Huyết Hải Thâm Thù

Chương 2 - Bí Kíp Trong Động Đá

trước
tiếp

Dương Hoa cực kỳ kinh sợ, không biết khí lực ở đâu mà cậu chạy lại được bên nhị sư phụ, miệng lắp bắp :

– Sư phụ, sư phụ có sao không?

Cậu biết rằng trong người Ân sư phụ lúc nào cũng mang theo Kim Sang dược là thuốc có công hiệu hồi phục rất mau, cậu định thò tay vào áo Ân Cừu Thế tìm Kim Sang dược, nhưng Ân Cừu Thế đã cất giọng rất thảm thiết :

– Hoa Nhi, đừng lo cho ta, hãy mau đến giúp cho tam sư phụ của con đi…

Đan Khâu Sinh và Dương Kế Mạnh đã đến lúc quyết tử cùng nhau. Họ Đan hầu như đã mất hết bình tĩnh, ông giơ hữu chưởng đè lên song chưởng của Dương Kế Mạnh như không còn biết nguy hiểm là gì, còn tay trái ông nhấc cao trường kiếm thọc nhanh vào yết hầu Dương Kế Mạnh. Song chưởng của Dương Kế Mạnh phát huy hết nội lực còn lại của Tu La Âm Kiệt công vì y cũng nôn nóng hạ thủ mau để kết thúc trận đấu, tuy Đan Khâu Sinh chỉ dùng tay hữu đỡ chưởng, nhưng tay tả ông lại vẫn còn thanh trường kiếm rất lợi hại, thế cho nên có thể nói hai người ở vào tình thế quân bình, bên tám lạng bên nửa cân. Ngay bây giờ nếu bên nào được một nội lực bên ngoài hỗ trợ thì ắt sẽ đánh gục được đối phương ngay.

Dương Hoa vừa nghe lời Ân Cừu Thế chạy đến bên cạnh Đan Khâu Sinh đã thấy kiếm ảnh hạ “xoẹt” một tiếng sắc gọn xuyên thẳng vào yết hầu Dương Kế Mạnh. Dương Hoa mừng rỡ, chỉ mong tên ma đầu sớm chết dưới tay của sư phụ mình, nhưng không ngờ Dương Kế Mạnh và Đan Khâu Sinh cùng lúc đều rú lên một tiếng lớn và cùng ngã xuống một lần với nhau.

Vì kinh sợ quá nên Dương Hoa thoát hết chân khí, cậu cũng ngã xuống bất tỉnh nhân sự.

Không biết thời gian trôi qua bao lâu, Dương Hoa mới mơ màng tỉnh dậy. Đầu tiên cậu thấy toàn thân mình nóng như có lửa đốt, từ từ mở mắt ra.

Thì ra ở bên cạnh cậu là hai sư phụ, một người đang dùng chưởng đè xuống huyệt hung đường của cậu, còn một người cũng dùng chưởng ấn vào sau lưng, chính là cả hai đang vận dụng hết tàn khí còn lại truyền nhập cơ thể cậu để trị nội thương cho cậu.

Dương Hoa thều thào kêu lên :

– Sư phụ, sư phụ, các sư phụ…

Đan Khâu Sinh ngắt lời :

– Im đi, đừng vội nói.

Dương Hoa đưa mắt nhìn ra xa, cậu nhìn thấy ngay Âu Dương Nghiệp và Động Huyền Tử đang nằm bất động dưới đất, xa hơn chút nữa là Dương Kế Mạnh dựa hẳn vào một gốc cây lớn nằm rũ như một xác chết, hai mắt y nhắm nghiền, mặt mũi đỏ lòm máu mủ, không biết y còn thở nữa hay không?

Dương Hoa cứ nằm yên như thế một lúc lâu, mới thấy Đan Khâu Sinh hơi mỉm cười :

– Tốt lắm, tính mạng của Hoa nhi không còn gì phải lo ngại nữa rồi.

Vừa nói xong câu ấy, bỗng người ông hình như đã cạn hết tinh lực, gục liền xuống bên cạnh, tình hình của Ân Cừu Thế cũng không khác gì với Đan Khâu Sinh, song thủ vừa thu lại, cả hai đột nhiên đều ngã gục xuống đất.

Dương Hoa cả kinh la lên :

– Sư phụ, làm sao vậy?

Một tay cậu đưa ra nắm lấy Ân Cừu Thế, còn tay kia nắm Đan Khâu Sinh, nhưng vì sức còn yếu, cậu không sao nhấc hai sư phụ lên được.

Giọng nói của Đan Khâu Sinh chỉ còn nhẹ như tiếng thở :

– Con yên tâm, kẻ thù của chúng ta hiện đã chết cả rồi, nếu ta không sống nổi nữa thì bọn chúng cũng không làm gì được con…

Nghe giọng nói của sư phụ, Dương Hoa biết ông đã bị nội thương rất trầm trọng, cậu sợ run lên lắp bắp nói :

– Không, không… con không sợ, nhưng chúng ta… chúng ta… sư phụ không thể chết…

Đan Khâu Sinh cười nhẹ :

– Ai mà không phải chết? Chỉ mong chết không có gì ân hận. Bây giờ không còn nhiều thì giờ nữa, con hãy ghé tai lại đây nghe ta dặn câu này…

Nói hết câu này, khí lực của Đan Khâu Sinh đã tiêu trầm nhiều lắm.

Dương Hoa hoảng hốt vội vàng ghé tai vào sát miệng Đan Khâu Sinh, cậu nghe ông thều thào :

– Trong người ta hiện có một bí kíp do ta lấy máu của ta chép hết tinh hoa võ công của Không Động phái, ta định trao cho nhị sư phụ Ân Cừu Thế mang trả cho môn phái của ta, nhưng Chưởng môn sư thúc đã không coi ta là đệ tử môn phái nữa nên việc ấy không cần thiết, nay ta trao lại cho con, con hãy cố khai mở một môn phái riêng, còn như…

Đan Khâu Sinh thở rất gấp, nên không biết ông định nói “còn như…” cái gì, bỗng thấy Ân Cừu Thế lấy tay khẽ cào vào vai ông một cái, ông chuyển lời :

– Được, ta quên mất nhị sư phụ cũng có lời muốn dặn con, con hãy nghe lời nhị sư phụ trước…

Dương Hoa thấy nhị sư phụ bị thương còn nặng hơn tam sư phụ nữa nên vội vàng ghé tai lại phía Ân Cừu Thế. Giọng nói của Ân Cừu Thế đứt đoạn :

– Ta… ta… luyện thành Mạnh gia đao pháp của Mạnh Nguyên Siêu, con… con… chính là…

Dương Hoa nghe hơi thở của Ân Cừu Thế gấp quá vội vàng cắt lời :

– Mạnh Nguyên Siêu là gì của con?

Hỏi hai lần câu ấy mà không nghe Ân Cừu Thế trả lời gì cả, cậu nóng ruột đưa tay vào mũi Ân Cừu Thế, thì ra nhị sư phụ của cậu đã tắt hẳn từ lúc nào.

Dương Hoa sợ quá quay vội lại Đan Khâu Sinh rối rít gọi :

– Tam sư phụ, tam sư phụ!

Cậu nhìn thấy mặt Đan Khâu Sinh đã trắng bệch, Dương Hoa đã sợ lại càng thêm sợ vội vàng lay mạnh Đan Khâu Sinh :

– Tam sư phụ, sư phụ nói cho con nghe Mạnh Nguyên Siêu là thế nào của con?

Đụng tay vào người Đan Khâu Sinh, cậu mới biết người của ông lạnh giá như một khối tuyết không biết từ lúc nào, ông đã chết.

Trong khoảnh khắc, Dương Hoa đã mất hai người thân yêu nhất trong đời cậu, hai người đã vì sự sinh tử của cậu mà phải tận lực kiệt tinh đến chết. Dương Hoa đau đớn muốn khóc mà mắt cứ ráo hoảnh, cậu nấc lên một tiếng té xuống bất tỉnh nhân sự.

Hôm sau, Dương Hoa mới hết cơn hôn mê vì ánh sáng mặt trời soi thẳng vào động đá, chiếu long lanh trên mặt nước Kiếm Trì xanh biếc, chung quanh hồ cây cỏ hoa lá lay động đưa mùi thơm ngào ngạt, còn trên ngọn Kiếm Phong chim chóc nhảy nhót đùa vui. Thiên nhiên và vạn vật yên tĩnh như chưa hề xảy ra việc gì xáo động được đời sống yên bình của chúng.

Dương Hoa ngồi dậy định thần, từ từ nhớ lại chuyện mấy hôm trước, trong lòng vẫn chưa hết khổ đau, nghĩ thầm trong bụng: “Hai vị sư phụ đã chết thảm, ta cũng nên chôn cất tử tế để yên linh hồn họ”.

Cậu nhìn quanh chỗ thi thể nhị vị sư phụ mới phát giác ra hai thi thể đã mất tự lúc nào. Dương Hoa kinh ngạc vội đưa mắt tìm thi thể của Dương Kế Mạnh, Động Huyền Tử và Âu Dương Nghiệp, cả ba thi thể ấy cũng biến mất.

Cậu kinh sợ đến độ không tin vào mắt mình nữa, cứ đứng ngây ra đến cả khắc đồng hồ, bụng bảo dạ: “Không lẽ những chuyện mới xảy ra hôm trước chỉ có trong giấc mộng dữ của ta ư?”.

Cậu còn nhớ rõ ràng nhị sư phụ và tam sư phụ gục xuống bên cạnh hồ, còn về mấy cái chết của các đối thủ, cậu vẫn nhớ như in :

Động Huyền Tử bị đoạn kiếm gãy xuyên suốt gục chết không cách xa đây. Âu Dương Nghiệp rõ ràng chết gục bên một khối đá lớn còn Dương Kế Mạnh dựa lưng vào một gốc tùng lớn tắt thở, nhưng sao tất cả hình ảnh trong trí nhớ ấy bây giờ như trong ảo ảnh vì không còn thấy thi thể của một ai nữa cả.

Cậu bàng hoàng nghĩ: “Không lẽ Dương Kế Mạnh chưa chết và đã mang hết các thi thể đi rồi?” rồi lại tự trấn an: “Tam sư phụ trước khi chết đã quả quyết với ta nội thương của Dương Kế Mạnh không thể nào y sống nổi, không lẽ đó chỉ là lời dối gạt ta? Huống hồ nếu y còn sống với nội thương trầm trọng như vậy, y cũng không thể nào mang hết tử thi qua khỏi rừng đá chập chùng như thế này, ấy là không nói tới y mang tử thi đi thì có ích gì?”.

Nghĩ ngợi quẩn quanh một lúc, bỗng cậu giật mình, một ý mới lóe lên trong đầu: “Sao mình không nghĩ biết đâu nhị sư phụ vẫn còn sống?” cậu mừng quýnh với ý nghĩ ấy vội vàng gọi to :

– Nhị sư phụ, tam sư phụ!

Nhưng trên ngọn kiếm phong đầy đá chỉ có tiếng dội lại ngân dài của cậu lập đi lập lại mấy tiếng: “Nhị sư phụ, tam sư phụ!…”.

Chuyện lạ không xuất hiện, nhưng Dương Hoa cũng vừa phát hiện ra trên mặt đất có những vết máu còn mới rõ ràng là vết tích không thể chối cãi được của trận ác đấu mới hôm qua đây, trong những vết máu ấy có máu của bọn đối thủ ác ma, có máu của nhị vị sư phụ và cũng có máu của chính bản thân cậu nữa. Dương Hoa đưa mắt ngó ánh nắng chấp chới trên những tảng đá rồi lại ngó những vết máu kéo dài trên mặt đất. Rõ ràng tất cả không phải là giấc mộng.

Đột nhiên mắt cậu bắt gặp trên mặt một phiến đá, tập sách nằm hờ hững. Cậu vội vàng nhặt lên xem, thì ra đó chính là bí kíp võ công Không Động phái mà Đan Khâu Sinh đã vận dụng hết tinh lực viết nên, chính Đan Khâu Sinh trước lúc chết đã giao phó lại cho cậu.

Dương Hoa mân mê tập bí kíp với nét chữ cứng cỏi của sư phụ, lòng thầm nghĩ: “Chỉ mong nhị vị sư phụ thoát được cơn hiểm nghèo tai qua nạn khỏi, còn bí kíp này nếu không có sư phụ chỉ bảo thì cũng là vô ích đối với ta thôi”.

