Uất Trì Xảo gật đầu nói :
– Lão quái vật chu đáo thế là phải! Việc này quan trọng lắm chớ chẳng phải chơi…
Ngừng lại một chút, lại nói tiếp :
– Nhưng vừa rồi ta xem ấn đường của Hạ Thiên Tường có điểm song hỷ, những sự kinh sợ, hiểm trở không phải là không có, nhưng không có tai vạ lớn và nguy hiểm đến tính mệnh. Để lần sau gặp hắn, ta sẽ đưa cũng không muộn.
Tái Hàn Khang cười nói :
– Lão hóa tử lăn lộn trong đám giang hồ lâu ngày, tiến bộ nhanh quá, bây giờ lại học được cả nghề xem tướng nữa cơ à? Hạ Thiên Tường luận về nhân phẩm, võ công, tâm địa, cơ trí cái gì cũng hơn người, quả thật là một đóa hoa lạ hiếm có trong giới võ lâm gần đây. Nhưng “Ngọc bất trác bất thành khí”, thiết tưởng cũng nên để cho hắn nếm thử một ít mùi vị cay đắng của trường đời, đó cũng là một cách thành toàn cho hắn.
Hai vị võ lâm kỳ hiệp vừa đi vừa chuyện trò cười nói, nhắm thẳng hướng Tây nam tiến phát.
* * * * *
Hạ Thiên Tường đứng trên Thiên Đô tuyệt đỉnh, nghe xa xa có mấy tiếng thú kêu, giống như tiếng con kim mao dị thú mà chàng gặp ở trên Đại Biệt sơn dạo nọ, chàng cho là Trọng Tôn Phi Quỳnh đã đến, bèn vội vàng cáo từ Tái Hàn Khang và Uất Trì Xảo, rồi nhắm hướng có tiếng thú kêu, chạy như bay tới.
Nhưng tiếng thú chỉ kêu có một lần rồi im bặt. Hạ Thiên Tường rời khỏi Thiên Đô, đi quanh quẩn một lúc, rồi chẳng biết đi đâu nữa.
Chỗ chàng đứng cách chỗ Tái Hàn Khang trị vết thương cho bạch viên cũng không xa mấy, chàng ngẩn ngơ giây lát định bụng nhân dịp đi quanh khu Hoàng Sơn ngắm xem phong cảnh một lượt cũng hay. Chợt nghe trong khu rừng thông phía xa có tiếng người nói :
– Vị lão đệ nào đó, đừng đi vội, chúng ta nói chuyện một lúc, được không?
Tiếng nói to như tiếng chuông, rõ ràng người nói không phải hạng tầm thường. Hạ Thiên Tường ngạc nhiên trông lên, thấy một người từ trong rừng thông thủng thỉnh bước ra. Đó là một vị bạch y lão giả, tuổi trạc ngoài sáu mươi, mũi sư tử, mắt báo, râu quai nón, tóc dài rủ xuống ngang lưng.
Hạ Thiên Tường thấy người ấy tướng mạo kỳ dị, liền nghĩ ngay đến lời Hàn Khang nói với mình là phái Tuyết Sơn có một kỳ nhân tên gọi Tuyết Sơn Băng Nô Lãnh Bạch Thạch, võ công không kém gì Thân Đồ Hợi, chỉ vì chịu ơn nặng của Chưởng môn phái Tuyết Sơn, nên tình nguyện làm nô lệ suốt đời để báo đáp.
Chàng vừa nghĩ đến đấy, Lãnh Bạch Thạch đã bước đến trước mặt, chàng vội tươi cười vòng tay nói :
– Lão nhân gia có phải là Tuyết Sơn Băng…
Vừa nói đến đấy chàng chợt ngừng bặt, vì chữ “Nô” có vẻ bất kính, nếu nói ra có thể làm cho người ta giận mình, cho là mình vô lễ.
Lãnh Bạch Thạch biết ý bèn mỉm cười nói :
– Lãnh Bạch Thạch này chịu ơn lớn của chủ nhân, cam tâm làm nô bộc nên chữ “Nô” đối với tôi không phải là bất kính! Lão đệ đã biết rõ lai lịch của tôi, thì cứ gọi là Lãnh Bạch Thạch cũng được, Tuyết Sơn Băng Nô cũng được, muốn gọi thế nào thì gọi! Nhưng không biết lão đệ quý danh là gì? Và thuộc về tôn phái nào? Có thể cho tôi biết được không?
Hạ Thiên Tường thấy Lãnh Bạch Thạch tính tình hào sảng thẳng thắn, cũng hơi hợp tính mình, liền mỉm cười nói :
– Tôi tên gọi Hạ Thiên Tường, môn hạ Bắc Minh. Không những tôi biết rõ lai lịch của lão tiền bối, mà còn có thể đoán được lão tiền bối gọi tôi lại là có ý gì!
Lãnh Bạch Thạch nhìn kỹ Hạ Thiên Tường từ đầu đến chân, rồi mỉm cười nói :
– Thì ra lão đệ là môn hạ Hoàng Phủ Thần Bà, hèn chi mà khí vũ hiên ngang, không giống những kẻ phàm phu tục tử! Nhưng lão đệ đừng gọi ta là lão tiền bối, ta không dám nhận đâu! Nếu không muốn gọi thẳng tên ra, thì cứ gọi là Lãnh đại ca càng thân.
Hạ Thiên Tường không hề do dự, lập tức cười nói :
– Gọi là đại ca cũng không sao, nhưng người vì chịu ân nặng cam tâm làm nô lệ đã đành, chứ tôi đâu phải ở địa vị ấy. Mai mốt gặp Thân Đồ thần quân tôi chỉ có thể tôn xưng là lão tiền bối thôi.
