Gió thu xào xạc, tiết trời ban mai lạnh lẽo, hai thớt ngựa khỏe đang nối đuôi nhau tung vó trên con quan đạo từ phủ Bảo Định, Hà Bắc vào đất Tấn.
Trên thớt ngựa lông vàng đốm trắng đi đầu là một nam tử thân hình cao lớn, tuổi trạc tứ tuần, mặt tía mắt tròn, râu ria bồm xồm, người mac bộ y phục màu lam, bên ngoài khoác tấm bào bằng gấm, đầu cột khăn màu xanh, lưng đeo thanh tường kiếm, tua kiếm màu đỏ bay phất phơ theo gió, trước yên ngựa có treo một cây gậy sắt dài khoảng ba thước tám phân, trông thật oai phong.
Trên thớt ngựa màu nâu đỏ đi phía sau lại là một thiếu phụ xinh đẹp tuổi khoảng đôi mươi, mình khoác áo bào đỏ, trong mặc y phục ngắn màu đen, ở eo cột một sợi dây tết bằng tơ màu đỏ, một đầu cột một cây kim chùy cưu đấu sáng choang, đầu kia là một ngân câu màu trắng, buông xuống hai bên sườn.
Nhìn lối ăn mặc thì đã biết hai người này là người trong võ lâm, tuy tiết trời mùa thu lạnh lẽo nhưng hai thớt ngựa vẫn chạy đến nỗi toát mồ hôi đầm đìa.
Lúc này, hai người đang đi ngang qua một mảnh rừng, thiếu phụ mặc y phục đen bỗng giật cương ngựa, thớt ngựa phóng nhanh về phía trước, đuổi kịp theo đại hán ấy, nàng cười rằng:
“Đại ca, chúng ta đã rong ruổi cả đêm, người tuy không mệt nhưng ngựa đã đuối sức, hay là hãy nghỉ lại một chút rồi hãy đi”.
Đại hán mặt tía ấy kìm cương ngựa, quay đầu lại đáp:
“Đúng thế, chạy một mạch đã được sáu bảy chục dặm đường, cũng nên cho chúng nghỉ ngơi”.
Tướng mạo của người này tuy dữ dằn nhưng ăn nói rất dịu dàng với thiếu phụ, nói xong thì nhảy xuống, dắt ngựa vào rừng.
Đôi nam nữ ấy ngồi dưới một gốc cây du lớn, thiếu phụ áp đen lấy bao lương khô trên yên ngựa xuống, trải trên mặt đất, cười rằng:
“Trong kỳ đại hội Bắc Nhạc lần này, hào kiệt lục lâm của bảy tỉnh phía Nam, sáu tỉnh phía Bắc, nếu quả thật đều đến tham gia, e rằng phải có đến hàng mấy trăm người, muốn dành chức minh chủ lục lâm hẳn sẽ là chuyện không dễ dàng, đã mấy năm nay đại ca đã danh long sáu tỉnh Giang Bắc, tiếng tăm rất thịnh, không ai sánh kịp, nay cần gì phải tranh chức minh chủ lục lâm?”.
Đại hán mặt tía rầu xồm mỉm cười:
“Đại hội Hằng Sơn lần này, tuy lấy tiếng là tranh bá lục lâm nhưng thực sự là cuộc đối đầu giữa Nhất Tẩu, Nhị Kỳ, Tam Hùng, Tứ Quái và hai người chúng ta, bọn Tam Hùng, Tứ Quái tuy võ công cao cường nhưng huynh tự tin đủ sức chế phục chúng, còn nhị kỳ tiếng dậy giang hồ nên không thể khinh địch, huynh tuy nghe tiếng đã lâu nhưng nhưng vẫn chưa gặp hai kẻ này. Tuy nhiên điều huynh lo nhất là La Phù Nhất Tẩu, song có muội bên cạnh, tình hình sẽ khác …”.
Thiếu phụ ấy chậm rãi đặt miếng lương khô xuống, mắt nhìn chăm chú mặt đại hán, nói bằng giọng hơi buồn bã:
“Muội tự biết bản lĩnh có hạn, chỉ e không thể giúp đại ca”.
Đại hán mặt tía ngửa mặt cười lớn rồi nói:
“Chỉ cần có muội bên cạnh ta là đủ, việc gì phải ra tay …”. Rồi chàng đột nhiên thở dài, nói tiếp:
“Trước khi gặp muội, huynh quả thật là kẻ ham thích giết người, hành sự chẳng phân đúng sai, chỉ dựa vào ý thích, ra tay hiểm độc, chưa bao giờ nhường ai một bước, do vậy trên giang hồ tặng cho huynh cái ngoại hiệu ‘Lãnh diện Diêm Lá, lúc ấy huynh không hề tiếc nối ngược lại còn dương dương tự đắc. Nhưng từ sau khi gặp muội, không biết sao tính tình lại thay đổi, trước kia lấy việc giết người làm vui, nay lại là nỗi đau khổ, chao ôi, mấy năm qua tuy huynh hết lòng hướng thiện, nhưng vì trước kia gây quá nhiều điều ác, kết quả thù khắp nơi, rốt cuộc vẫn không thể nào làm cho người ta tiến hành thứ …”.
Thiếu phụ áo đen ấy nhướng mày, tiếp lời:
“Điều đó cũng không thể trách huynh, bọn họ toàn dồn ép huynh, chính mắt muội thấy điều ấy, huynh đừng để việc ấy trong lòng, huynh chẳng qua là bị ép buộc cả mà thôi! Muội chẳng trách huynh tí nào cả!”.
Đại hán mặt tía nắm lấy tay thiếu phụ, dáng vẻ xúc động lắm, nước mắt lưng tròng, nói:
“Muội càng yêu huynh, huynh càng đau khổ, nhớ lại những điều ác đã làm trước kia, huynh hận không rút kiếm tự sát trước mặt muội …”.
Thiếu phụ áo đen dịu dàng ngả người vào lòng đại hán ấy, nhẹ đưa tay che miệng đại hán ấy, cười rằng:
“Muội không muốn biết những chuyện trước kia huynh đã làm, nhưng từ sau khi gả cho huynh, chưa bao giờ thấy huynh giết chết một người tốt nào, đại ca, chỉ cần còn sống, muội sẽ không rời huynh một bước …”.
Đại hán mặt tía ấy buồn bã thở dài:
“Mấy năm qua, huynh đã rất đau khổ, hạng người mang đầy sát nghiệp như huynh mà ông trời còn hậu ái khiến huynh còn hối hận thêm, lần này huynh bỏ hết tất cả quay lại giang hồ, tham dự đại hội Bắc Nhạc, tranh đoạt chức lục lâm minh chủ, không phải là vì danh lợi mà là muốn mượn địa vị này kiềm chế đồng đạo …”. Chàng chưa nói hết lời bỗng nghe có tiếng khóc văng vẳng.
Thiếu phụ áo đen đứng dậy, nói:
“Đại ca, nghe kìa, trong chốn núi rừng hoang vắng thế này, sao lại có tiếng khóc!”.
Đại hán mặt tía biến sắc, nói:
“Chúng ta hãy qua xem thử, chỉ e …”. chàng vội im bặt bước vội vào rừng.
Mảnh rừng này rộng chừng hai, ba mẫu, cây cối um tùm, cỏ dại mọc đầy, hai người đi khoảng bốn, năm trượng thì nghe trong gió có mùi máu tanh.
Lãnh diện Diêm La dặm mạnh chân, nghe “bình” một tiếng, đã vụn bay lên, bụi tung mù mịt, mặt đất cứng lộ ra một dấu chân sâu hơn hai phân.
Chỉ nghe chàng hừ một tiếng, nói:
“Ta tính quả không sai”. Rồi hơi trầm eo, phóng người lên không, chưởng phải chém ra. Một luồng chưởng phong mạnh mẽ ùa vào táng cây, chỉ nghe có tiếng rào rào không ngớt, táng cây khô quắt lại, lá chuyển sang màu vàng rồi bay xuống lả tả.
Thiếu phụ áo đen nhảy vọt theo sau, phóng tới bên cạnh đại hán mặt tía ấy, cú nhảy của hai người đã ra đến hai, ba trượng.
Định thần nhìn lại, chỉ thấy bên bụi cỏ um tùm có hai xác người một nam một nữ nằm ngửa bên nhau, y phục rất sang trọng nhưng chết rất thê thảm, người nam bị bẻ gãy hai tay, ở bụng lại bị chém ngang một nhát, người nữ bị xé rách áo thân trên, tóc tai rối bời, người bị trúng thương ở chỗ chí mạng.
Thiếu phụ áo đen tuy là người có của cao cường nhưng bụng dạ hiền từ nhìn thấy cảnh ấy thì bất đồ tuôn đôi dòng lệ.
Lãnh diện Diêm La nhìn thê tử của mình rồi tức giận nói:
“Nếu chúng ta đến sớm một canh giờ, hai người này đã không bị giết …”.
Bỗng trong lùm cỏ có tiếng kêu khóc yếu ớt:
“Mẹ ơi … mẹ …” âm thanh lúc im lặng lúc tiếp tục, nghe rất thương cảm, nước mắt thiếu phụ áo đen chảy dài, nàng vọt qua hai xác người, vạch lùm cỏ, bế ra một đứa trẻ khoảng năm, sáu tuổi, toàn thân đầy máu đang thoi thóp thở.
Nàng không kịp nói lời nào với Lãnh diện Diêm La, ôm đứa trẻ chạy vội ra, đến chỗ yên ngựa lấy ra bầu nước rồi xé mảnh vải lau vết máu trên mình đứa trẻ, chỉ thấy trên vai trái và chân phải mỗi nơi có một vết đao sâu thấu xuống dài hơn hai tấc, may mà không chạm phải gân.
Nhưng đó cũng là vết thương nặng, dù là người lớn cũng không chịu nổi, huống chi đây chỉ là đứa trẻ. Nàng là người biết rõ nên rất quen thuộc việc chữa trị vết thương do đao kiếm gây ra, rồi nàng nhẹ nhàng đặt đứa trẻ xuống, chạy vội đến chỗ thớt ngựa của trượng phu, lấy thuốc kim sang xuống, tỉ mỉ bôi lên vết thương của đứa trẻ rồi dùng vải cột lại.
Tuy là một thiếu phụ nhưng nàng chưa bao giờ sinh con, băng bó xong vết thương, nàng cũng chẳng biết làm thế nào. Lát sau, nàng lấy bầu nước, rồi nhẹ nhàng cậy miệng đứa trẻ, nhỏ vài giọt nước.
Chỉ nghe thấy tiếng thở dài:
“Đứa trẻ thật dễ thương”. Thiếu phụ áo đen nghe thế thì đã biết người sau lưng là ai, chậm rãi đứng dậy, nói:
“Đại ca, đứa trẻ này thật đáng thương, hay là chúng ta mang nó đi theo vậy? Từ ngày gả cho đại ca, muội ngày đêm mong mình có thể sinh cho huynh một đứa con, nào ngờ muội …”.
Nói đến đây, nàng có vẻ e thẹn, hai má đỏ ửng, cúi đầu:
“Đứa trẻ này không những đáng thương, mà còn rất xinh xắn, trên người của nó có hai nơi bị trúng đao, đều rất nặng, nếu không phải nhờ “chỉ huyết sinh cơ tán” của đại ca, e rằng nó khó qua khỏi”.
Lãnh diện Diêm La trầm ngâm một lúc, nói:
“Lời của Hương muội cũng giống như ý của ta, xong … xong đây chưa phải là lúc, chúng ta đến Bắc Nhạc tranh hùng, thắng thua sống chết vẫn chưa biết được, nếu như mang đứa trẻ bị trọng thương như thế này, không những không tiện, mà còn lung túng tay chân, hay là đừng mang theo thì hơn, nơi này chắc chắn sẽ có người đi qua, chi bằng cứ để cho họ …”.
Thiếu phụ áo đen chậm rãi đưa mắt nhìn lên mặt đứa trẻ, vẻ mặt vô cùng tiếc nuối, nói:
“Lời đại ca nói không sai, dù cho huynh có sai, muội cũng phải nghe theo”. Lời nói tuy dịu dàng, nhưng giọng điệu thì buồn bã, nước mắt lưng tròng, rõ ràng trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, sự tội nghiệp của nàng đối với đứa trẻ đã chuyển thành tình yêu thương sâu đậm.
Nàng nhẹ nhàng hôn lên má đứa trẻ, nó mở to hai mắt, ánh mắt thất thần, yếu ớt kêu lên hai tiếng:
“Mẹ, mẹ …” rồi nhắm lại.
Hai tiếng kêu yếu ớt mà thân thiết, nước mắt người thiếu phụ áo đen lăn dài xuống, nhỏ lên mặt đứa trẻ. Nàng không nhìn về phía trượng phu nữa, đặt đứa trẻ xuống, chậm bước đến thớt ngựa, nhảy lên ngựa rồi phóng về phía trước.
Lãnh diện Diêm La vội vàng phóng lên ngựa, đuổi theo sau, yên lặng không nói, thực ra trong lòng chàng có trăm ngàn lời muốn nói. Chàng chưa bao giờ thấy thê tử của mình buồn bã đến như vậy, trong lòng cảm thấy bất nhẫn, hận không lập tức hứa với nàng, mang đứa trẻ theo, nhưng nghĩ tới sau khi đến Bắc Nhạc, lại phải đối đầu với cuộc tranh đoạt chức lục lâm minh chủ, mang theo một đứa trẻ ngây thơ, thực sự có chỗ bất tiện, chỉ đành nuốt những lời muốn nói trở lại.
Hai người thúc ngựa phóng về phía trước, được khoảng năm dặm, bỗng nghe có tiếng vó ngựa gấp gáp ở phía sau, Lãnh diện Diêm La quay đầu nhìn lại, chỉ thấy bốn thớt ngựa đang dàn hàng ngang phóng tới, nơi vó ngựa đi qua bụi tung mù mịt. Nội công của chàng tinh thâm, nhãn lực hơn người, vừa nhìn đã thấy rõ tướng mạo của những người ấy, không khỏi hơi nhíu mày, hạ giọng nói:
“Hương muội hãu kìm ngựa lại, có người đuổi theo chúng ta!”. Thiếu phụ áo đen kìm cương ngựa lại, thớt ngựa màu nâu đỏ xoay mình rồi ngừng lại bên vệ đường.
Chỉ thấy năm thớt ngựa phóng nhanh như điện chớp, trong khoảnh khắc đã đuổi theo đến gần hai người, người trên ngựa đều giật cương ngựa, bầy ngựa hí dài, chổng vó trước lên, những người ấy không chờ ngựa hạ vó xuống, nhất tề phóng người xuống yên ngựa, động tác nhẹ nhành nhanh chóng, nếu không phải có khinh công giỏi thì không thể làm được.
Sau khi nhảy xuống ngựa, năm người đồng thời cung tay chào Lãnh diện Diêm La, nói:
“Hồ đại ca vẫn khỏe chứ, mấy năm nay huynh đã đi đâu khiến bọn chúng tôi tìm đến khổ …”.
