Không nói đến phía Triêu Dương Tử mang theo cả vạn lượng hoàng kim cẩn thận đi vòng đến Giang Nam nữa, hãy nói về Hạ Trạch nghe được tin bị mất hoàng kim, tất nhiên là vô cùng kinh sợ. Gã cũng không ở Nghi Bình mà lãnh binh Tây tiến đến Vũ An chặn đường lui của Trương Hoài Mân, vừa mới vây hãm thành Vũ An chợt nghe tin có kẻ cướp hoàng kim trên đường vận chuyển đến Thái Hưng ở trên sông, không khỏi cả giận nói: “Lại có kẻ dám cướp thuyền Hạ gia ta ở trên sông, đám chó má gan to thật!”.
Binh sĩ tới báo tin lại bẩm: “Xem tình hình thì có vẻ là do bọn cướp trên sông làm, nhưng Trần Tiêu tướng quân dẫn người đến lùng mấy hang ổ thổ phỉ đều không tìm được chỗ vàng kia. Sau đó lại nhận được tin, nói là có người thấy những người đó hạ thuyền ở bờ Nam, đi về hướng Giang Nam”.
“Đi về hướng Giang Nam?” Hạ Trạch nghe vậy lại cười nhạt, nói: “Nhìn thế nào cũng thấy chúng đang cố tình tạo hiện trường giả để đánh lừa người khác thôi, nếu thật sự là giặc cướp Giang Nam thì sẽ không dám lẫm liệt đi về hướng Nam như vậy. Ngươi về nói cho Trần Tiêu biết, tốp người này có thể lần ra được lộ trình của con thuyền rõ như vậy, tất nhiên là đã chú ý đến Nghi Bình lâu rồi, bảo hắn không cần phải điều tra xa hơn nữa, ắt hẳn cách Nghi Bình không xa!”.
Binh sĩ vội vàng dạ ran.
Hạ Trạch lại nói: “Bảo Trần Tiêu đừng quên tìm kiếm lệnh bài bị mất, nếu bọn chúng đã lấy lệnh bài thì tất sẽ tiếc rẻ không vứt lệnh bài bằng vàng đó đi”.
Binh sĩ kia được lệnh lui ra ngoài, chỉ chốc lát sau, mành được xốc lên, một tướng lĩnh cao lớn xồng xộc đi vào, nói: “Thập Nhị gia, lão cẩu Trương Hoài Mân đã phái Viên Văn đến cứu Vũ An rồi!”.
Hạ Trạch nghe vậy tinh thần phấn khởi hẳn, cười nói: “Chính là chờ hắn, chỉ sợ hắn không đến thôi”.
Gã vội sai người triệu mấy viên đại tướng trong quân đến, cất giọng bàn bạc: “Binh lực trong tay Trương Hoài Mân có hạn, lại bị Trịnh Luân bên cạnh cản trở, nhân mã có thể viện trợ chắc chắn không nhiều. Chúng ta vây hãm Vũ An thật chặt trước đã, trong thành ngoài thành tin tức không thông, quân đội trong thành không dám ra ngoài chiến đánh, sau đó lại phải chờ quân cứu viện của Trương Hoài Mân”.
Trong bụng Hạ Trạch đã sớm có mưu đồ, tỉ mỉ sắp xếp chúng tướng, ai nấy sau khi nghe xong đều cùng hô lên ‘hay’, khen ngợi diệu kế của Hạ Trạch.
Đến sáng sớm ngày thứ ba, có thám báo đến báo rằng đại tướng Viên Văn dưới trướng Trương Hoài Mân dẫn theo ba vạn đại quân đã đến cách bên ngoài năm mươi dặm. Hạ Trạch ra lệnh cho phó tướng thủ hạ dẫn theo hơn hai vạn đại quân chặn đứng Viên Văn ở sườn núi ở phía Đông thành Vũ An. Quân đội hai bên đánh từ giữa trưa đến tận khi trời tối, mới tự mình thu binh.