Lãnh Bạch Thạch cả cười nói :
– Thú lắm, thú lắm! Lão đệ quả thật là diệu nhân! Nhưng lão đệ cứ yên trí, chúng ta gọi nhau là anh em, chỉ là việc riêng giữa chúng ta, không dính dáng gì đến ai cả. Lão đệ cố nhiên không cần phải xưng “nô” với chủ nhân tôi, mà tôi đối với sư phó lão đệ cũng không phải xưng là hậu bối.
Hạ Thiên Tường nghe nói lập tức đổi giọng gọi luôn một câu :
– Lãnh đại ca.
Lãnh Bạch Thạch thích quá, cười :
– Ha ha! Lão đệ quả gọi ta là đại ca thật! Nhưng ta đã được làm đại ca, thì phải có cái gì làm lễ ra mắt chứ?
Hạ Thiên Tường đã biết Lãnh Bạch Thạch võ công tuyệt thế, bèn mỉm cười nói :
– Đại ca nếu muốn cho vật gì phàm tục tiểu đệ cũng lấy, còn cho những vật trân quý, thì lại khó kiếm! Bất nhược hãy tạm gác món nợ đó lại, ngày khác sẽ hay!
Lãnh Bạch Thạch cười nói :
– Gác lại cũng được, càng hay! Nhưng vừa rồi lão đệ nói đã đoán được ý ta gọi lão đệ lại để làm gì…
Hạ Thiên Tường không đợi Lãnh Bạch Thạch nói dứt lời vội cười đáp :
– Ý đại ca muốn hỏi thăm xem phía trái núi này có nhân vật nào khả nghi đã dính dáng vào việc ám toán hai vợ chồng Chưởng môn phái Tuyết Sơn không chứ gì?
Lãnh Bạch Thạch trợn tròn đôi mắt, thần quang lóng lánh, ngạc nhiên hỏi :
– Sao lão đệ tài thế? Và sao lại biết hai vợ chồng chủ nhân tôi bị ám toán?
Hạ Thiên Tường cười nói :
– Câu chuyện đó chẳng phải tự đại ca lên Thiên Đô tuyên bố trước mặt quần hùng là gì?
Lãnh Bạch Thạch lại đưa cặp mắt sáng quắc ngắm kỹ Hạ Thiên Tường vài lượt, thần sắc thốt nhiên hiện ra một vẻ khác lạ, cười sằng sặc nói :
– Sao lão đệ lại nói dối? Ta đã biết lão đệ không có mặt trong quần hùng ở trên đỉnh Thiên Đô bữa đó!
Hạ Thiên Tường cũng lấy làm kinh sợ về nhỡn lực của Lãnh Bạch Thạch, liền vội mỉm cười nói :
– Đại ca không nên nghi ngờ, tiểu đệ quả không có mặt ở Thiên Đô lúc đó, mà chỉ được Thương Sơn Ẩn Hiệp Tái Hàn Khang thuật lại và đoán rằng chỗ vợ chồng Thân Đồ thần quân bị phúc kích canh ba đêm qua ở về phía trái núi cách đây không xa.
Lãnh Bạch Thạch nghe tới đấy, đôi mày rậm lại nhướng cao lên toan nói, Hạ Thiên Tường vội xua tay cười :
– Đại ca lại muốn hỏi tại sao tiểu đệ lại biết cả thời gian và địa điểm xảy ra chuyện đó chứ gì?
Lãnh Bạch Thạch quả nhiên bị Thiên Tường làm cho tâm trí hoang mang, nghi nghi, hoặc hoặc, lông mày cau lại, chỉ ừ một tiếng, rồi nín lặng không nói gì nữa.
Hạ Thiên Tường cười nói :
– Vào khoảng canh ba đêm qua, tiểu đệ đi lên Thiên Đô, từ phía xa xa, đã nghe thấy ở đó có tiếng quát tháo, và tiếng kêu, nhưng khi đến nơi, thì chẳng thấy ai cả, chỉ thấy có mười viên Băng Phách Ngân Quang tán, là thứ độc môn ám khí của phái Tuyết Sơn gắn ở trong đám loạn thạch, sáng chói cả mắt.
Lãnh Bạch Thạch lúc này hiểu tại sao chàng lại biết rành rẽ như thế, liền thở dài một tiếng rồi nói :
– Không biết là tụi gian phi nào? Và vì cớ gì mà ám toán vợ chồng chủ nhân tôi? Lãnh Bạch Thạch này nhất định phải tìm cho ra lẽ rồi mới trở về Tuyết Sơn phúc mệnh! Nhưng ta tìm đã nửa ngày, vẫn chưa thấy đầu mối gì hết, lão đệ có ý kiến gì về việc này không?
Hạ Thiên Tường cười nói :
– Câu chuyện kỳ quái này không riêng gì đại ca, chính tiểu đệ cũng đang muốn dò xét. Nhân vì đêm qua, tiểu đệ vừa vào đến Hoàng Sơn, đã lập tức bị tập kích liền liền, chỉ có một quãng đường, mà được tiếp đủ các loại ám khí, nào là Ngũ Vân Phùng Nhật Nhiếp Hồn đinh, nào là Thất Khổng Hoàng Phong châm, Âm Lân Bạch Vũ tiễn toàn là những loại ám khí kịch độc ghê gớm cả!
Lãnh Bạch Thạch hừ một tiếng rồi nói :
– Những loại ám khí đó, chỉ dùng để đối phó với những bọn giang hồ tục khách tầm thường, còn đối với bọn ta đây, thì không thể gọi là ghê gớm được!
Hạ Thiên Tường nói :
– Còn có loại hiểm độc hơn thế nhiều, đại ca coi đêm qua một người bạn tôi suýt chết về cái gai bé tí này.