Không tìm thấy xác nhị vị sư phụ lại càng có hy vọng cả hai còn sống sót, Dương Hoa dần dần nguôi nỗi buồn thương vội vàng kiểm tra lại các vật đem theo bên mình. Trong áo cậu vẫn còn bản Mạnh gia đao pháp mà Ân Cừu Thế đã cho.

Sau đó vài hôm, Dương Hoa ra sức sửa sang chỉnh đốn lại khu rừng đá, sắp xếp lại các thế trận bằng đá để không có người lạ nào thâm nhập được, cậu vừa sắp xếp vừa nghĩ ngợi: “Trong bọn cừu thù của ta, người biết rõ về rừng đá là Dương Kế Mạnh, nếu chẳng may mà tên ma đầu này chưa chết, y có thể tìm một nơi kín đáo trong rừng đá ẩn thân dưỡng thương trong vài năm rồi mới xuất đầu lộ diện thì ta không còn cách nào chống lại y”.

Suy nghĩ như vậy, Dương Hoa càng gấp rút sửa sang đảo lộn trật tự của rừng đá với ý đồ khiến mai đây Dương Kế Mạnh có trở lại cũng không thể tìm ra dấu vết.

Rồi từ đó Dương Hoa yên tâm ở trong rừng đá, tuân thủ di ngôn của nhị vị sư phụ khổ luyện võ công. Trước đây Đan Khâu Sinh đã sẵn tích trữ lương thực có thể đủ ăn trong vòng một năm, vả lại, trong khu rừng đá này vẫn có thể săn thú bắt cá nên sinh hoạt hằng ngày cũng chẳng khác gì khi Đan Khâu Sinh còn sống.

Trước tiên, Dương Hoa đem Mạnh gia đao pháp ra luyện tập. Cậu phát giác bí kíp này rất lạ lùng như chép trên hai loại giấy khác nhau và bút pháp cũng là do hai người chép khác nhau.

Nét chữ trong chính kinh thì rõ ràng không phải là nét chữ của Ân Cừu Thế, vì cậu biết rõ ràng Ân Cừu Thế chỉ chép phần “chú giải” bằng nét chữ nhỏ hơn. Vậy thì nét chữ lớn chép ở phần chính kinh là của ai? Dương Hoa không sao biết được, nhưng cậu vẫn cảm nhận nét bút ấy rất quen thuộc như đã từng thấy ở đâu rồi.

Lời ở chính kinh chỉ rõ những uyên ảo tinh vi nhất của đao pháp thế gian, có thể nói là đã đạt tới chỗ tinh mật huyền ảo nhất của đao pháp. Mỗi ngày, Dương Hoa đều mang Mạnh gia đao pháp ra luyện tập nên đều bị câu hỏi kia dằn vặt: “Nét bút ai chép nên bí kíp huyền diệu này mà sao quen thế?”.

Một hôm cũng đang luyện đao pháp bên cạnh Kiếm hồ bất giác Dương Hoa nhìn thấy cái bóng của mình chiếu ngược xuống dòng nước xanh biếc, cậu bỗng nhớ tới ngày xưa, khi theo mẫu thân đi chơi thuyền trên vùng Bắc Đới Hà xa xôi, không sao ngăn được đau đớn vì nhớ tới mẹ :

– Cha ta là một người tốt, nhưng không bằng được mẹ ta, từ thuở còn nhỏ xíu mẹ đã dạy ta võ công, rồi kèm cặp ta đọc sách viết chữ. Ôi! Không biết đến bao giờ ta mới gặp được mẫu thân, có lẽ là không bao giờ nữa. Ta phải cố gắng tuân lời nhị sư phụ dặn dò, cố công luyện thành tuyệt đao võ học để báo thù cho mẹ ta. Còn chữ viết trong Mạnh gia đao pháp này nếu không của Mạnh Nguyên Siêu, thì ai vào đây được nữa? Ta cứ học cho tinh thuộc đao thế trước đã, còn có phải chữ của Mạnh Nguyên Siêu hay không, ngày sau ta sẽ tìm gặp hỏi cho ra lẽ cũng chẳng muộn gì.

Cậu nhất quyết không thèm để ý thắc mắc xem chữ viết của ai nữa, nhưng chợt nhớ tới mẫu thân, đột nhiên cậu như muốn la lên :

– Đúng là chữ viết của mẹ ta rồi!

Phát hiện được điều này, Dương Hoa càng lấy làm hoang mang nghĩ thầm: “Tại sao mẫu thân ta lại tinh thâm Mạnh gia đao pháp đến thế? Hay là Mạnh gia nhờ mẹ ta viết chữ chăng? Như vậy là mẹ ta có quen biết thân thuộc với Mạnh Nguyên Siêu? Vì nếu Mạnh Nguyên Siêu không tin tưởng mẹ ta đến mức độ thắm thiết sao dám đem bí truyền đao pháp nhà họ Mạnh ra nhờ mẹ ta chép lại?” Dương Hoa cứ phân vân nghĩ ngợi lan man, cậu lại đem bí kíp Mạnh gia đao pháp ra lật lên lật xuống xem nét bút chép võ kinh, đúng là của mẫu thân. Do vậy sự việc càng rối rắm khiến cậu không sao giải thích được.

Dương Hoa quả không nhìn lầm vì mẫu thân của cậu là Vân Tử La đã viết giùm bí kíp võ công cho Mạnh Nguyên Siêu. Xưa kia Vân Tử La và Mạnh Nguyên Siêu vốn là đôi thiếu niên nhân tình trong giới võ lâm, chỉ có một điều duy nhất là Dương Hoa chưa biết cậu chính là con trai của Mạnh Nguyên Siêu, kết quả của mối tình giữa hai thiếu niên hiệp lữ Vân Tử La và Mạnh Nguyên Siêu vậy.

Đầu óc luôn luôn bị ám ảnh bởi chữ viết trong Mạnh gia đao pháp cuối cùng Dương Hoa đành lập tâm: “Chuyện này quả là rắc rối, ta chỉ còn cách phải đi tìm Mạnh Nguyên Siêu để hỏi cho ra nguyên cớ, hà tất bây giờ phải nghĩ ngợi ngược xuôi cho mệt óc?”.

Từ thuở nhỏ Dương Hoa đã được mẹ là một danh sư võ học chỉ dạy, tư chất của cậu lại cực kỳ thông tuệ nên cậu khổ luyện Mạnh gia đao pháp mới gần nửa năm đã thuần thục, cậu bèn chuyển qua tiếp tục luyện tập bí kíp tinh hoa võ công Không Động phái do Đan Khâu Sinh để lại. Đây là võ học của môn phái cậu đã được Đan Khâu Sinh chỉ dạy phần cơ bản nên khi luyện thuần thục hết bí kíp này mới chưa tròn một năm.

Trong gần một năm ấy, Dương Hoa nghiễm nhiên đã thành một trang thanh niên tuấn tú dung hợp được cả hai nền võ công vào bậc thượng thừa của thiên hạ. Dương Hoa có thể thi triển vừa đao pháp tối diệu của Mạnh gia lại vừa thi triển kiếm pháp vô địch của Không Động phái mặc dù hai môn phái này đều có phần đặc điểm khác nhau. Mạnh gia đao pháp lấy sự nhanh nhẹn làm chủ, còn Không Động kiếm pháp lấy sự nhàn nhã làm chủ. Chiêu số hai môn phái bất đồng, chiêu pháp lại hoàn toàn khác biệt, thậm chí còn tương phản hẳn với nhau. Do đâu từ chỗ tương phản lại dung hợp được với trường hợp của Dương Hoa? Ấy là vì Dương Hoa lúc ấy hỏa hầu còn non nớt nên dễ dàng dung hợp được tất cả môn phái võ công.

Chính vì như vậy nên qua gần một năm khổ công luyện tập, võ công của Dương Hoa đã đột nhiên tiến bộ khác thường, so với trước đây quả là khác nhau một trời một vực.

Dương Hoa đã định thầm trong bụng đúng tròn một năm là cậu sẽ từ giã khu rừng đá này lên đường đi tìm Mạnh Nguyên Siêu.

Hôm nay chỉ còn bảy ngày nữa là tròn một năm, sau biến cố đẫm máu ở đây. Dương Hoa chuẩn bị từ giã nơi cậu đã ở mấy năm nay, trong lòng cậu xao xuyến vì dù sao qua mấy năm, cậu với khu rừng đá cũng có nhiều kỷ niệm đáng nhớ, nên trước khi vĩnh viễn không trở lại đây, cậu định sẽ du ngoạn nhìn lại một lượt các nơi chốn yêu dấu ấy.

Một hôm, Dương Hoa nhảy xuống Kiếm Trì bơi lội một vòng cho thân thể nóng lên, khi cậu đã nhảy lên khỏi Kiếm Trì cao hứng ngửa mặt lên nhìn ngọn Kiếm Phong sừng sững.

Cậu nhìn sững vào nét bút của hai chữ Kiếm Phong rất linh hoạt, tương truyền rằng đây là nét chữ của đệ nhất kiếm khách đời Minh là Trương Đan Phong viết nên. Nét bút quả là đã lột được hết mười phần công lực sắc như những đường kiếm xuất ra dứt khoát. Dương Hoa cứ chú tâm nhìn nét bút, có cảm giác Trương Đan Phong đã đem kiếm pháp và bút pháp hòa làm một viết thành hai chữ Kiếm Phong để đời này. Đột nhiên cậu phát hiện dường như nét sổ của bộ “đao” nằm trong chữ “kiếm” bị khuyết đi một chút. Không lẽ một người võ công thâm hậu như Trương Đan Phong mà lại run tay khi đang viết chữ ư? Hoặc là giữa núi đá dựng lên sừng sững hoàn toàn không có chỗ đặt chân nên bút lực của họ Trương mới kém phần xương kính?

Quả là ghê gớm nếu ai có ý muốn viết chữ trên ngọn núi đá này, vì ngọn núi dựng thẳng lên trời như ngọn bút đứng hoàn toàn không có một nơi nào bằng phẳng để đặt chân thì làm sao có thể đu mãi giữa không trung để viết thành chữ? Không hiểu Trương Đan Phong đương thời đã dùng cách gì, treo người vào đâu mà viết được hai chữ Kiếm Phong còn lại đến ngày nay? Trên đỉnh ngọn núi này có thể nói đến loài khỉ vượn cũng khó trèo lên được huống hồ con người?

Nhưng Dương Hoa bây giờ võ công đã lên tới tuyệt đỉnh, cậu lại đang thắc mắc vì một nét gãy của hai chữ Kiếm Phong nên thi triển chiêu pháp Bích Hổ Du Tường khinh công thượng thừa vọt mình lên mặt đá trơn bóng. Khi thân hình của Dương Hoa đã vọt lên lơ lửng đến gần hai chữ Kiếm Phong, cậu quan sát nét sổ bị gãy đột nhiên phát giác ra không phải xưa kia Trương Đan Phong bị run tay mà đó chính là một miệng hang nên làm nét bút không liền lạc với nhau được.

Dương Hoa nhanh tay rút kiếm chém một đường cực mạnh vào gốc cây mọc đưa ra từ miệng hang, đường kiếm cắm sâu vào thân cây tạo thế tựa cho cậu vọt lên một lần nữa đã dựa được thân vào miệng hang.

Dương Hoa căng mắt nhìn vào trong miệng hang, chỉ thấy một màu đen đặc lờ mờ không thể biết được lòng hang nông hay sâu, động tính hiếu kỳ Dương Hoa quên cả sợ hãi, cậu mạnh dạn bước vào sau khi đánh lên một hòn đá lửa để có thể nhận rõ lối đi.

Trong động đưa ra một luồng uế khí nhức óc, nhưng đã quyết định thám hiểm, Dương Hoa dứt khoát giương cao ngọn lửa vạch đám cỏ lau rậm rạp bước sâu vào.

Miệng động đang hẹp bỗng mở rộng ra, Dương Hoa đi qua một hành lang bằng đá thốt nhiên đến một nơi rộng rãi sáng sủa. Cậu nhìn thấy góc động có đặt một chiếc bàn đá, trên bàn có một viên bạch ngọc và vài hàng chữ viết ngay trên mặt bàn. Viên ngọc trắng này kỳ dị ở chỗ nó bằng một khối ngọc đẽo thành ra rất lớn, có thể nói với độ lớn này nó là một viên ngọc vô giá.

Đằng sau chiếc bàn trên vách đá là bức tranh vẽ một trung niên thư sinh người tuấn tú thanh nhã khác vời, một hàng chữ nho nhỏ bên trái viết rằng: “Trương Đan Phong tự họa năm Thiên Thuận thứ bảy”.