Sáng sớm hôm sau, đôi bên lại khai chiến, cứ đánh nhau như vậy năm sáu ngày, đến lúc người kiệt quệ ngựa hết hơi, Hạ Trạch lại thừa dịp đêm khuya đổi quân trong tay mình với hai vạn nhân mã vây thành, rồi mới giao chiến với Viên Văn tiếp. Viên Văn không ngờ chỉ trong vòng một đêm, quân họ Hạ vốn mệt mỏi hệt như quân ta lại đột nhiên khỏe như vâm. Đại quân Viên Văn vốn từ xa đến đã mệt sẵn, lại đánh với quân Hạ Trạch mấy ngày liền, giờ nhìn thấy đại quân Hạ Trạch như được thần trợ giúp, về mặt tâm tưởng đã hỏng bét rồi, sao còn ngăn cản được nữa? Chẳng bao lâu sau, đại quân liền bắt đầu tan tác, Viên Văn không còn cách nào khác, đành phải dẫn quân trốn về phía Đông.
Hạ Trạch cũng không vội đuổi theo, chỉ phái mấy ngàn nhân mã xua đuổi phía sau, những người còn lại vẫn quay về vây khốn Vũ An. Chỉ vài ngày sau đã truyền đến tin tức, tàn quân Viên Văn trên đường gặp quân phục kích của Trịnh Luân ở Thanh Châu, toàn quân bị diệt. Hạ Trạch cười một cái, đủng đà đủng đỉnh đoạt được Vũ An, cũng không đánh Trương Hoài Mân ngay, chỉ đóng quân ở Vũ An, uy hiếp sau lưng Trương Hoài Mân.
Trương Hoài Mân tấn công Thanh Châu đã lâu mà không được, vốn đã hơi cuống, cũng không nghĩ đường rút lại bị Hạ Trạch cắt đứt, còn tổn thất một viên đại tướng và mấy vạn đại quân, nhất thời tức giận đến lật bàn, mắng: “Hạ Trăn không sinh được một thằng con giỏi nhưng lại có một đứa cháu tài!”.
Bà cả họ Phong của Hạ Trăn chỉ có một đứa con gái, không thể sinh con trai, Hạ Trăn chỉ có một đứa con trai là do người thiếp sinh ra, hiện tại cùng lắm cũng chỉ bảy tám tuổi. Nhìn Hạ Trăn không thể không trọng dụng thằng cháu Hạ Trạch, mấy gia tộc lớn như Trương thị không ít lần coi ông ta như trò đùa, không ngờ Hạ Trăn lại thật sự nuôi dưỡng Hạ Trạch thành một con mãnh hổ, hơn nữa còn dám thả con mãnh hổ này ra khỏi lồng giam.
Phía Trương Hoài Mân buồn bực trăm bề thì phía Tĩnh Dương lại truyền tin dữ đến, Hạ Trăn tự mình dẫn quân hòng đoạt Dự Châu. Dự Châu chính là vị trí hiểm yếu của Giang Bắc, luôn nằm trong tay họ Trương ở Tĩnh Dương, không ngờ mới nửa năm không đến đã bị Hạ Trăn giành mất.
Nếu nói là Hạ Trạch đoạt được Vũ An thì Trương Hoài Mân còn có thể nổi giận, giờ phút này biết được Hạ Trăn thâu tóm nốt Dự Châu, đến sức lực để mà tức cũng không còn. Cơ thể lão run lên đôi cái, vội vươn tay vịn vào bàn mới có thể gắng gượng đứng vững. Mưu sĩ trong trướng bước lên phía trước đỡ lão, khuyên nhủ: “Tướng quân, Tĩnh Dương còn đó, sau này đoạt lại Dự Châu là được”.
Trương Hoài Mân nghe vậy lại cười khổ, nói: “Ngươi cũng tới dỗ dành ta, đoạt lại Dự Châu, nói dễ hơn làm! Là ta không nên không nghe lời khuyên, khư khư cố chấp, nằng nặc muốn đích thân lãnh binh đến đoạt Thanh Châu. Ta tự cao binh hùng tướng mạnh, đoạt lấy Thanh Châu dễ như trở bàn tay, chứ nào ngờ đâu Hạ gia lại có thể không kể hiềm khích trước với Tiết gia, hợp tác như thế”.