Nói xong liền lấy hai cái gai nhỏ mà chàng đã dùng tấm lưới nhện thu được đêm qua, đặt lên lòng bàn tay đưa cho Lãnh Bạch Thạch xem. Lãnh Bạch Thạch vừa trông thấy hai cái gai, lập tức đôi mắt sáng quắc lên, hai hàm răng nghiến vào nhau kèn kẹt, Hạ Thiên Tường thấy thế ngạc nhiên hỏi :
– Đại ca làm sao thế? Hay là hai vợ chồng Thân Đồ thần quân cũng bị trúng phải vật này?
Lãnh Bạch Thạch gật đầu, rồi lại hỏi :
– Vị bằng hữu của lão đệ là ai? Loại ám khí này chất độc mạnh lắm, người bị trúng phải khó lòng sống sót! Có cần tôi đưa tặng một viên linh đan luyện bằng Chu Hồng Tuyết Liên tốt lắm!
Hạ Thiên Tường lắc đầu cười :
– Cảm ơn lòng tốt của đại ca, người bạn tôi đã được vị thần y Tái Hàn Khang chữa khỏi rồi! Hắn là một…
Nói đến đây chàng chợt ngừng lại, Lãnh Bạch Thạch ngạc nhiên hỏi :
– Lão đệ là người hào sảng, sao thốt nhiên lại trở nên ấp úng như vậy?
Nói đến đấy chợt như tỉnh ngộ, vội mỉm cười tiếp :
– À thôi tôi đoán ra rồi, người bạn của lão đệ chắc hẳn là một vị hồng trang hiệp nữ?
Hạ Thiên Tường đỏ mặt lắc đầu :
– Đại ca đoán không đúng, nó chỉ là một con vượn.
Lãnh Bạch Thạch ngạc nhiên, đăm đăm nhìn Hạ Thiên Tường giây lát, rồi thốt nhiên đưa tay vuốt râu, buông tiếng cười sằng sặc.
Hạ Thiên Tường vội nói :
– Đại ca đừng cười, con vượn này khác hẳn loại vượn tầm thường, nó là một giống linh vật, đã biết võ nghệ, lại hiểu tiếng người, da thịt rắn như thép nguội, những loại ám khí, đao kiếm thường không làm hại nổi!
Lãnh Bạch Thạch tựa hồ có vẻ không tin, hỏi :
– Làm gì có giống vượn thông minh, tài nghệ đến thế? Lão đệ hoặc có nói quá chăng?
Hạ Thiên Tường thấy Lãnh Bạch Thạch không tin, bèn đem câu chuyện bạch viên bị trúng ám khí đêm qua, tình hình thế nào thuật lại một lượt,rồi nói :
– Đại ca nghĩ coi, nếu không phải loại ám khí Thiên Kinh độc thích âm độc vô cùng này, thì không dễ gì đã làm cho con vượn bị thương được!
Lãnh Bạch Thạch nghe chàng gọi những mũi gai đó là Thiên Kinh độc thích thì giật mình vội hỏi :
– Lão đệ bảo loại ám khí này là Thiên Kinh độc thích ư? Ta nghe người ta nói Thiên Kinh độc thích là một loại cây đặc sản trên đỉnh núi Côn Luân, sao bọn gian phi này lại có được?
Hạ Thiên Tường gật đầu nói :
– Đúng, đúng! Đại ca nói không sai, chính nó là đặc sản trên đỉnh núi Côn Luân.
Lãnh Bạch Thạch chợt kêu rầm lên :
– Không đúng, không đúng! Chưởng môn phái Côn Luân là bạn thân với Thân Đồ thần quân. Lần này vợ chồng Thân Đồ thần quân không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, là cốt để trợ trận cho phái Côn Luân, khi nào môn hạ Côn Luân lại dùng Thiên Kinh độc thích đón đường ám toán?
Hạ Thiên Tường cười gượng nói :
– Việc này quả thực hết sức khó hiểu! Không trách Sài cô cô tôi gọi là “một âm mưu rất lớn có thể di họa cho toàn thể giới võ lâm” mà ba nhân vật chủ não phái Thiếu Lâm, La Phù, Võ Đang hợp diễn thần công chế phục hai phái Điểm Thương, Kỳ Liên khiến họ phải bằng lòng hoãn đại hội Thiên Đô lại một năm nữa, để phái Côn Luân có thì giờ điều tra chân tướng, rửa sạch oan khiên, dụng ý cũng ở chỗ đó.
Lãnh Bạch Thạch ngạc nhiên nói :
– Thì ra trên đỉnh ngọn Thiên Đô đã xảy ra những chuyện động trời như vậy? Chỉ nực cười cho tôi bận rộn suốt nửa ngày trời ở mé trái núi, rút cục chẳng tìm ra manh mối gì, mà đại hội kết thúc lúc nào cũng không biết!
Hạ Thiên Tường bèn đem câu chuyện Uất Trì Xảo nói, thuật sơ qua cho Lãnh Bạch Thạch nghe. Bạch Thạch nghe xong, giật mình nói :
– Đã vậy tôi phải về ngay Tuyết Sơn báo cáo mọi việc cho chủ nhân tôi biết. Phái Tuyết Sơn cũng cần phải tận tâm góp sức vào công cuộc tiêu tai giải ách cho giới võ lâm này mới được.
Hạ Thiên Tường thấy Lãnh Bạch Thạch sắp đi, sắc mặt có vẻ bùi ngùi luyến tiếc. Bạch Thạch thấy vậy, khẽ vỗ nhẹ vào vai chàng, cười nói :
– Lão đệ thật là một người có tình, nhưng ta trở về Tuyết Sơn báo cáo cho chủ nhân biết qua tình hình, rồi lại lập tức dấn bước giang hồ, giúp phái Côn Luân tra cứu vụ nghi án này. Chúng ta đã cùng chung mục đích, thì lo gì không gặp nhau luôn. Lão đệ xin tự trân trọng, ta đi đây!
