Vào thời Đường, tị hiềm nam nữ không được coi trọng bằng các thời đại sau, nhất là đối với các nhân vật trên giang hồ, chuyện nam nữ qua lại càng được xem là chuyện bình thường. Do đó, Đoàn Khắc Tà mới dám tiến thẳng vào nội viện dành cho nữ quyến như vậy.
Mặc dù vậy, theo như lễ mạo thì một nam tử không nên tùy tiện xông vào khuê phòng của nữ nhân. Đoàn Khắc Tà lại không biết Sử Triêu Anh ngụ tại nơi nào, nếu như gõ cửa khắp nơi để hỏi thăm thì lại sợ mọi người đàm tiếu, trong lòng chàng đang rất phân vân.
Trụ sở bí mật này của bọn họ nguyên là sản nghiệp của một vạn hộ hầu bị lụn bại, con cháu không thể giữ được nên phải mang bán. Bên trong tường bao chiếm đến vài mẫu đất, có mấy chục gian phòng, tiền hậu còn có hai tòa hoa viên. Nữ quyến cư ngụ bên trong nội viện, chiếm phần lớn hậu hoa viên, phòng ốc chằng chịt xen kẽ giữa các hòn giả sơn, cây cối.
Nhưng hiện tại nội viện lại rất tĩnh mịch, ước chừng bởi vì lúc này đang là giờ cơm tối, các nàng đều vào phòng dùng bữa. Đoàn Khắc Tà lững thững tản bộ, chàng hy vọng bắt gặp một ai đó để hỏi thăm nơi ở của Sử Triêu Anh. Thế nhưng đi một hồi vẫn không gặp ai, bất tri bất giác chàng đi đến một góc của hậu hoa viên, ở đó lẻ loi một gian phòng, chợt chàng nghe thấy tiếng Sử Triêu Anh.
Đoàn Khắc Tà mừng rỡ, nghĩ bụng: “Thế này không cần phải hỏi nữa nhưng không biết là ai đang ở trong phòng nàng?” Đúng lúc này, chàng nghe thấy thanh âm của một nam tử cười nói:
“Ta vẫn nghĩ là nàng thích Đoàn Khắc Tà chứ, chẳng lẽ lại không phải như vậy?”
Âm thanh rất nhẹ nhưng Đoàn Khắc Tà nghe rõ ràng đây là tiếng của Mưu Thế Kiệt.
Đoàn Khắc Tà vừa kinh ngạc lại vừa thấy bất an. Mưu Thế Kiệt là người chàng tôn kính như huynh trưởng, không ngờ lại đang ở trong phòng nàng, dùng giọng điệu suồng sã nói chuyện, hơn nữa lại đề cập đến chàng! Đoàn Khắc Tà vốn muốn gõ cửa nhưng bất giác lại dừng chân.
Sử Triêu Anh nói:
“Không nói gạt huynh, lúc đầu ta cũng có điểm thích hắn nhưng khi đã nhìn thấu con người hắn thì ta lại thất vọng, không còn hứng thú với hắn nữa”.
Mưu Thế Kiệt hỏi:
“Có phải bởi vì y đã có ước định hôn sự nên nàng thất vọng phải không?”
Sử Triêu Anh đáp:
“Ước định với không ước định, điều này thực tế chẳng quan trọng, ta thích hắn không nhất định phải gả cho hắn, đáng tiếc hắn hoàn toàn không phải anh hùng hào kiệt trong lòng ta!”
Mưu Thế Kiệt lại hỏi:
“Trong lớp người trẻ tuổi, võ công của Khắc Tà không ai sánh kịp, sao nàng lại nói y không phải là anh hùng hào kiệt?”
Sử Triêu Anh đáp:
“Hắn không ôm chí lớn, trẻ người non dạ, nói thẳng ra chỉ là một đứa nhỏ không đủ để cộng mưu, võ công cao thì có tác dụng gì!”
Mưu Thế Kiệt thấp giọng hỏi:
“Trong mắt nàng, ai là anh hùng hào kiệt?”
Sử Triêu Anh nũng nịu cười đáp:
“Cái này còn phải nói, đương nhiên là huynh rồi!”
Mưu Thế Kiệt cười nói:
“Điều này khiến cho ta được tâng bốc mà thấy lo sợ!”
Âm thanh của Sử Triêu Anh càng nhỏ, nhỏ đến mức Đoàn Khắc Tà phải ngưng thần lắng tai mới mơ hồ nghe được vài câu, “Ca ca ta còn có ba vạn thiết kỵ…. Hề tộc là địa phương địa hình hiểm trở, có thể công có thể thủ…. phần lễ vật này của ta chỉ cần huynh nhận thì nó sẽ là của huynh….Huynh đã định chủ ý chưa? Ừm, mà huynh thực sự thích ta hay chỉ giả vờ?”
Âm thanh của Mưu Thế Thế Kiệt hơi cao lên, tự thị đã hạ quyết tâm, y nói:
“Đại trượng phu một lời đã quyết, há còn trù trừ, chủ ý của ta đương nhiên đã định rồi! Triêu Anh, nàng thực sự là hảo trợ thủ của ta, từ tận đáy lòng, ta thực tâm thích nàng!”
Đoàn Khắc Tà đứng ở bên ngoài, trong khi vô ý nghe được bọn họ bộc lộ tư tình, bất tri bất giác trong lòng chấn động, thần tình mờ mịt, trong đầu là một mảng hỗn loạn.
Qua một hồi lâu, tâm thần hơi ổn định lại, lúc này chàng mới có thể xâu chuỗi sự kiện, “Mưu đại ca yêu thích Sử cô nương? Là chuyện gì thế này? Điều này quả thực không thể tưởng tượng nổi! Niếp Ẩn Nương đâu? Trong lòng Mưu đại ca chẳng lẽ không có tỷ ấy? Người người đều cho rằng bọn họ sớm đã tâm đầu ý hợp, Ma Lặc biểu ca còn nhất tâm nhất ý tác hợp mối nhân duyên cho bọn họ, chẳng lẽ người ngoài cuộc đều đã nhìn lầm rồi sao? Hay là Mưu đại ca thấy mới nới cũ, phụ tình bạc nghĩa? Mưu đại ca là võ lâm Minh chủ, người người kính trọng, ôi, sao lại có thể như vậy được? Sử cô nương nói là lễ vật gì? À, hay là Mưu đại ca thấy ba vạn binh mã của ca ca cô ta nên muốn cùng cô ta mưu đồ đại sự? Đại sự gì đây? Mưu đại ca muốn làm Hoàng đế sao? Huynh ấy nói phải hạ quyết tâm gì đó là chỉ việc gì? Là huynh ấy quyết tâm không thương Ẩn Nương tỷ tỷ nữa sao?”
Mưu Thế Kiệt đột nhiên quát:
“Ai ở bên ngoài?”
Nguyên lại Đoàn Khắc Tà thân mình rúng động, trong lúc vô ý đã chạm phải khuyên cửa. May mà chàng chạm phải khuyên cửa, nên Mưu Thế Kiệt và Sử Triêu Anh chỉ cho rằng có người gõ cửa chứ chưa nghi ngờ chàng nghe lén chuyện. Đoàn Khắc Tà đáp:
“Là đệ”.