“Thiên Thuận” là niên hiệu của ông vua thứ sáu triều nhà Minh là Anh Tông Chu Kỳ Trấn (tính theo tây lịch thì Thiên Thuận thứ bảy là năm 1463) cách đây đã trên ba trăm năm.

Dương Hoa đứng trước bức họa chân dung của vị được coi là võ học đại tông sư không khỏi tự sinh lòng cảm phục kính trọng. Cậu nhìn lại mấy hàng chữ viết trên mặt bàn cạnh viên bạch ngọc, bốn hàng chữ đại tự viết rằng:

“Kẻ nào đã vào được đến đây là có duyên lớn với ta, nếu nguyện làm đồ đệ của ta thì phải tuân theo giới luật của ta”. Liền sau đó viết liền bằng nét chữ nhỏ mười điều giới luật, rồi lại tiếp một hàng chữ:

“Lễ bái sư phải đọc hết mười điều luật rồi lạy ta mười lạy là đã thành đồ đệ của ta”.

Nhìn khắp mặt bàn hoàn toàn không thấy có quyền kinh kiếm phổ hoặc bí kíp nào cả.

Dương Hoa nghĩ thầm trong bụng “Ta hoàn toàn không cần tuyệt thế võ công làm chi, nhưng đứng trước vị đại hiệp như Trương Đan Phong đây, ta sẵn sàng cúi đầu lạy trăm lạy tôn ông làm sư tôn xa đời”.

Trong mười điều giới luật chép sau đó chỉ có giới luật thứ nhất rất đặc biệt khiến Dương Hoa chú ý còn chín điều kia cũng giông giống như giới luật của các danh môn chính phái khác như “Không cậy mạnh hiếp yếu, không được gian dâm trộm cướp, không giữ vật bất nghĩa…” Đệ nhất điều giới luật như sau: “Không được làm thần tử cho triều Minh, nhưng khi có ngoại địch xâm lược thì cũng có thể vì triều Minh mà cộng lực”. Nguyên do có giới luật như thế vì xưa kia tổ phụ của Trương Đan Phong vốn với thủy tổ nhà Minh là Chu Nguyên Chương cùng nổi lên chiếm đoạt giang sơn đang nằm trong tay nhà Nguyên. Tổ phụ của Trương Đan Phong là Trương Sĩ Thành ác chiến một trận với Chu Nguyên Chương trên sông Trường Giang, Trương đại bại phải tự trầm dưới lòng sông cho nên Trương Đan Phong vẫn nhớ mối hận ấy viết nên giới luật cấm thứ nhất, không được làm quan với nhà Minh.

Dương Hoa lại nghĩ: “Đương nhiên ta không hề có ý làm quan, nhưng yếu chỉ rốt ráo của giới luật này là phải ra sức chống lại sự xâm lược của ngoại xâm. Hiện nay bọn tộc Mãn Châu đang chiếm hết giang sơn của người Hán, ta cũng có tâm niệm phải đánh đuổi bọn Mãn Thanh ra khỏi đất nước thì cũng trùng hợp với ý nguyện của Trương tiền bối rồi! Còn chín điều kia toàn là những điều giống như các vị sư phụ vẫn dạy ta, nào có gì khác?”.

Nghĩ đến đây, bất giác đầu gối của Dương Hoa đã quỵ xuống tự lúc nào và đầu cậu cũng tự nhiên cúi xuống lạy liền mấy cái.

Đây là xuất phát từ lòng ngưỡng mộ chân thành trước di tượng của một bậc võ học tông sư và tự nhiên trùng hợp với di chúc của Trương Đan Phong. Cứ đọc một điều giới luật Dương Hoa lại dập đầu lạy mười lần, đọc hết mười điều giới luật cậu đã dập đầu lạy đến một trăm lần, trán cậu xưng lên một cục rất lớn.

Bỗng nhiên xảy ra điều kỳ lạ.

Đập vừa hết cái lạy thứ một trăm bỗng mặt đất mở ra một khoảng lớn để lộ một cửa sơn động lấp lánh, trong động phát ra một luồng ánh sáng kỳ dị.

Dương Hoa nhìn xuống lòng đất sâu, thấy dưới đó có một hộp nhỏ bằng ngọc, bốn cạnh đều có khảm bốn loại minh châu rất quý. Dương Hoa cầm hộp ngọc lên mở nắp ra coi, bên trong chỉ có một quyển sách trên bìa viết mấy chữ Huyền Công yếu quyết.

Dương Hoa đã được các vị sư phụ chân truyền đao pháp và kiếm pháp có thể nói khó có người đối địch, nhưng về nội công thượng thừa thì cậu chưa có cơ hội học tập. Tuy lúc nhỏ cậu có được thân mẫu và Ân Cừu Thế chỉ điểm cho phần nhập môn luyện công rồi sau lại được Đan Khâu Sinh dạy thêm công phu nữa, nhưng nội công của hai vị sư phụ này hỗn loạn giữa lằn ranh tà và chính không thể gọi là thượng thừa chính tông nội công tâm pháp được.

Trương Đan Phong lưu lại bản Huyền Công yếu quyết này nhất định là tinh sáng võ học của cả một đời ông và quyết phải là tâm pháp thượng thừa.

Dương Hoa nghĩ bụng: “Trương Đan Phong là bậc võ học tông sư, hiển nhiên nội công tâm pháp phải rất khó lãnh hội?”.

Quả nhiên, đọc trang đầu cậu mù mịt chẳng hiểu gì cả, trang ấy viết: “Khổng Tử nói: Phạm vi biến hóa của trời đất chẳng qua không ngoài lý, khí và tượng”. Xem văn tự và ý nghĩa, Dương Hoa càng mù tịt thêm, cậu than thầm: “Khổng Tử có biết gì về nội công mà lại dẫn ông ta vào đây?”.

Bèn đọc lại một lần nữa, dần dần mới biết lời của Khổng Tử quả là có quan hệ đến luyện công. Trong sách còn viết: “Tượng là hình của quyền, khí là thế của quyền, lý là công của quyền. Lý, khí, tượng đầy đủ thì giơ tay đá chân, không thể nào không trúng”.

Khi đã nắm được căn bản của các lời giải thích ấy, thì việc tu tập nội công thượng thừa đã nắm được chỗ “tâm pháp” rồi. Dương Hoa cố công xem xét kỹ lưỡng, càng đọc càng thông hiểu các nguyên lý uyên ảo. Tuy phần giải nghĩa trong Huyền Công yếu quyết chỉ có hơn mười trang giấy mà đã bao quát cả bao la vạn tượng. Cậu thấy sở học của cậu trước khi học Huyền Công yếu quyết giống như suối nhỏ so với biển rộng.

Dương Hoa giở đến trang cuối cùng của cuốn sách đọc được dòng chữ cuối cùng :

“Khi nào thông hiểu được tâm pháp của sách này mới có thể học tới phần Vô Danh kiếm pháp, cậu nghĩ bụng Huyền Công yếu quyết là tinh thâm bát đại, muốn thông hiểu được nó, đâu phải là chuyện dễ dàng? Tiếc rằng ta không có thì giờ ở đây lâu được, vậy hãy cứ xem Vô Danh kiếm pháp trước đã”, lại nghĩ thêm: “Kiếm pháp gọi là ‘Vô Danh’ thực là đặc dị. Ta nghe rằng Trương Đan Phong là Thủy tổ của môn phái Thiên Sơn phái sao ông không đặt tên là Thiên Sơn kiếm pháp?”.

Dương Hoa vừa nghĩ vừa bước vào sơn động cuối cùng đến một gian thạch thất. Chung quanh vách đá của thạch thất chi chít những hình vẽ đủ mọi tư thế người đang cầm kiếm giao đấu có đến mười tám đồ hình, mỗi đồ hình đều ở tư thế khác nhau.

Nhưng chỉ có đồ hình thôi, tuyệt không có một chữ nào giải thích cả.

Dương Hoa chú tâm quan sát. Đồ hình thứ nhất tượng hình Triều Thiên Nhất Chú Hương, đây là một kiếm thế, đầu kiếm dựng lên như bút chỉ lên trời. Nhưng có điều kỳ dị là nhìn thẳng thì thấy kiếm chỉ lên trời, mà nhìn nghiêng lại thấy đầu kiếm nghiêng xuống nhìn ở góc độ khác lại thấy kiếm như đang chém xuống đầu địch thủ.

Chiêu thứ hai giống như Huyền Điểu Hoạch Sa nhưng nhìn kỹ lại không giống. Huyền Điểu Hoạch Sa dường như chuyển thân phản thủ kiếm thức. Dương Hoa rút kiếm bên mình ra thủ hai chiêu thế đầu từ Triều Thiên Nhất Chú Hương biến thành Huyền Điểu Hoạch Sa.

Tất cả các chiêu thế kiếm pháp sau đó đều biến ảo kỳ dị, nhìn sơ qua tưởng là những chiêu thức phổ thông nhưng học kỹ thì lại hoàn toàn khác hẳn, thậm chí sự biến ảo của nó xảy ra ở cùng một chiêu thế như đánh một chiêu mà tay phải giống như của phái Giáp, nhưng tay trái lại ra thế giống như của phái Ất, mà kiếm ở giữa lại ra giống như chiêu số của phái Bính. Nhưng qua mười tám đồ hình đầu, kiếm thế đều không liên tục, Dương Hoa thấy sự kỳ diệu lạ lùng của các chiêu thức trong bụng nghĩ: “Kiếm pháp này có thể so sánh với Huyền Công yếu quyết về sự khó hiểu, các tên gọi chiêu thức đều ảo diệu đến không bút mực nào tả được, hèn chi nó gọi là Vô Danh kiếm pháp”.

Đây vốn là kiếm pháp do Trương Đan Phong đến vãn niên mới sáng chế ra sau khi đã khai sáng Thiên San phái khá lâu. Đó là lúc người vợ yêu quý của ông là Vân Lôi vừa chết, ông giao cho Chưởng môn đệ tử là Tiêu Thiên coi sóc môn phái, còn ông trở lại Trung Nguyên tìm đến những nơi xưa kia ông và Vân Lôi từng đi qua, hồi tưởng lại thời gian vui sướng bên người vợ quý, cuối cùng ông vào rừng đá này sống hết tuổi già và sáng chế ra mười tám thế Vô Danh kiếm pháp. So với các loại kiếm gọi là “hữu danh” thì Vô Danh kiếm pháp đạt tới trình độ cao hơn một bực.

Nhưng có điều Dương Hoa chưa tường tận Huyền Công yếu quyết nên đương nhiên không thể hiểu được phần tối thâm ảo của Vô Danh kiếm pháp.

Dương Hoa đi ra khỏi thạch thất, trong bụng tự an ủi: “Hiện nay ta không có thời gian để lãnh hội Huyền Công yếu quyết. Cố cưỡng muốn học chỉ vô ích thôi, và kiếm pháp của tổ sư tất nhiên là phải thâm diệu, chi bằng ta cố ghi nhớ các đồ hình đợi sau này biết đâu ta chẳng giác ngộ được chỗ kỳ duyên của nó?”.

Ra đến cửa động mới hay trời đang về đêm, bốn bề mênh mông bóng tối. Nguyên vì cậu chăm chú ở trong động mê mải tìm hiểu võ học của Trương Đan Phong đã gần hết một ngày, đến lúc thấy đói bụng mới ra ngoài cửa động vội bò xuống ngọn Kiếm Phong.

Liên tiếp mấy ngày hôm sau, Dương Hoa lúc nào cũng đem những đồ hình trong thạch thất mà cậu đã ghi nhớ trong bụng ra luyện tập, bất giác bảy ngày qua mau như thoi đưa, hạn kỳ một năm đã đến và mười tám thế Vô Danh kiếm pháp cũng đã in sâu vào trí nhớ của cậu.

Tuy nhiên Dương Hoa đã hết thời gian lưu lại rừng đá, vả chăng cậu cũng rất nóng ruột đi tìm Mạnh Nguyên Siêu để hỏi cho ra những mối nghi ngờ ngổn ngang trong lòng cậu và cậu cũng còn kế hoạch tầm cừu trả oán cho các sư phụ vì đã đúng một năm từ ngày hai sư phụ cậu thất tung.