Lãnh diện Diêm La thở dài:
“Các người còn tìm ta làm gì nữa, ta đã sớm rửa tay qui ẩn, không hỏi chuyện thị phi của giang hồ”.
Người đứng phía bên trái, tuổi tác tương đối lớn, đột nhiên vẻ mặt buồn bã, nói:
“Dù cho đại ca rửa tay qui ẩn, cũng phải cho chúng tôi biết một tiếng mới phải, mấy năm nay, võ lâm vùng Giang Bắc đồn rằng đại ca bị hãm hại, bọn huynh đệ chúng tôi ai nấy đều tức giận, lập chí báo thù cho đại ca, chỉ là chuyện đại ca bị hại vẫn chưa rõ ràng, rốt cuộc ai là hung thủ, nhất thời vẫn chưa có cách nào dò hỏi được tin tức chính xác, khiến bọn huynh đệ chúng tôi phải bôn tẩu sáu tỉnh Giang Bắc, truy tìm hành tung của đại ca, nhưng rốt cuộc vẫn chưa có tin tức xác thực, nhưng chúng tôi biết đại ca võ công cao cường, đã đạt tới cảnh giới siêu phàm, hiện nay trong giang hồ, có ai là địch thủ của đại ca? Chuyện bị hại e rằng là lời đồn không có căn cứ, nhưng vì không có cách nào tìm ra hành tung của đại ca, chỉ là bán tín bán nghi, bọn huynh đệ tìm đại ca đã lâu mà vẫn không được, nhưng đều đã chán nản, chỉ còn lại năm chúng tôi, thề rằng phải tìm cho ra đại ca, nếu chính thực rằng lời đồn đúng như sự thực, cũng sẽ tìm ra di thể của đại ca để an táng rồi tìm ra hung thủ, báo thù cho đại ca, không ngờ đại ca quả thực có ý né tránh chúng tôi …”. Lời nói tuy khéo léo, nhưng vẫn có ý trách cứ.
Chỉ nghe Lãnh diện Diêm La thở dài, nói:
“Được sự quan tâm của các huynh đệ, tiểu huynh thật sự rất cảm kích, nhưng mấy năm nay, ta đã hối hận với những việc làm trước kia, vì thế đã mai danh ẩn tích để xám hối những nỡ nghiệp chướng của mình trong nửa đời trước”.
Năm đại hán nhìn tua kiếm màu đỏ phất phơ trong gió, cây gậy sắt treo trên yên ngựa, mặt lộ vẻ nghi ngờ.
Lãnh diện Diêm La nhìn vẻ mặt của những người này, không khỏi hơi nhíu mày, lạnh lùng nói:
“Hồ Bách Linh này có bao giờ nói dối? Lần này ta quả thực tái suất giang hồ, nhưng những chuyện ta muốn làm khác hoàn toàn với năm xưa, ngày nay ta đã khác trước, xin các vị hãy chuyển lời cho các huynh đệ cũ, bảo rằng Hồ Bách Linh này cảm tạ tấm lòng của bọn họ, nhưng mấy năm trước ta đã rửa tay rút khỏi giang hồ, lục lâm vùng Giang Bắc đã sớm không còn cái tên Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh nữa”. Nói xong thì giật cương ngựa định bỏ đi.
Năm người này biết rõ phong cách làm việc của y, nếu không vừa ý thì sẽ giết người, thấy y quay ngựa muốn bỏ đi, nào dám chặn lại? Chỉ nhìn nhau rồi nhất tề quì phục xuống đất, nói:
“Mong đại ca hãy dừng lại trong chốc lát, bọn chúng tôi có chuyện muốn bẩm báo”.
Té ra trước khi Hồ Bách Linh rửa tay lui khỏi giang hồ, là người đứng đầu của lục lâm vùng Giang Bắc, tiếng tăm rất lớn, người của hai đạo hắc bạch giang hồ đều phải cúi đầu nghe lệnh.
Sự phát tích của Hồ Bách Linh cũng do thời thế. Lúc ấy vùng Giang Bắc xuất hiện năm nhân vật. Trong năm người này, ba người là đệ tử của Thiếu Lâm, vì phạm phải thanh quy mà bị đuổi ra khỏi chùa, sau khi hoàn tục thì mượn danh nghĩa của đệ tử ngoại môn của Thiếu Lâm hoành hành vùng Giang Bắc. Hai người kia thì bỏ trốn từ phái Võ Đang. Vì những người này lần đầu tiên bước ra giang hồ, không hiểu qui tắc của lục lâm, cho nên lục lâm vùng Giang Bắc tụ tập cao thủ, muốn đuổi năm người này ra khỏi vùng Giang Bắc. Năm người này vì quan hệ lợi hại nên kết thành một đảng, ai nấy đều là cao thủ nên đã đánh bị thương những kẻ truy đuổi mình.
Cứ như thế, sự việc ngày càng ầm ĩ, tất cả cao thủ lục lâm của sáu tỉnh Giang Bắc đều tức giận liên kết lại. Năm người này võ công tuy cao, nhưng khó mà chống lại nhiều người như thế, bị người ta truy đuổi suốt ngày, khốn đốn vô cùng. Trong lúc này, đệ tử trên giang hồ của Thiếu Lâm, Võ Đang cũng biết được những chuyện ác của năm người này nên đem tin ấy về báo với chưởng môn hai phái, sau đó sai đệ tử xuống núi, do Thiên Minh đại sư suất lãnh, vượt Hà Bắc, định bắt sống năm người này về núi để trị tội.
Thiên Minh đại sư là một trong ba đại cao thủ hàng chữ Thiên của Thiếu Lâm tự lúc bấy giờ, ngoài Thiên Giác Thiền Sư, chưởng môn phương trượng chùa Thiếu Lâm, đã đi du ngoạn ba mươi năm, chưa bao giờ trở về, trong hàng chữ Thiên, võ công của Thiên Minh đại sư có thể xếp vào hàng đệ nhất trong chùa Thiếu Lâm.
Lúc này, Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh cũng là một người có tiếng ở vùng Giang Bắc, vì võ công của chàng rất cao, hành tung mờ mịt, suất quỷ nhập thần, tuy đã xuất hiện mấy năm ở vùng Giang Bắc nhưng rất ít người biết chàng.
Thiên Minh đại sư suất lãnh đệ tử của hai phái, sau khi xuống núi, khó tránh nhúng tay vào những chuyện bất bình, cho nên đã có lời đồn rằng hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang liên thủ với nhau càn quét lục lâm vùng Giang Bắc.
Điều này khiến tất cả các nhân vật hắc đạo vùng Giang Bắc lo lắng, bởi vì võ công của hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang đã sớm bao trùm thiên hạ, mà người cầm đầu lại là Thiên Minh đại sư, một trong ba đại cao tăng của chùa Thiếu Lâm, lời đồn này đã làm chấn động cả giang hồ.
Ngược lại biến cố ấy đã cứu năm người này, tất cả những cao thủ truy đuổi theo năm người này đều rút lui, tụ họp về phủ Bảo Định, tìm cách đối phó với người của hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang.
Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh nghe tin lục lâm vùng Giang Bắc tụ hội ở phủ bảo định, một mình một ngựa chạy đến phó hội, khinh công của chàng đã đạt đến Lư Hỏa Thuần Thanh, tiến vào trong hội trường mà không phát ra tiếng, mấy mươi cao thủ giang hồ, không ai phát giác được chàng đã vào từ lúc nào.
Cho đến khi mọi người tranh cãi nhau, chưa quyết định được là nên nghênh chiến hay tránh địch, Hồ Bách Linh đột nhiên xen vào, cho rằng nên hợp lực để chống lại. Lúc đó chàng tuổi hãy còn trẻ, không có danh tiếng, tuy nói là sục sôi nghĩa khí, nguyện là người dẫn đầu, một mình đấu với Thiên Minh đại sư, nhưng không ai phụ họa tán thành.
Hồ Bách Linh vốn tính tình nóng nảy, thấy không ai coi mình ra gì, bất giác giận lắm, tung một cước khiến chiếc bàn lật úp, mắng rằng bọn đạo tặc vùng Giang Bắc đều là kẻ tham sống sợ chết, chỉ là phường vá áo túi cơm mềm nắn rắn buông. Hành vi ngông cuồng của chàng khiến ai nấy đều tức giận, lập tức có bốn tên đại đạo nổi tiếng, xông về phía chàng. Lãnh diện Diêm La thấy thế thì cười nhạt, nghênh chiến với bốn người, chỉ trong khoảng mười hiệp, cả bốn đại nổi tiếng vùng Giang Bắc đều bị chàng đánh ngã ngay tại trận.
Thân thủ của chàng quả nhiên đã khiến mọi người khiếp sợ, có hơn một nửa số người chịu theo chàng nghênh chiến với cao thủ của hai phái, song chàng phải ra tay đối phó với Thiên Minh đại sư, bởi vì sở dĩ bọn họ khó đưa ra quyết định là sợ uy danh của Thiên Minh đại sư, cho nên Hồ Bách Linh chấp nhận một mình đấu với Thiên Minh đại sư, ít nhất bọn họ cũng tránh được một cường địch, những người khác thì dễ đối phó hơn.
Hồ Bách Linh thấy đa số những cao thủ nổi tiếng của lục lâm vùng Giang Bắc đều nghe theo lời mình, trong lòng mừng rỡ, cười lớn rồi dắt theo những kẻ chủ chiến, đi chặn cao thủ của hai phái do Thiên Minh đại sư dẫn đầu ở bờ sông Hoàng Hà.
Cuộc chiến ấy tuy bảo là giữa các tinh anh của lục lâm vùng Giang Bắc với cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang, nhưng chủ yếu là trận đấu giữa Hồ Bách Linh với Thiên Minh đại sư.
Hai người giao đấu với nhau một ngày một đêm nhưng vẫn không phân thắng bại.
Lúc ấy Thiên Minh đại sư tuổi đã trên lục tuần, còn Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh chỉ khoảng tam tuần, bước chân ra giang hồ chưa được ba năm, Thiên Minh đại sư tuy chưa thua chiêu nào, nhưng trong cuộc chiến kịch liệt một ngày một đêm này, cũng không hề chiếm thượng phong được tí nào, ông vốn là cao tăng đức cao vọng trọng trong võ lâm, thấy mình đã giao đấu lâu như thế mà vẫn không đánh bại một nhân vật hắc đạo mới bước chân ra giang hồ, không khỏi cảm thấy hổ thẹn, trong lòng cảm thấy khâm phục võ công của đối phương, lại cảm thấy không còn mặt mũi nào đánh tiếp, lúc ấy vội vàng đánh ra ba chiêu, đẩy lùi Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh hai bước, nhảy ra khỏi vòng chiến, nói:
“Trong đời của lão nạp gặp vô số cao nhân, nhưng người tuổi tác còn trẻ như thí chủ mà có thân thủ như thế này, quả thực hiếm thấy, lão nạp chấp nhận bị chưởng môn trách phạt, dắt các đệ tử quay về Tung Sơn. Thí chủ có võ công cao cường, trên đời có một không hai, nếu như có thể đi vào chính đạo, sẽ không khó trở thành một bậc đại hiệp, sự khác biệt giữa chính với tà vừa nhìn cũng đã biết được, sự khác biệt giữa đúng với sai toàn là do trong lòng mà ra, lão nạp không ngại mạo muội, nói mấy lời từ trong đáy lòng, mong thí chủ suy nghĩ lại”. Nói xong, quả nhiên dắt đệ tử Thiếu Lâm rời khỏi Giang Bắc, quay về Tung sơn.
Thiên Minh đại sư vừa đi, mấy đệ tử trong phái Võ Đang cũng rời khỏi Giang Bắc.
Sau cuộc chiến hôm ấy, không những lục lâm vùng Giang Bắc có cái nhìn khác với Hồ Bách Linh mà ngay cả mấy cao thủ trong Thiếu Lâm, Võ Đang cũng chấn động bởi võ công của chàng, bởi vì Thiên Minh đại sư không những là một trong ba đại cao tăng của Thiếu Lâm tự, đối với võ lâm lúc đó, tiếng tăm của ông cũng lừng lẫy lắm.
Thiên Minh đại sư đánh mãi không thắng được, hổ thẹn lui về Tung Sơn, còn Hồ Bách Linh sau cuộc chiến ấy thì tiếng tăm nổi lên, giúp cho chàng trở thành minh đầu của lục lâm Giang Bắc.
Những phản đồ bị truy bắt của Thiếu Lâm, Võ Đang cảm cái ơn ấy cho nên tự động đến đầu hàng, chính thức lập Hồ Bách Linh trở thành minh đầu của lục lâm vùng Giang Bắc, trong nhất thời được quần hào khuất phục, hễ là những chỗ Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh bước chân tới, mọi người đều phải khuất phục. Trong số những trợ thủ thuộc hạ của Hồ Bách Linh, người đắc lực nhất, chính là năm phản đồ bị hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang truy bắt. Sau khi năm người đầu hàng Hồ Bách Linh, càng thêm thân thiết hơn, thắp hương kết nghĩa gọi chung là Giang Bắc ngũ long.
Lúc này, Giang Bắc ngũ long đã khôi phục lại danh tính tục gia, cứ sắp theo tuổi tác mà gọi, lão đại tên là Vân Long Khương Hoằng, lão nhị gọi là Vân Long Tiền Bính, lão tam gọi là Phi Thiên Long Hà Tông Huy, lão tứ gọi là Đa Trảo Long Lý Kiệt, lão ngũ gọi là Phúng Hỏa Long Lưu Chấn. Hồ Bách Linh đang tuổi khí huyết phương cương, được bọn Giang Bắc ngũ long xúi giục, tự phong mình là minh đầu lục lâm Giang Bắc, chế ra lịnh bài của minh đầu lục lâm sáu tỉnh Giang Bắc, truyền dụ đồng đạo lục lâm sáu tỉnh đến tụ hội tại núi Ngũ Lâm trong kỳ hạn. Lệnh ấy đã gây mất lòng không ít những nhân vật hắc đạo của sáu tỉnh Giang Bắc, nên những kẻ này đã âm thầm chọc gậy bánh xe, ngăn chặn cuộc tụ hội này khiến chẳng ai đến tham gia.