Nói dứt lời ngầm vận thần công, tà áo trắng phấp phới, thân hình đã bay xa tới sáu trượng, rồi dần dần khuất vào khu rừng rậm.
Hạ Thiên Tường đưa mắt nhìn theo ông bạn vong niên, bâng khuâng như đánh mất vật gì. Giữa lúc đó chợt lại nghe thấy một tiếng thú gầm từ phía góc núi, cách đấy chừng mười trượng vẳng tới.
Tiếng thú nghe rất quen tai, làm cho Hạ Thiên Tường lại cảm thấy tinh thần phấn chấn, chàng cất tiếng gọi :
– Tiểu Bạch, mày ở đâu thế?
Con thú chỉ kêu có một tiếng rồi im bặt, nhưng phía sau góc núi chợt lại nghe có tiếng vó ngựa cồm cộp, một con long mã lông xanh từ từ hiện ra, người ngồi trên lưng ngựa chính là Trọng Tôn Phi Quỳnh, vị nữ lang mặc áo khoác màu huyền, có cái dung nhan quá lộng lẫy, đến nỗi ai trông thấy cũng phải cúi đầu, không dám nhìn thẳng.
Con thú lông vàng đi theo phía sau lưng ngựa, con Tiểu Bạch thì ngồi chễm chệ trong lòng thiếu nữ, trên mình nó còn mặc một bộ áo giáp vàng lóng lánh.
Vùa trông thấy Phi Quỳnh, trái tim Hạ Thiên Tường đã đập thình thịch, tưởng chừng muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, chàng chỉ có một cảm giác là dung mạo nàng đẹp quá, phong độ của nàng cao quý quá, khiến cho thiên hạ trông thấy phải xấu hổ vì tự cảm thấy mình không xứng đáng.
Hạ Thiên Tường cố trấn định tâm thần, gượng nén hồi hộp trong bụng lại băn khoăn tự hỏi: “Không biết thiếu nữ này có phải là người mình gặp ở Nghi Sơn dạo nọ không?”
Chàng còn đang nghĩ ngợi, con ngựa đã tiến đến trước mặt, dừng lại cách chỗ chàng đứng chỉ còn hơn một truợng.
Trọng Tôn Phi Quỳnh thấy Hạ Thiên Tường cứ đứng ngây như tượng gỗ, bất giác khẽ ơ một tiếng, tay ôm con vượn trắng tung mình nhảy xuống đất.
Nghe tiếng động, Hạ Thiên Tường mới giật mình, bừng tỉnh cơn mơ mộng, bất giác đỏ mặt tía tai, chắp tay ấp úng nói :
– Trọng Tôn cô nương thật là người thủ tín…
Nói chưa dứt lời, cái giọng trong như tiếng bạc gieo, từ trong đôi môi anh đào đã thỏ thẻ đưa ra!
– Tôi mắc dở chút việc, thành ra đến chậm mất nửa ngày, sao chàng còn khen là thủ tín?
Hạ Thiên Tường xưa nay vẫn là người ăn nói hoạt bát, biện luận hùng hồn, vậy mà lúc này bị Phi Quỳnh hỏi vặn một câu, không biết trả lời làm sao, chỉ cảm thấy đôi má nóng bừng, cúi đầu nín lặng.
Phi Quỳnh mỉm cười nói :
– Tiểu Bạch ương ngạnh tự thị, đến nỗi bị trúng gian kế, may nhờ chàng cứu cho thoát nạn, thiếp tôi cảm mến vô cùng!
Hạ Thiên Tường thấy Phi Quỳnh đã rõ câu chuyện đêm qua, biết là do bạch viên thuật lại, vậy thì mình đoán là nàng hiểu tiếng nói của loài vật, chắc chắn không sai.
Chàng khiêm tốn mấy câu đáp lại, nhân thấy tiểu bạch mặc bộ giáp vàng, bên trong có ánh sáng lạ lóng lánh chiếu ra, thì ngạc nhiên hỏi :
– Bộ áo giáp vàng của Tiểu Bạch…
Phi Quỳnh không đợi chàng dứt lời, cười đáp :
– Đây là bộ Hộ Huyệt Long Tâm, một vật chí bảo của võ lâm do Đại Biệt Tản Nhân sáng chế và truyền lại. Vật này cũng vì Tiểu Bạch trèo lên tận đỉnh ngọn Thích Thiên núi Đại Biệt, khó nhọc vất vả bao nhiêu công phu mới lấy được, nên bây giờ để cho nó mặc phòng bị kẻ gian ám toán như vậy mới là hợp lý!
Hạ Thiên Tường nghe nói tự nghĩ: “Con vượn này thật tốt số, suốt ngày được một vị tuyệt đại giai nhân ôm ấp vào lòng lại còn cho mặc bộ áo giáp chí bảo mà các nhân vật võ lâm mơ màng ao ước, không được. Nói ra thật là một chuyện khó ai có thể tin được”.
Phi Quỳnh thấy chàng cứ ngẩn ngơ, đăm đăm nhìn bộ áo giáp trên mình con vượn, thì mỉm cười hỏi :
– Còn vị Hoắc Tú Vân cô nương của chàng đâu rồi?
Mấy câu hỏi đó, làm cho một vị thanh niên tiêu sái hào sảng như Hạ Thiên Tường đôi má đỏ hơn gấc chín, cuống lên giải thích :
– Hoắc cô nương với tôi không phải là chỗ thâm giao, chúng tôi còn có một chuyện xích mích, cùng hẹn đến ngày hai mươi tháng năm sang năm lên Nga Mi Kim Đỉnh thanh toán cho xong.