Mưu sĩ lặng đi, rồi nói: “Không thể thiếu sự hòa giải ở giữa của Vân Tây”.
Trương Hoài Mân thở dài: “Chỉ nhìn mỗi việc Phong Quân Dương định phiên vương làm loạn đã thấy tâm cơ mưu trí của hắn so với Hạ Trạch chỉ có hơn mà không có kém, là ta thấy hắn ít tuổi nên coi thường”. Lão chậm chạp ngồi xuống ghế, nhắm mắt một lúc lâu rồi mới nói nhỏ với mưu sĩ, “Đích thân ngươi đến vương đình Mạc Bắc một chuyến, gặp Thác Bạt Nghiêu”.
Mưu sĩ nọ nghe mà trong dạ cả kinh, thất thanh hỏi: “Tướng quân, người muốn dẫn Tiên Thị vào quan ải?”.
Trương Hoài Mân chậm rãi gật đầu, nói: “Chuyện đã đến nước này, cũng chỉ có thể làm vậy thôi”.
Mưu sĩ nọ mặt mày biến sắc, nói: “Dù sao Tiên Thị cũng là ngoại tộc, mượn binh bọn chúng chỉ e sẽ gặp lại sự chỉ trích của kẻ khác. Hơn nữa Thác Bạt Nghiêu dời đô lên Thượng Kinh Bắc Mạc, rõ ràng là rình mò quan nội, không có ý tốt. Vạn nhất bọn chúng đến mà không đi thì phải làm thế nào? Tướng quân, người phải nghĩ kĩ rồi hẵng làm ạ!”.
Trương Hoài Mân suy nghĩ hồi lâu, song lại bảo: “Tiên Thị khác những bộ tộc khác của Bắc Mạc, bọn chúng ít người, vốn không thể chiếm cứ vùng Giang Bắc lớn thế này, hơn nữa đa số bộ tộc của chúng vẫn có tập quán du canh du cư, chúng ta mượn binh của chúng, đến lúc đó cho chúng thêm nhiều vàng bạc châu báu, bọn chúng sẽ không không đi đâu”.
“Tướng quân!” Mưu sĩ muốn khuyên tiếp.
Trương Hoài Mân lại giơ tay ngắt lời mưu sĩ nọ, nói: “Chuyện đã tới nước này rồi, chúng ta đã không còn sự lựa chọn nào khác, dẫn Tiên Thị tộc tiến vào đấu một trận với Hạ gia, chúng ta có lẽ còn có thể được tạm nghỉ, bằng không, cơ nghiệp mấy trăm năm của nhà họ Trương sẽ sụp trong tay ta mất”.
Mưu sĩ nọ thấy hắn đã quyết định chủ kiến, cơ bản nghe không lọt tai lời khuyên can nữa, đành phải bỏ cuộc.
Trương Hoài Mân một mặt tiếp tục vây hãm Thanh Châu, mặt khác âm thầm sai người chạy tới Thượng Kinh Bắc Mạc, mượn binh Thiền vu Tiên Thị là Thác Bạt Nghiêu. Đã sắp đến cuối năm, thời tiết trở nên lạnh hơn, bất kể là Tiết Thịnh Anh ở Thanh Châu hay Hạ Trạch đang tạm trú ở Vũ An đều vì thế mà ở rịt trong thành, trái lại không thấy chật vật cho lắm. Chỉ có Trương Hoài Mân bao vây Thanh Châu, vì đóng đại quân ở vùng thôn dã, mỗi ngày đều phải chịu gió tuyết rét hàn tập kích, binh lính chết cóng hoặc những kẻ bị thương do sương giá rất nhiều, tình hình còn không bằng đỉnh Hổ Khẩu.