Trong lòng chàng thầm nghĩ, “Chà, chuyện giữa nam nữ vốn rất khó nói, ta cùng với Nhược Mai mới sinh ra đã đính ước hôn nhân mà cũng còn rắc rối đến như vậy, huống hồ là huynh ấy và Ẩn Nương. Sử cô nương không thích ta! Đây chẳng phải là bớt phiền toái cho ta sao? Ta hà tất phải đi quản chuyện riêng của bọn họ? Mưu đại ca luôn tốt với ta, ta vẫn nên kính trọng huynh ấy như huynh trưởng”. Mặc dù chàng nghĩ vậy song thanh âm bất giác cũng hơi nhẹ run.
Mưu Thế Kiệt bước ra mở cửa, y lấy làm lạ hỏi:
“Nguyên lai là đệ, có chuyện gì vậy? Tìm ta hay tìm Sử cô nương?”
Đoàn Khắc Tà thành thật đáp:
“Đệ đến tìm Sử cô nương”.
Mưu Thế Kiệt miễn cưỡng cười hỏi:
“Ta có thể nghe được không? Hay là cần ta phải lánh đi?”
Sử Triêu Anh cũng thoáng rúng động, nghĩ bụng:
“Suốt dọc đường đi hắn đều sợ ta đeo bám, sao hôm nay lại đột nhiên đến tìm ta? Chẳng lẽ trước đây là hắn cố ý giả bộ như vậy, kỳ thật trong lòng cũng có tình ý với ta, ôi, chỉ là đã muộn mất rồi”.
Đoàn Khắc Tà chợt cảm thấy một cơn khó chịu, chàng bực dọc nói:
“Đệ không phải đến nói chuyện riêng tư, đệ chỉ muốn nói cho Sử cô nương biết một chuyện, nói xong sẽ đi ngay”.
Sử Triêu Anh mỉm cười hỏi:
“Chuyện gì, ngươi nói đi, cũng không cần nói xong rồi đi luôn”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Hôm nay ta gặp một nữ tử mãi võ, xem ra là đồng môn tỷ muội của cô”.
Sử Triêu Anh lộ thần sắc kinh ngạc, vội vàng hỏi:
“Là người thế nào, vì sao ngươi biết đó là đồng môn của ta?”
Đoàn Khắc Tà mang chuyện hôm nay kể lại, Sử Triêu Anh nhãn châu đảo tới đảo lui, hiển nhiên là vô cùng kinh ngạc, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới nói:
“Nói như vậy, quả nhiên là sư tỷ ta đã tới”.
Đoàn Khắc Tà hỏi:
“Sao trước đây cô không nói cho ta biết?”
Chợt thấy ánh mắt của Mưu Thế Kiệt nhìn qua, Đoàn Khắc Tà thoáng đỏ mặt, mới thấy hối hận, chàng nghĩ bụng: “Sao ta lại lỡ lời hỏi mấy câu như vậy? Chuyện của cô ta há có thể nhất nhất đều phải nói cho ta biết hay sao? Ta hỏi như vậy thực khiến cho Mưu đại ca hiểu lầm”.
Sử Triêu Anh đáp:
“Vị sư tỷ này, ta cũng chưa từng gặp mặt. Ta chỉ biết có một người tỷ như vậy nhưng không biết mặt cho nên khi không có chuyện cũng không nhớ đến nàng, không nhớ đến thì đương nhiên không đề cập với ngươi rồi”.
Khuôn mặt nàng tươi cười, nói năng duyên dáng, phong thái hào sảng, giải thích cũng thật hợp tình hợp lý, không có chút nào khó chịu vì câu hỏi của Đoàn Khắc Tà. Bộ dạng nhẹ nhàng mềm mỏng như vậy khiến cho tình cảnh lúng túng của Đoàn Khắc Tà cũng được giải trừ.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Hành tung của ta đã bị lão ưng khuyển Dương Mục Lao phát giác, mong đại ca cận thận, đề phòng nhiều hơn”.
Mưu Thế Kiệt dường như lại xem thường, y hờ hững đáp:
“Được, ta biết rồi”.
Đoàn Khắc Tà muốn cáo từ, Sử Triêu Anh đột nhiên hỏi:
“Khắc Tà, ngươi có nghĩ ra vì sao sư tỷ ta muốn tỷ võ chiêu thân không?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Làm sao mà ta biết được?”
Mưu Thế Kiệt cười nói:
“Để ta đoán xem. Ta đoán sư tỷ nàng muốn chiêu thân chính là cho nàng!”
Đoàn Khắc Tà không hiểu được ý tứ, bất giác ngạc nhiên, chàng nghĩ, “Vậy là có ý tứ gì, tỷ muội chiêu thân thế nào, hai nàng làm sao mà thành hôn phối được?”
Sử Triêu Anh gật đầu nói:
“Không sai, ta cũng nghĩ như vậy. Ta không biết mặt nàng ta nhưng võ công của nàng ta thì có thể nhận ra được. Nàng ta dựng cờ tỷ võ chiêu thân, lại ngay trước ngày anh hùng đại hội triệu khai, tất nhiên sẽ làm kinh động cả kinh thành, sớm muộn gì ta cũng biết, nói không chừng ta sẽ đến xem nháo nhiệt nữa”.
Đoàn Khắc Tà chợt hiểu ra:
“À, nguyên lai là nàng ta dùng biện pháp này để tìm cô”.
Sử Triêu Anh nói:
“Nhất định là trên đường nàng ta gặp được sư phụ, biết ta đã đến kinh sư, tâm tư của nàng cũng linh hoạt như vậy, nghĩ ra biện pháp đặc biệt này để dẫn dụ ta”.
Mưu Thế Kiệt cười nói:
“Nếu như không dùng biện pháp này, làm sao nàng ta có thể mặc sức hiển lộ võ công? Các người gặp nhau thì làm sao biết được là đồng môn? Cho nên biện pháp này mặc dù có điểm mạo hiểm nhưng thực sự là rất tuyệt diệu!”
Đoàn Khắc Tà lòng dạ trong sáng vô tư, thấy Mưu Sử hai người đối với chàng như bình thường, chàng cũng dần dần vui vẻ cười nói như xưa. Chàng nói:
“Nếu thực sự có nam tử đánh bại nàng ta, lấy được cờ tỷ võ chiêu thân, khi đó phải làm sao?”
Sử Triêu Anh cười đáp:
“Nếu thực sự có một anh hùng như vậy, nàng ta lại hợp ý, thì gả cho hắn không tốt sao, chẳng phải cầu mà không được sao?”
Sử Triêu Anh tay chống cằm, dường như có điều suy tư, nàng ngừng một chút rồi lại nói tiếp:
“Trở lại câu chuyện, nàng ta phải dùng đến biện pháp này, bất kể bị người đời đàm tiếu, xuất đầu lộ diện tìm ta, nhất định là có sự tình khẩn yếu. Chà, nàng ta nghĩ đến như vậy, ta lại không tiện đi lung tung tìm nàng”.
Nói đến đây chợt nàng đứng dậy bước đến trước mặt Đoàn Khắc Tà, kéo áo bái chàng một lễ rồi nói:
“Khắc Tà, chuyện này phải nhờ ngươi giúp đỡ rồi”.