Trọng Tôn Phi Quỳnh thấy mỗi lần mình hỏi một câu lại làm cho chàng lúng túng đỏ mặt một lần, bất giác cảm thấy thú vị, bèn mỉm một nụ cười rất tươi, rồi hỏi :
– Chàng hết hẹn đánh nhau với người này, lại hẹn đánh cuộc với người khác, đủ thấy là một người tự thị tài hoa, không biết yên phận! Tôi còn nhớ hôm ở núi Đại Biệt, chàng nói với tôi là đã từng đánh cuộc với sư tỷ Hoa Như Tuyết tôi phải không?
Lần này Hạ Thiên Tường không đỏ mặt nữa, chỉ xếch đôi mày kiếm, ngạo nghễ đáp :
– Việc ấy có thực. Cô nương coi tấm lưới Hồng Vân Thù Ty võng này, chẳng phải lệnh sư tỷ thua cuộc đưa tặng tôi là gì đây?
Nói xong thò tay vào mình lấy tấm lưới nhện đỏ ra đưa cho Trọng Tôn Phi Quỳnh xem.
Phi Quỳnh trông thấy tấm lưới nhện cố nhiên là nhận ra ngay. Nàng cũng lấy làm lạ không hiểu tại sao sư tỷ lại có thể đem vật chí bảo của sư môn ra đánh cuộc để rồi đến nỗi bị thua. Liền hỏi Hạ Thiên Tường :
– Sư tỷ tôi đánh cuộc với chàng thế nào?
Hạ Thiên Tường lúc này bao nhiêu vẻ bối rối ngượng ngập đã biến hết, thần sắc lại lộ vẻ tiêu sái phong lưu, mỉm cười nói :
– Cô nương và Hoa Như Tuyết là sư tỷ muội, nên lề lối cũng không khác bao nhiêu. Cái lối đánh cuộc của tôi với lệnh sư tỷ, cũng giống với lối đánh cuộc của cô nương với Tái Hàn Khang: tự ý nàng đặt ra ba câu hỏi, rồi tôi trả lời.
Phi Quỳnh khẽ nhíu đôi mày liễu, rồi hỏi :
– Hoa tỷ tỷ tôi hỏi thế nào? Chàng có thể cho tôi biết được không?
Lúc ấy hai người đứng cách nhau chỉ chừng vài thước, Hạ Thiên Tường không những cảm thấy một làn hương thơm nhè nhẹ từ trên mình nàng phảng phất bay ra, lại còn nhận thấy vị cô nương này bất cứ một nét cau, một nụ cười, đều có một mãnh lực khiến cho người ta không dám chống cự.
Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời :
– Tôi và lệnh sư tỷ đánh cuộc, vào giữa đêm rằm tháng năm năm ngoái, Hoa tiên tử tức cảnh sinh tình, nên câu hỏi thứ nhất của nàng là: “Mảnh trăng giữa trời, tại sao có lúc tối lúc sáng, lúc tròn lúc khuyết?”
Phi Quỳnh hỏi :
– Chàng trả lời làm sao?
Hạ Thiên Tường cười nói :
– Câu hỏi ấy chỉ cần người biết từ chương một chút là có thể trả lời được ngay. Tôi đáp: “Người có bi, hoan, ly, hợp trăng có lúc sáng, tối, khuyết, tròn”. Lại có câu: “Trời nếu đa tình trời càng lão, trăng như không giận mới tròn lâu!”
Phi Quỳnh nghe xong lại cau mày hỏi :
– Câu thứ hai, sư tỷ tôi hỏi thế nào?
Hạ Thiên Tường đáp :
– Hoa tiên tử lại nhân câu trả lời của tôi: “Trăng như không giận mới tròn lâu” mà hỏi thêm: “Một vừng minh nguyệt vằng vặc chiếu xuống nhân gian thế kia, thì còn việc gì phải giận nữa?”
Phi Quỳnh chú ý nhìn Hạ Thiên Tường, chàng nói tiếp :
– Tôi trả lời: Lý Nghĩa Sơn có câu rằng: “Hằng Nga ăn trộm linh đan, trời xanh biển biếc ăn năn đêm ngày! Cung thiềm bóng quế, vằng vặc trên không, biển biếc trời xanh, u sầu quạnh quẽ, chỉ sợ cái giận của Vu Sơn Tiên Tử với cái giận của Thường Nga Tiên Tử cũng không khác nhau bao nhiêu!”
Trọng Tôn Phi Quỳnh gật đầu nói :
– Chàng quả thực thông minh, đã giải đáp đúng tâm sự của sư tỷ tôi, chẳng trách nào chị ấy chịu tặng chàng tấm lưới nhện đỏ là vật chí bảo của sư môn. Còn câu thứ ba thế nào?
Hạ Thiên Tường cười nói :
– Câu thứ ba nàng hỏi: Tục ngữ có câu rằng “bể cạn đá dừ”. Vậy xin hỏi: biển làm thế nào cho cạn? Đá làm thế nào cho nhừ?
Phi Quỳnh nói :
– Câu ấy thế mà khó trả lời hết sức!
Hạ Thiên Tường đắc ý cười :
– Lúc ấy quả thực tôi cũng cho là khó, may sao trong lúc đang nghĩ tìm câu trả lời, bất ngờ một con chim dạ điểu ở đâu bay vụt lên không làm tôi chợt nghĩ ra, buột miệng trả lời được ngay.
Phi Quỳnh lắng hết tinh thần chú ý nghe, Hạ Thiên Tường nhướng cao lông mày cười hì hì, ngâm :
– Người nào cũng giống Nữ Oa, chim thuần Tinh Vệ ắt là thành công!
Phi Quỳnh nghe nói phì cười, gật đầu :
– Hai câu trả lời của chàng hay quá, thật là tuyệt!