Cuối cùng đã đến ngày, Dương Hoa dù lưu luyến cách mấy cũng phải chia biệt với khu thạch thất của cậu, nhưng ngay ngày hôm ấy khi Dương Hoa đang đi ra khỏi khu rừng đá bỗng xảy ra một sự việc. Cậu vừa đi vừa nghĩ ngợi nhớ đến cũng ngày này đúng một năm về trước: “Nhị vị sư phụ của ta tử sinh ra sao chưa biết được, nhưng khả năng còn sống chỉ là khả năng hiếm hoi nhất. Nếu có như vậy thì sao bọn ma đầu Dương Kế Mạnh lại không thể chưa chết?” Nghĩ đến đó Dương Hoa lại bàng hoàng nghĩ tiếp: “Giả như Dương Kế Mạnh chưa chết thì việc trước hết là y sẽ trở lại khu thạch lâm này, nếu vạn nhất y phát hiện ra bí mật trên ngọn Kiếm Phong với sở học võ công của y, y sẽ lãnh ngộ được Vô Danh kiếm pháp của Trương Đan Phong và như vậy thực nguy hại cho giới võ lâm. Sao bằng ta hãy trở lại Kiếm Phong phá hủy hết đi đã”. Nghĩ rồi Dương Hoa quyết định quay lại, cậu vòng trở về phía Kiếm Hồ, cúi mình xuống uống một ngụm nước trong vắt trong lòng hồ, trong lòng phấn khích cậu thuận tay ngắt luôn một bông hoa mọc hoang dã bên bờ hồ.

Chính lúc cậu đang ở bên bờ hồ ấy, bỗng nhiên nghe có tiếng chân người, giống như đã đến bên cạnh rồi vậy. Dương Hoa kinh hoảng vội đảo thân nằm rạp đằng sau một khối đá lớn.

Tiếng chân đã lại gần. Đó là cặp thanh niên nam nữ vừa đi vừa chuyện trò, nhưng chỉ nghe thấy tiếng mà chưa thấy mặt vì khu rừng đá này toàn những đá tảng chất chồng lên nhau vòng qua ngoặc lại rất ư thâm hiểm, nếu đã thấy mặt tức là cự ly cách nhau rất gần.

Dương Hoa tâm động: “Hoặc là sư phụ trở về tìm ta chăng? Nếu thật là sư phụ ắt người đã lớn tiếng gọi tên ta rồi chứ? Hoặc là tên Dương Kế Mạnh với bọn ma đầu đã tìm đến?”.

Vừa nghĩ tới đó, mọi nghi vấn của Dương Hoa tiêu tan cả vì lập tức đã xuất hiện cặp thanh niên nam nữ, nghe thanh âm tiếng nói của họ thì có thể đoán được họ còn rất trẻ.

Nàng con gái chu môi tán thưởng :

– Đây thực là cảnh động phủ thần tiên!

Người con trai khẽ cười :

– Muội muội đừng quên phải ghi lại dấu hiệu cẩn thận để nếu chúng ta không tìm được thúc phụ cũng biết đường mà trở ra.

Dương Hoa nghe câu nói ấy chợt nhớ ra có lần nhị sư phụ nói với mình ông cũng có một người cháu, trong lòng tự hỏi: “Trước đây Dương Kế Mạnh cũng từng sống ở đây một thời gian, không hiểu thanh niên này là điệt nhi của ai?” Rồi lại nhớ có lần tam sư phụ nói rằng nhị sư phụ xưa kia vốn là một tiểu vương gia, từ khi lìa bỏ gia đình đi giang hồ, cháu ông kế thừa tước vị tiểu vương gia của ông. Cách đây trên hai năm có lần chính tai cậu cũng có nghe sư phụ nhắc đến tên người điệt nhi ấy, hay là đây chính là tiểu vương gia này đến đây tìm thúc phụ chăng?

Nghĩ ngợi phân vân mãi vẫn chưa có gì sáng tỏ, Dương Hoa đành phải cứ theo dõi xem đôi nam nữ này đến đây với ý định gì. Cậu dùng thuật khinh công nấp sau những tảng đá âm thầm đi theo họ.

Người thiếu nữ tiếp tục nói :

– Huynh hãy yên tâm, em không bao giờ quên được chỗ này đâu, vì xưa kia Mạnh đại hiệp đã từng dẫn em tới đây nhiều lần rồi.

Dương Hoa nghe câu ấy tâm thần chấn động. Mạnh đại hiệp? Phải chăng vị cô nương này muốn nói đến Mạnh Nguyên Siêu? Quả nhiên thanh niên trả lời :

– Mạnh Nguyên Siêu là bạn rất thân với thúc phụ của ta, lâu rồi không gặp người, Băng muội, lâu rồi em có biết gì về tin tức của người không?

Không nghe vị tiểu cô nương đáp lại ra sao, đột ngột nàng la lên :

– Thanh ca, chết rồi…

Thanh niên được gọi là Thanh ca hỏi dồn dập :

– Băng muội, cái gì chết rồi?

Tiểu cô nương :

– Khi xưa Mạnh đại hiệp có dặn em hãy tìm đến Kiếm Phong ở đây sẽ có chuyện kỳ thú, sao ta chưa thấy Kiếm Phong ở đâu vậy?

Thanh niên tên thực là Ân Kiếm Thanh đáp :

– Băng muội, sao Băng muội nói là đã qua đây nhiều lần?

Thiếu nữ tên Lãnh Băng Nhi bối rối :

– Em… em… thực trí óc hỗn độn quá… hay là… hay là…

Nàng chưa kịp nói hết câu, bỗng ngừng hẳn vì bên tai lồng lộng có tiếng đối đáp của những người lạ không biết từ đâu xuất hiện. Đầu tiên là tiếng nói ồm ồm như quát của một lão nhân :

– Thạch Sinh, ngươi sợ hay sao không dám dẫn ta đến Kiếm Phong?

Dương Hoa đã trông thấy mặt người được gọi tên là “Thạch Sinh” ấy, cậu hồi tưởng lại chuyện cũ: tên này tên là Bàn Thạch Sinh, nguyên là đại đệ tử của Dương Kế Mạnh bốn năm trước đã cùng Dương Hoa giao đấu. Bốn năm trước Dương Hoa mới là cậu bé mười bốn tuổi, bản lãnh đương nhiên không thể so sánh với y được, nên bị y đánh cho một trận tan tác, may nhờ có Đan Khâu Sinh đánh bại Dương Kế Mạnh nên Bàn Thạch Sinh đàng bỏ dở trận đấu chạy theo sư phụ thoát ra khỏi khu rừng đó và nhờ đó Dương Hoa mới thoát chết dưới tay y. Hôm nay y trở về đây với lão già lạ mặt không biết có ý định gì?

Vừa lúc ấy Dương Hoa nghe tiếng Bàn Thạch Sinh trả lời :

– Không phải ta sợ gì nhưng đạo trưởng nên nhớ Đan Khâu Sinh bản lãnh phi thường, ta phải tìm hiểu xem y còn sống hay không, rồi mới nên tìm đến Kiếm Phong. Vả lại, ta còn lo cho tính mạng của sư phụ ta trước chứ…

Lão già ngắt lời :

– Lệnh sư phụ có phải đến đây một mình đâu mà ngươi phải lo? Đi theo hỗ trợ cho sư phụ ngươi còn có sư huynh ta là Động Huyền Tử và thêm cả Âu Dương Nghiệp là tay cao thủ. Ngươi phải biết trong Không Động phái của ta trừ Chưởng môn sư huynh thì không kể, về nội công có ai hơn được Động Huyền sư huynh đâu. Đan Khâu Sinh làm sao đáng là đối thủ được?

Bàn Thạch Sinh nói :

– Nếu Đan Khâu Sinh đã chết sao đã một năm rồi không thấy sư phụ ta trở về?

Nghe lời đối thoại của hai người, Dương Hoa đã rõ ý định của chúng đến đây thì ra vì đã đúng một năm không thấy đồng bọn trở về, nên họ đi tìm đó thôi.

Lại nghe lão già ồm ồm đáp :

– Ta cũng chẳng hiểu tại sao. Hoặc là bọn họ ở trong núi đá sâu thẳm quá không biết có chúng ta đến tìm chăng? Nếu ngươi sợ hãi quá, ngươi cứ về trước đi.

Nghe câu này, Bàn Thạch Sinh lộ sắc giận, y đáp :

– Động Minh đạo trưởng, ta còn có sư phụ ở trong này, ta nào có sợ gì?

Dương Hoa nghe đến bốn chữ “Động Minh đạo trưởng” liền kinh hoảng vì trước đây đã có lần nghe sư phụ Đan Khâu Sinh nhắc đến tên này.

Cứ theo lời Đan Khâu Sinh thì Không Động phái, trừ Chưởng môn nhân có hai đệ tử lớn, một là Động Huyền Tử được coi là đệ nhất nội công, hai là Động Minh Tử là đệ nhất kiếm thuật, người này đã luyện thành Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp mỗi khi thi triển kiếm thuật này như có tám kiếm khách cùng hợp tấu, uy lực rất cương mãnh.

Về kiếm học, ngoài tổ sư Trương Đan Phong đã cách đây ba trăm năm là không kể, Dương Hoa chỉ khâm phục bản lãnh của tam sư phụ Đan Khâu Sinh, nhưng nghe Đan Khâu Sinh ca ngợi Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm, cậu biết Động Minh Tử phải là tay vô cùng lợi hại, tiếc rằng khi xưa cậu học Nhiếp Vân kiếm pháp với Đan Khâu Sinh chỉ được nửa năm, không biết có đủ bản lãnh để đối phó với Động Minh Tử hay không?

Động Minh Tử và Bàn Thạch Sinh nói chuyện với nhau thanh âm nhỏ dần, nhưng Dương Hoa bây giờ nội công vô cùng thâm hậu bất phàm nên cậu chỉ cần áp tai sát xuống mặt đất là đã nghe khá rõ những lời qua lại của họ.

Lúc ấy Lãnh Băng Nhi và Ân Kiếm Thanh vẫn còn đang luống cuống chưa biết đối phó ra sao, nhưng rồi chàng thanh niên đành chủ động trước :

– Ta đi khỏi nơi đây thôi!

Vừa ngay lúc Động Minh Tử và Bàn Thạch Sinh đã đến bên Kiếm Trì, Động Minh Tử trầm giọng :

– Im lặng, hình như có người!

Lãnh Băng Nhi cũng la lên :

– Coi kìa Thạch ca, hình như người này…

Lãnh Băng Nhi chưa kịp dứt câu, lão đạo sĩ và trung niên đã xuất hiện ngay trước mặt :

– Các người là ai, đến đây làm chi?

Ân Kiếm Thanh và Bàn Thạch Sinh cùng lên tiếng hỏi một câu y như nhau.

Động Minh Tử cười lớn :

– Có phải ngươi là tiểu vương gia họ Ân, cháu ruột của Ân Cừu Thế không? Tiểu vương gia, hân hạnh, hân hạnh.

Ân Kiếm Thanh đáp :

– Dám hỏi đạo hiệu của đạo trưởng, hình như chúng ra chưa gặp nhau bao giờ làm sao đạo trưởng biết tôi là tiểu vương gia họ Ân?

Động Minh Tử lại càng cười lớn :

– Tiểu vương gia là một dòng họ lớn cực kỳ cao quý còn bần đạo là kẻ ngu lậu mà còn nghe đại danh của tiểu vương gia huống là. Đó là chưa nói lệnh thúc khét tiếng giang hồ, bần đạo từ lâu rất ư ngưỡng mộ. Bần đạo là Động Minh Tử của phái Không Động, không biết có bao giờ lệnh thúc nói qua tên của bần đạo với tiểu vương gia?

Ân Kiếm Thanh khẽ lắc đầu :

– Gia thúc rất ít khi có dịp nói chuyện với tôi về các nhân vật võ lâm, nên xin đạo trưởng lượng thứ. Dám hỏi đạo trưởng tới đây có việc gì?

Động Minh Tử vẫn còn cười :

– Câu hỏi ấy đáng lẽ để ta hỏi tiểu vương gia mới phải.

Rồi lão lạnh lẽo tiếp :

– Chủ nhân của khu thạch lâm này vốn là sư điệt của bần đạo.

Ân Kiếm Thanh kinh ngạc :

– Sư điệt của đạo trưởng là ai?

Động Minh Tử đáp :

– Tiểu vương gia, ngươi không biết thực hay là giả không biết?

Nghe Động Minh Tử hỏi xách mé, Ân Kiếm Thanh phật ý :

– Vì cớ gì đạo trưởng bảo ta biết? Ta thực không biết.

Động Minh Tử chậm rãi đáp :

– Tệ sư điệt tên gọi là Đan Khâu Sinh, cứ theo ta biết, lệnh thúc và y là bằng hữu rất thân thiết. Có lần lệnh thúc cũng đã đến thăm Không Động Sơn, tiếc rằng lúc ấy ta không có mặt trên núi nên vô duyên không được gặp. Tiểu vương gia, phải chăng vương gia đến đây tìm lệnh thúc chăng?