Đoàn Khắc Tà hoàn lại một lễ rồi nói:
“Ngươi sao lại trở nên khách khí như vậy?”
Sử Triêu Anh tiếp:
“Ngươi đã biết mặt sư tỷ ta, xin nhờ ngươi tìm nàng đến cho ta có được không?”
Hành tung của Đoàn Khắc Tà vừa mới bị phát giác, vốn dĩ không muốn đi ra ngoài nhưng chàng từ nhỏ đã nghĩa hiệp, thích giúp đỡ người khác, huống hồ chàng với Sử Triêu Anh lại từng có một đoạn giao nghị không tầm thường, bây giờ Sử Triêu Anh trịnh trọng khẩn cầu, Đoàn Khắc Tà không suy nghĩ mà trả lời ngay:
“Chút việc nhỏ, cần gì phải trịnh trọng. Ta sẽ tìm giúp nàng đến cho cô”.
Mưu Thế Kiệt chân mày thoáng động, tựa hồ muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi.
Sử Triêu Anh nói:
“Sư tỷ ta tên gọi Long Thành Hương, nếu ngươi tìm được nàng, thì hãy đưa nàng về đây. Lão đầu kia là nghĩa phụ của nàng, cũng không cần phải đi cùng nàng”.
Đoàn Khắc Tà đáp ứng xong liền cáo từ Mưu Thế Kiệt, Mưu Thế Kiệt nói:
“Được, đệ cần chú ý cẩn thận nhiều hơn nữa”.
Lời nói rất chí thiết, trong lòng Đoàn Khắc Tà rất lấy làm cảm kích: “Mưu đại ca dù sao vẫn luôn coi ta là huynh đệ”.
* * * * *
Đoàn Khắc Tà bước ngang qua hòn giả sơn phía trước gian phòng, còn chưa ra khỏi hậu hoa viên, trong sương chiều nhạt nhòa chợt thấy một người hối hả bước đến. Hai người đụng đầu nhau, đều kêu lên một tiếng “ai chà”, đồng thời dừng bước, một người gọi “biểu đệ”, một người gọi “biểu ca”. Người này đúng là Thiết Ma Lặc.
Đoàn Khắc Tà mừng rỡ nói:
“Biểu ca, huynh đã đến. Đệ đang mong huynh đây!”
Thiết Ma Lặc cũng rất cao hứng nhưng sau khi y gọi một tiếng “Biểu đệ” liền chỉnh sắc mặt gặng hỏi:
“Khắc Tà, nghe nói đệ cùng đồng hành với một vị Sử cô nương, là con gái của Sử Tư Minh phải không?”
Đoàn Khắc Tà đỏ bừng mặt, chàng nói:
“Biểu ca, cái này, cái này….”
Nhất thời chàng không biết phải giải thích ra sao. Thiết Ma Lặc nói:
“Bây giờ ta không có thời gian để hỏi đến chuyện của đệ, tạm thời hoãn lại. Trước tiên ta hỏi đệ, vị Sử cô nương kia đang trú ngụ ở đây à?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Đúng vậy, nhân vì…”
Thiết Ma Lặc cắt ngang lời chàng:
“Đệ không cần vội vàng phân biện với ta, sau này ta nói chuyện với đệ. Mưu Thế Kiệt cũng đang ở chỗ cô nương đó đúng không?”
Thiết Ma Lặc đột nhiên đề cập đến Mưu Thế Kiệt, Đoàn Khắc Tà cảm thấy có điểm kỳ quái, chàng nghĩ bụng: “Biểu ca vừa mới đến làm sao lại biết tới phòng Sử cô nương mà tìm Mưu đại ca?” Chàng liền đáp:
“Không sai, Mưu đại ca đang ở đó”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Không cần làm kinh động đến người khác, đệ dẫn đường cho ta, ta có chuyện khẩn yếu cần thương lượng cùng Thế Kiệt”.
Đoàn Khắc Tà nghĩ bụng, “Tìm giúp sư tỷ cho Triêu Anh, muộn một chút cũng không quan hệ gì”.
Lập tức chàng dẫn đường cho Thiết Ma Lặc quay lại trước cửa phòng Sử Triêu Anh. Sử Triêu Anh hỏi:
“Khắc Tà, sao ngươi lại quay lại?”
Nàng vừa mở cửa, nhìn thấy Thiết Ma Lặc thì bất giác ngẩn người ra.
Mưu Thế Kiệt thấy Thiết Ma Lặc xuất kỳ bất ý đến đột ngột như vậy thực rất bất ngờ nhưng vẫn rất cao hứng bước đến nghênh tiếp Thiết Ma Lặc, y cười nói:
“Thiết đại ca, huynh đến vừa hay, ngày mai là hội kỳ, đệ còn lo huynh không đến kịp. Vị này là Sử cô nương, Khắc Tà và nàng cùng đến đây, bây giờ đã là người của mình”.
Sử Triêu Anh bước lên vén vạt áo lạy thưa rằng:
“Ngưỡng mộ anh danh của Thiết trại chủ đã lâu, tiểu nữ Sử Triêu Anh xin bái kiến”.
Thiết Ma Lặc xua xua tay:
“Không dám nhận, xin mời đứng dậy”.
Sử Triêu Anh vốn đang chờ bắt chuyện với y nhưng thấy thần tình Thiết Ma Lặc lãnh đạm, trong lòng ấm ức, cũng không dám nói nhiều nữa.
Thiết Ma Lặc nói:
“Mưu hiền đệ, đệ là Minh chủ, ta có chuyện muốn thỉnh giáo đệ”.
Mưu Thế Kiệt đáp:
“Đại ca, chức Minh chủ này của đệ là dựa vào hổ uy của huynh. Chúng ta là huynh đệ, sao huynh lại khách khí với đệ vậy. Thỉnh đại ca cứ phân phó!”
Thiết Ma Lặc hai gót chân bước qua lại nhưng không lên tiếng, Mưu Thế Kiệt nói:
“Sử cô nương là người mình”.
Thiết Ma Lặc phân phó:
“Tốt, Sử cô nương, ta mượn phòng của cô để bàn chuyện với Mưu minh chủ. Khắc Tà, đệ không có chuyện gì ở đây hãy lui ra đi”.
Mặc dù Thiết Ma Lặc chỉ bảo Khắc Tà lui ra nhưng ý tứ cũng rất rõ ràng, là không muốn có Sử Triêu Anh ở bên cạnh chen vào.
Sử Triêu Anh nói:
“Thiết trại chủ, huynh vừa mới đến còn chưa dùng bữa, ta đi làm vài món ăn cho huynh”.
Thiết Ma Lặc xua đi:
“Không cần phải khách khí”.
Sử Triêu Anh cười mà rằng:
“Thiết trại chủ hiềm ta nấu ăn không ngon sao? Trên đường ta cũng thường nấu ăn cho Khắc Tà đó”.
Thiết Ma Lặc thay đổi khẩu khí, trầm ngâm một chút rồi y nói:
“Ừ, cũng tốt. Bất quá, cũng không cần dọn lên sớm. Chờ, chờ…”
Sử Triêu Anh cười:
“Cũng không cần hạn định thời gian, ta nấu ăn căn bản chậm lắm. Không bằng như vậy đi, khi nào hai người bàn chánh sự xong rồi thì kêu người đến phòng bếp nói cho ta hay, nếu như ta đã nấu xong thì sẽ dọn lên liền”.