Trong núi tuy rằng càng lạnh giá hơn, song có nhà tránh rét, củi gỗ lại chuẩn bị đầyđủ, dân lưu lạc trong trại chết rất ít. Tuyết dày phủ núi, mọi người trong trại không có việc gì bèn như loài mèo sống qua mùa đông. Ôn Đại Nha không biết bói đâu ra được khoai lang, hạt dẻ, ngồi bên bếp lò nướng thơm nức cả nhà. Thần Niên tuy thân đã là trại chủ, song dẫu sao tuổi trẻ hoạt bát, không chịu nổi cơn thèm ăn, trừ lúc luyện công đều thường xuyên đến đây kiếm bữaăn ngon.
Ôn Đại Nha liền nói: “Đại đương gia, tôi thấy dân lưu lạc đến cậy nhờ càng lúc càng đông, chúng ta không thể cứ miệng ăn núi lở thế này được”.
Thần Niên vừa mới bới mấy hạt dẻ từ trong tro bếp ra, cầm lên mà nóng đến mức phải thổi phù phù vào tay, tay trái tay phải hất qua hất lại vài lần nhưng lại không nỡ vứt đi, cuối cùng ném luôn cho Lục Kiêu ở bên cạnh, giương mắt mong chờ nhìn hắn bóc vỏ hạt dẻ, miệng hỏi Ôn Đại Nha: “Vậy huynh muốn thế nào?”.
Ôn Đại Nha nói: “Trước kia chẳng phải đạiđương gia nói có thể đến chỗ xa xa làm ăn sao? Hay là chúng ta đi xa một chút?”.
Lục Kiêu yên lặng bóc hết vỏ hạt dẻ rồi bỏ lại vào tay Thần Niên, trên mặt Thần Niên giờ mới không nén nổi ý cười, nói với Ôn Đại Nha: “Phía Đông phía Tây tạm thời không đi được, huynh nói xem nên đi phía Nam hay phía Bắc?”.
Phía Nam chính là băng qua Nghi Bình đi Giang Nam, phía Bắc thì có Tuyên Châu, Ôn Đại Nha so sánh hai nơi này một phen, thử nói: “Hay là chúng ta đi Tuyên Châu?”.
Thần Niên ăn hạt dẻ, thờ ơ gật đầu: “Được”.
Ôn Đại Nha không ngờ mọi việc lại được quyết định dễ dàng như vậy, lại thấy Thần Niên tập trung tinh thần nhìn chằm chằm Lục Kiêu đang bóc hạt dẻ cho nàng, bất giác im lặng, lòng muốn nói Thần Niên vài câu nhưng lại không dám, quay đầu lại thấy Đại Ngốc đang cầm củ khoai lang nướng ăn đến là ngon lành, không nhịn được hỏi: “Đại Ngốc, hạt dẻ ăn ngon thế cơ à?”.
Đại Ngốc ngẩng đầu nhìn Ôn Đại Nha, lại cúi đầu nhìn khoai lang trong tay mình, cuối cùng giơ củ khoai lên trước mặt Ôn Đại Nha, khờ khạo nói: “Ôn đại ca, đây là khoai lang, không phải hạt dẻ”.
Ôn Đại Nha bị câu này của gã làm nghẹn họng thiếu điều ngã ngửa, trừng mắt toan mắng, nhưng mắt lại liếc thấy hai người Thần Niên và Lục Kiêu đều đang nhìn mình, vội cố nhịn xuống, vô lực khoát tay vớiĐại Ngốc: “Khỏi cần biết là cái gì, thôi ăn đi, ăn đi”.
Đại Ngốc cười ha ha hai tiếng, gặm hết củ khoai trong tay rồi lại khều hạt dẻ trong bếp ra tiếp. Gã da thô thịt dày không sợ nóng, chẳng mấy đã bóc được mười mấy hạt, đưa cho Thần Niên, nói: “Đại đương gia, nè!”.
Ôn Đại Nha thấy gã chẳng có mắt nhìn gì cả, chỉ hận không thể đá cho gã một cái, vội bảo: “Tay ngươi bẩn như thế, còn không biết ngượng mà đưa cho đại đương gia, tự ngươi ăn hết đi!”.
Không ngờ Thần Niên lại mỉm cười nhận lấy hơn nửa chỗ hạt dẻ trong tay gã, tiện tay bỏ một hạt vào miệng, còn chia cho Lục Kiêu mấy hạt nữa, tươi cười nói cảm ơn Đại Ngốc: “Cảm ơn nhé!”.