Ân Kiếm Thanh biết không thể nói dối lão già này được, đành công nhận :

– Vâng, không ngờ gia thúc của tôi lại đến đây tìm sư điệt của đạo trưởng.

Động Minh Tử đáp :

– Tốt lắm, thế vương gia đã gặp được bọn họ chưa?

Trong giọng nói của lão, nghe kỹ có ý mỉa mai, khiến Ân Kiếm Thanh bất bình, chàng quay sang người bạn gái của mình :

– Ta đi thôi, xin đạo trưởng lượng thứ vì chúng ta không có thì giờ khoản tiếp đạo trưởng.

Bàn Thạch Sinh bỗng nhiên nói lớn :

– Hãy chậm đã.

Rồi liếc mắt rất nhanh về phía Động Minh Tử, Động Minh Tử trở giọng cứng rắn :

– Tiểu vương gia, thôi, chúng ta nên nói vào câu chuyện chính đi.

Ân Kiếm Thanh gằn nhẹ :

– Đạo trưởng có gì muốn chỉ giáo?

Bàn Thạch Sinh chen vào :

– Sư phụ ta có đến đây, ngươi biết chứ?

Ân Kiếm Thanh :

– Ai biết sư phụ của ngươi là ai?

Bàn Thạch Sinh đáp :

– Sư phụ ta là Dương Kế Mạnh, ngươi thực không biết ư?

Lãnh Băng Nhi hết sức kinh ngạc, vì từ lâu Dương Kế Mạnh vốn nổi tiếng là tên ác ma đệ tử của Mạnh Thần Thông nay lại gặp ngay đệ tử của Dương Kế Mạnh ở đây, nhưng Ân Kiếm Thanh thực sự không hề biết Dương Kế Mạnh là ai, chàng thật thà hỏi lại :

– Dương Kế Mạnh là ai ta thực chưa nghe nói tới bao giờ!

Bàn Thạch Sinh cười lạnh lẽo :

– Cái gì người cũng đáp là không biết. Thế nhưng bí kíp võ công của Trương Đan Phong cất ở khu thạch lâm này chắc ngươi phải biết chứ?

Câu “bí kíp võ công của Trương Đan Phong” từ miệng của Bàn Thạch Sinh nói ra khiến Ân Kiếm Thanh thực sự kinh ngạc :

– Bí kíp nào đâu? Ta… ta quả thật không hiểu ngươi… ngươi… định nói cái gì?

Bàn Thạch Sinh cười lạnh lùng :

– Hảo tiểu tử! Thật giỏi nói láo! Chúng ta đều đã thấy và nghe ngươi vừa mới nói chuyện với tiểu cô nương đây về bí kíp…

Ân Kiếm Thanh không biết bản lãnh của đối phương ra sao, nhưng trong bụng tự nhủ: “Bí kíp đã bị tiết lộ… ta phải bịt mồm chúng lại…”.

Chàng ngạo nhiên đáp lời :

– Ta không nói nữa, ngươi đã nghe lẫn lộn rồi. Mời động thủ!

Động Minh Tử cười khà khà, mặt nghiêm sắc :

– Tiểu vương gia, ta khuyên ngươi nên cẩn thận lời nói. Xưa kia sư phụ của Bàn Thạch Sinh ở khu rừng đá này trước cả Đan Khâu Sinh mấy năm cố công truy tìm bí kíp võ công. Bí kíp này là của người ta, tại sao vương gia định tới đây chiếm đoạt?

Ân Kiếm Thanh nộ khí xung thiên :

– Ta đã nói không biết là không biết, thôi đừng hỏi lý lẽ gì mất công!

Dứt lời, tay liền rút kiếm.

Động Minh Tử như không thèm nhìn, càng cười dữ dội hơn :

– Tiểu vương gia, người muốn tỷ thí với ta ư? Ta e rằng người nên về học kiếm thêm mười năm rồi hãy đấu với ta.

Ân Kiếm Thanh vẫn khinh thường :

– Nếu lão không dám so kiếm, ta nhường trước cho một chiêu đầu đó!

Bàn Thạch Sinh bước tới một bước :

– Đạo trưởng, ông đôi co với tiểu tử ấy làm chi. Tiểu tử có học kiếm thêm mười năm cũng chưa đáng là đối thủ của ông đâu. Xin nhường tiểu tử cho ta!

Lời vừa dứt, thân ảnh cũng đã tiến đến. Ân Kiếm Thanh chém tới một kiếm. Bàn Thạch Sinh nhẹ nhàng búng vào sống kiếm một búng. Ân Kiếm Thanh chỉ thấy một luồng hàn khí công thẳng vào lòng bàn tay lạnh buốt tới xương đến nỗi không cầm nổi kiếm đành phải buông rơi kiếm xuống đất.

Ân Kiếm Thanh kinh hoàng nhấc vội chưởng lên ra chiêu Lan Giang Tuyệt Đẩu bảo vệ trước ngực. Bàn Thạch Sinh không biết dùng chiêu thế gì chưởng vươn ra quét vụt tới.

Song chưởng cùng đụng nhau, Bàn Thạch Sinh la lên một tiếng “Ối” vang dội.

Nguyên là Ân Kiếm Thanh tuy bản lãnh chưa phải là cao cường, nhưng về nội công lại được chân truyền bởi Trương Đan Phong học phái nên Bàn Thạch Sinh khinh địch không ngờ tới.

Bàn Thạch Sinh sau tiếng la vội chuyển thế, tả chưởng trầm trọng xuất ra cùng với hữu trảo đánh tới cổ tay của Ân Kiếm Thanh.

Trảo và chưởng của y đều vận dụng Tu La Âm Kiệt công nên hàn khí toát ra lạnh tới xương đánh trúng tay Ân Kiếm Thanh. Ân Kiếm Thanh trúng chiêu đau đớn rú lên một tiếng, mặt cắt không còn một hạt máu trong khi cổ tay vẫn bị Bàn Thạch Sinh giữ chặt.

Lãnh Băng Nhi hô lớn :

– Buông ra mau!

Nhưng nàng biết nàng không đủ sức đối phó với địch thủ nên thân nhảy tới mà chiêu pháp không dám thi triển.

Bàn Thạch Sinh cười ghẹo :

– Ta không nỡ đả thương mỹ nhân đẹp như hoa thế này đâu.

Nghe câu trêu ghẹo của Bàn Thạch Sinh, Lãnh Băng Nhi nộ khí quên cả sợ, đâm liên tiếp mấy mũi kiếm vào mặt y. Kiếm pháp của Thanh Thành phái phiêu phiêu lợi hại, nhưng Bàn Thạch Sinh có ý không muốn đả thương Lãnh Băng Nhi, y chỉ né tránh cố ý làm cho chiêu thế cước pháp của Lãnh Băng Nhi hỗn loạn. Y cười độc ác :

– Tốt lắm, nếu muốn đâm ta cho đâm!

Tay y khẽ lay động đã nắm Ân Kiếm Thanh xoay về phía kiếm của Lãnh Băng Nhi.

Bàn Thạch Sinh nhìn thấy Lãnh Băng Nhi lúng túng điều khiển mũi kiếm để đừng đâm trúng Ân Kiếm Thanh thì buông ra một chuỗi cười khoái trá. Bỗng nhiên một tiếng hô rất lớn :

– Buông tay!

Chỉ thấy một vệt sáng vọt tới đẩy mạnh mũi kiếm ra. Đó là Dương Hoa.

Thân hình của Dương Hoa đang còn lơ lửng trên không đã phóng ra ám khí là một viên đá nho nhỏ.

Bàn Thạch Sinh kinh hoảng vì không ngờ có người phi thân tới như tướng trên trời rơi xuống, mắt y vừa hoa lên thì viên đá ám khí đã bay tới trước mặt nhằm ngay huyệt Thái Dương của y nhanh đến độ có muốn cong người xuống tránh cũng không còn kịp nữa.

Bỗng nhiên một tiếng “cong” vang lên, viên đá đã vỡ làm hai bay vọt ra hai bên. Nguyên là Động Minh Tử thấy tình hình của Bàn Thạch Sinh nguy cấp quá liền rút một đồng tiền trong túi bắn ra nhằm ngay viên đá. Đồng tiền bắn ra đụng viên đá vỡ làm đôi chứng tỏ công lực của lão còn hơn cả Dương Hoa nữa.

Tuy không đánh trúng Bàn Thạch Sinh, nhưng rõ ràng trước mắt viên đá sắp đả thương mình, khiến Bàn Thạch Sinh cũng phát sợ đến toát mồ hôi hột.

Lãnh Băng Nhi thừa cơ hội y đang đứng ngây ra, liền đâm một kiếm từ đằng sau y. Bàn Thạch Sinh trong thế bắt buộc đành phải buông Ân Kiếm Thanh ra lăn một vòng ra xa tránh kiếm.

Viên đá tuy đã vỡ làm hai, nhưng dư lực của nó vẫn còn mạnh mẽ đập trúng mái tóc của Lãnh Băng Nhi khiến nàng vừa đau vừa giận, nhưng thấy tình cảnh của Ân Kiếm Thanh, nàng cố nhịn đau chạy lại dìu bạn.

Bàn Thạch Sinh đứng dậy, toàn thân đẫm mồ hôi, rõ ràng nếu Động Minh Tử không búng kịp đồng tiền cứu y thì dù y không bị trúng “Thái Dương huyệt” chết liền tức khắc, viên đá ít nhất cũng trúng mắt khiến y mù luôn rồi.

Y cố lấy lại bình tĩnh đã thấy Dương Hoa đứng sững trước mặt cười hỏi :

– Bàn Thạch Sinh, ngươi nhận ra ta chứ?

Bàn Thạch Sinh lô mắt ra nhìn, y kinh hoảng :

– À, thì ra tiểu tử năm xưa à?

Động Minh Tử hỏi vội :

– Tiểu tử này là ai vậy?

Bàn Thạch Sinh đáp :

– Chính là tên đồ đệ họ Dương của Đan Khâu Sinh đó và tính ra cũng là đồ tôn của đạo trưởng.

Động Minh Tử nói :

– Sư phụ của nó đã sớm bị tống cổ ra khỏi bản phái, làm sao gọi là đồ tôn của ta được? Nếu ngươi trêu chọc ta thì hãy liệu mà cẩn thận một mình đối phó với tiểu tử họ Dương đi!

Nguyên Động Minh Tử vốn tự phụ võ công của mình là cực cao, còn võ công của Dương Hoa bất quá cũng tầm thường như tuổi tác của y thôi, nên lão tỏ ý coi thường. Nhưng khi biết Dương Hoa là đồ đệ của Đan Khâu Sinh lão không khỏi kinh sợ thầm nghĩ bụng: “Nghe nói Đan Khâu Sinh luyện thành bản phái thất truyền Nhiếp Vân kiếm pháp không biết võ công này kỳ diệu đến thế nào. Nhưng đồ đệ đã như thế, thì cũng có thể biết được sư phụ rồi. Được lắm, ta sẽ xem kỹ thân thủ của tên tiểu tử này mà biết được công phu của thầy trò y”.

Lão một mặt muốn quan sát thân pháp của Dương Hoa để tìm hiểu võ công của Đan Khâu Sinh, một mặt lão là người tự phụ võ công thâm cao siêu, thân phận lại hơn Dương Hoa nhiều bậc, không tiện cùng động thủ, cho nên lão mới nói câu “cẩn thận một mình đối phó”.

Khi Bàn Thạch Sinh nhận ra Dương Hoa bao nhiêu ý khiếp sợ liền tiêu tan hết, y nghĩ thầm: “Dù cho tiểu tử này có thêm ba năm công phu đi nữa ta cũng không thể tin bản lãnh hơn ta được. Cùng lắm có lẽ tiểu tử chỉ luyện được chút ít khinh công và bắn ám khí để dọa ta vậy thôi”.

Dương Hoa cười khanh khách nói :

– Tốt lắm, ngươi không quên ta là tốt lắm. Thế ngươi có nhớ ba năm trước ngươi còn thiếu ta một món nợ không?

Bàn Thạch Sinh nghe Động Minh Tử dùng hai chữ “cẩn thận” nói kháy mình đang tức tối lắm, lại nghe thêm câu hỏi xách mé của Dương Hoa càng cáu tiết thêm, y hét lên :

– Tiểu tử đúng không biết sống chết là gì. Lại nhè nhằm Diêm Vương mà đòi nợ!

Giận quá mất khôn, y giơ chưởng tức thì độp xuống.

Dương Hoa vẫn đứng yên, đợi cho chưởng đến gần mình mới hơi nghiêng thân hoành ngang chưởng kéo lên.