Thiết Ma Lặc nghĩ thầm: “Vị Sử cô nương này quả nhiên thông minh lanh lợi, cô ta muốn mượn cớ tránh đi mà không gượng gạo một chút nào”, lập tức theo lễ mạo, y liền nói:
“Như vậy, xin đa tạ Sử cô nương trước”.
Sử Triêu Anh nói:
“Trước tiên để ta pha cho các người một bình trà ngon, rồi sẽ kêu người mang đến”.
Đoàn, Sử hai người ra ngoài, Sử Triêu Anh le lưỡi nói:
“Biểu ca của ngươi thật lợi hại, thực sự khiến người khác không dò xét được ý tứ. Từ lúc y bước vào cửa đến giờ, trên mặt không hiện một nét cười nào”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Kỳ thật biểu ca của ta là người bình dị dễ gần, có lẽ là do lần đầu thấy cô, hai bên chưa từng quen biết, cho nên cô cảm giác huynh ấy khó gần gũi”.
Sử Triêu Anh cười nói:
“Cũng may là ta không nghĩ đến chuyện thân cận với y. Khắc Tà, chuyện của ta cầu xin ngươi hết sức giúp cho. Ờ, mà trời cũng không còn sớm nữa”.
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Được, ta lập tức đi nghe ngóng cho cô”.
Đoàn Khắc Tà đoán rằng đến hơn phân nửa là nữ tử mãi võ lúc này không còn ở trước Tuyên Vũ Môn nữa, bất quá cũng chỉ có thể đến đó để nghe ngóng tin tức của nàng. Lập tức chàng chọn một con hẻm nhỏ mà đi. Suốt dọc đường tâm sự như sóng triều, chàng chỉ cảm thấy tao ngộ trong một ngày nay mọi chuyện đều xảy ra ngoài ý liệu. Nghĩ mãi lại nghĩ đến thái độ vừa rồi của Thiết Ma Lặc đối với Sử Triêu Anh, chàng nghĩ bụng, “Cứ theo cách làm người thường ngày của biểu ca thì đối với bằng hữu mới gặp mặt cũng không có bộ dạng lãnh đạm như vậy. Ờ, mà ước chừng biểu ca cũng coi nàng ta là yêu nữ. Cũng may mà giữa ta và nàng ta không có đến nửa điểm tư tình, để lâu dần rồi biểu ca cũng sẽ minh bạch”.
Chàng lại liên tưởng, “Nếu như biểu ca minh bạch người trong lòng Sử Triêu Anh là Mưu đại ca mà không phải là ta thì không biết huynh ấy sẽ thế nào nhỉ? Huynh ấy không tiện trách cứ Mưu đại ca, nhưng chỉ sợ sẽ thầm vì Niếp Ẩn Nương mà khó chịu”. Thiết Ma Lặc có khó chịu hay không thì chưa biết, nhưng bản thân chàng đúng là đã vì Niếp Ẩn Nương mà thấy khó chịu thay.
Chàng đang suy nghĩ liên miên, đột nhiên từ con hẻm bên cạnh có người vọt ra, thấp giọng gọi:
“Đoàn hiền điệt, là cháu à?”
Lúc này trời đã mờ tối, trên hẻm nhỏ không có một bóng người. Dựa theo ánh đèn hắt ra từ các căn hộ hai bên hẻm, chàng thấy một trung niên mặc trang phục lang trung giang hồ, một thân thanh bào, râu dài phất phới, trên lưng mang một hòm thuốc. Đoàn Khắc Tà vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ hỏi:
“Đỗ thúc thúc, thúc cũng đã tới à? Sao lại không đi đường lớn?”
Người kia chính là hảo hữu sanh tiền của phụ thân chàng, là quân sư của Kim Kê lĩnh – Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh.
Đỗ Bách Anh nói:
“Con đường thông qua trước cửa Tuyên Vũ Môn có rất nhiều quan binh tuần tra, không biết có chuyện gì. Cho nên ta mới lánh vào con hẻm này”.
Đoàn Khắc Tà giật mình kinh hãi, chàng nghĩ bụng, “Đường này không thông được thì biết đến đâu để nghe ngóng tin tức của hai cha con họ?” Không ngờ Đỗ Bách Anh mới nói ra lại khiến cho chàng càng thêm bối rối.
Đoàn Khắc Tà còn chưa nói cho Đỗ Bách Anh biết mục đích chuyến đi này, Đỗ Bách Anh đã cướp lời hỏi:
“Cháu từ hoa viên Hầu gia ra đây phải không?”
Hoa viên Hầu gia chính là tên gọi nơi cư ngụ bí mật, Đoàn Khắc Tà liền gật gật đầu. Chỉ thấy thần tình của Đỗ Bách Anh hoảng hốt khôn xiết, lão lập tức vội vàng hỏi ngay:
“Khi cháu ra đây, biểu ca của cháu đã đến chưa?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Đã đến rồi”.
Đỗ Bách Anh lại hỏi:
“Các ngươi có gặp nhau không?”
Đoàn Khắc Tà lại đáp:
“Có gặp qua”.
Đỗ Bách Anh tiếp tục truy vấn:
“Là biểu ca cháu muốn cháu ra ngoài à?”
Đoàn Khắc Tà nói:
“Không phải, tiểu điệt có chuyện khác”.
Đỗ Bách Anh toàn thân chấn động, lão vội vàng nói:
“Sao ngươi không theo bên biểu ca ngươi? Nhanh quay trở về, nhanh quay trở về! Ngươi có chuyện lớn bằng trời, lúc này cũng phải gác lại!”
Đoàn Khắc Tà thấy quái lạ không hiểu chuyện gì, chàng hỏi:
“Đỗ thúc thúc, thúc sợ chúng ta xảy ra chuyện hay sao. Lại là quan quân…?”
Đỗ Bách Anh ngắt lời chàng mà nói:
“Ta không sợ quan quân phát hiện ra nơi cư trú của chúng ta, ngươi nên biết ‘ngoại địch dễ chống, nội địch nan phòng’!”
Đoàn Khắc Tà thất kinh, chàng liền vội hỏi:
“Đỗ thúc thúc, lời này của thúc là có ý gì?”
Đỗ Bách Anh giậm chân nói:
“Ta nói toạc ra với ngươi, là ta sợ biểu ca ngươi sẽ trúng độc thủ của Mưu Thế Kiệt!”
Lời vừa mới nói, tựa như sét nổ giữa trời quang, khiến Đoàn Khắc Tà hoảng hốt vô cùng. Nếu như lời này không phải do Đỗ Bách Anh nói thì nhất định chàng đã mở miệng mắng chửi rồi.
Đoàn Khắc Tà nghi hoặc cực độ, chàng nói:
“Mưu đại ca sao có thể như vậy được?”
Đỗ Bách Anh bảo:
“Lòng người khó đoán. Hơn nữa, cho dù Mưu Thế Kiệt không muốn hạ độc thủ, chỉ sợ thuộc hạ của hắn cũng sẽ ngầm hạ độc thủ!”
Lão một mặt nói, một mặt đã kéo Đoàn Khắc Tà chạy quay ngược trở lại. Đoàn Khắc Tà hỏi:
“Đỗ thúc thúc, sao thúc lại cho rằng Mưu đại ca bọn họ sẽ hạ độc thủ?”