Bọn ngũ long thấy người đến tụ hội không nhiều, lập tức xúi Hồ Bách Linh trừng phạt những kẻ không đi phó hội. Hồ Bách Linh bị ngũ long đổ dầu thêm lửa, quả nhiên đã hành động như thế, trong gần một năm, dấu chân của chàng đã đặt khắp sáu tỉnh, hễ là những kẻ không tham gia đại hội, chỉ cần có chút tiếng tăm, không phải bị giết dưới kiếm và gậy của chàng thì bị ép tham gia, lại thêm có ngũ long giúp đỡ, chạy theo trợ oai, vừa dụ dỗ vừa hù dọa, không đầy một năm, người trong phe lục lâm sáu tỉnh Giang Bắc đều hoàn toàn thần phục, tiếng tăm của Hồ Bách Linh ngày càng lớn hơn, nhưng chuyện ác và nợ máu cũng chất cao như núi, kẻ thù ngày càng nhiều … Cho đến khi chàng gặp được thiếu phụ áo đen Cốc Hàn Hương, đột nhiên bỗng hối hận những điều đã làm sai trước kia, âm thầm rửa tay qui ẩn ở chốn rừng sâu … Nhưng những món nợ máu không vì sự thay đổi của chàng mà mất đi, vó ngựa của những kẻ đi trả thù vẫn đuổi sát theo chàng …
Những chuyện xưa lướt qua đầu chàng nhanh như điện chớp, chàng quay đầu nhìn lại năm vị huynh đệ trung thành của mình lúc trước, trong lòng đột nhiên cảm thấy luyến tiếc, thầm nói:
” Hừ … trước kia mìng ngang dọc Giang Bắc, uy phong biết bao nhiêu, chỉ cần một câu nói của mình thì cả vùng Giang Bắc sẽ lập tức nổ sóng dậy gió, máu chảy thành sông, thây chất thành núi, bảy chữ Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh chấn động cả hàng ngàn hàng vạn người, bất luận là những nhân vật giang hồ hai phái hắc bạch ai dám không nghe theo mệnh lệnh của Hồ mỗ này …”. Trong mắt của chàng ánh lên tia nhìn lạnh lùng kiêu ngạo, chìm đắm trong hồi ức của những chuyện xưa.
Chỉ nghe Vân Long Khương Hoằng thở dài, nói:
“Từ ngày minh đầu qui ẩn, lục lâm Giang Bắc đã thay đổi rất nhiều, chức vị minh đầu đã bị kẻ khác dành lấy …”.
Hồ Bách Linh lạnh lùng hừ một tiếng, hỏi:
“Cái gì? Kẻ nào lại lớn gan như thế?
Hẳn là y chán sống!”.
Khương Hoằng thấy Hồ Bách Linh nổi lòng tranh hùng, chỉ cần khuyên một chập nữa thì sẽ đạt được mục đích, nói tiếp:
“Chao ôi! Nhắc đến kẻ đã chiếm đoạt chức vị minh đầu của đại ca, quả thực không ai trong võ lâm có thể bì được, y không những võ công cao cường, mà lại còn có những ám khí cực độc, không ai biết lai lịch xuất thân của y, chỉ cần y ra tay, đối phương không chết cũng bị thương, y xuất hiện vùng Giang Bắc chưa đầy một năm, nhưng đã dành lấy cơ nghiệp mà đại ca đã cực khổ dựng lên, những huynh đệ trung thành với đại ca mất mạng dưới ám khí kỳ độc của y thật khó mà tính xuể …”.
Hồ Bách Linh lạnh lùng hừ hai tiềng, râu dựng ngược lên, hỏi:
“Có chuyện đó nữa hay sao, so với Thiên Minh đại sư của chùa Thiếu Lâm thì y như thế nào?”.
Vân Long là đệ tử bị chùa Thiếu Lâm đuổi ra khỏi cửa, nghe Lãnh diện Diêm La nhắc đến Thiếu Lâm, không khỏi hơi cảm thấy nóng mặt, tiếp lời:
“Thiên Minh đại sư là một trong ba đại cao tăng của Thiếu Lâm tự, công lực tuyệt thế, võ nghệ vô song, kẻ ấy nào phải là địch thủ”.
Khuôn mặt của Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh hơi giãn ra, mỉm cười, nói:
“Ở vùng Giang Bắc có xuất hiện một nhân vật như thế, thế mà ta không hề biết …” đột nhiên nhớ lại mình mấy năm nay đã cùng thê tử qui ẩn chốn núi rừng, đã không hỏi chuyện thị phi của giang hồ, dĩ nhiên không biết tình hình trong chốn lục lâm, hỏi tiếp:
“Hẳn các người đã gặp qua kẻ này, hãy nói cho ta hay tướng mạo, binh khí mà y sử dụng như thế nào”.
Khương Hoằng nhìn bốn vị nghĩa đệ, mặt lộ vẻ lung túng, nói:
“Nói ra thật hổ thẹn, chúng tôi tuy đã giao đấu với kẻ này, nhưng vẫn chưa thấy rõ mặt, một là bởi y võ công cao cường, lai vô ảnh khứ vô hình, hơn nữa y rất kỳ lạ, trên mặt thường che mảnh vải đen …”.
Hồ Bách Linh nhíu mày, nói:
“Y dùng binh khí gì?”.
Khương Hoằng lại khựng người, nói:
“Lúc chúng tôi giao đấu với y, chưa từng thấy y sử dụng binh khí”.
Hồ Bách Linh lạnh lùng hừ một tiếng, nói:
“Vậy các người bị người ta đánh bại bằng tay không ư?”.
Giang Bắc ngũ long đồng thời đỏ mặt, trả lời:
“Bọn chúng tôi học nghệ không tinh, làm nhơ uy danh của đại ca, xin được trách mắng”.
Hồ Bách Linh đột nhiên giãn chân mày, dáng vẻ mừng rỡ, ngửa mặt lên trời cười lớn rồi nói:
“Không ngờ sau khi Hồ mỗ này qui ẩn, trong giới lục lâm Giang Bắc lại xuất hiện một nhân tài như thế, sau khi ta phải gặp mặt y mới được”.
Phi Thiên Long Hà Tông Huy đột nhiên xen vào nói:
“Những thuộc hạ của đại ca đa số đều đã đi theo quái nhân che mặt này, những huynh đệ trung thành với đại ca, không phải bị đuổi đi thì mất mạng dưới tay kẻ ấy, chỉ còn sót lại năm anh em chúng tôi.
Chúng tôi đã bôn tẩu trong chốn rừng sâu nước độc, những nơi ít người đến, một mặt là trốn tránh vó ngựa của kẻ thù, coi như mấy năm nay không phí, rốt cuộc đã tìm ra đại ca, những mong minh chủ nghĩ lại lòng trung thành của bọn huynh đệ, chấp nhận quay trở lại giang hồ, dựng lại bá nghiệp vùng Giang Bắc, một là dành lại công bằng cho bọn huynh đệ đã bị đuổi đi, hai là an ủi vong linh của những người đã mất mạng”.
Những câu này thật là thê thẻm, động lòng người, Hồ Bách Linh quả nhiên nhớ đến tình xưa, chỉ thấy trong lòng máu dâng lên bừng bừng, hào khí bộc phát, hai mắt sáng rực, nói:
“Đã có những chuyện này …”.
Chợt nghe giọng nói buồn bã trong trẻo vang lên bên cạnh:
“Đại ca, muội nhớ lại đứa trẻ bị bỏ trong rừng, thật là tội nghiệp, cầu mong đại ca cho muội quay lại đem nó đi theo”.
Hồ Bách Linh giật mình, vội vàng nuốt trở lại những lời muốn nói. Chỉ thấy vẻ mặt của thê tử buồn bã, hai hàng nước mắt từ từ chảy xuống. Té ra là nàng cứ mãi nhớ đến đứa trẻ đang thoi thóp thở trong khu rừng, không hề nghe những lời đối đáp của bọn họ.
Bọn ngũ long Giang Bắc từ lúc nãy giờ không dám nhìn kỹ thiếu phụ áo đen đang kìm ngựa bên cạnh Hồ Bách Linh, lúc này mới nghe được giọng nói trong trẻo u buồn của nàng, thật dễ nghe như tiếng hoàng anh ca hát, cũng không nén được nữa, không hẹn mà cùng quay mặt nhìn về hướng nàng.
Chỉ thấy một tuyệt thế mỹ nhân mặt mày ủ dột, trong mắt chất chứa đầy sự van nài, đang nhìn về phía Lãnh diện Diêm La, năm người nhìn một hồi thì quay đầu đi. Chỉ nghe Hồ Bách Linh dịu dàng nói:
“Thôi được, chúng ta quay lại đem nó đi theo”.
Thiếu phụ áo đen nở nụ cười, vội vàng phóng ngựa quay trở lại. Hồ Bách Linh không để ý đến Giang Bắc ngũ long nữa, giật dây cương, đuổi theo sau thiếu phụ áo đen.
Ngũ long Giang Bắc đưa mắt nhìn nhau, cũng vội vàng phóng lên ngựa giật cương đuổi theo.
Trong chớp mắt bọn họ đã quay về đến khu rừng lúc nãy, chỉ thấy đứa trẻ đang mang trọng thương nằm ngửa dưới đất, mở to đôi mắt nhìn lá vàng rơi … Thì ra nhờ Cốc Hàn Hương bôi “chỉ huyết sinh cơ táng” nên không còn đau nữa, tinh thần đã chuyển biến tốt. Cốc Hàn Hương thấy đứa trẻ vẫn an toàn, trong lòng mừng lắm, khi còn cách đứa trẻ khoảng một trượng, hai chân nàng chỉ hơi dặm mạnh, phóng người rời khỏi lưng ngựa, đáp xuống bên cạnh đứa trẻ, đưa hai tay bế nó vào lòng, nào ngờ động tác của nàng quá gấp khiến động đến vết thương của đứa trẻ, nhưng chỉ thấy nó hơi nhíu mày, nước mắt tràn ra chứ không có tiếng khóc. Cốc Hàn Hương thì hoảng sợ kêu lên ối chao, vội vàng ôm đứa trẻ vào trong lòng, vẻ mặt hối hận. Trong đời của nàng, chưa bao giờ gặp qua tình cảnh này, lúc này ôm đứa trẻ đang mang trọng thương, chỉ cảm thấy trong lòng lo lắng không yên, hận không lập tức chữa trị cho đứa trẻ hết bị thương ngay, để cho nó vui đùa với những đứa trẻ khác …
Hồ Bách Linh thấy dáng vẻ lung túng của nàng, trông rất đáng yêu, nén không được cười mà nói rằng:
“Thấy muội lung túng như thế, sau này sinh con, không biết sẽ như thế nào nữa”. Nào ngờ câu nói vô tình này đã khơi dậy tâm sự của Cốc Hàn Hương, chỉ nghe nàng buồn rầu nói rằng:
“Mấy năm nay, muội nhìn thấy phu phụ nhà người ta có con bế con bồng, lòng cứ nghĩ nếu mình có thể sinh được con thì vui biết chừng nào, chao ôi … nào ngờ thời gian cứ qua đi, hy vọng của muội vẫn chưa trở thành sự thật, nếu suốt đời này muội không sinh được con cho đại ca, chết xuống dưới chính suối, muội cũng không thể yên lòng …”.
Hồ Bách Linh mỉm cười buồn bã, nói:
“Hương muội đừng vì chuyện này mà ưu phiền, nửa đời trước của huynh làm quá nhiều chuyện xấu, hai tay nhúm đầy máu, người mang đầy tội, cho nên mới khiến ông trời tức giận, tuyệt đường tử tôn của huynh”. Cốc Hàn Hương cười buồn bã, nói:
“Từ ngày muội quen biết đại ca, chưa bao giờ thấy đại ca làm bất cứ chuyện xấu gì, chỉ là muội không tốt, không biết sinh con …”. Nàng nói đến chỗ đau lòng thì nước mắt tuôn rơi.
Hồ Bách Linh đột nhiên mỉm cười, tiếp lời:
“Nếu nàng thích trẻ con như thế, hay là chúng ta hãy nuôi đứa trẻ này, nàng thấy thế nào?”.
Cốc Hàn Hương nghe thế thì hơi giật mình, nói:
“Muội biết đại ca vì yêu thương muội cho nên mới nhận nuôi đứa trẻ này chỉ e trong lòng của huynh không thật sự muốn như thế”.
Hồ Bách Linh cười:
“Ta có bao giờ lừa gạt muội đâu, chỉ cần mỗi ngày muội có thể sống vui vẻ, dù cho ta có bị đày đọa, trong lòng ta cũng vui vẻ như thế”.
Cốc Hàn Hương khẽ nói:
“Oâi, đại ca đối đãi với muội thật tốt …” rồi từ từ ngả vào lòng Hồ Bách Linh.
Cách đó mấy trượng, Giang Bắc ngũ long không ai dám đến gần, nhưng mười con mắt đều nhìn chăm chăm về phía hai người.
Tình cảm của hai người tuy sâu đâm, nhưng vì có mặt Giang Bắc ngũ long nên bất đồ Cốc Hàn Hương cảm thấy e thẹn, lúc ngả người vào lòng Hồ Bách Linh, nàng đột nhiên lướt qua khỏi chàng.
Hồ Bách Linh mỉm cười:
“Chúng ta đã nhận nuôi con của người ta, thì cũng nên an táng thi thể của cha mẹ chúng”. Hai người chạy vội vào trong rừng, tìm thi thể của hai người lúc nãy, Hồ Bách Linh rút thanh trường kiếm trên lưng, công lực của chàng thâm hậu, hai cánh tay có thần lực thiên cân, đất ở nơi này tuy cứng, nhưng chàng đào không hề phí sức tí nào, chỉ trong chốc lát đã đào được một một huyệt dài tám thước, rộng ba thước, sâu năm thước. Chàng tra kiếm vào bao, nhìn hai thi thể, trong lòng không khỏi sinh cảm khái, cười thầm rằng:
“Cuộc đời Hồ Bách Linh này chỉ biết giết người, thế mà hôm nay lại an táng người bị kẻ khác giết”. Rồi chàng nhẹ nhàng đưa thi thể của người nam xuống mộ, sau đó đến lượt xác của người nữ, đang lúc bỏ thi thể ấy xuống hố, bỗng thấy một vật nhỏ như hạt long nhãn, phát ánh sáng bạc óng ánh từ thi thể của người nữ lăn ra. Tuy sự việc xảy ra nhanh chóng, nhưng ánh mắt của chàng sắc bén, đã thấy trên vật hình tròn ấy, có khắc một con phi long đang nhe nanh giơ vuốt, chàng giật mình, hai tay buông ra, thi thể của người nữ rơi vào trong mộ. Chàng không để cho thê tử nhìn thấy vẻ mặt hoảng hốt của mình, vội vàng cúi đầu xuống, giả vờ đặt thi thể của người nữ cho ngay ngắn, tiện tay nhặt viên ngân cầu dưới đất lên, bỏ vào trong áo.
Cốc Hàn Hương giúp chàng lấp mộ lại, cùng ra khỏi rừng, chỉ thấy Giang Bắc ngũ long đang đứng xếp hàng ngoài rừng, vừa thấy hai người bước ra khỏi rừng đã đứng từ xa nghênh đón.
Lãnh diện Diêm La nhíu mày, quay về phía Cốc Hàn Hương cười nói:
“Năm người này là thuộc hạ cũ năm xưa của huynh, đã nhiều năm không gặp, hôm nay vô tình gặp nhau, bọn họ vẫn còn nhờ đến tình cũ, cầu xin huynh giữ lại, song huynh đã rửa tay không muốn nhuốm máu nửa, cho nên không thể đi cùng bọn họ, huynh sẽ đuổi bọn họ đi …”.