Bàn Thạch Sinh vừa phát chưởng vừa nghĩ: “Trong vòng mười chiêu mà ta không hạ được tên tiểu tử này ắt sẽ làm trò cười cho Động Minh Tử thôi” rồi khi thấy Dương Hoa không thèm tránh chưởng của mình mà cũng phát chưởng đỡ lại y mừng rỡ trong bụng vì y đã sử dụng Tu La Âm Kiệt công rất độc hiểm.

Bàn Thạch Sinh chưa kịp mừng lâu song chưởng đã đụng nhau, chỉ nghe một tiếng “xoẹt” lớn, cánh tay phải của Bàn Thạch Sinh đã bị rụng ra khỏi vai.

Nguyên là Dương Hoa sử dụng một chiêu trong Mạnh gia khoái đao biến thành chưởng pháp nên Bàn Thạch Sinh không phải là tay non nớt nhưng cũng không thể nào biết được sự tinh diệu của tuyệt chiêu chưởng hóa thành đao này.

Nhưng Dương Hoa sau khi chế khắc được đối phương cũng phải thối lui lại hai bước, hai hàm răng đánh vào nhau lách cách vì khí lạnh của Tu La Âm Kiệt công vì tuy cậu đã khổ luyện công phu một năm rồi nhưng hỏa hầu vẫn chưa đủ chống lại hàn độc thâm nhập thân thể. Dương Hoa trong bụng cũng có phần kinh sợ, cậu hồi tưởng lại Huyền Công yếu quyết có một đoạn chỉ dạy về phương pháp vận khí khu trừ tà độc, vội vàng cậu theo đó vận khí liên tiếp ba lần liền khám phá ra trong thân dường như có luồng khí nóng từ từ dâng lên.

Dương Hoa cả mừng nghĩ thầm: “Huyền Công của tổ sư quả nhiên là kỳ diệu”. Rồi đó tinh thần phấn chấn, chính là lúc Bàn Thạch Sinh phát chưởng đánh tiếp tới.

Bàn Thạch Sinh tình trạng mới là đáng lo, vì dù sao y cũng có thân thế hơn hẳn Dương Hoa nay ở chiêu đầu đã bị đối thủ đánh cho nát cả cánh tay chỉ còn cánh tay trái là nguyên vẹn. Y sợ nếu chiêu này không thủ thắng ắt ngượng đến chết trước mặt Động Minh Tử nên còn bao nhiêu công lực y dồn vào tả chưởng phát ra một luồng Tu La Âm Kiệt công rất dữ dội.

Chưởng vừa ra y vừa la lớn :

– Tiểu tử chết này.

Dương Hoa đáp lại :

– Để xem ai chết.

Rồi hai tay chắp hai chưởng lại theo một thế do sư phụ Ân Cừu Thế truyền thụ gọi là Khởi Thủ Thức nhưng công lực của Dương Hoa bây giờ đã hơn hẳn mấy năm trước nên Khởi Thủ Thức phát huy hết nội lực phát ra những tiếng “u u” rất kinh dị.

Chỉ nghe Bàn Thạch Sinh kêu lên “Ối chà” thống thiết, người y đã văng ra lảo đảo ngã xuống đất lăn lộn vì cánh tay trái của y cũng đã bị trọng thương.

Dương Hoa cười lớn mấy tiếng :

– Ba năm trước ngươi đã tặng ta một chưởng. Hôm nay ta trả lại món nợ ấy!

Lần này dù tiếp chiêu Tu La Âm Kiệt công của Bàn Thạch Sinh nhưng Dương Hoa khí sắc vẫn bình thường, hiển nhiên là hoàn toàn không bị khí hàn độc xâm nhập.

Động Minh Tử đứng ngoài quan sát trận chiến không khỏi kinh dị, lão cùng lắm chỉ dám nghĩ Bàn Thạch Sinh dù không phải là đối thủ của Dương Hoa đi nữa cũng không thể chỉ mới có hai chiêu đầu đã chịu trọng thương bại trận một cách quá ư mau lẹ đến như vậy. Lão nghĩ thầm: “Thật là kỳ quái, tên tiểu tử này sử dụng hai chiêu hình như không phải là võ công của bản môn. Tuổi y còn quá trẻ không hiểu sao lại luyện nội công đến mức có thể hóa giải Tu La Âm Kiệt công dễ dàng đến thế?”.

Lúc ấy Lãnh Băng Nhi đã dìu Ân Kiếm Thanh chạy ra xa khỏi vùng giao đấu. Động Minh Tử vội vàng quát lên :

– Tiểu cô nương chậm chân lại!

Trong bụng lão nghi ngờ Ân Kiếm Thanh đã đoạt được bí kíp võ công Trương Đan Phong nên gấp đào tẩu. Hiện nay Bàn Thạch Sinh đã thụ thương, lão định nhân cơ hội đoạt lấy bí kíp làm của riêng.

Lãnh Băng Nhi cười khẩy :

– Lão tự xưng là võ lâm trưởng bối mà nói không biết giữ lời sao?

Động Minh Tử khẽ ho một tiếng :

– Ta nói gì không giữ lời?

Lãnh Băng Nhi đáp :

– Có phải lão đã nói nếu chúng ta không học võ công thêm mười năm nữa ắt chưa phải là đối thủ của lão không?

Động Minh Tử cười khanh khách :

– Ta không động thủ hại đến bọn ngươi, nhưng bọn ngươi cũng phải để vật ăn cướp lại chứ.

Lời vừa dứt thân ảnh của lão cũng đã vụt đến thoáng chớp đã ở sát sau lưng Lãnh Băng Nhi. Tay lão giơ lên phát ra một luồng kình phong dữ dội xô Lãnh Băng Nhi lảo đảo sắp té.

Lão dư biết bản lãnh của hai nam nữ thanh niên này không thể so sánh với lão nên lão chỉ muốn dọa già dọa non cho họ sợ thôi chứ không muốn đả thương vội nhưng trước mắt lão ánh lên một làn chớp, Dương Hoa đã đến nơi. Nhìn sắc mặt Dương Hoa không hề thay đổi, lão kinh dị nghĩ thầm: “Bản lãnh của tên tiểu tử này thật xuất phàm, cứ theo lẽ thường thì với tuổi tác của y dù có luyện đến tột cùng nội công của bản phái cũng không thể chống cự lại được với Tu La Âm Kiệt công. Ồ, không phải rồi. Chính thị y đã học được bí kíp của Trương Đan Phong rồi!”, lão trầm tư đứng ngố ra một lúc rồi mới nhận ra việc Dương Hoa đã ở trong vùng thạch lâm này mấy năm, đã từng nhiều lần thăm dò vùng Kiếm Phong và biết đâu chẳng phát giác ra bí kíp? Khả năng chiếm giữ bí kíp của Dương Hoa xét ra thuận lợi hơn Ân Kiếm Thanh rất nhiều. Lão tự trách: “Ta thật ngu muội, tại sao lại không sớm nghĩ ra điều ấy? Tiểu tử này thông thạo quen thuộc với thạch lâm này, tất nhiên y phải cướp được bí kíp rồi!”.

Nghĩ đến đấy lão bèn chuyển ý định không buồn để ý đến Ân Kiếm Thanh và Lãnh Băng Nhi nữa, vả lại lão cho rằng Ân Kiếm Thanh đang bị thương dù có muốn cũng không thể đi mau được.

Nếu khống chế được Dương Hoa, lão quay lại bắt bọn Ân Kiếm Thanh chắc vẫn còn kịp.

Động Minh Tử tâm trạng vừa chuyển động, cước bộ đã chớp nhoáng bước lại bên Dương Hoa.

Dương Hoa cố ý chận chân chỗ Động Minh Tử, cậu còn khinh mạn hỏi đùa :

– Muốn cùng nhau động thủ ư?

Động Minh Tử thản nhiên đáp :

– Đưa bí kíp của Trương Đan Phong ra đây ngươi sẽ thoát chết.

Dương Hoa hỏi :

– Phải đạo trưởng là trưởng lão Động Minh Tử của Không Động phái không?

– Nếu phải thì sao?

Dương Hoa nghiêm trang :

– Tuy sư phụ của ta bị đuổi khỏi môn phái nhưng xét cho cùng lão vẫn là trưởng bối của ta, ta xin nhường ngươi ba chiêu đầu!

Ta nên biết quy củ trong giới võ lâm khi hai đối thủ có danh phận khác nhau giao đấu thì tự nhiên người nào là trưởng bối phải nhường chiêu chứ không thể tiểu bối lại đi nhường chiêu cho kẻ trên được. Nay xét về thân phận thì Dương Hoa còn thua Động Minh Tử đến mấy bậc mà đòi nhường chiêu cho lão quả là cao ngạo quá đáng khiến lão nổi giận đến tím mày. Lão ho khan một tiếng :

– Tiểu tử cuồng ngôn vọng ngữ thật, ngươi đã không muốn sống nữa, ta sẽ vì ngươi chiều ý!

Hai chữ “chiều ý” vừa buông ra tức thì trảo pháp cũng quào xuống.

Thực ra Dương Hoa cố ý chọc cho lão nổi giận, khi thấy khí gió mãnh liệt đập tới, thân hình của Dương Hoa bỗng biến thành như con rắn nước trườn đi mất từ lúc nào thoát khỏi chiêu trảo đầu tiên của Động Minh Tử.

Động Minh Tử đánh hụt chiêu đầu, sợ hãi thầm nghĩ: “Thân pháp của tên này quả là cổ quái, giống như Nhiếp Vân Bộ Pháp đã thất truyền của bản phái”.

Cứ theo truyền thuyết thì Không Động phái đã thất truyền Nhiếp Vân kiếm pháp lâu lắm rồi, tuy nhiên vẫn còn một bộ pháp phối hợp cùng kiếm pháp. Động Minh Tử tuy chưa được học về bộ pháp kỹ lưỡng nhưng cũng đã từng nghe qua nên trong bụng lấy làm nửa tin nửa ngờ.

Cố nhiên Động Minh Tử kinh ngạc lắm, nhưng Dương Hoa cũng kinh sợ không kém vì trảo pháp của lão đánh vào sau lưng tuy chưa trúng người cậu mảy may mà cậu vẫn thấy một luồng hơi nóng chạy dọc theo xương sống khiến cậu cảm thấy như bị lửa đốt, cậu nghĩ thầm: “Thảo nào sư phụ ta đối với lão một lòng khâm phục. Lão nổi tiếng là trong bản môn kiếm pháp đệ nhất mà nội công cũng không phải tay vừa. Trảo chưa đánh trúng đã lợi hại như thế, nếu đánh trúng không biết ta sẽ ra sao?”.

Nói thì chậm nhưng sự việc rất mau lẹ, Động Minh Tử như ảnh theo hình luôn sát bên Dương Hoa, lần này lão ra chiêu cẩn thận hơn, một chiêu hai thế chưởng và quyền cùng thi triển một lúc. Chưởng hữu chụp từ trên xuống, quyền ta đảo ngược đánh móc từ dưới lên, chiêu này tên gọi là Thiên La Địa Võng chưởng trên giống “thiên la” (lưới trời) quyền dưới giống như “địa võng” (lưới đất).

Chưởng chủ về mềm, quyền chủ về cứng. Mềm thì hư mà cứng thì thật. Chưởng quyền liên hợp, cương nhu hỗ tương, hư thật kiêm dụng chính là bản lãnh của Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp của lão biến hóa mà thành.

Đánh ra chiêu tối độc này Động Minh Tử nhủ thầm: “Thử xem tiểu tử thoát khỏi Thiên La Địa Võng bằng cách nào?”.

Một tiếng “xoẹt” kéo dài ra, chiếc áo trên thân của Dương Hoa đã bị chưởng đánh rách tơi tả nhưng Dương Hoa trơn trượt như con cá đã thoát khỏi vòng Thiên La Địa Võng.

Võ công của Động Minh Tử là vô cùng cao minh vậy mà lão cũng không rõ Dương Hoa thoát mất lúc nào do đó quyền của lão đánh vào khoảng không.

Dương Hoa tán thưởng :

– Hay lắm! Tuyệt chiêu!

Thân hình Dương Hoa bắn ra xa rồi hạ xuống, cậu dùng chân đá lên một lớp cát bụi mù.

Dương Hoa đã nói trước là sẽ nhường lão ba chiêu. Bây giờ mới hai chiêu nên đá cát lên để hạn chế thị lực đối phương. Có thể nói đây chỉ là một xảo thuật vì chưa thể xuất thủ được.