Hạ Thiên Tường đang nhơn nhơn đắc ý, Trọng Tôn Phi Quỳnh vừa khen xong, chợt như nghĩ ra điều gì, gật đầu nói :
– À, tôi hiểu rồi, cái cớ làm cho sư tỷ tôi phải thua cuộc, hoàn toàn là do cái tính cao ngạo, muốn thắng cuộc ngay, nên mới ra những đề mục hơi khó một chút.
Hạ Thiên Tường không hiểu Phi Quỳnh nói thế là ý thế nào, bèn ngạc nhiên hỏi :
– Trọng Tôn cô nương bảo lệnh sư tỷ thua cuộc là vì ra đề mục khó ư?
Phi Quỳnh mỉm một nụ cười trông như đóa hoa xuân vừa hàm tiếu, nói :
– Đúng thế, nếu ra đề mục dễ dàng một chút, thì vị tất chàng đã giải đáp nổi!
Hạ Thiên Tường đôi mắt long lanh, đăm đăm nhìn nàng rồi hỏi :
– Đề mục dễ lại khó giải đáp ư?
Phi Quỳnh gật đầu :
– Không tin, hãy thử xem.
Hạ Thiên Tường tỏ ý không phục, cười nói :
– Được rồi, thử thì thử! Tôi đặt cuộc câu hỏi thứ nhất bằng trái Càn Thiên Tích Lịch, một vật chí bảo của sư môn, được không?
Phi Quỳnh nghe nói, khóe thu ba lại long lanh nhìn Hạ Thiên Tường mỉm cười :
– Thì ra chàng là cao túc của Bắc Minh Thần Bà Hoàng lão tiền bối? Nhưng trái Càn Thiên Tích Lịch tuy là một vật dị bảo của võ lâm, danh tiếng lừng lẫy khắp giang hồ, song tôi không thích những loại khí giới giết người quá mạnh ấy!
Hạ Thiên Tường nghe giọng nói của Phi Quỳnh dường như coi là mình đã thua cuộc rồi, bất giác vừa tức, vừa buồn cười, bèn lại lấy tấm lưới nhện đỏ ra, cầm giơ lên cho Phi Quỳnh xem, rồi nói :
– Cô nương không muốn lấy trái Càn Thiên Tích Lịch, thì tôi đánh cuộc bằng cái này vậy.
Phi Quỳnh nhìn chàng, rồi nói :
– Chàng làm gì mà nóng tính thế? Tôi đã có vật gì đặt cuộc đâu?
Hạ Thiên Tường lắc đầu cười :
– Không cần, không cần! Xem ý cô nương thì như cho là nhất định thế nào tôi cũng thua! Vậy để tôi xin nói trước, chúng ta đặt ba câu hỏi, mỗi câu đánh cuộc một vật, nếu Hạ Thiên Tường may mắn đáp trúng, lúc ấy xin tùy ý cô nương muốn tặng vật gì gọi là một chút cũng được!
Trọng Tôn Phi Quỳnh cười nói :
– Vậy thì chàng biết điều, và cũng kẻ cả đấy! Nhưng trong mình tôi không mang vật gì tầm thường, nếu chàng thua cuộc mà không còn vật gì đặt cuộc xứng đáng với câu hỏi của tôi, tôi sẽ đình chỉ không hỏi nữa.
Phi Quỳnh càng nói càng như nắm chắc tới chín phần mười là mình thắng. Hạ Thiên Tường càng không phục, chỉ vì đối phương vô luận về dung nhan, khóe mắt, giọng nói, dáng điệu, cái gì cũng làm cho người ta cảm mến, nên không tiện giở cái bản tính cao ngạo của mình ra nên đành phải cố nhịn, chỉ mỉm cười nói :
– Tùy cô, tùy cô! Nhưng tấm lưới nhện này có xứng đáng đặt cuộc cho câu hỏi thứ nhất không?
Phi Quỳnh gật đầu cười nói :
– Tấm lưới này là dị bảo độc môn của gia phụ tự chế, cố nhiên là xứng đáng. Chàng nên sửa soạn sẵn, câu này tôi cho là rất dễ, nhưng chưa chắc chàng đã trả lời được đâu!
Hạ Thiên Tường cố trấn định tâm thần, lắng tai nghe xem đối phương hỏi câu gì.
Phi Quỳnh đưa bàn tay ngọc nhè nhẹ vuốt ve con bạch viên ngồi trong lòng, nhìn Hạ Thiên Tường mỉm cười hỏi :
– Xin hỏi chàng: bộ lông con vượn này, tại sao lại trắng?
Hạ Thiên Tường quả bị câu hỏi của Phi Quỳnh làm cho sửng sốt, nghĩ bụng câu hỏi thật quá vô lý? Con vượn trắng, thì chẳng lẽ vượn đen lông mới trắng hay sao?
Trong bụng tuy cho vấn đề thật quá giản dị, nhưng ngoài miệng không biết trả lời thế nào cho trôi chảy. Phi Quỳnh thấy chàng chỉ trầm ngâm không đáp, lại mỉm cười hỏi :
– Thế nào? Câu ấy dễ thế, mà chàng không giải đáp nổi à?
Hạ Thiên Tường trong bụng vẫn không chịu phục, ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp Phi Quỳnh cũng đưa mắt nhìn mình.
Từ lúc gặp Phi Quỳnh, Thiên Tường đã nhận thấy đôi mắt trong như nước hồ thu của nàng có một sức hấp dẫn rất mạnh, chẳng thế mà mỗi lần nhỡn quang chạm phải đôi mắt ấy, là một lần chàng cảm thấy thần trí mê loạn, trống ngực đập hơn trống làng, mất hết tự chủ.