Thực ra những lời này của Hồ Bách Linh không phải là lời từ trong lòng, chàng nghĩ lần này quay trở lại giang hồ, tranh đoạt chức minh chủ lục lâm, không những phải trải qua những cuộc ác đấu, vả lại sinh tử còn chưa biết, dù là may mắn thành công cũng cần phải có vài thuộc hạ tâm phúc đi theo bên mình để có người giúp đỡ, nhưng vì chàng một lòng hướng thiện, hối hận những sai lầm của mình trước kia, mà tiếng xấu của Giang Bắc ngũ long đầy rẫy trên giang hồ, chàng tuy có lòng muốn giữ họ lại, nhưng không tiện nói ra miệng.
Chỉ nghe Cốc Hàn Hương thờ dài, nói:
“Đại ca, chàng đã quyết tâm đến tranh hùng ở Bắc Nhạc, chi bằng cứ mang họ theo, võ công của muội vốn kém cỏi không thể giúp huynh, mà hiện nay muội còn phải chăm sóc cho con trẻ, càng không thể giúp đỡ được, mang bọn họ theo cũng tốt”.
Hồ Bách Linh thở dài:
“Những người này trước kia giúp cho huynh làm điều ác, quả thực là những trợ thủ rất tốt, nhưng giờ này huynh đã nhận ra cái sai của mình trước kia, muốn nhân lúc còn sống, làm chuyện vui lòng người, hoặc chuyện có ích cho nhân gian để chuộc những lỗi lầm trước kia, chỉ sợ năm người bọn họ tánh tình lỗ mãng khó dạy, làm những điều huynh không mong muốn, lúc đó thì càng khó chuộc tội của mình nữa”.
Cốc Hàn Hương nói:
“Từ sau khi muội và đại ca quen biết nhau, thường nghe chàng nói đến những chuyện sai trước kia, nhưng chúng ta đã bên nhau nhiều năm, muội vẫn chưa thấy chàng làm sai chuyện gì”.
Hồ Bách Linh cười nhạt, nói:
“Để huynh hỏi bọn họ, nếu như bọn họ chịu bỏ đồ đao xuống, bước ra khỏi lưới nghiệp chướng, đổi lòng hướng thiện, huynh sẽ đưa bọn họ đến Bắc Nhạc, nếu như không có lòng sửa đổi, hừ, ta sẽ trừ đi cái hại cho nhân gian vùng Giang Bắc …” nói đến câu cuối cùng, trong mắt của Hồ Bách Linh phóng ra tia sát cơ, trong chốc lát đã đến các Giang Bắc ngũ long vài thước.
Trong số Giang Bắc ngũ long, Vân Long Khương Hoằng là người lanh lẹ nhất, thấy Hồ Bách Linh xăm xăm đi tới, lập tức ôm quyền thi để, cười rằng:
“Sao đại ca không giới thiệu tẩu phu nhân cho bọn huynh đệ chúng tôi ra mắt thỉnh an”.
Hồ Bách Linh cười lạnh lùng, nói:
“Năm người các ngươi khổ nhọc tìm kiếm ta, chắc là vì vị minh chỉ mới của lục lâm Giang Bắc đối xử tệ với các người, nên muốn mượn sức của Hồ mỗ này giúp các ngươi trừ đi cường địch, có phải không …”. Chàng dừng lại một chốc, không đợi Giang Bắc ngũ long tiếp lời, nói tiếp:
“Nhưng ta đã thề rằng rửa tay không giết người tốt nữa, chỉ e các ngươi chỉ phí công tìm ta”. Khi đang nói thì ngầm vận công, chỉ đợi phát ra mà thôi. Giang Bắc ngũ long đưa mắt nhìn nhau rồi đột nhiên đứng sát lại với nhau. Té ra bọn họ thấy Hồ Bách Linh đã lộ sát cơ, sợ chàng bất ngờ ra tay, mà lại biết rằng không ai có thể tiếp nổi một chưởng của chàng, cho nên phải đứng sát lại với nhau, chuẩn bị dùng lực của năm người để tiếp chưởng, năm người này đã bôn tẩu trên giang hồ mười năm, chưa bao giờ rời nhau một bước, khi gặp phải cường địch thì thường ra tay cùng một lúc, cho nên tâm ý đã tương thông, chỉ cần nhìn nhau thì đã hiểu ý nhau.
Hồ Bách Linh thấy năm người có ý hợp lực lại để chống mình, bất giác biến sắc, chậm rãi giơ tay phải lên nói:
“Hay lắm! Các người hãy hợp lực lại tiếp ta một chưởng!”.
Giang Bắc ngũ long thấy công lực của chàng thâm hậu, uy thế của chàng như dài núi lấp biển, nào dám đáp lại, ai nấy đều ngưng thần vận công, mười ánh mắt nhất tề hướng về phía Lãnh diện Diêm La.
Hồ Bách Linh định chém chưởng xuống, bỗng nghe giọng nói dịu dàng của Cốc Hàn Hương vang lên bên cạnh:
“Đại ca, huynh đừng làm tổn thương bọn họ …”.
Lãnh diện Diêm La quay lại nhìn thê tử, đột nhiên thu chưởng, nhảy vọt ra sau năm bước, nói:
“Niệm tình các người đã từng đi theo ta, hôm nay ta tiến hành cho các người một con đường sống, hãy mau lên ngựa rời khỏi nơi đây”.
Giang Bắc ngũ long nhìn thấy vị đại ca năm xưa của mình giờ đây lại hết tình hết nghĩa như thế, không khỏi buồn bã thở dài, phóng người lên ngựa, đang định ra roi bỏ đi, đột nhiên nghe thiếu phụ áo đen nói:
“Đại ca đối đãi với bằng hữu cũ như thế, không ngại họ đau lòng hay sao? Ôi! Sao đại ca không khuyên bọn họ cải tà qui chính, một lòng hướng thiện giúp cho huynh làm chuyện tốt?”.
Hồ Bách Linh chưa trả lời, bỗng thấy Giang Bắc ngũ long đều giật cương ngựa quay đầu lại, chậm rãi xuống ngựa, nhất tề bước tới trước mặt Hồ Bách Linh, cúi người nói:
“Đại ca có thể hiểu được những cái sai của ngày trước, lập chí hướng thiện, tội ác của bọn chúng tôi còn sâu nặng gấp mười lần đại ca, nếu như đại ca nghĩ đến cái tình ngày trước, giữ chúng tôi lại bên mình, chúng tôi nguyện đi theo đại ca làm những chuyện nức lòng người để chuộc lại những lỗi ngày trước”.
Lãnh diện Diêm La cười lạnh lùng, nói:
“Một người muốn cải tà qui chính nào phải chuyện dễ dàng, vả lại có câu giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, huống chi trong thì bị đồng đạo đuổi giết, ngoài thì khó được người trong danh môn chánh phái tha thứ, nếu là kẻ xuất thân từ lục lâm, quen thói giết người thì làm sao có thể chịu đựng nổi?”.
Suất Vân Long Khương Hoằng đột nhiên cao giọng nói:
“Bọn năm người chúng tôi đều xuất thân từ danh môn chánh phái trong võ lâm, chỉ vì làm chuyện sai trái, bị người trong lục lâm dụ dỗ, phản lại sư môn, nên phải bỏ xuống núi, nào ngờ vừa mới bước chân vào giang hồ thì lập tức sa xuống bùn nhơ, không thể nào tự rút ra được, tích ác ngày càng nhiều, ác tính ngày càng lớn, trong chớp mắt đã trải qua mười lăm năm, từ ngày đại ca qui ẩn, bọn chúng tôi tận mắt thấy các huynh đệ kẻ thì chết, kẻ thì bỏ đi, đa số đều gặp phải ác báo, nhưng vẫn không biết hối hận, ngược lại còn ôm lòng oán hận, một lòng một dạ muốn tìm đại ca báo thù giùm bọn họ, bản thân lại không biết tỉnh ngộ, trong mười lăm năm đã tạo ra biết bao nhiêu nghiệp chướng, giết bừa biết bao nhiêu người tốt, nay nghe mấy lời của đại tẩu, nguyện đem phần đời còn lại đi theo đại ca, làm vài chuyện tốt, mong có thể giảm bớt nỗi đau khổ vì dằn vặt, dù cho hàng vạn mũi đao xuyên vào tim, cũng không hề tiếc nuối”. Y vừa nói xong, bọn Tiền Bính, Hà Tông Huy, Lý Kiệt, Lưu Chấn đều lập tức nhất tề tiếp lời:
“Lời của Khương huynh chính là tâm ý của bọn chúng tôi, chỉ mong đại ca cho chúng tôi đi theo bên cạnh, để chúng tôi có được cơ hội làm lại cuộc đời, cũng là giúp chút sức cho đại ca”.
Hồ Bách Linh nggửa mặt cười lớn, nói:
“Nếu các người quả thực có lòng này, từ này về sau, chúng ta sẽ là hảo huynh đệ cùng chịu hoạn nạn …”. Chàng đột nhiên nghiêm mặt, đưa mắt nhìn quanh, nói tiếp:
“Nế như có người nói ra lời không đúng với lòng, vậy thì chi bằng hãy bỏ đi cho sớm, để sau này hối hận không kịp”.
Giang Bắc ngũ long nhất tề cúi mình đáp lại:
“Dù cho có thịt nát xương tan cũng không nửa lời oán trách, chỉ mong đại ca yên tâm”.
Hồ Bách Linh nghe năm người nói như chém đinh chặt sắt, không hề có chút do dự, không khỏi mừng rỡ, cười rằng:
“Các người đã có thể lòng hướng thiện như thế, ta sẽ rất hoan nghênh …”. Đột nhiên giơ tay trái rút thanh trường kiếm trên lưng, lật tay phóng ra, chỉ thấy một ánh chớp lóe lên, thanh kiếm phóng ra, một gốc cây du bên cạnh to như miệng chén đứt làm đôi. Thanh kiếm chém đứt thân cây du vẫn còn dư lực, cắm vào một gốc bạch dương ở cách đó mấy thước, Chu Chiến run lên bần bật.
Giang Bắc ngũ long thấy chàng phóng kiếm ra như thế, uy lực kinh người, ai nấy đều sững người ra nhìn. Suất Vân Long Khương Hoằng khen rằng:
“Công lực của đại ca tiến bộ hơn năm xưa rất nhiều”.
Hồ Bách Linh ha ha cười lớn, nói:
“Nếu vị huynh đệ nào đi ngược lại với lời nói hôm nay, thì hãy xem gương gốc cây này”.
Giang Bắc ngũ long đồng thanh đáp rằng:
“Nếu bọn chúng tôi phản bội lại lời nói thì cứ mặc cho đại ca xử lý, nếu lời không đúng với lòng, xin trời tru đất diệt”.
Hồ Bách Linh thấy năm người đều nhất tề lập lời thề như thế, trong lòng rất vui mừng, cười rằng:
“Không phải tiểu huynh có lòng nghi ngờ các vị huynh đệ, chỉ vì hành động tích ác phản thiện không phải là chuyện dễ sửa, nếu không phải xuất phát từ tấm lòng, quả thực khó làm được, các huynh đệ đã có thể bỏ con đường tối, hối hận những việc đã làm sai trước kia, mong các vị có thể dùng trí tuệ, định lực để tẩy rửa tâm hồn, nửa đời trước của chúng ta đã làm nhiều điều ác, đã trở thành thói quen, muốn bỏ đao giết người xuống, nói thì dễ, nhưng nếu không có trí tuệ và định lực thì không thể làm được”. Chàng đột nhiên quay sang nhìn thê tử rồi nói tiếp:
“Những việc làm sai trái của ta trước kia còn hơn cả cá vị, chỉ vì gặp được đại tẩu của các người, đột nhiên tỉnh ngộ ra từ hố sâu của tội ác, sự thiện lương thuần khiết của nàng đã gíup ta hiểu ra được điều ấy, nhưng điều quan trọng hơn là nàng hết mực yêu thương đối với ta, điều này làm ta nhớ lại vô số những nhà thiện lương, vô số những cặp phu thê ân ái, chỉ vì một chút vọng động của chúng ta mà khiến người ta thịt nát xương tan, cửa nhà ly tán, mỗi lần nhớ lại chuyện này thì hận không rút kiếm tự vẫn để mong được yên ổn nơi cõi lòng …”.
Chàng ngửa mặt lên trời thở dài, nói tiếi:
“Nhưng nghĩ lại, thân này đã lỡ làm điều ác, tại sao không thể làm điều thiện, không dấu các vị, trong mấy năm gần đây, tiểu huynh đã bí mật làm mấy chuyện vui lòng người, tuy cũng có máu nhuộm hai tay, nhưng trong lòng thì khác hẳn, sự khác nhau giữa hiệp với đạo, giữa thiện với ác, toàn là bỏi suy nghĩ của con người, sự vi diệu ở trong đó rất khó dùng lời để giải thích, huống chi một người bỗng nhiên bỏ ác đi về với thiện, vừa không được những nhân vật hiệp nghĩa trong võ lâm chính phái tin tưởng, vừa đắc tội với bằng hữu trong giới lục lâm, khiến cho hai mặt đều gặp địch, nếu không có quyết tâm và định lực lớn lao, quả thực khó mà chịu nổi, ta lần này mạnh dạn quay trở lại giang hồ, bề ngoài là đến Bắc Nhạc tranh dành chức minh chủ lục lâm, thực sự là muốn mượn thân phận minh chủ lục lâm để hành thiện tích đức, bù đắp lại những lỗi lầm của mình trước kia mà thôi”.
Suất Vân Long Khương Hoằng nghiêm mặt nói:
“Đại ca đã có lòng tạo phúc cho thiên hạ, bọn chúng tôi cũng sẽ cố gắng hết sức để giúp cho đại ca một tay”.
Hồ Bách Linh nói:
“Đại hội Bắc Nhạc lần này tâp trung những cao thủ lục lâm trong thiên hạ, chuyện thành bại vẫn chưa biết được, chỉ mong có thể làm hết sức mình, việc thành bại phải nghe theo trời mà thôi”. Nói xong, bước tới gốc cây rút thanh trường kiếm tra vào vỏ, rồi nhảy lên ngựa, ra roi phóng về phía trước, Cốc Hàn Hương và Giang Bắc ngũ long cũng vội vàng nhảy lên yên ngựa, bảy thớt ngựa tốt phi thẳng về phía Bắc Nhạc.
Trải qua ba ngày rong ruổi, đến trưa ngày thứ tư thì đã đến dưới chân Hằng Sơn.
Hồ Bách Linh thầm tính còn cách năm ngày nữa là diễn ra đại hội lục lâm, đang định tìm nơi yên tĩnh để nghỉ lại, một là để dương tinh thần, hai là để giữ bí mật hành tung, lòng chợt nảy ra một ý, quay đầu nói với Cốc Hàn Hương:
“Giờ đây còn năm ngày nữa mới đến đại hội lục lâm, chúng ta trước tiên hãy vào trong núi, tìm một sơn cốc yên tĩnh để nghỉ chân, tránh tiết lộ hành tung, cũng là để dưỡng tinh thần”.
