thu đã về Lư Lăng dựng lại Văn gia bảo, sao vong linh chàng không về đấy nương thân?

Tuấn Hạc hoan hỉ phi thường. Suy nghĩ môi lúc rồi nói :

– Nếu nàng không giận ta, sao chẳng về lại Văn gia bảo khói hương? Oan hồn của ta sẽ cùng nàng xúm họp!

Vào thời Minh, Thiên Sư giáo phát triển mạnh nên nhân dân Trung Hoa rất tin vào chuyện ma quỷ! Việc vong hồn chết oan hiện về với người thân được coi là lẽ đương nhiên. Những giai thoại như vậy đã là tiền đề để sau này Bồ Tùng Linh đời Thanh viết tác phẩm Liêu Trai Chí Dị.

Doanh Doanh vui vẻ gật đầu :

– Sáng mai thiếp sẽ thưa lại với mẫu thân rồi cùng bà đến Lư Lăng! Thiếp ở đây cũng chỉ vì được gần gũi phần mộ của chàng mà thôi.

Tuấn Hạc cảm động hôn lên má nàng rồi hỏi :

– Vì sao Doanh muội lại lâm vào cảnh tăm tối này?

Doanh Doanh buồn bã nói :

– Tiểu muội bị tiên phụ phế võ công nên rất yếu ớt. Khi nghe tin tướng công chết trong miệng quái long, tiểu muội ngã lăn ra bất tỉnh, đầu đập mạnh xuống sàn gạch. Lúc tỉnh lại thì đã không còn thấy đường nữa!

Bỗng nàng thẹn thùng nói :

– Thiếp chỉ tiếc một điều là chưa kịp sinh con nối dõi cho tướng công!

Chàng dịu dàng nói :

– Nếu nàng không sợ ta là ma quỷ, phu thê sẽ lại mặn nồng!

Doanh Doanh ôm chặt lấy chàng thủ thỉ :

– Thiếp đâu dám mong được hưởng niềm hạnh phúc ấy!

Nàng run rẩy cởi áo trượng phu, úp mặt vào da thịt lạnh giá kia, cố tìm lấy chút hương xưa. Lát sau, những động tác vuốt ve quen thuộc đã khiến cơ thể nàng nóng lên và khát khao dâng hiến. Bao nhớ nhung dồn cả lại phút giây này, hai người đắm mình trong hoan lạc đến giữa tận canh tư.

Tuấn Hạc bất ngờ điểm huyệt Doanh Doanh, mặc lại y phục cho nàng, sửa sang lại chăn gối rồi trở về khách điếm. Vô Giới hòa thượng đã đến hồi xẩm tối và ở một phòng khác nên không hề hay biết!

Sáng hôm sau, Cổ lão thái thấy Doanh Doanh dậy trễ, liền đến phòng nàng đánh thức :

– Doanh nhi! Con có khỏe không, sao lại ngủ trưa hơn mọi ngày?

Doanh Doanh giật mình ngồi dậy, đưa tay sờ mó chung quanh. Nàng bỗng nhớ rằng hồn ma không thể ở lại ban ngày, quay sang Cổ lão thái, hơn hở nói :

– Mẫu thân! Đêm qua anh linh Tuấn Hạc hiện về sum họp với hài nhi. Chàng bảo rằng con phải về ngay Văn gia bảo vì hồn chàng cũng sẽ về đấy!

Cổ lão thái tin là thực, buồn bã nói :

– Con là dâu họ Văn thì về đấy là phải đạo ta đến đấy sao tiện?

Doanh Doanh ôm bà cầu khẩn :

– Mẫu thân nói tướng công không có lỗi gì trong khi hạ sát phụ thân, sao giờ này lại vì việc ấy mà bỏ rơi hài nhi? Chẳng phải vì phụ thân mà Anh muội chết đấy sao? Hài nhi mù lòa, mẫu thân thì già yếu, không nương nhau mà sống thì còn dựa vào ai được nữa?

Nàng bật khóc thảm thiết khiến Cổ lão thái cũng khóc theo. Bà gật đầu nói :

– Thôi được, màu thân sẽ đi cùng Doanh nhi!