Phải biết Đoàn Khắc Tà đối với Mưu Thế Kiệt luôn một mực tôn kính, ngay cả lời của bạn chí thân với phụ thân chàng lúc sanh tiền là Đỗ Bách Anh, chàng cũng không dám tin ngay. Đỗ Bách Anh nói:
“Hai hổ khó đứng chung. Biểu ca ngươi mặc dù lòng dạ vô tư trong sáng nhưng khó tránh Mưu Thế Kiệt không có đố kị. Mặc dù Mưu Thế Kiệt là Minh chủ nhưng thực ra trong giới lục lâm danh vọng lại không bằng biểu ca ngươi”.
Đoàn Khắc Tà trầm ngâm không nói, chàng nghĩ, “Chỉ sợ đây là lấy bụng tiểu nhân đo lòng người quân tử”. Thế nhưng lời này chàng không dám nói ra. Đỗ Bách Anh lại bảo:
“Lòng dạ Mưu Thế Kiệt rất thâm sâu, mặc dù bình thường đều tôn kính biểu ca ngươi nhưng chỉ sợ đến khi lợi hại quan đầu, hắn sẽ chẳng khách khí nữa”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Biểu ca tiểu điệt và y thì có xung đột lợi hại gì?”
Đỗ Bách Anh đáp:
“Ta chỉ biết biểu ca ngươi đến gặp Mưu Thế Kiệt là muốn ngăn cản hắn làm một chuyện gì đó, nội tình tường tận thế nào ta cũng không rõ”.
Đoàn Khắc Tà nghĩ lại biểu ca chàng khi vừa mới gặp Mưu Thế Kiệt thì thần tình quả nhiên là khác thường, trong lòng chàng không khỏi thắc thỏm bất an. Đỗ Bách Anh giục:
“Khinh công của ngươi cao hơn ta, ngươi hãy nhanh đi trước đi. Chỉ mong chưa xảy ra chuyện gì không may!”
Đoàn Khắc Tà một mạch phóng về trụ sở, trong lòng nghĩ: “Chuyện chưa biết có hay không, ta cũng không nên quá kinh hãi hốt hoảng khiến mọi người chê cười. Bọn họ hai người bàn luận trong phòng kín, ta chỉ có thể tránh vào chỗ khuất, âm thầm bảo hộ biểu ca”.
Chủ ý đã định, chàng liền không tiến vào cửa chính mà thi triển tuyệt đỉnh khinh công vượt qua tường phía sau hậu hoa viên mà vào.
Gian phòng của Sử Triêu Anh ở một góc hậu hoa viên, mặt bên vừa khéo có một cây đại thụ cành lá rậm rạp, Đoàn Khắc Tà lặng lẽ nhún mình bay lên ngọn cây không một tiếng động, từ trên cao nhìn xuống, theo thiên song mà nhòm vào, tình hình bên trong phòng đều thấy rõ ràng.
Trong phòng, dường như Mưu,Thiết hai người đang lúc tranh luận, Thiết Ma Lặc chắp tay sau lưng đi vòng qua vòng lại, Đoàn Khắc Tà biết đó là thói quen của y, mỗi khi gặp sự tình trọng đại cần cân nhắc y đều bất giác tự chắp tay loay hoay như vậy. Chợt thấy Thiết Ma Lặc bước đến trước mặt Mưu Thế Kiệt lớn tiếng nói:
“Không được!”
Mưu Thế Kiệt thoáng ngẩn người, y lập tức gấp gáp hỏi:
“Sao lại không được? Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, há có thể bỏ qua? Đệ đã bố trí đầy đủ rồi”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Đệ cho là phái một đội huynh đệ là có thể công hãm được hoàng cung, sanh cầm lão Hoàng đế sao!”
Mưu Thế Kiệt cười phân tích:
“Ngày mai anh hùng đại hội của Tần Tương khai trường, tướng lĩnh vũ lâm quân và hơn nửa quan trung thị vệ sẽ đến hội trường duy trì trât tự, trong cung phòng vệ nhất định sơ xài, nhất cử thành công, điều đó cũng có gì ngạc nhiên”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Ta đã từng làm thị vệ trong cung, quan trung chín đạo đại môn, mỗi đạo đại môn có năm mươi túc vệ luân phiên canh giữ, đấy là số người quyết không rời đi, còn có một doanh (tức 500 quân) thần tiễn thủ ba lớp tuần tra, đệ có thể phái đi được bao nhiêu người, muốn đánh giết đến đại nội, nói dễ vậy sao? Hơn nữa…”
Mưu Thế Kiệt ha hả cười, cắt ngang lời Thiết Ma Lặc:
“Thiết đại ca, đệ phái người đi công phá hoàng cung, tự có diệu dụng, có thể công hãm hoàng cung, sanh cầm Lý Hanh dĩ nhiên là tốt nhất, cho dù không thể thì chúng ta vẫn thành công. Chẳng lẽ huynh không nghĩ ra đây là diệu kế ‘nhất cử sổ đắc’ hay sao?”
Thiết Ma Lặc nhíu mày, tựa hồ có gì muốn nói nhưng lời vừa đến cửa miệng lại nhẫn lại chuyển qua hỏi:
“Như thế nào là ‘nhất cử sổ đắc’, thực sự muốn nghe chỉ giáo?”
Mưu Thế Kiệt đáp:
“Cho dù không thể sanh cầm được Lý Hanh thì ít nhất cũng có thể loại trừ Tần Tương. Tần Tương triệu khai anh hùng đại hội, triệu tập tất cả hảo hán của tam sơn ngũ nhạc, Hoàng đế lão nhi vốn rất không tán đồng, chỉ là Tần Tương một mực nhận trách nhiệm, trước mặt Hoàng đế mở miệng khoa trương rằng, nếu như xảy ra chuyện ngoài ý muốn thì cứ y mà hỏi. Lý Hanh cũng muốn nhờ anh hùng đại hội của y mà chiêu nạp nhân tài, mở rộng thực lực của vũ lâm quân để đối phó với phiên trấn cho nên mới chịu đáp ứng. Nếu chúng ta gây hỗn loạn, tối thiểu Lý Hanh cũng bị sợ khiếp chết, sự tình qua đi, Tần Tương còn không bị khép tội sao? Cho dù không bị nhốt vào thiên lao thì cái ghế thống lĩnh vũ lâm quân của y cũng chẳng thể nào giữ được!”
Thiết Ma Lặc dựng mày kiếm nói:
“Ta không thể làm chuyện có lỗi với bằng hữu như vậy! Khi Tần Tương bị ép phải suất lĩnh vũ lâm quân và Ngoại Trạch Nam của Điền Thừa Tự tấn công Kim Kê lĩnh của chúng ta, nếu không có huynh ấy âm thầm hỗ trợ, vị tất chúng ta đã thoát ra được. Chúng ta sao có thể hãm hại ngược huynh ấy được?”
Mưu Thế Kiệt cười nói:
“Đại ca, muốn thành đại sự há có thể chỉ chiếu cố đến tư tình bằng hữu? Đại ca, huynh đây là nhân nghĩa của đàn bà!”