Cốc Hàn Hương:
“Mấy năm nay, chúng ta chẳng phải ở nơi hoang sơn cùng cốc hay sao? Nhưng những ngày ấy muội đều cảm thấy không vui …”. Nàng đột nhiên cúi đầu nhìn đứa trẻ trong lòng, nụ cười trên mặt chợt tắt, nói:
“Ôi! Nhưng giờ đây chúng ta đã có đứa con này, sự việc đã khác, mấy hôm nay ngày nào cũng phải rong ruổi trên đường, nó chưa được nghỉ ngơi, nếu lại phải ở nơi hoang sơn cùng cốc nữa, phải chịu đựng gió mưa, muội chỉ e nó gắng gượng không nổi nữa!”.
Suất Vân Long Khương Hoằng mỉm cười, tiếp lời:
“Trong chốn rừng sâu núi thẳm có nơi là thạch động thiên nhiên còn thoải mái hơn cả cao lầu họa các do con người dựng lên, còn chuyên ăn uống, tiểu đệ đã chuẩn bị rất nhiều, đủ cho mấy người chúng ta dùng trong mười ngày, xin tẩyu phu nhân hãy yên tâm”.
Cốc Hàn Hương nở nụ cười:
“Mấy ngày nay ta cứ lo lắng thương thế của đứa trẻ này, chẳng để ý gì cả”.
Hồ Bách Linh thấy thê tử của mình mệt mỏi, trong lòng thương cảm lắm, nói:
“Mấy ngày nay muội cứ mãi bế nó mà không chịu nghỉ ngơi, tuy phải lo cho nó, nhưng nàng cũng phải để ý đến sức khỏe của mình chứ!”.
Chỉ nghe nàng thở dài nói:
“Chỉ huyết sinh cơ tán của đại ca vốn là loại thuốc tốt để chữa trị vết thương, không biết cớ gì lại hình như không linh nghiêm, thiếp đã bôi mấy lần cho nó nhưng thương thế vẫn không đỡ hơn”.
Hồ Bách Linh hơi lắc đầu, muốn nói điều gì nhưng lại im, trầm ngâm một lát rồi mới lên tiếng:
“Một đứa trẻ chỉ mới sáu bảy tuổi như nó, người lại mang trọng thương như thế, mất máu quá nhiều, tuy đã dùng chỉ huyết sinh cơ tán, nhưng không thể bình phục lại trong khoảng thời gian ngắn, cần phải nghỉ ngơi mấy ngày rồi tự nhiên sẽ hết, muội không nên quá lo lắng”.
Thật ra chàng đã thấy đứa trẻ không chỉ là bị vết thương bên ngoài, mà nội phủ cũng bị thương không nhẹ, đó là bởi vì lúc mới bôi chỉ huyết sinh cơ tán, đã thấy rõ công hiệu nhưng mấy ngày sau thương thế không những không khởi sắc, mà ngược lại ngày càng trầm trọng, chàng đã biết đứa trẻ khó mà cứu được, chỉ vì ngại làm đau lòng thê tử nên không nói ra, đành đợi cho nó tự sinh tự diệt mà thôi.
Của hàng thầm thở dài trong lòng, cỡi ngựa vào trong núi, đi được bốn năm dặm đường, thấy núi trở nên khó đi, núi cao giăng ngang, vực sâu chặn đường, không thể nào cỡi ngựa vượt qua được. Trong tình cảnh đó, bảy người chỉ đành bỏ ngựa đi bộ, sau khi vượt qua hai dãy núi thì đã tìm ra một lối vào của một sơn cốc.
Hồ Bách Linh nhìn lại thê tử, quay sang nói với Giang Bắc ngũ long:
“Nếu ta nhớ không lầm, u cốc này cách Hàn Bích nhai chỉ hai mươi dặm đường, chúng ta hãy tìm chỗ nương thân, nghỉ ngơi mấy ngày, vừa có thể hồi phục sức khỏe, vừa có thể dò la tin tức của kẻ địch”.
Cốc Hàn Hương đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy vách đá dựng đứng, những dãy núi trải dài, trong sơn cốc cây cỏ xanh tốt, cảnh vật thật là tươi đẹp, chỉ là có cảm giác hơi âm u mà thôi.
Nàng cúi đầu nhìn đứa trẻ đang mang trọng thương trong lòng, chỉ mấy ngày mà hình như đã ốm đi nhiều, hai mắt nó nhắm chặt, ngủ say một cách bất thường, trong lòng nàng cảm thấy không yên, nói:
“Nếu một mình muội sống ở nơi gía lạnh, muội cũng sẽ rất vui, nhưng thương thế của đứa bé này vẫn chưa hết, nếu như ở ngoài trời …”.
Hồ Bách Linh mỉm cười, tiếp lời:
“Mười năm trước, huynh đã từng dừng lại ở đây nửa tháng, theo trí nhớ, trong sơn cốc này có một sơn động rất lớn, đủ cho mấy người chúng ta nghỉ ngơi, chúng ta vào trong sơn cốc xem thử, nếu muội thấy không tốt thì sẽ đi tìm nơi khác”. Chàng vốn người cao lớn, nên khi nói ra tiếng, thanh âm vang vọng như tiếng chuông đồng, khiến cho người ta nhìn thấy, trong lòng cũng cảm thấy khiếp sợ, nhưng đối đãi với thê tử thì lại rất dịu dàng, lời nói đầy thâm tình.
Cốc Hàn Hương nở nụ cười, nói:
“Vì con trẻ, mấy ngày nay muội vẫn thường tranh cãi với đại ca, khiến cho đại ca nổi giận, ôi! Sớm biết như thế, thiếp đã không mang nó theo”. Nàng cúi đầu nhìn đứa trẻ đang thoi thóp thở trong lòng, nụ cười chợt tắt, thay vào đó là nỗi buồn bã.
Hồ Bách Linh thấy vẻ mặt rầu rĩ của thê tử, lòng thầm nghĩ:
“Nếu đứa trẻ này không qua khỏi, Hương muội sẽ rất đau lòng, mình phải tìm cách cứu lấy tánh mạng của nó …”. Lòng thì nghĩ cách cứu chữa cho đứa trẻ, chàng chậm rãi bước về phía trước. Ngũ long Giang Bắc cẩn thận đi sau lưng chàng, không dám nói thêm một lời.
Con người đã từng ngang dọc Giang Bắc năm xưa, được người ta tôn xưng là minh chủ lục lâm, tuy lòng đã đổi khác, hối hận về những điều sai quấy của mình trước kia, toàn tâm hướng thiện, nhưng uy thế vẫn còn của trước kia, đủ cho ngũ long Giang Bắc vẫn nể sợ, chỉ e nói ra những lời khiến cho chàng nổi giận, tuy nhìn thấy chàng có tâm sự, nhưng không dám nói ra lời gì.
Bảy người đi được khoảng mười mấy trượng, đến bên một vách núi dựng đứng, Hồ Bách Linh đi trước dẫn đường, vòng qua một khối đá nhô ra, bước vào trong một động đá thiên nhiên.
Giang Bắc ngũ long cung kính lui ra hai bên, đồng thanh nói:
“Xin mời phu nhân vào trước”. Năm người đứng cúi đầu, vẻ mặt rất cung kính.
Cốc Hàn Hương hơi do dự, nói:
“Sao các người e sợ ta đến thế?”. Trong đời của nàng, chưa bao giờ gặp những người cung kính với nàng như thế cả, trong một lúc không biết làm thế nào mới phải.
Suất Vân Long Khương Hoằng ôm quyền nói:
“Long đầu đại ca vốn là minh chủ lục lâm vùng Giang Bắc, chúng tôi cũng phải cung kính phu nhân …”.
Hồ Bách Linh thở dài:
“Chuyện năm xưa đã trở thành quá khứ, chúng ta đều là những kẻ mang nợ trên người, hai tay nhuốm đầy máu tanh, từ nay về sau hãy nên làm những chuyện có ích cho nhân gian …”. Chàng hơi ngừng lại, ánh mắt rất hiền hòa, nói tiếp:
“Từ nay về sau chúng ta sẽ là huynh đệ cùng chung chí hướng, đồng sinh cộng tử”.
Giang Bắc ngũ long như sững người ra, đồng thanh nói:
“Chúng tôi chỉ mong đi theo minh chủ là đã thỏa lòng, nào dám nhận hậu ái của minh chủ?”.
Hồ Bách Linh mỉm cười, nói:
“Từ nay về sau, ta mong các vị đi vào con đường chính, chúng ta đã là tâm ý tương đồng, nào có phân biệt gì đâu, ta lớn hơn các người vài tuổi, từ nay cứ gọi ta một tiếng đại ca là đủ!”.
Giang Bắc ngũ long đưa mắt nhìn nhau, nhất tề quì phục xuống đất, nói:
“Minh chủ đã căn dặn như thế, bọn chúng tôi cung kính chi bằng tuân mệnh, đại ca ở trên, xin nhận của chúng tôi một lạy”.
Hồ Bách Linh hai vai hơi lách, người đã vọt ra khỏi động đá, đưa tay chặn năm người lại, nói:
“Mau đứng dậy”.
Ngũ long Giang Bắc chỉ thấy cánh tay của chàng có một tiềm lực uy mạnh, không dám miễn cưỡng, đều đứng dậy cả.
Cốc Hàn Hương mỉm cười, từ chỗ Giang Bắc ngũ long bước đến sánh vai với Hồ Bách Linh, nói:
“Muội cũg nên bày tiệc rượu để chúc mừng cho các người, nhưng đây là chốn núi rừng …”.
Suất Vân Long Khương Hoằng cười ha ha nói:
“Đại ca chịu hạ mình như thế, xem bọn chúng tôi như huynh đệ, bọn chúng tôi đã cảm thấy vinh dự vô cùng, suốt đời ghi nhớ trong lòng, nào dám làm phiền đến …”. Y đột nhiên thấy lời nói và thần thái của mình có hơi vượt quá, vội vàng im lặng không nói nữa.
Hồ Bách Linh cười:
“Năm vị hiền đệ hãy mau vào trong động nghỉ ngơi một lát để đến tối còn có việc phải làm nữa”.
Giang Bắc ngũ long tuy đã theo chàng gần mười năm, nhưng chưa bao giờ được chàng đối đãi hòa nhã như thế, chỉ cảm thấy trong lòng có niềm vui vô bờ bến, nhất tề bước vào trong động.
Hồ Bách Linh quay lại nhìn thê tử cười nói:
“Trên suốt chặng đường đi, muội cứ ôm mãi đứa trẻ này, chắc là đã mệt mỏi lắm, hãy để ta bế thay cho muội, muội hãy đi nghỉ ngơi một chốc”.
Cốc Hàn Hương vốbn là muốn từ chối, nhưng thấy trong ánh mắt của trượng phu đầy ý chân tình, nghĩ bụng:
“Nếu mình không nghe lời chàng, chỉ e chàng lại nổi giận …”. Nàng vốn là người hiền hòa dịu dàng, có tình cảm sâu nặng với trượng phu, nhìn thấy ánh mắt của trượng phu thì khí mà từ chối được, chậm rãi trao đứa trẻ cho trượng phu, mỉm cười, nói:
“Muội không hề cảm thấy mệt mỏi, nhưng nếu huynh muốn muội nghỉ ngơi mà muội lài không nghe, trong lòng huynh chắc chắn sẽ khó chịu”.
Hồ Bách Linh mỉm cười:
“Vì mãi lo cho thương thế của đứa bé, người tuy mệt nhọc, nhưng nàng không hề cảm thấy điều ấy, nếu cứ thêm mấy ngày nữa, khi tinh thần không chịu đựng được nữa, ngã bệnh thì biết làm thế nào?”.
Cốc Hàn Hương mỉm cười:
“Đại ca yêu thương muội như thế …”. Đột nhiên nghĩ đến bọn Giang Bắc ngũ long bên cạnh, mặt đỏ ửng lên, lặng lẽ không nói gì nữa. Họ đã ở bên nhau mấy năm trời trong rừng sau vắng vẻ, hình bóng không rời nhau, chưa bao giờ có một người thứ ba đi cùng với họ, cho nên tình cảm, hành động và lời nói đều không có gì phải kiêng dè, giờ nay đột nhiên lại có thêm Giang Bắc ngũ long, trong nhất thời khó thích ứng được. Cốc Hàn Hương vừa chậm rãi bước, vừa đưa mắt nhìn quanh trong thạch động.
Thạch động này rộng khoảng bằng ba gian nhà, ở giữa lại có một vách đá, ngăn cách thạch động ra làm hai, Cốc Hàn Hương chậm rãi bước vào gian phía trong. Hồ Bách Linh nhìn Giang Bắc ngũ long, nói:
“Các vị cũng nên nghỉ ngơi một chốc”. Rồi bước tới ngồi dựa vào vách đá, nhắm mắt vận khí điều hoà hơi thở. Nội công của chàng tinh thông, chỉ hơi vận khí, lập tức ở trong đan điền dâng lên một luồng khí nóng, chạy khắp cơ thể, đi đến tứ chi, chàng chậm rãi đặt đứa trẻ xuống đất, hai tay không ngừng xoa bóp cho nó.
Đứa trẻ mở to hai mắt, miệng từ từ mỉm cười, tựa hồ như thuật thôi nã của Hồ Bách Linh đã khiến cho nó cảm thấy rất thoải mái, nỗi đau đớn trong mấy ngày qua đã lui, đứa trẻ từ từ nhắm mắt, chìm vào giấc ngủ say.
Hồ Bách Linh ngừng tay, cúi đầu nhìn đứa trẻ đang nằm dưới đất, trong lòng lo lắng, chàng vốn tinh thông y thuật, đã biết được đứa trẻ khó qua được bảy ngày, trước mắt chỉ còn một cách có thể cứu nó, đó chính là mình chịu tổn hao nguyên khí, đánh thông tinh mạch toàn thân của nó, khiến cho máu huyết lưu thông, khôi phục lại công năng của lục phủ, nhưng như thế sẽ phí tổn nhiều nguyên khí của bản thân, ảnh hưởng đến cuộc tỉ võ ở Hàn Bích nhai sau này. Nhưng từ ánh mắt lo lắng của thê tử, chàng biết đứa trẻ này rất quan trọng với nàng, nếu như nó trút hơi thở cuối cùng thì nàng sẽ đau lòng lắm …
Nụ cười của nó thật là vô tư, chàng thở dài, hoang mang không biết làm thế nào mới phải. Chàng đã từ tự tay tiêu diệt hàng ngàn sinh mạng, nhưng giờ đây khi đối mặt với một đứa trẻ sắp chết, chàng có cảm giác lung túng, đó chính là giới tuyến giữa sự thiện lương và tàn khốc trong nhân tính, giới hạn ấy thật là mong manh. Chàng cảm thấy hoang mang, ngồi thẩn thờ, trong đầu cứ suy nghỉ có nên cứu sinh mạng bé nhỏ đang sắp rời khỏi trần thế này hay không. Bỗng nghe trong thạch thất, truyền ra giọng nói ngọt ngào của Cốc Hàn Hương:
“Đại ca, huynh cũng phải nghỉ ngơi cho khỏe, nếu cứ ôm mãi nó như thế thì sẽ không ngũ được, hãy trả lại cho muội!”.