Hai mẹ con gọi Tưởng Thiếu Hà sửa soạn hành lý cáo biệt Tần Hải để về Giang Tây. Sau khi Cổ Thiện Hòa chết, Cổ lão thái giải tán Biến Hình môn nên chẳng còn ai đi theo cả.

Tưởng Thiếu Hà – tứ đệ tử của Thiên Sư giáo chủ – là một nữ lang bị á tật. Nàng khá sinh đẹp và có thân hình gợi cảm. Tưởng Thiếu Hà được Trương giáo chủ thu nhận từ năm mười tuổi và nuôi dưỡng suốt mười lăm năm.

Tích Ngọc Lang Quân là kẻ háo sắc nên thường ức hiếp nàng sư muội tật nguyền. Từ lúc nàng mới lớn, gã đã giở trò bại hoại, sờ mó và chọc ghẹo. Lúc đầu Tưởng Thiếu Hà còn nhẫn nhịn, nhưng sau khi biết rõ lòng dạ gã, nàng nuôi lòng căm hận, phản kháng kịch liệt. Khi Doanh Doanh bị bắt về để kết hôn với Trương Ân Tuấn, Tưởng Thiếu Hà là người chăm sóc nàng nên cảm thông với hoàn cảnh. Sẵn mối thù với Trương Ân Tuấn, Tưởng Thiếu Hà liền cưu mang Doanh Doanh, đưa nàng về Trường An.

Doanh Doanh đã cùng nàng kết nghĩa chị em, thề suốt đời không bỏ nhau. Vì vậy Doanh Doanh về Văn gia bảo thì nàng cũng đi theo! Nàng hóa trang làm gã đánh xe để tránh mặt Thiên Sư giáo!

Khi xe song mã ra đến đường quan đạo thì gặp hai ky sĩ. Đó là một lão hòa thượng to béo và một quái nhân râu tóc vàng hoe. Vô Giới đang oang oang kể tình hình võ lâm cho Mạc Luân biết.

Doanh Doanh nghe tiếng người quen liền bảo Cổ mẫu :

– Mẫu thân thử nhìn người kia xem có phải là một hòa thượng mập mạp hay không?

Cổ lão thái vén rèm nhìn ra, quay lại nói :

– Đúng vậy! Dường như ta đã gặp lão lâu rồi thì phải!

Doanh Doanh mừng rỡ thò đầu ra cửa sổ gọi lớn :

– Đại sư! Tiện nữ là Doanh Doanh đây!

Vô Giới giật mình, phóng ngựa lại, cười ha hả :

– Không ngờ lại gặp được nữ thí chủ ở đây! Bần tăng tưởng đã về Ôn Châu rồi chứ? Bần tăng mới trở lại Trung Nguyên chừng mười ngày nay!

Doanh Doanh vui vẻ hỏi :

– Đại sư đồng hành với ai mà có vẻ tương đắc vậy? Tiểu nữ mù nên chẳng thấy gì cả!

Vô Giới giật bắn mình :

– A Di Đà Phật! Lẽ nào trời già lại tàn nhẫn đến thế sao? Tội nghiệp cho nữ thí chủ! à! Bạn của bần tăng là một gã người Tây Vực tên gọi Mạc Luân!

Doanh Doanh nói tiếp :

– Tiện nữ đang cùng mẫu thân trên đường đến Văn gia bảo!

Vô Giới gật gù :

– Hay lắm! Bần tăng cũng có ý ấy! Chúng ta cùng đồng hành cho vui!

Đến trưa họ ghé vào một trấn giữa đường để dùng bữa. Vô Giới đến tận xe chào Cổ lão thái rồi đỡ hai người xuống.

Quán vắng không có người nên bọn tiểu nhị vui mừng đón tiếp. Cả năm người quây quần quanh một bàn lớn, Vô Giới sang sảng gọi cơm rượu, nghe giọng cũng biết túi lão đầy tiền!

Tưởng Thiếu Hà rất ngạc nhiên và thích thú trước dung mạo của Mạc Luân.

Nàng quên rằng mình giả trai, cầm bàn tay Doanh Doanh viết vào.