Thiết Ma Lặc trầm giọng:
“Được, cứ coi như Tần Tương không phải bằng hữu, người của mình có nên làm hay không? Đệ phái một đám người đi tấn công hoàng cung, nhân số quyết không thể quá đông, dưới sự công kích của túc vệ trong cung và một doanh thần tiễn thủ, đệ nghĩ còn mấy người có thể sống sót?”
Mưu Thế Kiệt nhún vai mà rằng:
“Đại ca, chúng ta muốn giành thiên hạ, chết vài người thì tính toán gì?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Thế Kiệt, đệ có lòng tranh ngôi cửu đỉnh, ta lại không có ý bắt hươu. Ta thấy chúng ta chỉ thế thiên hành đạo, trừ bạo an dân cũng đã đủ rồi. Hà tất nhất định phải động đến ý niệm thắng làm vua thua làm giặc?”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Sư tổ ta Cầu Nhiêm Khách mang thiên hạ nhường cho Lý Thế Dân, bây giờ Lý Đường vô đạo, phiên trấn cát cứ, dân chúng điêu linh, chính là thời cơ tốt, ta quyết ý muốn thu lại giang sơn mà sư tổ đã nhường cho người khác!”
Thiết Ma Lặc trầm tư không nói, tự thị đối với vẫn đề trọng đại như vậy y không quyết định được. Mưu Thế Kiệt cười cười nói:
“Đại ca, huynh bất tất lo nghĩ, lần này đệ tấn công hoàng cung, cũng sẽ không dùng đến người của huynh, đệ chỉ điều động huynh đệ thuộc hạ của Cái Thiên Hào, thế cũng đủ rồi. Chỉ mong huynh không ngăn cản, tránh làm dao động lòng quân”.
Thiết Ma Lặc trầm sắc mặt, y nói:
“Chúng ta kết nghĩa huynh đệ, còn phân lẫn nhau làm gì, chỉ là xét chuyện nên làm hay không?”
Mưu Thế Kiệt hỏi:
“Vậy huynh nói nên làm hay không?”
Thiết Ma Lặc lại hỏi:
“Thế Kiệt, trước tiên ta hỏi đệ một câu, đệ mới nói đã an bài đường lui, vậy đường lui đó là gì?”
Mưu Thế Kiệt chần chừ một lát rồi dứt khoát nói:
“Đại ca, đệ không muốn giấu huynh. Đệ cùng với Sử cô nương đã thương thảo rồi, sau khi tấn công hoàng cung, chúng ta lập tức rời khỏi Trường An, tàn quân của ca ca nàng ta hiện đang tập kết tại Hề tộc, chúng ta sẽ thoái lui đến đó”.
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Ngươi muốn nương nhờ vào Sử Triêu Nghĩa à?”
Thanh âm ngữ điệu của y đã không còn tự nhiên. Mưu Thế Kiệt ha hả cười nói:
“Thiết đại ca, huynh cũng coi thường đệ rồi, đệ sao có thể nương tựa vào Sử Triêu Nghĩa được?”
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Nhưng ngươi nói lui đến đó, không phải sống nhờ ở đậu người ta sao?”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Đệ muốn giết chết Sử Triêu Nghĩa, đoạt lấy ba vạn thiết kỵ của hắn! Sử cô nương và Sử Triêu Nghĩa tuy danh nghĩa huynh muội nhưng thực ra là đối đầu, nàng ta đã đáp ứng sẽ hỗ trợ đệ. Chúng ta thu đoạt bộ hạ của Sử Triêu Nghĩa, tái liên minh với Thổ vương Hề tộc, tiến có thể công, lui có thể thủ. Theo như đệ thấy, không quá mười năm, đại nghiệp có thể thành!”
Thiết Ma Lặc bảo:
“Thế Kiệt, đệ thông minh một đời nhưng lại hồ đồ một lúc”.
Mưu Thế Kiệt hỏi:
“Đệ sao mà hồ đồ? Đại ca, huynh cũng cho là đệ không nên tạo phản sao?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Trước kia khi ta làm thị vệ, cơ hồ bị Hoàng đế lão nhi hại chết, ta sớm đã nhìn thấu Hoàng đế không có lương tâm, đệ muốn giúp bá tính thay làm một Hoàng đế tốt, kỳ thật đó cũng không phải là tạo phản gì”.
Mưu Thế Kiệt lại hỏi:
“Đã vậy sao huynh còn không chịu cùng đường với đệ?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Phải xem như thế nào mới là ‘tạo phản’. Ba vạn thiết kỵ của Sử Triêu Anh, đến chín phần mười là người Hồ, Hề tộc lại là một chi của người Đột Quyết. Hơn một trăm năm qua, Đột Quyết luôn luôn là đại địch của Trung Quốc, chẳng lẽ đệ không biết hay sao? Năm đó loạn An Sử, Huyền Tông Hoàng đế sủng ái Dương Quý Phi, trọng dụng bè lũ gian tà Dương Quốc Trung, hoang dâm vô đạo, lão bách tính sao không hận hắn chứ? Nhưng loạn An Sử bùng lên, đại địch trước mặt, dân chúng vẫn nguyện ý giúp hắn chống đỡ ngoại địch, đạo lý này không phải rất minh bạch hay sao? Bây giờ đệ muốn trọng dụng người Hồ mà đoạt giang sơn, chỉ sợ trước tiên đã làm mất lòng dân. Thế Kiệt, đệ là người thông minh tuyệt đỉnh, đệ hãy nghĩ lại đi!”
Mưu Thế Kiệt nghe xong liền phá lên cười vang, tiếng cười rung động cả mái ngói.
Thiết Ma Lặc ngạc nhiên hỏi:
“Hiền đệ vì sao mà bật cười?”
Mưu Thế Kiệt đáp:
“Đại ca, huynh chỉ biết một mà không biết hai. Bản thân An Lộc Sơn là người Hồ, lại vô mưu mà tham vọng làm bá chủ Trung Quốc, sao mà chẳng bại? Thủ hạ của đệ có cả huynh đệ lục lâm, không phải hoàn toàn dựa vào người Hồ, bất quá chỉ là tạm thời mượn binh lực của bọn họ mà dùng, quyền thao túng nằm trong tay đệ, há phải lo lắng? Việc này với việc An Lộc Sơn tạo phản căn bản không giống nhau!”
Thiết Ma Lặc nói:
“Mặc dù vậy nhưng dùng ngoại binh đánh Trung Quốc, chung vu là bất thỏa!”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Đại ca, lời này của huynh có điểm không đúng, đây là mượn ngoại binh đánh lấy giang sơn, cùng với việc ngoại di xâm lấn gây họa là hai việc khác nhau. Huynh đối với lịch sử của bổn triều chắc là biết rõ. Trước kia khi Lý Thế Dân khởi binh tại Thái Nguyên, từng phái thượng thư Lưu Văn Tĩnh ước hẹn với Đại Hãn Đột Quyết: ‘Chinh phạt chiếm được, con gái, ngọc thạch là của Đại Hãn’. Cho nên mới được Đột Quyết trợ giúp, mới có thể nhanh chóng tiến đánh một mạch, tây tiến Quan Trung mà thành lên nghiệp đế. Lại nói đến chuyện gần đây, triều đình bình định loạn An Sử, cũng từng mượn binh của người Hồi, cùng với chư tướng Quách Tử Nghi, Lý Quang Phật hợp lực phản công mà thu lại được Trường An, Lạc Dương. Đệ bây giờ đang đồ mưu, Lý Thế Dân từng làm được, làm đến Hoàng đế Đường triều, đệ lại làm không được sao?”