Đại Ngốc thấy hai người Thần Niên Lục Kiêu không ghét bỏ mình lại càng cao hứng, đắc ý nghiêng qua Ôn Đại Nha liếc mắt một cái, nói: “Huynh xem! Đại đương gia đâu có chê đệ”.
Ôn Đại Nha oán hận trợn mắt nhìn gã, song cảm thấy vẫn chưa hết giận, thừa dịp bất ngờ, đột nhiên thò tay cướp lấy toàn bộ chỗ hạt dẻ trong tay gã, bỏ tõm vào miệng. Đại Ngốc không kịp phản ứng, muốn chém giết cũng đã muộn. Nhưng kẻ ngốc cũng có lúc cơ trí đột xuất, gã lao sang dùng hai tay vờ bóp chặt cổ Ôn Đại Nha, uy hiếp: “Nhè ra, không được nuốt mất!”.
Ôn Đại Nha vội lấy tay gạt tay Đại Ngốc, miệng ư ứ không nói nên lời, nhưng lại nhất quyết không chịu nhè hạt dẻ ra. Thần Niên và Lục Kiêu thấy hai người vì mấy hạt dẻ màồnào như trẻ con, không khỏi bật cười. Trong phòng đang ồn ã thì ngoài cửa có người đến báo, nói là Chu Chấn tới gặp.
Chu Chấn vốn là thủ lĩnh của đỉnh Hổ Khẩu, đám Thần Niên ngày đó chiếm được sơn trại thì chọn được người này khiêm tốn và thức thời, nên mới giữ gã lại để giúp đỡ quản lý công việc trong trại, chủ yếu là để làm yên lòng người, tránh làm cho trại viên gốc của đỉnh Hổ Khẩu nảy sinh quá nhiều mâu thuẫn. Đợi sau khi tình hình ổnđịnh, rất nhiều công việc trong trại bắt đầu chậm rãi chuyển giao cho Ôn Đại Nha, Thần Niên thấy người này quả thực có thể trọng dụng, liền không bài bác gã nữa, đối xử với gã như mọi người trong Ngưu Đầu trại.
Có điều tác phong hành sự của Chu Chấn vẫn trước sau như một, vẫn khiêm nhường trầm tĩnh, chuyện Thần Niên giao phó gã sẽ làm tốt, nhưng nếu không có việc thì sẽ không chủ động đến trước mặt Thần Niên. Hôm nay gã lại chủ động tới tìm Thần Niên, làm ai nấy đều có phần bất ngờ.
Ôn Đại Nha nhìn Thần Niên, hỏi: “Có cần dọn dẹp mấy thứ này không?”.
“Không cần.” Thần Niên cười, cũng không đứng dậy nghênh đón, vẫn cứ ngồi cạnh lò sưởi, sai trại viên đứng ở ngoài cửa kia, “Mau mời Chu thủ lĩnh vào”.
Dứt lời chỉ một chốc, mành đã bị kéo ra từ phía ngoài, Chu Chấn dẫn theo một chàng trai áo xám chừng hai mươi tuổi bước vào trong, hơi ngước mắt thấy Thần Niên đang ngồi bên đống lửa bóc hạt dẻ ăn, khuôn mặt bất giác thoáng ngẩn ra.
Thần Niên ngẩng đầu nhìn gã, cười bảo: “Bên này ấm áp, qua đây ngồi đi”.
Chu Chấn chần chừ một chút rồi mới đi về phía lò sưởi. Ôn Đại Nha cười đưa cho gã chiếc ghế đẩu con, lại nhấc chân đạp đạp Đại Ngốc, thấp giọng mắng: “Đứng dậy, biến ra chỗ khác, trông ngươi chả khác gì con gấu”.
Đại Ngốc miễn cưỡng đứng dậy, còn chưa đứng lên đã bị Chu Chấn ấn xuống, nói: “Không cần, không cần, chen nhau cho ấm”.