– Doanh muội, gã Tây Vực kia rất kỳ lạ mắt gã đen nhưng râu tóc lại vàng hoe!

Doanh Doanh sợ Vô Giới hiểu lầm liền giới thiệu :

– Tiểu nữ quên không nói, người này chính là Tưởng đại thư, ân nhân của tiểu nữ!

Vô Giới bật cười :

– Không nói bần tăng cũng đoán ra! Nam nhân đâu có mông ngực tròn trịa như vậy?

Tưởng Thiếu Hà đỏ mặt lườm lão bằng ánh mắt rất sắc! Vô Giới ngượng ngừng chữa thẹn :

– Thực ra thì cũng chẳng cần hóa trang. Sau khi Văn nhị công tử liều mình ở lăng mộ Tần Thủy Hoàng, Trương giáo chủ đã chính thức ngỏ lời xin lỗi Văn gia bảo và bãi bỏ lệnh truy sát Tưởng Thiếu Hà! Tích Ngọc Lang Quân thì bị quản chế rất chặt chẽ!

Tưởng Thiếu Hà mừng rỡ, lột ngay mặt nạ ra. Nàng ra dấu rằng mang vào rất khó chịu. Vô Giới cười bảo :

– Không ngờ nữ thí chủ cũng là một giai nhân!

Tưởng Thiếu Hà thẹn thùng nhưng rất sung sướng! Doanh Doanh vô tình nói :

– Tiện nữ cùng Tưởng đại thư kết tình tỷ muội, quyết thờ chung một chồng. Nào ngờ Văn tướng công lại ngắn số nên duyên phân không thành!

Vô Giới nhăn mặt :

– Nữ thí chủ có biết Văn thí chú có hai người thiếp ở núi Hoàng Sơn hay không? Sau khi nghe Văn gia bảo bị thiêu hủy, toàn gia thảm tử, Tuấn Hạc đành phải lấy Phương Phương và Mạn Ngọc để có người nối dõi tông đường!

Doanh Doanh không hề ghen tuông mà lại nói :

– Thật là tội nghiệp cho hai chị ấy? Phải chi chị em được đoàn tụ ở Văn gia bảo, cùng thờ phụng tướng công! Nghe nói Ôn đại thư đã có mặt ở Lư Lăng từ lâu rồi! Không hiểu Thiền ông có phục hồi được dung mạo cho chị ấy không?

Vô Giới thở dài :

– Giờ đây, Văn thí chủ đã qua đời, có xinh đẹp như cũng cũng chẳng có ai thưởng thức nữa!

Bỗng lão gãi đầu lẩm bẩm :

– Nếu Tuấn Hạc còn sống chẳng phải đã có đến ba người vợ tật nguyền sao? Người thì mù, người thì câm, người thì mặt nạm!

Mạc Luân ngồi sát bên nên nghe rất rõ, giả vờ như không để ý, nhìn ra ngoài cửa quán! Cổ Lão thái buồn rầu nói :

– Lão thân chỉ có mình Doanh nhi, muốn tìm danh y chữa trị đôi mắt cho nó mà không biết chỗ!

Vô Giới vô đùi cười ha hả :

– Chẳng lẽ lão thí chủ không biết rằng dưới chân ngọn núi Ly Sơn có một bậc đệ nhất thần y hay sao? Tuy lão hơi ham tiền một chút nhưng tài y đạo đáng xưng quốc thủ!

Cổ lão thái bối rối :

– Lão thân đã đem gia sản ra chia cho các đệ tử Biến Hình môn để họ có vốn mưu sinh, nếu vị thần y kia đòi nhiều quá chắc không kham nổi! Hay là để về Lư Lăng cầu cứu Văn đại công tử xem sao?

Vô Giới gãi đầu, liếc gã tóc vàng rô nói :

– Chiều qua bần tăng mới quyên được hơn ngàn lượng bạc, chắc cũng không đến nỗi thiếu thốn!

Mạc Luân cất tiếng khàn khàn :

– Lão thái yên tâm, vãn bối đem theo mấy vạn lượng vàng, xin được góp một tay để giúp tiểu thư chữa trị!