Lúc này chàng vừa toan cất tiếng trả lời, thì không may đôi khóe thu ba đầy ma lực hấp dẫn kia, lại chiếu thẳng vào nhỡn tuyến của chàng, làm cho đầu óc chàng rối như tơ vò, không sao nghĩ ra được câu gì nữa!
Phi Quỳnh thấy chàng thốt nhiên ngẩng đầu nhìn mình, cặp má đỏ bừng, rồi lại cúi xuống lẳng lặng làm thinh. Thì cho là chàng đã chịu thua, bèn giơ tay ra cười nói :
– Chàng đã chịu thua, sao còn không đưa tấm lưới kia ra đây?
Đôi làn thu thủy của Phi Quỳnh đã đủ sức làm cho Hạ Thiên Tường thần trí mê loạn, thì cái giọng trong như gieo bạc của nàng, lại càng làm cho chàng không dám phản kháng, hai tay cầm chiếc lưới trịnh trọng đưa tới trước mặt Phi Quỳnh. Bụng nghĩ: “Chẳng những chỉ chịu thua, mà còn không biết là thua về cái gì? Tại sao lại thua?”
Phi Quỳnh đỡ lấy tấm lưới, đoạn nhìn chàng mỉm cười nói :
– Câu hỏi thứ nhất, chàng đã chịu thua, còn câu hỏi thứ hai có dám đánh cuộc nữa không?
Hạ Thiên Tường dở khóc dở mếu, tránh không dám nhìn thẳng vào cặp mắt của Phi Quỳnh, chỉ gật đầu trả lời :
– Cuộc nữa, cuộc nữa! Nhưng câu thứ hai chắc cô nương không thể hỏi tôi con ngựa và con quái thú kia, tại sao lông nó lại xanh, lại vàng.
Phi Quỳnh nghe nói, cũng bật buồn cười. Nụ cười của mỹ nhân thật là đủ sức nghiêng thành đổ nước, làm cho anh chàng họ Hạ nhà ta đang cố trấn tĩnh tâm thần, lại thấy ruột gan bồi hồi xao xuyến.
Còn đang ngơ ngẩn, chợt lại nghe tiếng kiều thỏ thẻ bên tai :
– Chàng muốn đánh cuộc nữa, sao không đặt cuộc ra?
Hạ Thiên Tường đã định lấy đôi Tam Tuyệt Cương Hoàn ra đặt cuộc, nhân thấy nàng không ưa khí giới, nên lại thôi. Lúc này trong mình không còn vật gì quý giá nữa, chỉ còn một cánh Tử Ngọc Mai Khôi của Mai Khôi sứ giả sai đưa cho Nhất Bát thần tăng để làm tin, nhưng Mai Khôi sứ giả đã đinh ninh dặn chàng đừng có đánh mất, không biết có nên mượn tạm để đặt cuộc không?
Phi Quỳnh thấy Hạ Thiên Tường thò tay vào túi hình như định lấy vật gì, nhưng rồi mãi không thấy rút tay ra, cũng không trả lời, bất giác ngạc nhiên hỏi :
– Chàng ngần ngừ gì nữa? Chẳng lẽ ngoài tấm lưới nhện được cuộc của Hoa sư tỷ tôi, bên mình không còn vật gì đáng giá nữa chăng?
Hạ Thiên Tường bị đối phương chế giễu, mặt đỏ tưng bừng không kịp suy nghĩ gì nữa, lập tức lấy cánh mai khôi bằng ngọc đỏ đưa cho Phi Quỳnh rồi nói :
– Cô nương thử coi cánh hoa mai khôi bằng ngọc đỏ này có thể đặt cuộc được không?
Phi Quỳnh cầm lấy lật đi lật lại ngắm nghía một lúc, rồi trao trả Thiên Tường, cười nói :
– Được, được! Mảnh ngọc đỏ này không những chất ngọc rất tốt mà cách điêu khắc thành hình một cánh hoa mai khôi tàn lại rất hợp ý tôi. Chàng có biết trong các thứ hoa, tôi chỉ yêu nhất có hoa mai khôi không?
Hạ Thiên Tường thấy Phi Quỳnh bằng lòng lại đâm lo, lòng tự nhủ lòng: “Lần này nhất định đừng để thua cuộc nữa, nếu mất cánh hoa này, không những không biết nói với Mai Khôi sứ giả làm sao, và cũng không còn vật gì đặt cuộc cho câu hỏi thứ ba nữa”.
Đại địch trước mắt, tối kỵ là trong bụng nơm nớp sợ hãi, tâm thần bất định. Thiên Tường tuy biết mình với Phi Quỳnh không phải là định sửa soạn quyết đấu, nhưng cũng không nên phạm vào điều cấm kỵ ấy, bèn cố gắng gạt bỏ hết mọi ý nghĩ, mỉm cười hỏi Phi Quỳnh :
– Còn câu thứ hai, xin cô nương hỏi đi cho.
Phi Quỳnh không biết vì cố ý hay vô tình, lại lợi dụng hai khóe thu ba sắc hơn dao kiếm nhìn Hạ Thiên Tường, cất giọng oanh vàng, uyển chuyển nói :
– Vấn đề thứ hai, tuyệt đối không giống vấn đề trước, tôi chỉ muốn chàng đoán xem tại sao trong các thứ hoa, tôi lại chỉ yêu có hoa mai khôi?
Hạ Thiên Tường lần này quả sợ thua thật sự, nên chỉ cúi gầm mặt xuống, không dám trông lên, nhưng không hiểu sao tâm hồn chàng vẫn bị cái nhìn nóng như lửa, mềm như bông, ám ảnh không sao xua đuổi đi được.
Nàng bảo đoán xem tại sao nàng thích hoa mai khôi, vấn đề ấy cố nhiên muốn trả lời thế nào cũng được, nhưng nếu muốn đoán trúng tâm ý người hỏi, thì lại là cả một sự khó khăn.