Đại Ngốc bèn nguệch miệng cười với gã, ngồi dịch sang bên cạnh, để chừa một chỗ trống. Chu Chấn dẫn chàng trai áo xám nọ ngồi xuống bên lò sưởi, thấy Thần Niên vẫn đang hết sức chăm chú bóc hạt dẻ, nhất thời không biết mở miệng ra sao, nghĩ ngợi một phen rồi nói: “Vị Phàn huynh đệ này có việc muốn tìm đạiđương gia nói chuyện, tôi dẫn cậu ta đếnđây”.
Thần Niên ngước mắt nhìn người áo xám, lên tiếng: “Ta nhận ra ngươi”.
Nam tửáo xám lòng thầm kinh ngạc, điềm nhiên chắp tay chào Thần Niên, đúng mực đáp: “Đại đương gia”.
“Phàn Cảnh Vân, đúng không?” Thần Niên cười hỏi: “Ta đã từng gặp ngươi ở chỗ đạo trưởng, ngươi biết y thuật?”.
“Đúng là tiểu nhân.” Phàn Cảnh Vân đáp lời, rồi lại giải thích thêm: “Không coi là biết y thuật, chỉ là ngày trước từng buôn dược liệu vài lần nên ít nhiều biết chút dược tính”.
Thần Niên bất giác nhướng mày, nếu Phàn Cảnh Vân từng buôn dược liệu, tại sao Triêu Dương Tử lại không đưa y đến Vân Tây. Nàngđưa mắt nhìn Phàn Cảnh Vân, hỏi y: “Ngươi có biết đạo trưởng đi đâu không?”.
Để đảm bảo an toàn, việc Triêu Dương Tử đi Vân Tây chỉ có vài vị thủ lĩnh trong trại biết, ngay cả Chu Chấn cũng không biết Triêu Dương Tử rốt cuộc đã đi đâu. Thần Niên hỏi Phàn Cảnh Vân điều này, cùng lắm chỉ muốn thử y, nào ngờ y lại đáp: “Biết được chút ít, đạo trưởng vốn định gọi tiểu nhân đi cùng, song trước khi đi mẫu thân tiểu nhân lại chẳng may bị bệnh, tiểu nhân không dám rời đi, đành phải phụ sự coi trọng của đạo trưởng”.
Thần Niên thấy người này nói chuyện hết sức chu đáo, khe khẽ gật đầu, giờ mới lại hỏi y: “Ngươi tìm ta có việc gì?”.
Phàn Cảnh Vân nói rõ mục đích đến đây, hóa ra là đề nghị Thần Niên phân chia lại chỗ ở cho những người dân lưu lạc đã thu nhận trong trại, “Gộp đồng hương lại cùng nhau, giữa họ lại chọn ra người có thể phục chúng, thứ nhất là có thể tiện chăm nom lẫn nhau, thứ nhì là tập tục gần gũi, cũng có thể bớt sự đấuđá”.
Thần Niên và Thôi Tập thật ra cũng đã từng nghĩ đến điều này rồi, song lại sợ đám dân đồng hương ở cùng nhau dễ kết bè kết phái, lại càng không dễ quản lý nên mới bỏ ý định. Giờ nghe Phàn Cảnh Vân nhắc đến, nàng trầm ngâm chốc lát, nói: “Việc này có lợi có hại, phải bàn bạc kĩ hơn mới được”.
Phàn Cảnh Vân lại tiếp tục nói: “Bởi tiểu nhân biết chút y thuật đơn giản nên thường bị gọi đi băng bó vết thương cho mọi người. Tiểu nhân kinh qua vài lần như thế, phát hiện đoàn người tranh đấu chẳng qua là vì tranh chấp lợi ích thôi”.
Nói đếnđây, y không khỏi lộ nụ cười khổ sở, “Trước kia lúc tứ bề chạy nạn, có người cho đồ ăn là bọn họ đã thấy vô cùng cảm kích rồi. Nhưng hiện giờ có ăn có uống có nhà để ở, đã có những kẻ không hài lòng, muốn được ở nhà càng rộng, ăn đồ thêm ngon”.
Thần Niên cụp mắt xuống, lạnh nhạt nói: “Lòng tham vô đáy”.