Vô Giới chụp lấy ngay :

– Phải lắm, phải lắm! Mạc thí chủ đây có quá nhiều vàng, xài đến suốt đời cũng không hết được, mong lão thí chủ đừng từ chối?

Cổ lão thái ngượng giọng nói :

– Chúng ta chỉ là những kẻ sơ giao, lão thân không dám lạm dụng lòng tốt của túc hạ!

Vô Giới xua tay :

– Cứ đến gặp lão Thiên Kim Hồi Xuân Thủ Tống Kỳ rồi sẽ tính sau!

Lão gọi tiểu nhị tính tiền rồi dẫn đường cho xe song mã đến Ly Sơn cách đấy vài dặm. Trên đường đi, Doanh Doanh không dằn được tính hiếu kỳ liền hỏi Vô Giới :

– Đại sư! Vì sao thần y họ Tống kia lại có danh hiệu Thiên Kim Hồi Xuân Thủ?

Vô Giới cười khanh khách :

– Lão ta mê vàng hơn bất cứ thứ gì trên đời lại thường rêu rao rằng ai có ngàn lượng vàng ròng đem đến, lão sẽ trả lại tuổi xuân cho họ!

Chỉ vào khắc sau đoàn người đã đến nhà của Tống đại phu. Ngay cả cái tên Lão gọi tiểu nhị tính tiền rồi dẫn đường cho xe song mã đến Ly Sơn cách đấy vài dặm. Trên đường đi, Doanh Doanh không dằn được tính hiếu kỳ liền hỏi Vô Giới :

– Đại sư! Vì sao thần y họ Tống kia lại có danh hiệu Thiên Kim Hồi Xuân Thủ?

Vô Giới cười khanh khách :

– Lão ta mê vàng hơn bất cứ thứ gì trên đời lại thường rêu rao rằng ai có ngàn lượng vàng ròng đem đến, lão sẽ trả lại tuổi xuân cho họ!

Chỉ vào khắc sau đoàn người đã đến nhà của Tống đại phu. Ngay cả cái tên cũng sặc mùi vàng. Thiên Kim sơn trang.

Tống lão xem vàng như tính mạng nên rất bủn xỉn, keo kiệt. Vì thế, cơ ngơi của lão xập xệ cũ kỹ, chẳng hề xứng với cái tên “ngàn lượng vàng” chút nào cả! Với tình trạng này dẫu có bán mười lượng cũng chẳng có ai mua!

Giới hắc đạo Thiểm Tây cũng có ý dòm ngó tài sản của Tống thần y nhưng không dám mò vào nhà lão. Ngoài tài chữa bệnh, Tống Kỳ còn là một đao thủ bản lãnh cao cường. Mười gã đệ tử trong sơn trang cũng thuộc hàng cao thủ nhị lưu! Họ theo học võ và học luôn cả nghề thuốc!

Thấy khách đến, một thiếu nữ chạy ra đón tiếp :

– Mời chư vị vào trong, gia sư đang rảnh rỗi.

Vô Giới cười khà khà :

– Té ra Tống lão đang ế khách!

Có tiếng già nua vọng ra :

– Hòa thượng chết tiệt kia! Lão phu dầu ế khách cũng chẳng bao giờ chịu chữa không công cho lão lần nữa đâu!

Vô Giới cười vang :

– Tống thí chủ yên tâm! Lần này bần tăng dẫn mối hời đến cho lão đây!

Một lão nhân thấp bé bước ra, thấy có lách thực, hoan hỉ nói :

– Xin mời! Xin mời!

Năm người theo lão bước vào phòng khách. Nơi đây cũng chỉ có một bàn tròn dành cho khách ngồi đợi và một chiếc bàn nhỏ để lão chẩn mạch, khám bệnh.

Tống lão cao giọng :

– Xuân nhi! Pha trà đãi khách!

Thực ra, khách có ngồi đến mỏi lưng cũng chẳng bao giờ có ai bưng trà lên cả!

Suốt đời Tống Kỳ chỉ lấy của người chứ không cho, dù chỉ là một chung trà.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.