Giọng nói thanh tao nhẹ nhàng lại như sắp nổ giữa trời xanh, khiến cho chàng giật mình, cảm giác hoang mang lúc nãy đã bị xóa sạch. Chàng đưa mắt nhìn Giang Bắc ngũ long, chỉ thấy trong năm người chỉ còn lại ba người đang tịnh tọa, sáu ánh mắt đang tâp trung nơi người chàng. Những chuyện của nhiều năm trước lại hiện lên trong đầu nhanh như điện chớp, lúc đó, chỉ cần chàng ở lại một nơi nào, trong Giang Bắc ngũ long sẽ phái ra hai người căn giữ cho chàng, năm người cứ thay phiên nhau chưa bao giờ ngừng nghỉ, cách nhau nhiều năm như thế mà họ vẫn trung thành với mình. Trong lòng nhớ lại những chuyện ngày trước, miệng thì lại trả lời Cốc Hàn Hương, nói:
“Đứa bé ngủ rất ngon, đừng đánh thức nó dậy, muội hãy nghỉ cho khỏe đi!”. Rồi đưa tay phải phất nhẹ, ba người còn trong thạch thất nhất tề đứng dậy lặng lẽ lui ra.
Chàng nhìn trên mặt đứa trẻ, mỉm cười, ngầm đưa chân khí của đan điền lên, tay trái ấn nhẹ vào huyệt thiên linh trên đỉnh đầu, ngầm vận nội công đẩy chân khí ra, thông qua huyệt thiên linh của đứa trẻ đưa hẳn chân khí vào trong người nó.
Phải biết rằng một đứa trẻ không hề có một chút căn cơ võ công, không thể vận khí và hấp thu chân khí đưa vào người, toàn phải nhờ nội công thâm hậu của Hồ Bách Linh, đẩy ra chân khí, đi khắp kinh mạch, đẩy cho khí huyết của nó vận chuyển, thúc đẩy cho tâm tạng của nó hồi phục trở lại, đứa trẻ tuy được lợi nhiều nhưng Hồ Bách Linh thì bị hao tổn nguyên khí. Trong chốc lát, mồ hôi trên đầu của chàng tuôn ra, dù cho nội công của chàng thâm hậu, nhưng cũng không chịu nổi cái khổ do tổn hao chân khí, trước khi đánh thông kinh mạch của toàn thân đứa trẻ, không thể nào ngừng tay được, chỉ hơi ngơi nghỉ thì bao nhiêu công lao sẽ trôi hết, cho nên chỉ cố gắng chịu đựng, vận nội trình đẩy chân khí ở đan điền ra. Bỗng nghe có mùi hương thơm, một tấm khăn mềm mại đang nhẹ lau trên trán của chàng, bên tai thì vang lên giọng nói dịu dàng của hiền thê:
“Đại ca vì muốn làm cho muội vui, không tiếc hao phí nguyên khí, chỉ e đối với cuộc tỉ võ ở Bắc Nhạc …”.
Hồ Bách Linh đang vận khí đến chỗ quan trọng, không dám phân tán tinh thần, chỉ đáp rằng:
“Đừng lo”.
Chỉ nghe đứa bé kêu lên:
“Mẹ, con muốn uống nước”.
Hồ Bách Linh đột nhiên rút tay trái trên huyệt thiên linh của đứa trẻ ra, thở phào một hơi dài, quay mặt sang nhìn Cốc Hàn Hương, nói:
“Nó vì mất máu quá nhiều, mấy ngày nay lại phải bôn tẩu cùng chúng ta, không thể nghỉ ngơi cho khỏe, đã như ngọn đèn khô dầu, tính mạng chỉ còn trong sớm tối …”.
Cốc Hàn Hương nói:
“Sao đại ca không sớm nói cho muội biết!” rồi dịu dàng lau mồ hôi trên mặt của chàng.
Hồ Bách Linh mỉm cười, nói:
“Huynh thấy muội quá yêu thương đứa trẻ này, nếu như cho muội biết sự thực, chỉ e muội nghe xong thì đau lòng”.
Cốc Hàn Hương đứng dậy, cười nói:
“Muội đi lấy nước cho nó đây”.
Hồ Bách Linh gật đầu mỉm cười, nhắm mắt lại, vận khí điều tức, chàng cố vận trình đẩy chân khí ra, tinh thần hao tổn rất nhiều, lần này vận khí điều tức, lập tức cảm thấy không ổn, khó khăn lắm mới điều hòa chân khí trở lại, vận hành toàn thân, dần dần đi vào cảnh giới vong ngã.
Khi chàng hành công xong xuôi, trời đã vào đêm, mở mắt ra nhìn chỉ thấy Cốc Hàn Hương ôm đứa trẻ, mặt mũi u sầu, ngồi đối diện với chàng, thấy Hồ Bách Linh mở mắt vội vàng nói:
“Thường ngày đại ca vận khí điều tức, nhiều lắm chỉ một canh giờ là có thể tỉnh lại, sao lần này vận khí điều tức lại lâu đến thế?”.
Hồ Bách Linh mỉm cười:
“Muội đừng lo lắng, khi ta đánh thông kinh mạch cho đứa trẻ, hao tổn chân khí quá nhiều, cho nên thời gian điều tức lần này hơi dài”. Nhưng trong đầu lại thầm lo lắng, ngầm tính rằng từ đây đến ngày tỉ võ, trừ đêm nay nữa là còn bốn ngày, chân khí hao tổn của mình không thể nào lấy lại nguyên vẹn trong bốn ngày này. Cốc Hàn Hương nói:
“Cuộc tỉ võ ở Hàn Bích nhai chớp mắt sẽ đến, muội e rằng huynh …”.
Hồ Bách Linh cười ha ha, vươn mình đứng dậy, nói:
“Muội thấy huynh không phải đã hoàn toàn hồi phục rồi sao?” quay đầu nhìn ra thấy Phi Thiên Long Hà Tông Huy, Đa Trảo Long Lý Kiệt, Phúng Hỏa Long Lưu Chấn đang đứng ở ngoài thạch thất, không dám bước vào. Hồ Bách Linh nhìn ba người, cười:
“Sao các đệ không vào, nhị vị hiền đệ Khương, Tiền đã đi đâu rồi?”.
Phi Thiên Long Hà Tông Huy nói:
“Hai người Khương, Tiền đang ở ngoài cửa cốc …” vừa nói người đã bước vào trong thạch thất. Đa Trảo Long Lý Kiệt, Phúng Hỏa Long Lưu Chấn theo sát Phi Thiên Long Hà Tông Huy.
Hồ Bách Linh lắc đầu cười:
“Đi mời bọn họ quay về!” vừa nói xong bỗng nghe có tiếng gió, Suất Vân Long Khương Hoằng nhẹ nhàng bước vào trong thạch thất, miệng thở dốc, rõ ràng y đã chạy nhanh về đây. Hồ Bách Linh hơi nhíu mày, hỏi:
“Xảy ra chuyện gì?”.
Khương Hoằng nói:
“Ngoài cốc có bảy tám người …”.
Hồ Bách Linh tiếp lời:
“Đừng để ý đến bọn chúng là xong”.
Khương Hoằng nói:
“Trong số đó có hai người, chính là người năm xưa đã từng đi theo minh …” bỗng nhiên nhớ lại họ đã kết bái huynh đệ với nhau, lập tức đổi lời rằng:
“Đó chính là hai vị huynh đệ Trần Văn, Trần Võ, người đã từng đi theo đại ca năm xưa”.
Hồ Bách Linh mỉm cười:
“Chúng ta nay đã rửa tay hướng thiện, không cùng đường thì chẳng có gì để nói, cứ để cho bọn họ đi!”.
Khương Hoằng nói:
“Ngoài hai người Tran Văn, Trần Võ, còn có bốn thiếu niên tuổi tác ngang nhau, người mang bội kiếm, đi theo một người mặc trường bào …”.
Hồ Bách Linh nói:
“Có phải đệ muốn nói với ta rằng kẻ mặc trường bào kia chính là người thay ta làm minh chủ lục lâm Giang Bắc, đúng không?”.
Khương Hoằng nói:
“Đại ca liệu việc như thần, tiểu đệ chính là có ý này, song …”.
Hồ Bách Linh cười rằng:
“Bốn ngày sau, ở Hàn Bích nhai sẽ diễn ra trận đại chiến dành chức minh chủ lục lâm, giờ đây nếu như người không có lòng phạm ta, ta cũng không nên gây phiền phức, chỉ còn bốn ngày nữa, ta sẽ gặp mặt y để dành công bằng lại cho các đệ”.
Khương Hoằng không dám nói nữa, ôm quyền thi lễ bước ra ngoài động.
Hồ Bách Linh đột nhiên kêu:
“Đệ hãy đi gọi Tiền hiền đệ quay về!”.
Khương Hoằng trả lời rồi quay người đi.
Hồ Bách Linh hơi trầm ngâm, rồi lại kêu Khương Hoằng lại hỏi:
“người ấy tướng mạo như thế nào, khoảng bao nhiêu niên kỷ”.
Khương Hoằng nói:
“Người này làm ra vẻ thần bí, thường hay che mặt bằng vải đen, y tuy ngang dọc vùng Giang Bắc nhiều năm, nhưng không ai có thể biết được diện mạo của y, song, nhìn hình dáng của y, chắc là khoảng hăm ba hăm bốn tuổi”.
Hồ Bách Linh kêu ừ một tiếng rồi nói:
“Đừng đụng tới y thì hơn”.
Khương Hoằng hơi trầm ngâm, hỏi:
“Nếu như bọn chúng muốn vào sơn cốc, chúng ta có để cho chúng tiến vào không?”.
Hồ Bách Linh nói:
“Nơi này chẳng phải của chúng ta, cứ để cho chúng tiến vào”.
Khương Hoằng chỉ cảm thấy tính cách của Hồ Bách Linh thay đổi rất nhiều, hoàn toàn không giống với năm xưa, đoạn nói tiếp:
“Đại ca đã căn dặn như thế, đệ sẽ thômg báo cho tam đệ đừng xung đột với bọn chúng để tránh tạo thành thế ngồi trên lưng cọp”.
Hồ Bách Linh gật đầu nói:
“Người này ra tay độc ác, để cho một mình Tiền hiền đệ canh giữ ở ngoài, ngược lại khiến cho ta lo lắng, chi bằng cứ gọi hắn vào trong thạch thất …”.
Bỗng nghe có tiếng quát giận dữ từ bên ngoài truyền vào. Suất Vân Long Khương Hoằng biến sắc nói:
“Tiếng quát đó có lẽ là của Tiền tam đệ …” nói đến đây, đột nhiên ngừng lại để nghe Hồ Bách Linh sai khiến.
Hà Tông Huy, Lý Kiệt, Lưu Chấn đồng thời lật cổ tay rút binh khí trên lưng ra. Ngũ long Giang Bắc mười năm nay hình bóng không rời, cho nên tâm ý tương thông, vừa nghe tiếng quát ấy, lập tức biết đó là tín hiệu cầu cứu của Tiền Bính, do đó ai nấy đều lo lắng vô cùng.
Hồ Bách Linh nhướng mày nói:
“Đi! Chúng ta hãy ra xem thử”. Rồi sải bước ra ngoài động.
Chợt nghe giọng nói dịu dàng của Cốc Hàn Hương vang lên:
“Đại ca, huynh định đi đâu thế?”. Hồ Bách Linh chưa kịp trả lời bỗng thấy một bóng người phóng tới như điện chớp.
Suất Vân Long Khương Hoằng lớn tiếng hỏi:
“Có phải là Tiền huynh đệ đó không?”.
nói rồi bước ra chặn lại.
Đa Trảo Long Lý Kiệt, Phúng Hỏa Long Lưu Chấn đồng thời phóng vọt theo, đi theo sau lưng Khương Hoằng, chỉ còn một mình Hà Tông Huy đứng bên cạnh Hồ Bách Linh.
Hồ Bách Linh quay đầu lại nhìn hiền thê, nói:
“Không có chuyện gì cả, nàng hãy quay về nghỉ ngơi!”.
Cốc Hàn Hương nói:
“Một mình muội làm sau có thể yên tâm nghỉ ngơi …”.
Bỗng nghe có tiếng binh khí giao nhau, trong khoảnh khắc ấy, Khương Hoằng, Lý Kiệt, Lưu Chấn đã động thủ với kẻ địch.
Thì ra lúc ba người vội tới, Tiền Bính đang gặp nguy hiểm, đã bị kẻ địch truy đuổi theo. Tình thế khẩn cấp vô cùng, không ai mở miệng nói chuyện, Khương Hoằng lách người tránh Tiền Bính tiếp theo phóng ra một chiêu đao “hồng nhạn thư dực”, chặn lại hai đường trường kiếm đang đâm tới.
Hai kiếm thủ thiếu niên đang đuổi theo Tiền Bính, chỉ hơi nhìn Khương Hoằng rồi không nói lời nào, đồng thời rút kiếm trở lại, hợp lực tấn công từ hai bên trái phải.
Lý Kiệt, Lưu Chấn đồng thời đuổi tới, Lý Kiệt dùng một cây hổ câu, Lưu Chấn dùng hai cây phán quan bút, nhìn thấy song kiếm của đối phương liên thủ đánh ra, trong lòng giận lắm, cả hai tiến bước tới đánh gấp, phán quan bút, hổ đầu câu đánh về phía trước chặn hai thanh kiếm lại. Nhưng nghe thấy tiếng quần áo bay phần phật, lại một thiếu niên, người mặc y phục màu đen tay cầm thanh trường kiếm, phóng tới như mũi tên, người vẫn chưa đến, thanh trường kiếm trong tay đã điểm ra một chiêu “độc mãng xuất huyệt” vào ngực của Khương Hoằng.
Suất Vân Long lật tay đánh ra một chiêu “đơn phụng liêu vân” bạt thanh trường kiếm ra, thừa thế đánh tiếp chiêu “xuân vân tạc triển”, ánh đao chém ngang ra như điện chớp.
Đại hán dùng kiếm đột nhiên ngửa người ra sau, thân vừa chạm đất thì lại thối lùi ra sau bốn năm thước nữa tránh được nhát chém ngang của Khương Hoằng, bắt đầu tấn công trở lại.
Sáu người vừa chạm mặt nhau, không nói lời nào, đã lập tức lao vào giao đấu kịch liệt. Trong chốc lát, ánh bút điểm xuyết, hình câu ngang dọc, ánh đao như tuyết, kiếm khí nở rộ, cả hai bên đề cố dành thế tiên cơ.