Phàn Cảnh Vân nói tiếp: “Cho nên tiểu nhân nghĩ, liệu có thể kiếm việc cho bọn họ làm không, bận rộn rồi thì có lẽ sẽ không có thời gian rảnh rỗi mà tranh giành nữa”.
Ý tưởng nàyđúng là không bàn mà trùng với ý Thần Niên, Thần Niên liền nói: “Chờ đến đầu xuân thời tiết ấm hơn, sẽ tổ chức cho mọi người khai hoang làm ruộng trong núi, còn xây thêm cả phòng ốc mới”.
“Vậy là tốt rồi.” Phàn Cảnh Vân cười nói.
Việc đã bàn xong, Phàn Cảnh Vân liền cùng Chu Chấn cáo từ lui ra ngoài.
Ôn Đại Nha nhìn Phàn Cảnh Vân vô cùng thuận mắt, không nhịn được nói với Thần Niên: “Đại đương gia, tôi thấy họ Phàn nàyđúng là người có tâm tính, chi bằng điều y đến dưới trướng tôi, làm trợ thủ cho tôi được không?”.
Thần Niên nói: “Lát nữa huynh điều tra kĩ càng lai lịch của y cho ta, chỉ cần không có vấn đề gì, nói với Chu Chấn một tiếng cần dùng đến y là được”.
Ôn Đại Nha hiện giờ phụ trách mọi tạp vụ ăn uống cho cả sơn trại, hơi thấy quá sức, luôn muốn tìm một trợ thủ đắc lực đến hỗ trợ. Đã nhìn trúng Phàn Cảnh Vân rồi, lại được Thần Niên đồng ý, lập tức phái người đi điều tra lai lịch của y.
Không quá hai ngày, tình trạng của Phàn Cảnh Vân đều đã được điều tra tỉ mỉ, chứng thật đúng như y nói, người Vũ An, trong nhà chỉ có một mẹ già, đã từng buôn bán dạo vài năm nhưng không kiếm được tiền tài gì, cũng không lấy được vợ. Sau này Vũ An loạn lạc, y dẫn theo mẹ già và mấy đồng hương khác chạy nạn đến đây.
Giờ Ôn Đại Nha mới yên lòng, điều y đến bên cạnh để dùng.
Về việc ổn định dân lưu lạc ra sao, Thần Niên và Thôi Tập cẩn thận thương lượng vài lần, rồi gọi Phàn Cảnh Vân đến để hỏi kĩ ý kiến của y. Trước khi đến mùa xuân ấm áp, rốt cuộc cũng làm theo đề nghị của Phàn Cảnh Vân, phân chia lại khu vực trại ngoài, tách biệt bố trí lại dân lưu lạc đến từ những châu quận khác nhau. Rồi lại chọn vài tráng đinh trong số đó, bận thì làm ruộng, nhàn thì học chút côn pháp võ công.
Chuyện thượng vàng hạ cám trong sơn trại ngày nào cũng rối như canh hẹ, đợi đến khi sắp xếp xong xuôi việc khai hoang làm ruộng thì cũngđã là mùa xuân tháng Ba. Thần Niên vừa mới được thở phào nhẹ nhõm thì Ôn Đại Nha lại nghĩ đến việc đi Tuyên Châu làm ăn, vội thúc giục Thần Niên xuất môn.
Thần Niên thấy bất lực, hỏi hắn: “Ôn Đại Nha, dù huynh có sai trâu khiến bò thì cũng phải cho nó thời gian mà thở, đúng không nào?”.
Ôn Đại Nha cười hì hì nói: “Không phải, tôi thấy đại đương gia vất vảlà muốn bảo cô ra ngoài giải sầu thôi mà! Làmăn là việc thuận đường, có cũng như không, có cũng như không!”.
Thần Niên cũng không bực hắn, đành gật đầu nói: “Được”.