Thiết Ma Lặc lớn tiếng gắt:
“Làm không được, ta nói đệ cũng chỉ biết một mà không biết hai!”
Mưu Thế Kiệt xám mặt, nhẫn nhịn hỏi:
“Đại ca có cao kiến gì?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Lý Thế Dân mượn quân của Đột Quyết, hơn mười năm sau đó, Đột Quyết vẫn luôn hăm he với Trung Quốc, cho đến nay vẫn chưa thôi. May mắn thay, Lý Thế Dân là nhất đại anh chủ nên miễn cưỡng còn có thể chế áp được, không như bây giờ Đột Quyết đã chuyển khách thành chủ, quấy nhiễu Trung Nguyên. Biên cương vốn đã từng bị chúng ồ ạt xâm lấn, đại tổ Lý Uyên từng có lần muốn rời đô để tránh né. Mãi đến sau này năm Trinh Quan thứ ba, Lý Thế Dân khiến Lý Tĩnh đại phá Đột Quyết, biên cương phương Bắc mới tạm yên, thế nhưng hai nước cũng đều bị tổn hại, thương vong vô số. Hơn nữa, sau khi Lý Thế Dân qua đời, Đột Quyết lại nổi dậy cướp phá biên thùy cho đến tận ngày nay. Truy đến nguồn cơn như vậy, mặc dù Lý Thế Dân là nhất đại anh chủ nhưng y mượn binh lực Đột Quyết lần đó, ta lại cho rằng y đã đi sai một nước cờ!”
Thiết Ma Lặc ngừng một chút, nhìn mưu Thế Kiệt rồi lại nói tiếp:
“Lại nói chuyện gần đây, triều đình mượn binh của người Hồi bình loạn An Sử, đó càng là nguy hiểm. Hồi binh xâm chiếm Trường An, Lạc Dương, đi đến đâu đốt phá đến đó, lửa thiêu kinh thành cả tuần (tức mười ngày) không dứt, mặc dù Đường triều thu lại được hai thành nhưng bất quá cũng chỉ là thu hồi hai tòa thành trống rỗng!”
(Đây là theo chính sử kể lại, có thể tham khảo “Cựu Đường Thư” hồi một trăm chín mươi lăm)
Mưu Thế Kiệt không ngờ Thiết Ma Lặc chẳng những thông thuộc lịch sử, hơn nữa lại phân tích rất xác đáng, bất tri bất giác trong lòng cũng ngỡ ngàng, không có lời nào để nói. Nhưng y bị ham muốn thiêu đốt, dù biết là Thiết Ma Lặc nói chính xác nhưng vẫn nghĩ rằng, “Tai họa đối với bách tính là chuyện sau này, cũng không nhất định đến như thế. Lý Thế Dân đi nhầm một nước cờ nhưng dù sao vẫn không mất danh tiếng nhất đại anh chủ. Có thể làm được như Lý Thế Dân cũng không tệ rồi”. Trong lòng y trù trừ, nhất thời còn chưa quyết định.
Thiết Ma Lặc nói đã nhiều, cũng có chút khô miệng, y tiện tay nhấc tách trà trên bàn lên uống, vừa uống được hai ngụm liền đột nhiên ném tách trà xuống, kêu lên:
“Thế Kiệt, ngươi, ngươi, sao ngươi lại hạ độc thế này!”
Một tiếng xoảng vang lên, tách trà đã bị vỡ thành bốn mảnh, Mưu Thế Kiệt kinh hãi, thất thanh nói:
“Đại ca, huynh, huynh nói cái gì?”
Mưu Thế Kiệt còn chưa dứt lời thì nghe thấy “bùng” một tiếng, một mảng thiên song bị chấn vỡ thành muôn mảnh, Đoàn Khắc Tà tựa như mũi tên từ ngoài thiên song bắn vào, không nói hai lời, chàng huơ kiếm chém tới Mưu Thế Kiệt. Mưu Thế Kiệt vung tay áo phất ra, kiếm quang lướt đến, chém đứt ống tay áo y.
Nói thì chậm nhưng diễn biến rất nhanh, Đoàn Khắc Tà lại một kiếm phóng đến, Mưu Thế Kiệt lắc mình tránh né, rồi vội vàng kêu lên:
“Khắc Tà, đệ nghe ta nói”.
Đoàn Khắc Tà nào chịu nghe y phân biện, kiếm thứ ba của chàng đã như lôi đình thiểm điện phóng đến. Mưu Thế Kiệt nâng bàn trà lên đỡ, “rắc..” một tiếng, bàn trà đã bị bảo kiếm chém vỡ. Mưu Thế Kiệt cũng có mang bảo kiếm nhưng y tịnh không rút kiếm hoàn thủ, chỉ liên tiếp tránh né ba chiêu sát thủ của Đoàn Khắc Tà, mỗi một kiếm đều kinh hiểm đến cực điểm.
Thiết Ma Lặc quát lớn:
“Khắc Tà! Dừng tay! Đệ còn không dừng tay!”
Thiết Ma Lặc liên tiếp quát hai lần, Đoàn Khắc Tà chỉ đành án kiếm bất động, thối lui về bên cạnh Thiết Ma Lặc, Thiết Ma Lặc nói:
“Nhanh hướng Mưu đại ca ngươi bồi tội đi!”
Đoàn Khắc Tà mở tròn hai mắt, tròng trọc nhìn Mưu Thế Kiệt, trong mắt tựa như phun ra lửa đỏ, chàng nói:
“Huynh còn muốn đệ nhận, nhận kẻ mặt người…”
Bốn chữ “mặt người dạ thú” chàng chưa kịp nói xong thì Thiết Ma Lặc đã nạt:
“Câm miệng!”
Đoàn Khắc Tà không dám nói nữa, ngạc nhiên sững sờ nhìn biểu ca. Thiết Ma Lặc bảo:
“Mưu đại ca ngươi đã nói không phải là y hạ thủ thì nhất định là không phải!”
Mới nói đến hai từ cuối cùng, thanh âm tựa hồ trở nên khàn khàn, hiển nhiên là độc tính đã phát tác. Vốn dĩ y dựa công lực thâm hậu mà tự tri trì. Còn Mưu Thế Kiệt nghe y nói đến hai từ “không phải” thì sắc mặt cũng giãn ra chút ít, y nghĩ bụng: “Không ngờ Thiết đại ca vẫn còn tin tưởng ta!”
Chợt nghe một tiếng cười yêu kiều vang lên, Sử Triêu Anh đã bước vào phòng, nàng khanh khách cười nói:
“Thiết trại chủ, ngươi thực sự là xét người rất chính xác, chuyện không liên quan đến Mưu Thế Kiệt, độc được này là do ta hạ!”
Lời vừa thốt ra tựa như sét nổ trời quang, Đoàn Khắc Tà chết lặng. Mưu Thế Kiệt run run giọng:
“Triêu Anh, nàng….”