Một người tình cách ôn nhu dịu dàng như Phi Quỳnh tất nhiên không thể bảo là nàng yêu mai khôi vì nó có gai được, nhưng nàng đặt nó lên trên các loại hoa phẩm cách thanh cao như mai, lan, sen, cúc và các loại hoa nhiều người ưa thích như thược dược, mẫu đơn là vì cớ gì? Ngần ấy nghi vấn còn chưa giải đáp xong, một làn hương nhẹ nhàng man mát, đã thoang thoảng bay qua bàn tay ngọc ngà của Phi Quỳnh lại đưa ra đỡ lấy cánh mai khôi ngọc trong tay Hạ Thiên Tường, mỉm cười nói :
– Không trả lời được, thì nên nhận thua ngay đi, mới là người biết phục thiện.
Hạ Thiên Tường thấy cánh hoa mai khôi lại bị mất nốt bất giác ngẩng lên trông Phi Quỳnh, sắc mặt lộ vẻ ngượng ngùng, bứt rứt.
Phi Quỳnh thấy thế bất giác cau mày, nói như an ủi :
– Chàng đừng thất vọng, câu hỏi thứ nhất và thứ nhì, tuy bị thua nhưng câu hỏi thứ ba, rất có thể phần thắng về chàng.
Sắc mặt Hạ Thiên Tường đang từ đỏ đổi ra trắng bệch, lắc đầu nói :
– Tôi không đánh cuộc lần thứ ba nữa!
Phi Quỳnh trong thâm tâm cũng đã bị anh chàng thiếu niên phong lưu anh tuấn, tính khí quật cường, văn võ kiêm thông này chiếm được cảm tình, nên khi nghe chàng nói, không khỏi kinh ngạc, vội hỏi :
– Tại sao chàng không đánh cuộc nữa? Hay chàng cho là tôi hỏi thế không được công bằng chăng?
Hạ Thiên Tường cười gượng nói :
– Không phải tôi không muốn đánh cuộc với cô nương, nhưng thật không còn vật gì có thể đặt cuộc được nữa.
Phi Quỳnh à một tiếng, mỉm cười, hình như định nói gì lại thôi. Ngẫm nghĩ một lúc, mới gật đầu bảo Thiên Tường :
– Thôi được, câu hỏi thứ ba để dành đến hôm khác gặp nhau sẽ hay!
Nói xong ôm con vượn nhảy lên mình ngựa, quay về phía lúc nãy, thủng thẳng bước đi.
Hạ Thiên Tường đưa mắt nhìn theo sau lưng mỹ nhân, trên nét mặt ngượng ngùng thốt nhiên nở một nụ cười, nghĩ bụng: “Để dành một câu hỏi lại lần sau càng hay, nếu không, sau này muốn gặp nàng, cũng không biết kiếm cách gì được”.
Vừa nghĩ tới đấy, chợt lại thấy Phi Quỳnh quay đầu ngựa trở lại, hỏi chàng :
– Chàng có ý định trở về Bắc Minh thần sơn bây giờ không?
Hạ Thiên Tường lắc đầu, Phi Quỳnh lại hỏi :
– Nếu tôi muốn tìm chàng để đánh cuộc nốt câu thứ ba, thì tìm ở đâu?
Hạ Thiên Tường vội nói :
– Bây giờ tôi phải sang Tây nam, lên núi Điểm Thương và Kỳ Liên có chút việc, tháng năm sang năm thì lên Nga Mi Kim Đ ỉ nh phó ước, mười sáu tháng chạp lại đến Hoàng Sơn xem đại hội Thiên Đô. Tôi có rất nhiều địa điểm, cô nương muốn tìm nơi nào cũng được.
Trọng Tôn Phi Quỳnh chăm chú nhìn kỹ chàng một lát, rồi lẳng lặng quay đầu ngựa, nhưng thốt nhiên lại ngoảnh lại đưa mắt nhìn chàng mỉm cười, bàn tay ngọc vung lên ba mảnh kim quang liên tiếp ném tới.
Hạ Thiên Tường vội giơ tay đón lấy, thì ra là ba mảnh lân giác vàng.
Phi Quỳnh nói to :
– Bộ Hộ Huyệt Long Tâm của Đại Biệt Tản Nhân để lại, có tất cả ba mươi sáu mảnh, tôi đã dệt thành tấm áo giáp cho Tiểu Bạch, nhưng vì nó bé nhỏ nên vẫn còn thừa sáu miếng, tôi và chàng chia nhau mỗi người ba miếng!
Hạ Thiên Tường không ngờ Phi Quỳnh đã được cuộc của mình, lại còn khảng khái tặng mình một bảo vật của võ lâm, bất giác ngẩn người ngẩn ngơ lúng túng, không biết có nên nhận hay không.
Phi Quỳnh thấy vậy, lại mỉm cười nói :
– Sao chàng không lấy? Đánh cuộc đi đằng đánh cuộc, bạn bè đi đằng bạn bè, chúng ta bèo nước gặp nhau, chắc cũng có duyên từ trước! Tôi nghe chàng định lên núi Kỳ Liên, mà các nhân vật phái Kỳ Liên, người nào cũng độc ác hung dữ, mới tặng chàng ba mảnh long lân này để phòng thân. Ngày gặp gỡ cũng không xa, xin chàng trân trọng.
Câu nói thật chan chứa cảm tình, Hạ Thiên Tường tai nghe mà tâm thần như mê loạn, bên tai vừa thoáng nghe một tiếng hí dài, con tuấn mã long câu đã mang theo một vị tuyệt thế giai nhân, và hai con dị thú, lẫn vào trong đám sương mù mất hút.