Nhưng đi Tuyên Châu khác đi sườn Phi Long, đó là một tòa thành lớn, sầm uất không kém thành Ký Châu, cũng không thể cầm đao xách kiếm chém giết rành rành. Thần Niên tìm Thôi Tập bàn bạc, Thôi Tập nói: “Chúng ta hiện giờ thanh danh vừa mới khởi, tất cả đều nhờ vào một chữ ‘nghĩa’, so với việc rải rác cướp bóc mấy nhà phú hộ, chi bằng dứt khoát làm một chuyến thật lớn, nghĩ cách cướp bạc quan của Tuyên Châu”.
Thần Niên chỉ biết mình to gan, không ngờ Thôi Tập còn to gan lớn mật hơn, nàng im lặng nhìn cậu rồi nói: “Tranh đấu với quan phủ, chúng ta không chiếm được hời đâu”.
Thôi Tập lại nói: “Hiện tại thói đời nhiễu nhương thế này rồi, cho dù là bị kẻ khác biết chúng ta làm thì người Tuyên Châu cũng không thể đuổi đến tận núi chúng ta, Thanh Châu và Ký Châu cũng sẽ không ra mặt vì họ. Hơn nữa có nhiều ngân lượng thì mới dễ mua lương thực”.
Thần Niên trầm mặc không nói, Thôi Tập lại khuyên nhủ: “Trước mắt lương thực của chúng ta còn đủ, nhưng xem tình thế hiện tại, Giang Bắc hai năm tới không thể sống yên, sau này những người đến ở nhờ sẽ càng lúc càng đông, cũng phải nuôi được những người này mới được”.
Thần Niên bị cậu làm dao động, cắn răng nói: “Được, cứ làm theo ý cậu. Có điều, nếu đối phương không tra ra là ai làm thì mới là tốt nhất!”.
Hai người bàn bạc tỉ mỉ, lại tìm người hiểu rõ Tuyên Châu đến hỏi han kĩ về tình hình nơi đó, sau cùng cũng định ra được kế hoạch bước đầu. Thần Niên để Thôi Tập và Ôn Đại Nha lại trông coi sơn trại, mình tự dẫn theo Đại Ngốc, Phàn Cảnh Vân… một tốp người giả làm lái buôn Ký Châu, đi đến Tuyên Châu.
Đừng thấy Ôn Đại Nha lúc trước kia chỉ muốn mau chóng đuổi Thần Niên ra ngoài, đến lúc nàng đi thật thì lại không nén nổi lo lắng, dặn dò: “Đại đương gia, lần nàyđi làm ăn, phải xem xét kĩ tình hình trước rồi nói sau, đừng có nóng ruột ra tay, an toàn là nhất”.
Thần Niên cười đáp: “Yên tâm, có Lục Kiêu ở đây rồi, không sao đâu”. Nàng ngừng lại một chút, gọi Ôn Đại Nha sang một bên, nhỏ giọng bảo: “Giả dụ gặp kẻ khó chơi đến gây sự, nếu huynh không đàn áp được thì phải xin sư phụ ta ra mặt”.
Tịnh Vũ Hiên một mực lén luyện Ngũ Uẩn thần công, Triêu Dương Tử đi rồi lại càng không hề kiêng kỵ, giờ tuy công lực mới khôi phục năm sáu phần nhưng nếu đối phó với cao thủ võ lâm thông thường thì cũng dư sức. Ôn Đại Nha không biết việc Tịnh Vũ Hiên âm thầm luyện công, song Thần Niên đã dặn như vậy thì hắn liền gật đầu đồng ý thôi.
Thần Niên lại nói: “Đạo trưởng đi lâu như vậy rồi, không biết tình hình thế nào, nếu chỗ ông có tin tức gì quan trọng, huynh phải tức tốc phái người truyền tin cho ta”.
Ôn Đại Nha đáp: “Tôi biết rồi, đại đương gia yên tâm”.
Giờ Thần Niên mới dẫn đám Lục Kiêu xuống núi, dọc theo sơn đạo quanh co chớm xanh hai bên, đi về hướng Bắc. Đường núi khó đi, bọn họ đi đường lại túc tắc, đến khi tới Tuyên Châu thì gió xuân đã thổi qua núi Yến Thứ, làm nở bung hoa hạnh ngoài thành Tuyên Châu.