Sử Triêu Anh nói:
“Đại trượng phu làm việc phải quyết đoán, hôm nay huynh không diệt trừ Thiết Ma Lặc tất sẽ thành đại họa tâm phúc!”
Mưu Thế Kiệt quát:
“Câm miệng!”
Sử Triêu Anh cười lạnh nói:
“Thả hổ dễ, bắt hổ khó. Huynh muốn đạt thành cơ nghiệp đế vương, sao có thể cố chấp tình nghĩa huynh đệ, huynh không nghe lời ta, sau này ắt hối hận không kịp!”
Đoàn Khắc Tà thần tình thoáng thanh tỉnh, lửa giận bốc lên, chàng đang muốn lao đến giết Sử Triêu Anh, chợt nghe có tiếng bước chân, chàng ngoảnh đầu nhìn thì thấy bốn tên đại hán đã đứng ngăn trước cửa, bọn này chính là bốn tay lạ mặt mà chàng vừa mới thấy. Bốn tên này chính là thị giả của Phù Tang đảo chủ Mưu Thương Lãng, sau khi Mưu Thế Kiệt ở Trung Nguyên đã có căn cơ vững chắc mới mời bọn họ đến.
Đột nhiên Khắc Tà chợt nghĩ đến biểu ca bị trúng độc nặng nên không dám khinh suất vọng động, chỉ lầm lì án kiếm, canh bên cạnh biểu ca, chàng nghĩ bụng: “Là sinh hay tử, điều này còn phải xem Mưu Thế Kiệt thế nào! Hừ, nếu như hắn động thủ, ta sẽ liều mạng, trước tiên cũng phải giết chết tiện nhân kia!”
Phải biết Mưu Thế Kiệt vốn dĩ võ công cao hơn Đoàn Khắc Tà nửa bậc, lại thêm bốn thị giả và Sử Triêu Anh, nếu như Mưu Thế Kiệt thực sự trở mặt, thì Đoàn Khắc Tà ngay cả thân mình cũng khó bảo toàn càng chẳng thể nói đến việc bảo vệ tính mạng cho Thiết Ma Lặc.
Mưu Thế Kiệt sắc mặt âm trầm bất định, hiển nhiên trong lòng đang dao động dữ dội, không sao quyết định ngay được.
Lòng bàn tay Đoàn Khắc Tà rớm mồ hôi lạnh, chàng nhìn Mưu Thế Kiệt không rời mắt. Qua một lúc lâu, Mưu Thế Kiệt đột nhiên giãn cặp lông mày, lớn tiếng quát:
“Ai kêu các ngươi đến? Nhanh lui hết cho ta!”
Bốn tên thị giả đưa mắt nhìn nhau, chỉ đành y lời mà lui ra. Sử Triêu Anh kêu lên:
“Thế Kiệt, huynh không nghe ‘lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu’ hay sao?”
Mưu Thế Kiệt trầm giọng quát:
“Lấy giải dược ra!”
Sử Triêu Anh ngỡ ngàng:
“Cái gì?”
Mưu Thế Kiệt gằn giọng:
“Mang giải dược đưa cho ta, bằng không ta một đao chém ngươi làm hai đoạn!”
Sử Triêu Anh thở dài một hơi, móc giải dược ra rồi nói:
“Thế Kiệt, giải dược giao ra cũng chẳng quan trọng gì. Chỉ sợ huynh sẽ ném mất cơ hội có thể đoạt được giang sơn vào trong tay thôi!”
Mưu Thế Kiệt vang giọng nói:
“Giang sơn ta muốn lấy nhưng đại trượng phu lấy được thiên hạ cũng phải lấy một cách quang minh lỗi lạc, ta quyết không thể sát hại nghĩa huynh!”
Lập tức y để giải dược trước mặt Thiết Ma Lặc rồi nói:
“Thiết đại ca, từ nay về sau, huynh với đệ ai làm việc nấy, đệ mang người của mình đi. Huynh cũng đừng tiếp tục quản chuyện của đệ nữa!”
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Đệ vẫn còn muốn tấn công hoàng cung sao?”
Mưu Thế Kiệt đáp:
“Nể mặt huynh, đệ từ bỏ kế hoạch đã định, đêm nay sẽ cùng với Sử cô nương xuất kinh. Từ nay về sau, chúng ta đường ai nấy đi! Đại ca, chúng ta một phen kết nghĩa, xin nhận của tiểu đệ một lạy trước lúc ly biệt!”
Thiết Ma Lặc thấy tâm ý y đã quyết, không thể vãn hồi, nước mắt lưng tròng, hoàn lại một lạy rồi nói:
“Thế Kiệt, đệ hãy tự bảo trọng!”
Mưu Thế Kiệt quay đầu nói:
“Sử cô nương, xin thứ cho ta lần này không thể nghe theo lời cô được. Cô còn nguyện ý đi cùng ta không?”
Sử Triêu Anh thở dài nói:
“Chúng ta như châu chấu buộc chung một sợi, nhất định là phải đi cùng nhau, thành cũng hay mà bại cũng được, hãy để chúng ta họa phúc cùng gánh vác!”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Được, nói hay lắm, chúng ta đi thôi, từ nay về sau, nàng là tri kỷ duy nhất của ta”.
Trong lòng Đoàn Khắc Tà cảm xúc vô hạn, không rõ là hận nàng hay là thương tiếc cho nàng, Sử Triêu Anh né tránh ánh mắt của Đoàn Khắc Tà lẳng lặng theo một bên Mưu Thế Kiệt mà rời đi.
Thiết Ma Lặc như từ trong cơn ác mộng tỉnh lại, qua một hồi lâu y mới nói:
“Thế Kiệt cũng còn chưa mất hết lương tâm, chỉ đáng tiếc nó thực sự thông minh cả đời mà lại nhất thời hồ đồ rồi”.
Y vươn tay với lấy giải dược, Đoàn Khắc Tà cảnh giác:
“Đại ca, huynh không sợ yêu nữ kia cho giải dược giả sao?”
Đây là lần đầu tiên chàng gọi Sử Triêu Anh là “yêu nữ”, tự mình nghe thấy cũng không thuận tai, liền nhớ đến chuyện trước đây tức thì thương tâm vô hạn.
Thiết Ma Lặc nói:
“Điều này đệ không cần phải lo lắng, sau này vị Sử cô nương đó muốn nương nhờ Mưu Thế Kiệt, cô ta sẽ không dám dùng giả dược hại ta đâu”.
Y nuốt giải dược rồi cười cười nói tiếp:
“Kết thúc như vậy cũng tốt, ta có thể dỡ được khối đá đè nặng trong lòng. Trước đây một lúc, ta nghe đệ và vị Sử cô nương này ở cùng một nơi, ta còn lo lắng đệ mê luyến cô ta. Đáng tiếc vị Sử cô nương này là một nữ tử, nếu không nhất định là một loạn thế kiêu hùng, Mưu Thế Kiệt và cô ta thực sự là một đôi, đệ phối với cô ta không hợp!”
Đoàn Khắc Tà nóng ran mặt, chàng thấp giọng nói:
“Đệ làm sao xứng với cô ta được”.
Tuy nói như vậy nhưng trong lòng chàng thầm kêu “may mắn”.
Đúng là:
Mấy đợt biển tình dâng sóng gió
Chân tình suýt lỡ gửi sai người.