Phi Thiên Long Hà Tông Huy bước tới phía trước một bước, đỡ lất Tiền Bính đang loạng choạng bước, nói:
“Đệ đã bị thương?”. Nhậm Vân Long Tiền Bính nói:
“Không sao, khi chúng hợp lực đánh tới một chưởng, đệ vì né tránh chưởng lực của bọn chúng, vai trái đã bị dư lực của chưởng thế đánh trúng, chỉ cần điều tức một chút là có thể hồi phục trở lại”.
Hà Tông Huy thấy sắc mặt của y vẫn bình thường thì yên bụng, ngẩng đầu nhìn lên, thấy cách khoảng hơn một trượng có một người mặt che vải đen, người mặc trường bào, tay cầm quạt xếp theo kiểu nho sinh, ở phía sau hai bên trái phải là Trần Văn và Trần Võ đang cầm kiếm đứng yên, mắt nhìn chăm chú vào những người đang giao đấu, như đang muốn nhảy xổ vào.
Hồ Bách Linh nhìn về phía Trần Văn, Trần Võ.
Khi ánh mắt của huynh đệ họ Trần tiếp xúc với ánh mắt của Hồ Bách Linh, bất giác giật mình, vội vàng quay đầu đi.
Trận đấu ngày càng kịch liệt hơn, thanh trường kiếm trong tay ba thiếu niên mặc y phục màu đen thay đổi dị thường, kiếm thế đánh ra rất độc ác, mỗi nhát kiếm đều đánh vào những chỗ hiểm yếu trên người của đối phương.
Khương Hoằng, Lý Kiệt, Lưu Chấn sau mấy phen giao đấu thì đã cảm thấy chiêu kiếm của đối thủ thật là quái dị, tuy bản thân đã trải qua hàng trăm cuộc chiến nhưng không thể nào nhìn ra được lộ số võ công của đối phương, chỉ cảm thấy kiếm thế của đối phương lúc chính lúc phản, thế đánh thật khó nắm bắt, bọn họ đều xuất thân từ danh môn chánh phái của võ lâm, thường nghe các bậc trưởng bối nói về võ công của các phái trong thiên hạ, nhưng kiếm chiêu của những người này hình như chưa từng nghênh chiến bao giờ.
Mặc dù kiếm chiêu của những thiếu niên áo đen này lợi hại, nhưng Khương Hoằng, Lý Kiệt, Lưu Chấn lại có ưu thế là công lực thâm hậu, kinh nghiệm đối địch phong phú, cho nên có thể duy trì được thế cuộc không thắng không bại.
Hồ Bách Linh đứng chắp tay sau lưng, đưa mắt nhìn bọn Khương Hoằng giao đấu với đối thủ ba bốn chục chiêu, tuy đã lọt xuống thế hạ phong, nhưng không hề mất sức tí nào, không khỏi quay đầu lại cười với Hà Tông Huy:
“Mấy năm nay, công lực của các đệ tiến triển rất nhiều, tuy bị mất ưu thế, nhưng tâm không loạn, thật là hiếm có …”.
Bỗng nghe Suất Vân Long Khương Hoằng hú dài một tiếng, đột nhiên tấn công mạnh mẽ, đao pháp biến hóa, thi triển thập bát La Hán thần đao, nhưng từng chiêu từng thức như đánh ra không hề có ánh đao cuồn cuộn như sóng bể, cũng chẳng có gì bí hiểm, nhưng thế công của mỗi nhát đao chém ra đều có uy lực mạnh mẽ, trông rất kín đáo.
Hà Tông Huy và Khương Hoằng đều xuất thân từ phái Thiếu Lâm, hai người cũng học nghệ ở một nơi, cho nên hiểu rõ võ công xuống Khương Hoằng, biết được rằng thập bát La Hán thần đao đã được biến hóa từ thập bát La Hán trượng pháp của phái Thiếu Lâm, công lực của Khương Hoằng tuy thâm hậu, nhưng cũng khó mà phát huy hết tất cả uy lực của bộ đao pháp này, bình thường khi giao đấu với kẻ địch, Khương Hoằng cũng thường dùng thập bát La Hán thần đao này, dù là kẻ địch nào, có uy lực đặc biệt như thế nào, chỉ cần đánh ra năm chiêu thì cũng buộc đối phương lọt xuống thế hạ phong, cho nên trong lòng cảm thấy kỳ lạ.
Định thần nhìn lại, chỉ thấy Khương Hoằng mặt mũi trang trọng, ngưng thần vận đao, vẻ mặt ung dung, dù kiếm chiêu của đối phương biến hóa như thế nào, quỷ dị khó đoán như thế nào, nhưng cũng đều bị những chiêu đao hết sức tầm thường của Khương Hoằng hóa giải.
Trận đấu bắt đầu thay đổi, Khương Hoằng từ thủ chuyển sang công, một cặp hổ đầu câu của Lý Kiệt, hai cây phán quan bút của Lưu Chấn sau khoảng vào chục lần va chạm với binh khí của đối phương, đã dần dần hóa giải được những chiêu kiếm quỷ dị của đối phương.
Té ra chiêu kiếm của ba thiếu niên áo đen tuy lợi hại, nhưng vẫn chưa đạt đến mức lư hỏa thuần thanh, vả lại kinh nghiệm không nhiều, một bộ kiếm pháp mà cứ lập đi lập lại đã bị Lý Kiệt, Lưu Chấn phòng thủ trước, lại thêm kinh nghiệm đối địch và chân lực nội gia, không phong phú thâm hậu bằng bọn ba người Khương Hoằng, cho nên thế mạnh yếu đã dần dần hiện rõ.
Bỗng nghe một tràng cười dài, văn sĩ mặc trường bào, che mặt bằng vải đen, người chỉ hơi lách nhẹ đã tiến vào giữa trận đấu, miệng quát lớn:
“Đồ vô dụng, sao không tránh ra cho ta?” nói chưa xong, người đã đến phía trước Khương Hoằng, tay trái lật lại đã chụp lấy sóng đao của Khương Hoằng, tung ra một cước.
Người ấy ra tay nhanh như điện chớp, Khương Hoằng chỉ thấy trước mắt mình có một bóng người, đao đã bị người ta chụp lấy, trong lòng không khỏi kinh hãi, chân phải của đối phương đã đến gần bụng dưới, nếu như không buông tay bỏ đao mà thối lui, chắc chắn sẽ bị thương dưới cước của đối phương.
Trong khoảnh khắc sinh tử ấy, một luồng gió xông tới, bên tai văng lên tiếng cười sang sảng của Hồ Bách Linh:
“Hay cho thủ pháp cầm nã tay không chụp đao”. Người đi theo tiếng mà tới, chàng đưa tay chụp lấy chui đao trong tay Khương Hoằng. Nghe tiếng gió, văn sĩ che mặt ấy đành rút chân phải về, nhưng khi chân phải rút về, y đồng thời đưa chưởng phải ra vỗ mạnh vào ngực của Khương Hoằng.
Hồ Bách Linh tay phải chụp chui đao, tay trái khép lại điểm ra một chiêu “họa long điểm tinh”, phóng vào cổ tay phải của văn sĩ che mặt, chỉ phong như cắt điểm thẳng vào mạch môn.
Những chiêu tấn công ấy đều là những thủ pháp hung hiểm lạ thường, thế công của văn sĩ che mặt lợi hại vô cùng, nhưng Hồ Bách Linh cũng hóa giải thật đúng lúc, chỉ giao thủ với nhau hai chiêu, nhưng cả hai đều đã biết được mình đã gặp phải kình địch.
Văn sĩ che mặt hạ cổ tay xuống thu về chưởng thế, tay trái đột nhiên vận lực thêm, một luồng âm kình từ trên đao truyền thẳng tới.
Thủ pháp mượn binh khí để truyền chân lực đánh địch của nội gia nếu không phải có nội công tinh thâm thì không thể làm được, Hồ Bách Linh hơi giật mình, vừa tâp trung nội lực để phản kích, vừa nghĩ bụng:
“Người này võ công không kém, trong đại hội hằng Sơn lần này, ngoài Nhất Tẩu, Nhị Kỳ, lại thêm được một cường địch, lúc ấy khó tránh được lại phải vướng tay vướng chân, chi bằng nhân cơ hội đêm nay thì thu phục y, hoặc buộc y phải rời khỏi nơi đây”. Vừa suy nghĩ, vừa ngầm gia tăng thêm hai thành nội kình.
Khi hai luồng âm kình tiếp xúc với nhau, Hồ Bách Linh đột nhiên cảm thấy giật mình, nhưng văn sĩ che mặt thì bị lực phản công của Hồ Bách Linh làm cho mã bộ không vững, toàn thân lắc lư thối lui ra phía sau.
Người này tính tình thật mạnh mẽ, tuy bị chấn động phải lui ra phía sau, nhưng hung tính vẫn không giảm, miệng chỉ lạnh lùng hừ một tiếng, tay phải cầm đao gia tăng thêm nội kình, chui đao được làm bằng sắt tinh luyện đã bị nội kình của y bóp gãy.
Hồ Bách Linh là người có ánh mắt sắc bén, thấy y không sợ chấn thương vì nội lực phản kích, vẫn cố vận công để bẻ gãy thanh đao, thì biết rằng y làm thế là để che tai mắt người khác.
Quả nhiên, những người đứng bên ngoài đều bị lừa bởi thủ đoạn của y, chỉ nghĩ rằng y bị đao gãy mà phải thối lui.
Hồ Bách Linh cũng không thèm vạch trần, chỉ mỉm cười rồi ném thanh đao gẫy trong tay, nói:
“Công lực của huynh đài quả thật thâm hậu, tại hạ tậhp phần bội phục”.
Văn sĩ che mặt chỉ cười lạnh lùng một tiếng, nói:
“Nói hay lắm, nói hay lắm, tôn giá chắc là lãnh diện …”.
Hồ Bách Linh nói:
“Lãnh diện Diêm La chỉ là cái tên do người dân giang hồ gọi mà thôi, tại hạ chính là Hồ Bách Linh, huynh đài chắc là …”.
Văn sĩ che mặt cười to rồi đưa tay tháo dây vải màu trắng đang cột ở eo lưng, cổ tay lắc một cái, mảnh khăn rơi xuống, lộ ra một thanh nhuyễn đao sáng loáng dài khoảng ba thước sáu phân, thuận tay phất một cái, vẽ thành một vòng tròn màu bạc, nói:
“huynh đệ từ ngày bước chân ra giang hồ, chưa bao giờ dùng binh khí để giao đấu với kẻ khác, hôm nay may mắn nào dám bỏ qua, tại hạ xin thất lễ”.
Hồ Bách Linh thấy dáng vẻ kiêu ngạo của đối phương, trong lòng nghĩ rằng nếu không hạ được y, đêm nay sự việc sẽ khó xong, rồi cười rằng:
“Được huynh đài coi trọng, Hồ Bách Linh này quả thực may mắn, tại hạ chỉ dùng đôi tay để phụng bồi thanh nhuyễn đao của đại giá!”.
Văn sĩ che mặt từ ngày bước chân ra vùng Giang Bắc, bao giờ cũng là vô địch, nay nghe lời nói mỉa mai châm chọc của Hồ Bách Linh thì giận lắm, cười lạnh lùng, quát rằng:
“Khẩu khí thật lớn”. Rồi vung cổ tay vẽ thành một luồng đao phong, phóng thẳng tới phía trước.
Người ấy vừa ra tay, đã thấy quái dị khó đoán, thanh nhuyễn đao trong tay không đánh thẳng về phía kẻ địch mà lại vẽ thành một luồng đao quang bao quanh thân tiến tới phía trước.
Hồ Bách Linh tuy là một thân tuyệt thế võ công, hiểu biết rộng rãi, nhưng cũng chưa bao giờ thấy lối đánh như thế này, chỉ trong chốc lát đã lùi ra ba bước.
Chỉ nghe một tiếng rít dài nhức tai, thanh nhuyễn đao trong tay của văn sĩ che mặt biến thành từng đóa đao hoa tuôn về phía những yếu huyệt của Hồ Bách Linh.
Hồ Bách Linh quát lớn một tiếng:
“Hay cho chiêu “Thiết thụ ngân hoa”.” Tay phải đánh ra một chưởng “tinh độ thiên hà”, ngưng tụ một luồn kinh lực nội gia mãnh liệt rồi phất ra, tiếng gió rít lên, luồn chân lực ấy tuôn về phía từng đóa đao hoa của đối phương.
Lối đánh chuyển chân lực của nội gia thành một đường thẳng, nếu nội công không đạt đến lư hỏa thuần thanh, tiến vào cảnh giới nếu muốn là có thể dùng được, quyết không thể làm được điều ấy, chỉ mới phất ra một chưởng đã khiến cho văn sĩ che mặt kinh hãi, y hít chk ở đan điền, hạ cổ tay thu về thanh nhuyễn đao, vội vàng lùi ra phía sau đến năm bước.
Hồ Bách Linh vừa tung đòn đã dành được chủ động, lách người tấn công lên tiếp, tay trái tung ra một chiêu “ám phong phất liệu” trong cầm nả thủ pháp trong lúc cổ tay xoay tròn thì đã phóng tới chụp lấy mạch môn cổ tay phải đang cầm đao của văn sĩ áo đen.
Chiêu ấy quả nhiên là thủ pháp của danh gia, chỉ thấy những người đứng bên cạnh đều ngầm tỏ lòng kính phục.
Văn sĩ áo đen tuy trong lòng kinh hãi, nhưng không hề hốt hoảng, cổ tay phải ngầm gia tăng thêm nội công, thanh nhuyễn đao đột nhiên đánh vòng ngược trở lại, chém vào cẳng tay của Hồ Bách Linh.
Hồ Bách Linh thầm kinh hãi, nghĩ bụng:
“Kẻ này võ nghệ quả nhiên bất phàm, chả trách nào vừa mới xuất đạo thì đã chinh phục được quần hùng Giang Bắc, xưng bá lục lâm. Nghĩ đến đấy, tay trái hạ xuống, tránh được nhát chém của đối phương, sau đó lách người qua tung ra một đòn chỏ ngang.
Văn sĩ che mặt sau khi dùng đao để giải nguy thì lách người qua, tay trái phất cây quạt xếp ra, đánh xéo ra một chiêu “tiên hạt lượng dực” để bảo vệ cho thân mình.
Chiêu này ngoài dự đoán của Hồ Bách Linh, nếu không kịp thời thu chiêu, sẽ bị cây quạt xếp của đối phương rạch bị thương, lúc đó chàng vội hít khí ở đan điền, phóng người ra sau ba bước.
Phải biết rằng nếu cao thủ giao đấu với nhau, chiếm tiên cơ là điều quan trọng nhất, mà Hồ Bách Linh thì đã bị ép lùi ra sau, lúc này văn sĩ che mặt thừa cơ tấn công tới, tay phải sử dụng đao, tay trái sử dụng quạt, liên tục tung ra đòn, trong khoảnh nhắc, ánh đao như tuyết, bóng quạt tung hoành, liên tục đánh ra mười bốn mười lăm chiêu, mà chiêu nào cũng đều như muốn lấy mạng người ta.