Động Minh Tử thấy Dương Hoa có vẻ bỡn cợt lại càng tức giận, lão gầm lên :

– Cuồng vọng tiểu tử, hôm nay ta không giết được ngươi, ta thề không làm người nữa!

Tiếng gầm của lão như sấm động còn chưởng công của lão như sấm sét, bên cạnh lão có một thân cây to, chỉ nghe “bùng” một tiếng, thân cây trúng chưởng gãy gập xuống.

Động Minh Tử đã gầm phát điên :

– Hảo tiểu tử! Đó là ngươi tự tìm cái chết, đừng trách lão!

Chưởng phong liên tiếp xuất phát quét ào ào chung quanh, tuy không trúng Dương Hoa nhưng chỉ cần dư phong của nó Dương Hoa đã thấy lục phủ ngũ tạng trong người lộn lạo như gần nhảy vọt ra ngoài, cậu vội vàng hớp một ngụm chân khí vận dụng tâm pháp nội công của Trương Đan Phong điều tiết hơi thở. Lúc ấy bụi cát đã bị Dương Hoa đá lên mù mịt do đó Dương Hoa đứng trước mặt lão lúc nào lão cũng không biết.

Dương Hoa cười ha hả :

– Thái sư phụ, vãn bối đã nhường ba chiêu may mà chưa chết. Thế là đã tận tình tận nghĩa với bản môn. Xin tha thứ nếu vãn bối không thể tiếp tục nhường nữa.

Đứng ra nếu ở thân phận như Động Minh Tử, qua ba chiêu không đả thương được hàng tiểu bối thì nên bãi thủ nhưng nghe câu nói khiêu khích của Dương Hoa, lão nổi giận nghĩ thầm: “Trước mặt ta đây còn có Bàn Thạch Sinh, sự việc hôm nay nếu y mang ra rêu rao trong giới giang hồ, ắt ta không còn mặt mũi nào nhìn ai nữa!”.

Lão nắm liền lấy đốc kiếm rồi chớp mắt rút ra liền.

Dương Hoa nhìn nét mặt lão, đoán được tâm ý của lão già này nên càng chọc thêm :

– Động Minh đạo trưởng, tôi nghĩ rằng chỉ một kiếm khó giết tôi lắm, trưởng lão nên sử dụng luôn cả song kiếm.

Cậu không gọi lão là “thái sư phụ” nữa mà đổi gọi “đạo trưởng” tức là muốn biểu lộ tình sư môn đã hết.

Động Minh Tử giận quá mất khôn liền kéo “xoẹt” một tiếng, lưỡi kiếm sáng loáng tách ra thành hai lưỡi cực kỳ mỏng nhưng ánh sáng của nó lấp loáng rợn người.

Lão thủ song kiếm trong tay miệng cười nói :

– Chắc sư phụ của ngươi cũng nói qua về Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp của bản môn?

Nguyên vì Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp rất ư phức tạp thường phải có vài người kết hợp với nhau thành kiếm trận thì hiệu quả mới cao hay ít nhất cũng phải có hai người liên hợp phát huy mới hết sự ảo diệu của nó. Nhưng Động Minh Tử là người chuyên luyện về “liên hoàn” hơn mười năm nay nên lão vẫn có thể một mình thi triển được chiêu pháp này bằng cặp song kiếm của lão.

Dương Hoa chăm chú nhìn vào đầu kiếm của đối phương.

Mũi kiếm của Dương Hoa dựng lên, đột nhiên bạch quang vẽ một vòng tròn nhỏ đảo lộn như con rồng nhỏ nhắm chênh chếch về phía yết hầu của lão.

Động Minh Tử khẽ động hai hàng mi dài, trong bụng hoảng hốt: “Không biết tiểu tử sử dụng kiếm pháp gì vậy?” Nhưng ngoài miệng cố nói cứng :

– Tiểu tử đánh Huyền Hư Kiếm ư?

Dương Hoa cười nhẹ :

– Đạo trưởng giỏi thật.

Chớp mắt kiếm quang biến ảo từ chỗ hư biến ra thật thành chiêu Bạch Hạc Tước Linh vẫn đâm thẳng mũi nhọn vào yết hầu của đối phương.

Chiêu kiếm này Dương Hoa đã sử dụng đến phần linh diệu nhất của Nhiếp Vân kiếm pháp trước tiên dùng hư chiêu khiến đối phương bị nhiễu loạn mắt nhìn, phản chiêu không kịp rồi biến thành thực chiêu.

Nhưng Dương Hoa không biết rằng Động Minh Tử hỏa hầu đã lên đến chỗ cực cao thâm tuy lão không biết Dương Hoa sử dụng kiếm pháp gì nhưng chỉ nhìn qua tư thế, lão biết liền đây là hư chiêu sắp biến thành thực chiêu nên định tương kế tựu kế, co thân lại như con tôm để kiếm của Dương Hoa lướt qua đâm vào khoảng không.

Nói thì chậm nhưng thực sự chiêu thế qua lại cực kỳ mau lẹ, Động Minh Tử búng thân lên xuất chiêu liền. Kiếm của lão như có bọc gió xoẹt qua xoẹt lại đâm thẳng vào giữa ngực Dương Hoa.

Dương Hoa la lên :

– Giỏi lắm.

Tay lật ngược đốc kiếm khiến mũi kiếm trở ngược đâm thẳng về phía mình. Động Minh Tử cả kinh nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này không giết được ta nên định tự sát ư?”.

Lão không ngờ đây là một chiêu thế cực kỳ cổ quái. Mũi kiếm quay ngược chỉ về một vòng rất nhỏ rồi lại lật trở lại khiến Động Minh Tử không còn kịp trông rõ phương vị nữa.

Động Minh Tử kêu lên một tiếng “ối” kinh ngạc, kiếm trầm hẳn xuống thành thế Xuyên Châm Dẫn Tuyến lấy chiêu giải chiêu nghĩ liền: “Quả là tiểu tử này sử dụng Nhiếp Vân kiếm pháp thật kỳ diệu”. Lão dồn nội lực vào cặp song kiếm khiến nó kêu lên “u u” liên tiếp đảo lộn khống chế không cho kiếm pháp Dương Hoa thi triển rồi cười khanh khách quát mắng :

– Hảo tiểu tử, dù cho ngươi có sử dụng kiếm pháp gì đi nữa chẳng qua cũng như Tôn Hành Giả nằm trong tay Như Lai Phật Tổ thôi.

Dương Hoa lạnh lùng đáp :

– Thật vậy ư?

Nói xong kiếm nhấc cao lên, đánh ra một thế biến thành hai chiêu, đang là kiếm thế bỗng biến ra đao thế hạ rất mau xuống. Động Minh Tử cười nhạt :

– Tiểu tử quả không thích sống nữa.

Lão biết rằng thế kiếm này chỉ ở sự nhẹ nhàng mau lẹ nên liền xuất chiêu Cử Hòa Liêu Thiên đối phó lại. Đao và kiếm như quấn vào nhau người đứng ngoài chỉ còn thấy những luồng sáng xẹt qua chớp lại, đột nhiên đao thế của Dương Hoa đánh vào sống kiếm của Động Minh Tử tưởng có thể chém gãy kiếm rồi nhưng không ngờ vì kiếm có hai lưỡi nên lưỡi này đảo lên thì lưỡi kia lộn xuống, vẫn áp đảo đao thế.

Nguyên là Dương Hoa vừa đánh ra ba chiêu nhưng cùng một thế, hai chiêu đầu là dùng Nhiếp Vân kiếm pháp nhưng chiêu sau lại theo Mạnh gia khoái đao tiến ra, ấy là theo diệu lý “xem nặng như nhẹ, lấy vụng thắng khéo”. Mạnh gia khoái đao chủ về biến cách linh hoạt cho nên Động Minh Tử đoán không ra. Cũng may công lực của lão đương nhiên cao hơn Dương Hoa nhiều và kiếm thuật của lão cũng không phải tầm thường nên vừa thấy Dương Hoa biến thế lão cũng liền biến thế theo do đó tuy Dương Hoa có vẻ hơi chiếm được chủ động nhưng vẫn không thoát khỏi sự khống chế của song kiếm lão.

Động Minh Tử tuy chưa phải ở thế hạ phong nhưng lão cũng đã chấn động: “Sở học của tên tiểu tử này thật phức tạp, xét kỹ quyết không phải là kiếm pháp của bản môn, không lẽ nó lại học được bí kíp của Trương Đan Phong? Nếu hôm nay ta không giết được tiểu tử, ba năm sau có lẽ e rằng ta không thể đối phó lại nó!”.

Càng nghĩ Động Minh Tử càng thấy hoang mang, nửa có sợ nhưng lại đố kỵ ganh ghét nhiều hơn, muốn giết chết ngay Dương Hoa mới hả dạ.

Sát ý nổi dậy nôn nóng, lão lập tức triển khai Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm.

Nếu thực sự đem bản lãnh nội lực ra so sánh với nhau thì Dương Hoa còn thua kém Động Minh Tử xa nhưng nhờ cậu luôn luôn thay đổi kiếm pháp làm nhiễu loạn nhận định của đối phương nhưng vẫn chưa có biện pháp nào thoát khỏi sự kềm tỏa của đối phương.

Động Minh Tử chân bước theo phương vị của ngũ hành bát quái, song kiếm trong tay lão phiêu phiêu bay qua bay lại, bốn phương tám hướng trong thoáng chớp đều có ánh kiếm sáng loáng của lão, tuy chỉ có một mình nhưng không khác gì thấp thoáng có nhiều đối thủ biến thành “kiếm trận”.

Dương Hoa biết rằng hôm nay mình không phải đối phó với một kiếm pháp mà phải đối đầu với cả một kiếm trận. Lúc ấy Dương Hoa mới nhớ tới lời sư phụ đã nói khi xưa :

Động Minh Tử khi sử dụng Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp thì biến thành tám người cùng vây ta chứ không phải một người, quả nhiên không phải lời nói hão.

Kiếm ảnh bủa vây đan như mắt lưới không có kẻ hở nào khiến Dương Hoa chỉ cố gắng đón chiêu được gần một trăm thế. Càng lúc Dương Hoa càng tỏ ra phải miễn cưỡng lắm mới có thể đứng vững được, khí lực của đối phương lại càng lúc càng thắt chặt lại.

Động Minh Tử biết thời cơ đã đến, kiếm càng mau lẹ hơn, lão cười gằn :

– Tiểu tử, sao chưa buông kiếm!

Kiếm chiêu của lão lúc này biến hóa ảo diệu tự tin hơn nhắm cùng lúc nào bảy tử huyệt của Dương Hoa, lão tin chắc lần này không tài nào Dương Hoa thoát được.

Trong chớp mắt cực kỳ hiểm nguy ấy, Dương Hoa hồi tưởng lại trước đây nửa năm cậu đã nhìn thấy Vô Danh kiếm pháp chiêu thứ nhất mũi kiếm hơi nghiêng xéo thẳng lên như thế Triều Thiên Nhất Chủ Hương nhưng lại không hẳn là thế Triều Thiên Nhất Chủ Hương.

Xưa nay Dương Hoa chỉ nhớ đồ hình là như vậy chứ quả thật cũng chưa hiểu rõ diệu dụng của chiêu thế này ra sao nay nhìn thấy kiếm thế của Động Minh Tử là một vị võ học đại gia vô cùng lợi hại, nhưng Động Minh Tử vẫn có phần hơi sợ kiếm chiêu mình dùng hư chiêu hơi nhiều, nếu đối phương khám phá ra thừa hư nhập nội thì lão cũng không tránh được nguy hiểm.

Động Minh Tử là tiền bối của Dương Hoa, võ học nội công đương nhiên hơn Dương Hoa mấy bậc, giao đấu chỉ có thể thắng chứ không được bại, vì tâm lý ấy đè nặng nên các hư chiêu phát ra càng nhiều mong mau chóng kết liễu. Nên biết kiếm thuật càng cao thì công kích bản thân lại càng dễ để lộ những điểm sơ hở.

Còn Dương Hoa từ lúc nhớ lại đồ hình Vô Danh kiếm pháp thì tinh thần phấn chấn hẳn lên, cậu không màng đến thế kiếm của đối phương ra sao cứ đem từng chiêu Vô Danh kiếm pháp đã thuộc lòng ra thi triển, tuy chỉ là “giống y như hình đồ” chứ chưa áp dụng từng trường hợp thực tế được cũng đủ cho đối phương hoảng sợ.

Động Minh Tử càng lúc càng thấy cổ quái, càng đánh càng kinh hoàng, lão trợn mắt há mồm :

– Hảo tiểu tử, ngươi sử dụng kiếm pháp gì thế?

Dương Hoa cười đáp :

– Ta sử dụng kiếm pháp gọi là Vô Danh kiếm pháp, uổng cho lão mang danh là đệ nhất kiếm thuật của Không Động phái mà chẳng biết gì cả!

Dương Hoa nói lời ấy là nói thật nhưng Động Minh Tử lại nghĩ rằng cậu đùa giỡn với mình nên cả giận chửi liền :

– Nhãi ranh quả đã học được chân truyền của Trương Đan Phong nên mới lộng ngôn đến thế!

Động Minh Tử càng vận dụng hết công lực. Đương nhiên về công lực lão hơn Dương Hoa nhiều, Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm vẫn bày thành thế kiếm trận vô cùng nghiêm ngặt nhưng bây giờ lão chỉ dám thủ chứ không dám công nữa. Nhưng nếu trận chiến cứ kéo dài không cần tốn công sức, Dương Hoa cũng đủ chết vì mệt mỏi.

Dương Hoa không làm sao giải được vòng vây kiếm trận, trong lòng chỉ biết kêu khổ thầm. Động Minh Tử biết nội lực của Dương Hoa còn non nớt nên lại càng muốn kéo dài trận đánh, song kiếm vẫn huy động bay chấp chới chung quanh thành một vòng hào quang sắc nước luôn luôn phát ra những tiếng “u u” rất kinh người.

Dương Hoa than thầm: “Vô Danh kiếm pháp tuy rất ảo diệu nhưng ta không biết cách phát huy uy lực của nó thì làm sao bây giờ đây?” Đột nhiên một ý tưởng lại đến: “Lão có thân thể của lão, ta có thân thể của ta, tại sao không coi ta là lão?” lại nhớ đến lời sư phụ dạy “trong mắt thấy địch nhưng trong lòng không có địch” trong đầu như có một luồng linh quang xẹt qua lập tức nhìn ra liền một điểm khuyết của kiếm trận đối phương. Kiếm của cậu liền vạch ra một đường dũng mãnh về chỗ đó buộc Động Minh Tử phải lui lại ba bước tâm hồn hoảng loạn. Lão lấy làm kinh dị trong bụng: “Kiếm pháp của tiểu tử này không hiểu sao càng lúc càng kỳ lạ nhưng trong chiêu này y hình như để lộ Du Khí huyệt, ta phải đánh vào đó”.

Nguyên lai Dương Hoa trong lúc ác chiến tự nhiên đến ngộ được diệu lý của thượng thừa võ công. Kiếm pháp của cậu xuất ra không cần biết sẽ đi theo hướng nào, thực ra tự nhiên trùng với Nhiếp Vân kiếm pháp phối hợp thêm Mạnh gia đao pháp tổng hợp làm một và sáng tạo ra một loại chiêu thế mới.

Theo lời sư phụ dạy, Dương Hoa gần như không buồn để ý đến đối phương nữa nên kiếm thế biến hóa khôn lường, đường kiếm đi vùn vụt đến đúng vào những chỗ yếu hiểm của đối phương, kiếm thành mây bay nước cuốn ảo diệu khôn lường.

Trong chớp mắt hai người đã đấu với nhau thêm hơn một trăm chiêu nữa. Bây giờ Động Minh Tử chỉ còn mù mù mịt mịt biết rằng hễ bất cứ chiêu nào của lão vừa phát ra là đều bị Dương Hoa hóa giải tức thì. Lão càng đánh càng sợ vì nếu nói về danh phận lão là “Thái sư thúc” của Dương Hoa. Tâm lý của lão là chỉ được thắng chứ không được thua nhưng cũng vì tâm lý ấy nên càng sợ thua thì thua càng rõ ràng, không thể tránh khỏi.

Bây giờ tâm trạng Động Minh Tử quả thật nan giải, lão nghiến răng lại đánh một thế tối độc trong Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp với hy vọng thắng được Dương Hoa một chiêu này đủ đỡ mang nhục với Bàn Thạch Sinh rồi lão sẽ bãi đấu ra khỏi vùng thạch lâm này ngay.

Lão cố bảo toàn danh dự của trưởng bối nên lâm vào thế “lộng xảo phản xuyết” (khéo quá thành vụng). Thực ra với thực lực của lão, nếu cứ từ tốn đấu với Dương Hoa ắt cậu khó thắng được lão, vấn đề của Dương Hoa là chỉ do thời gian quyết định. Những chiêu đầu nếu lão sát thương được Dương Hoa thì đã giải quyết được rồi. Bây giờ thì ngược lại, Dương Hoa khó thể bại dưới tay lão nữa, cậu lại còn quyết ý không để lão chạy ra được khu rừng đá.

Động Minh Tử không biết rằng Vô Danh kiếm pháp nếu biết phát huy thì gặp đối thủ càng mạnh kiếm pháp càng cao, càng phát động được sự vô cùng lợi hại của nó.

Động Minh Tử xuất một lúc liền mười chiêu số, song kiếm vẽ một vòng tròn trên đầu, ánh hào quang lấp lánh vây chặt lấy Dương Hoa vào giữa rồi lão chiêu dụ :

– Ta thấy ngươi tuổi còn trẻ, kiếm pháp tuy có cao thật đấy nhưng chưa gọi là hoàn bị. Nếu ngươi chịu nói một lời xin ta bãi bỏ trận đấu, ta sẽ tha cho.

Từ lúc Dương Hoa phát hiện được những chiêu thế mới trong bụng rất lấy làm đắc ý nên cười lớn :

– Động Minh đạo trưởng, ta thấy tuy tên gọi kiếm pháp của đạo trưởng là “liên hoàn đoạt mệnh” nhưng xét thật vị tất đã “đoạt mệnh” được ai?

Lời chưa dứt tiếng chiêu thứ nhất của Vô Danh kiếm pháp đã xuất phát.

Tuy chiêu này đã xuất ra hai, ba lần trước nhưng khi thi triển thì mỗi lúc lại một khác.

Lúc ấy Dương Hoa đứng trên một khối đá cao hơn Động Minh Tử, mũi kiếm nghiêng xuống, Động Minh Tử đứng ở dưới thấp và thấy thấp thoáng kiếm ảnh mũi kiếm đã đâm xuống nhằm vào các huyệt “lữ khí” “toàn cơ” “dương bạch”. Đây là ba tử huyệt nếu đánh trúng có thể khiến chết người tức thì. Kiếm thế của Dương Hoa biến hóa bất định, cả ba huyệt như đều bị kiếm sắp đâm trúng.

Động Minh Tử cả kinh nhưng lão vẫn chứng tỏ là cao thủ phi thường, trong chớp mắt lão gập cong lưng eo người rũ xuống như cành liễu chân đạp về hướng “càn” rồi chuyển sang hướng “khảm”, song kiếm kẹp ở hai bên tả hữu hộ vệ hai sườn tránh khỏi chiêu thế của đối thủ.

Chân lão đang đạp ở phương vị ngũ hành bát quái liền sử dụng luôn một tuyệt chiêu trong Liên Hoàn Đoạt Mệnh kiếm pháp, chiêu ra rất phồn tạp nhưng lão không biết rằng kiếm pháp của Dương Hoa không nằm trong môn phái nào cả mà do chính cậu biến thế mà ra nên muốn xuất là xuất, muốn thâu là thâu.

Trong các đồ hình Vô Danh kiếm pháp trong thạch động, Dương Hoa đã thuộc làu nên từ chiêu Triều Thiên Nhất Chú Hương trở đi Dương Hoa thấu nhận được sự huyền ảo của nó. Mới nhìn thì có cảm tưởng chiêu này không thể liên kết được với chiêu kia nhưng thực ra cốt tử của các chiêu pháp này tùy thuộc vào sự ứng phó của địch thủ, địch thủ đánh ra sao, Vô Danh kiếm pháp sẽ ứng dụng như thế hóa giải, đó là ý đồ của tổ sư Trương Đan Phong khi gọi kiếm pháp của mình là “vô danh”.

Nhân ảnh thoáng qua thoáng lại, kiếm quang vùn vụt như múa như nhảy, bỗng nhiên nghe một tiếng kêu lớn, Động Minh Tử đã bị kiếm đâm thẳng vào vai trái, lão lùi ra đến ba trượng rống lên một tiếng nghiến răng chịu đau, ôm vai chạy ba trượng thẳng ra khỏi khu thạch lâm.

Dương Hoa không ngờ kiếm mình đã đâm trúng Động Minh Tử, kinh ngạc đứng ngây ra một lúc mới đảo mắt tìm Bàn Thạch Sinh. Cũng không thấy bóng y đâu, té ra y đã biến dạng từ lúc nào rồi.

Dương Hoa vừa sợ vừa mừng, muốn hét lên vì không ngờ kiếm thuật của mình lại tiến bộ mau đến thế, trước đây nửa năm khi tập luyện Vô Danh kiếm pháp cậu chưa nhận ra sự ảo diệu của nó vì chưa hề đụng thực hành, nay đã vận dụng vào trận chiến mới thấy uy lực của nó quả là lớn.

Địch nhân đã bỏ đi cả, thạch lâm lại trở về với sự cô tịch lặng lẽ cố hữu của nó. Đến bây giờ Dương Hoa mới nhận ra khắp cả thân mình mỏi nhừ, xương cốt như sắp rời rã ra từng đoạn, cậu ngã xuống như người không còn chút sức nào mê man bất tỉnh luôn.

Mãi hai ngày sau Dương Hoa mới dần dần tỉnh dậy. Cậu chống tay bật người dậy liền và ý tưởng đầu tiên đến với cậu là “Không biết điệt nhi của sư phụ và vị cô nương họ Lãnh đi đâu mất rồi?”.

Dương Hoa tìm hết cả thạch thất, chỉ thấy các vật đều bị xáo trộn, đất cát trên mặt đất đầy những vết chân người giẫm qua xéo lại, hoàn toàn không có một bóng ai. Cũng may cậu tìm thấy một ổ bánh lớn không biết tại sao lại vất ở đó, cậu nhặt lấy và ăn rất ngon lành vì trong bụng trống rỗng.

Sau đó Dương Hoa lập tâm đi tìm Ân Kiếm Thanh và Lãnh Băng Nhi. Nhưng cậu cũng chỉ mới lục tung vùng thạch lâm này thôi chứ chưa muốn rời đây vội, trong bụng thầm nghĩ: “Ân Kiếm Thanh là cháu của sư phụ ta, y đã mạo hiểm vào đây trải qua biết bao mệt nhọc gian khổ chỉ muốn tìm cho ra bí kíp võ công của Trương Đan Phong tổ sư vậy ta tại sao không mang bí kíp này tặng y cho rồi? Nhưng bây giờ biết y ở đâu mà tặng?” rồi lại tiếp tục nghĩ lan man trong bụng: “Không biết Ân Kiếm Thanh có phải là một người tốt không, nếu y dùng bí kíp này làm việc ác trong thiên hạ thì quả là ô danh cho Trương tổ sư, chi bằng ta cứ theo dõi y cho chắc chắn rồi sau đó có tặng y bí kíp hay không sẽ tính”.

Dương Hoa vội vàng sửa soạn hành lý lên đường, thực ra hành lý của cậu cũng thật là đơn giản, chỉ là một cái túi nhẹ đựng ít lương khô vài bộ quần áo, thế là xong.

Sắp sửa đi ra khỏi thạch lâm rồi bỗng trong bụng cậu phân vân: “Ta đã không muốn đem bí kíp của tổ sư ra tặng cho Ân Kiếm Thanh thì tại sao lại còn để Vô Danh kiếm pháp của tổ sư ở lại trong động đá?” Sở dĩ Dương Hoa nghĩ như vậy vì cậu đã biết rõ ràng bọn Động Minh Tử cũng phát hiện ra trong động đá Kiếm Phong có giấu báu vật. Ai có thể bảo đảm rằng chúng sẽ không bao giờ trở lại đây nữa? Cậu vội vàng quay trở lại, dùng Bích Hổ Du Tường leo lên ngọn Kiếm Phong vào lại trong động đá xóa hết mười tám đồ hình trên vách đá.

Sau đó Dương Hoa mới rời bỏ thạch lâm, khi vào đây ba năm trước cậu mới mười lăm, hôm nay ra khỏi nơi này cậu đã thành một trang thanh niên tuấn tú, hết là một cậu bé ngây thơ nữa.

Ánh nắng ban mai nhảy múa trước mặt khiến chàng thêm phấn khích, Dương Hoa dù trong lòng còn ngổn ngang bao nghi vấn nhưng chàng vẫn cao hứng vì cảnh đẹp nên chân chàng đi mau về phía Bắc.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.