Hồ Bách Linh thất cơ rơi vào bị động, bị văn sĩ che mặt ất tấn công liên tục, không thể nào trở tay được. Nhưng chàng rốt cuộc vẫn là người có kinh nghiệm, tuy thất thế, nhưng trong lòng không loạn, hai tay chàng tiếp tục tung ra đòn, mỗi chiêu đều là thủ pháp điểm huyệt, khi tay cầm quạt của văn sĩ che mặt tung ra đòn, thì Hồ Bách Linh dùng chỉ điểm vào những huyệt vị trên tay của y, buộc y phải thu chiêu lại. Lối đánh khéo léo đó không những là rất chính xác mà còn nhanh nhạy vô cùng, trong khoảnh khắc đối phương tung ra chiêu, điểm vào những mạch huyệt của đối phương, buộc cho kẻ địch phải tự động thu chiêu về, song những thủ pháp như thế này cũng rất khó luyện thành, nếu không có nội công thâm hậu, không thể dùng bừa được, moat khi thất thế thì sẽ bị thương trong tay của đối thủ.
Nhưng những thủ pháp điểm huyệt chặn vào mạch như thế này nếu không phải là người có võ công thượng thừa thì không dễ nhìn ra, những người đứng bên ngoài đều thấy văn sĩ che mặt ra chiêu khá lợi hại, đều tưởng rằng y nắm chắc phần thắng trong tay, thực ra sau khi hai người đánh xong mười mấy chiêu, văn sĩ che mặt ấy đã bị thủ pháp điểm huyệt chặn mạch của Hồ Bách Linh tấn công đến nỗi lung túng tay chân, trong lòng đầy kinh hãi.
Hồ Bách Linh không có lòng khác, cho nên không ra tay đánh bị thương đối phương, chàng tưởng đối phương đã biết mình nương tay, nào ngờ văn sĩ áo đen cứ làm ngơ, trong lòng không khỏi giận dữ, đang định đánh mạnh tay để cầu thắng, đột nhiên nghe giọng nói nhẹ nhàng vang lên ở sau lưng:
Đại ca lại phải dùng binh khí nữa ư?” Hồ Bách Linh giật mình, đánh gấp ra hai chiêu, đẩy văn sĩ che mặt lùi hai bước, chưa kịp lên tiếng thì văn sĩ che mặt ất đột nhiên thu thanh nhuyễn đao lại, nói:
“Huynh đài võ công cao cường, tại hạ hổ thẹn không bằng”. Rồi quay đầu lại bảo Trần Văn, Trần Võ và bốn thiếu niên cầm kiếm:
“Chúng ta đi thôi!” rồi tung mình vọt đi, người đã ra ngoài hai trượng, lẫn vào trong màn đêm.
Trần Văn, Trần Võ và bốn thiếu niên cầm kiếm đuổi gấp theo sau văn sĩ che mặt.
Giang Bắc ngũ long thấy kẻ địch đã lui, định rút kiếm đuổi theo, đột nhiên nghe Hồ Bách Linh hạ giọng kêu:
“Không cần đuổi theo bọn chúng”.
Suất Vân Long Khương Hoằng quay đầu lại nhìn, thấy có vẻ như đang thở dốc, nhưng chàng hình như sợ người ta nghe thấy, trong lòng không khỏi kinh hãi, sững người ra, kêu:
“Đại ca”.
Hồ Bách Linh hơi mỉm cười, nói:
“Các đệ cũng nên nghỉ ngơi một chốc”. Nói rồi quay người nhìn Cốc Hàn Hương hạ giọng:
“Đứa trẻ thế nào rồi?” chàng e Cốc Hàn Hương thấy bộ dạng đang thở dốc của mình, cố ý nhắc lại chuyện mà nàng quan tâm nhất, như thế để làm phân tán sự chú ý của nàng.
Quả nhiên, nàng nhẹ kêu lên một tiếng ối chao rồi quay người chạy vào trong thạch động.
Hồ Bách Linh bước gấp theo sau với nàng, ngồi xếp bằng để điều tức.
Cốc Hàn Hương bế đứa trẻ ra, chậm bước về phía Hồ Bách Linh, nàng vốn định nói mấy câu an ủi, nhưng thấy Hồ Bách Linh nhắm mắt mà ngồi, chỉ đành ngồi xuống bên cạnh.
Mọi người ở trong sơn cốc bốn ngày, trong những ngày này, Hồ Bách Linh rất ít lên tiếng, ngày đêm ngồi vận khí điều tức, chàng muốn rằng trước khi diễn ra đại hội anh hùng lục lâm, sẽ khôi phục lại nguyên khí bị tổn thương khi tị thương cho đứa trẻ. Từ ngày Cốc Hàn Hương quen biết với Hồ Bách Linh, chưa bao giờ thấy chàng chăm chỉ luyện tập võ công như lúc này, dù cho sau khi luyện công, lúc nghỉ ngơi, cũng ít thấy chàng nở nụ cười, nhưng nàng cũng biết rằng trượng phu của mình lo lắng khó đoạt được chức minh chủ lục lâm, cho nên không vui vẻ như thường ngày, chỉ dịu dàng ngồi bên cạnh, dùng lời nhẹ nhàng an ủi, nàng đâu biết rằng Hồ Bách Linh đang ngưng thần chuyên tâm loại bỏ những tạp niệm trong lòng, muốn tạo ra kỳ tích, định trong mấy ngày ngắn ngủi này, khôi phục lại nguyên khí đã bị thương, nếu như lúc bình thường, ít nhất cũng phải ba tháng mới có thể làm được.
Hôm nay đã là ngày tỉ võ, Hồ Bách Linh không hề tạo ra kỳ tích, chân khí đã bị hao tổn vẫn chưa hồi phục.
Nhưng vì chàng không muốn hiền thê của mình lo lắng, cho nên đành gắng going tinh thần, cười rằng:
“Hôm nay là ngày mở màn đại hộianh hùng lục lâm, Linh Nam Nhị Kỳ và La Phù Nhất Tẩu sớm đã nổi danh vùng Giang Nam, lần này phát thiệp mời đại hội anh hùng, mời đồng đạo lục lâm trong khắp thiên hạ tham gia, dã tâm chắc không nhỏ …”.
Chàng hơi ngừng rồi lại nói tiếp:
“Nếu lần này huynh tì võ thất thủ, muội phải mau chóng đưa đứa trẻ rời khỏi đây, những nhân vật tham gia dành chức minh chủ lần này đại đa số là có thân phận trong giới lục lâm, nếu nàng không chọc giận bọn họ, chắc bọn họ cũng không hãm hại nàng”.
Cốc Hàn Hương vội vàng nói:
“Đại ca, sao huynh lại nói những lời như thế? Oâi! Đã bốn năm năm nay huynh không biết lòng dạ của muội sao? Nếu quả thực có chuyện không may muội làm sao có thể tiếp tục sống một mình?”.
Nàng cuối đầu nhìn đứa trẻ rồi ngó sang Suất Vân Long Khương Hoằng nói:
“Mấy hôm nay thương thế của đứa trẻ này đã chuyển biến tốt, nếu như ta và đại ca có chuyện bất hạnh xảy ra, các người hãy mang nó rời khỏi đây, tìm một gia đình thiện lương, nhờ người ta nuôi dưỡng nó”.
Giang Bắc ngũ long đều nhất tề đồng thanh nói:
“Đại ca có võ công tuyệt thế, là bậc anh hùng trên đời, La Phù Nhất tẩu, Linh Nam Nhị Kỳ, há có phải là địch thủ? đừng nói chi những kẻ khác, mong tẩu phu nhân hãy yên tâm”.
Hồ Bách Linh mỉm cười, bước ra khỏi thạch động, vì công lực chưa hồi phục, chàng biết mình khó có thể chịu đựng lâu, cho nên lòng tuyệt đối với việc tranh dành chức minh chủ lục lâm đã giảm xuống nhiều.
Khương Hoằng là người suy nghĩ chu đáo, mấy ngày hôm nay đã ngầm theo dõi mọi cử động của Hồ Bách Linh, thấy chàng lúc này mặt mũi buồn rầu, hào khí lúc trước đã không còn nữa, trong lòng cũng thầm lo lắng, nhíu mày, bước gấp theo sau Hồ Bách Linh, y vốn định nói mấy lời khích lệ để khơi dậy hào khí của Hồ Bách Linh, nhưng nhất thời không biết nói lời gì mới phải.
Mặt trời đã bò qua khỏi đỉnh núi, chiếu ánh nắng xuống từng cành cây ngọn cỏ trong sơn cốc, những giọt sương mai lấp lánh dưới ánh nắng, Hồ Bách Linh bước đi trước, dắt theo Cốc Hàn Hương và Giang Bắc ngũ long dò từng bước trên con đường núi gập gềnh.
Lãnh diện Diêm La Hồ Bách Linh kể trước nay có hào khí như cầu vồng, giờ này mặt mũi nặng nề, trong lòng như có tảng chì nặng ngàn cân, bước đi trầm trọng lạ thường.
Tâm trạng nặng nề của chàng như ảnh hưởng đến tất cả mọi người, cho nên ai nấy đều lặng lẽ bước đi.
Lên một đỉnh núi, Hồ Bách Linh đột nhiên dừng lại, chỉ về phía ngọn núi cao trước mặt, nói:
“Ngọn núi có mây mờ bao quanh ở phía trước chính là Hàn Bích Nhai – nơi diễn ra đại hội lục lâm, không biết có bao nhiêu hào khách anh hùng lại mất mạng”.
Nói đến đó, ngửa mặt lên nhìn mây trời, dáng vẻ buồn bã vô hạn.
Khương Hoằng thấy thần sắc buồn bã của Hồ Bách Linh, lòng nảy ra một ý, thầm nghĩ rằng:
“Mình phải khơi dậy tấm lòng đại nghĩa của đại ca, mới có thể giúp cho y khôi phục lại ý muốn tranh hùng, vì thế hỏi rằng:
“Đêm qua khi giao đấu với kẻ che mặt, tiểu đệ đã đánh ra thấp bát La Hán thần đao, tuy bị thất thế nhưng dành lại được chủ động, đối với việc này, trong lòng vẫn mãi không quên”.
Hồ Bách Linh nói:
“Bộ thập bát La Hán thần đao chính là đao pháp chính tông được chế ra từ thập bát La Hán trượng pháp của phái Thiếu Lâm, uy lực rất lớn, bộ kiếm pháp quỷ dị bình thường làm sao có thể kháng cự nổi, có điều gì là kỳ lạ đâu?”.
Khương Hoằng cười:
“Đại ca nói không sai, song bình thường khi tiểu đệ dùng thập bát La Hán thần đao để giao đấu với kẻ khác, đều không có uy lực lớn mạnh như đêm qua, đao nào cũng như có thần giúp, không biết là vì nguyên nhân gì?”.
Hồ Bách Linh không những có võ công tuyệt thế mà tài trí còn hơn người, chỉ hơi trầm ngâm một lát rồi đáp rằng:
“thập bát La Hán thần đao” vốn là một loại võ học chính tông, nếu như người sử dụng không thể có lòng ngay dạ thẳng, quang minh lỗi lạc thì rất khó phát huy uy lực ghê gớm của đao pháp này, nghĩ lại những chuyện trước kia bọn chúng ta làm, không có chuyện nào là không có đầu rơi máu chảy, cho nên khi thi triển thập bát La Hán thần đao, huynh đệ không thể nào phát huy được uy lực của đao pháp, đêm qua, đột nhiên thần dũng đại tăng, bản thân huynh đệ có lẽ không biết nguyên nhân, nhưng ta đứng một bên nhìn, thì lại thấy rất rõ ràng, mỗi chiêu mỗi thức huynh đệ đánh ra đều có uy lực, chiêu kiếm của đối phương tuy mạnh mẽ hiểm hốc, nhưng ngược lại bị đao pháp của huynh đệ kìm chế, ta cũng có lời chúc mừng cho huynh đệ”.
Suất Vân Long Khương Hoằng mỉm cười, nói:
“Đại ca là người nhân đức, tuy chỉ nói mấy lời khuyên nhủ ngắn ngủi, nhưng đã khiến cho tiểu đệ đột nhiên hiểi được những chuyện sai trái trước đây, một lòng hướng thiện, mong rằng trong những ngày còn sống trên đời, làm vài chuyện có ích cho nhân gian, diệt gian trừ bạo, dù cho thịt nát xuống tan, có chết cũng yên lòng, võ công của đại ca thâm sâu, tài trí hơn người, so sánh với bọn chúng tôi chẳng khác nào đêm thái sơn sánh với tảng đá, đại ca chính là trụ cột của võ lâm. Cần gì phải rầu rĩ như thế …”.
Hồ Bách Linh cười ha hả nói:
“Huynh đệ nói không sai, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, chỉ cần có tấm lòng quang minh chính đại, chết cũng không tiếc. Nhất thời hào khí tăng lên, cất bước về phía trước, trong khoảnh khắc, đã đến Hàn Bích Nhai.
Hồ Bách Linh đưa mắt nhìn Cốc Hàn Hương, hạ giọng dặn dò:
“Hương muội yên tâm” rồi đột nhiên vung hai tay, người phóng lên cao hơn hai trượng, hạ xuống một tảng đá, đưa mắt nhìn tứ phía, quả nhiên phát hiện một lối nhỏ dẫn lên núi, đang định nhảy xuống, thấy Giang Bắc ngũ long đã tự lấy ra dây dây thừng leo núi, giúp Cốc Hàn Hương leo lên.
Hồ Bách Linh thấy bọn họ đã chuẩn bị đầy đủ, bất giác mỉm cười, nói:
“Mười mấy trượng phía bên trái có một con đường nhỏ dẫn lên đỉnh núi, tiếng xấu của Nhất Tẩu và Nhị Kỳ vang dậy khắp nơi, chỉ e có mai phục giữa đường, các người tốt nhất nên giữa khoảng cách với ta khoảng ba bốn trượng để lỡ có mai phục thì ứng biến không kịp”.
Nói xong thì phóng sang bên trái.
Khinh công của chàng đã đạt đến cảnh giới đạp lục bình vượt qua sông, đi lên tuyết không để lại dấu, chỉ cần có chỗ đặt chân thì có thể bay nhảy như thường.
Nhưng Giang Bắc ngũ long và Cốc Hàn Hương thì không thể nào bì với chàng được, bọn họ phải lê từng bước đi lên.
Hồ Bách Linh đi trước mở đường, phóng lên ngọn núi ở phía trước, trên dọc đường không hề có mai phục, khi đến đỉnh núi thì đã đến giờ mùi.
Đưa mắt nhìn ra thì thấy trên bãi cỏ rộng lớn, thì thấy hơn hai chục bàn đã ngồi đầy khách, mỗi bàn từ tám đến mười người, nhưng ghế ngồi đều được làm bằng gỗ đàn, trên đỉnh núi cao trọc trời như thế này, tay không leo lên đã khó, không biết Nhất Tẩu, Nhị Kỳ, những kẻ chủ trì việc này đã dùng phương pháp nào để đưa những vật này lên đây.