Sau khi Thẩm Hành tỉnh lại, Tiêu Uyển luôn có cảm giác không chân thực. Rõ ràng khi đó tim Thẩm Hành không còn đập nữa rồi, nàng cũng từng bắt mạch cho sư phụ, thấy tĩnh lặng hoàn toàn, chẳng có vẻ gì là giống mạch của một người sống, ấy thế mà giờ đây sư phụ lại ở sờ sờ ngay trước mặt, gọi nàng một tiếng “A Uyển”, lại nhìn nàng bằng ánh mắt rất mực dịu dàng, còn biết đưa nôi ru con của bọn nàng ngủ nữa.
Có lẽ vì khi mang thai Tiêu Uyển đã gặp khá nhiều trắc trở, nên đứa bé này sau khi ra đời thì quậy phá vô cùng, thường xuyên quấy khóc, mà mỗi lẫn khóc là rất ầm ĩ, tiếng khóc như muốn đánh sập cả gian phòng.
May mà còn có Thẩm Hành ở đây, mỗi lần đứa bé khóc, Thẩm Hành liền đứng dậy dỗ dành. Nói ra kể cũng lạ, đứa bé này rất quấn Thẩm Hành, mỗi lần được y bế và dỗ dành là nó liền ngoan ngoãn ngủ ngay.
Đêm đó, Thẩm Hành dỗ con xong, quay trở về phòng thì thấy Tiêu Uyển vừa ngồi dậy khỏi giường, mái tóc hơi rối buông xõa sau lưng, cặp mắt đen láy nhìn y không chớp.
Thẩm Hành ngồi xuống bên cạnh giường, mỉm cười khoác cho Tiêu Uyển một chiếc áo khoác ngoài, nói: “Đứa nhỏ làm ồn đến nàng tỉnh giấc ư?”
Tiêu Uyển khẽ lắc đầu, cặp mắt vẫn nhìn chằm chằm vào Thẩm Hành không chớp.
Tính đến giờ Thẩm Hành đã tỉnh lại được năm ngày rồi nhưng Tiêu Uyển vẫn chưa thể nào cảm thấy hoàn toàn yên tâm.
“Sư phụ…” Nàng khẽ gọi một tiếng.
Thẩm Hành nắm lấy bàn tay nàng, khi phát hiện tay nàng hơi lạnh thì bất giác có chút hoang mang. “Sao tay nàng lại lạnh thế này? Bây giờ nàng còn đang ở cữ, đừng để lưu lại mầm bệnh gì đấy!” Dứt lời, y liền kéo đôi tay của nàng áp vào lồng ngực ấm áp của mình.
Tiêu Uyển nói: “Ấm quá!”
Thẩm Hành hài lòng nói: “Ừm.” Hơi dừng một chút, y lại tiếp: “Ta thấy mấy ngày vừa rồi nàng có vẻ hơi lạ thường, có phải là đang lo lắng điều gì không?”
Tiêu Uyển tựa đầu vào bờ vai Thẩm Hành, khẽ “dạ” một tiếng, sau đó hỏi: “Sư phụ, sao chàng tỉnh lại được vậy? Có phải là sau đó sẽ lại…” Nói tới đây thì nàng dừng lời.
Nhưng Thẩm Hành biết là nàng muốn hỏi điều gì.
“Ta đúng là đã trúng kịch độc, song Mãn Kỳ đã dùng bí thuật chữa khỏi cho ta rồi, biện pháp thì giống như kiếp trước vậy, cũng là đặt vào chỗ chết để tìm lấy đường sống. Ta bây giờ đã sống lại rồi, sau này sẽ cứ thế khỏe mạnh sống mãi thôi.” Vừa nói trong lòng Thẩm Hành vừa trào dâng một cảm giác ấm áp khó tả.
A Uyển đã biết quan tâm tới y rồi.
Cho dù y biết là A Uyển đã có trái tim, cũng biết A Uyển có tình cảm với mình, nhưng y vẫn không thể xác định được thứ tình cảm đó là gì. Có điều bất luận ra sao, A Uyển bằng lòng ở lại bên y đã là hạnh phúc lắm rồi, huống chi bây giờ bọn họ còn có với nhau một đứa con nữa.
Sau khi ủ ấm bàn tay cho Tiêu Uyển xong, Thẩm Hành lại bắt đầu ủ ấm đến chân nàng.
Hai người thay đổi tư thế.
Tiêu Uyển nằm trên giường, Thẩm Hành nửa ngồi nửa quỳ bên cạnh nàng, hai tay nắm lấy hai cổ chân thon của nàng, cẩn thận áp vào trước ngực mình. Lúc này Thẩm Hành chỉ mặc một chiếc áo đơn mỏng manh, đã thế còn phanh rộng, nên khuôn ngực trắng nõn mịn màng gần như lộ ra hết.
Tiêu Uyển nhìn không chớp mắt vào đôi chân của mình và khuôn ngực của Thẩm Hành.
Mặt nàng đột nhiên đỏ ửng lên.
Thẩm Hành để ý thấy điều này, bèn cúi xuống nhìn, trong đầu bỗng lại hiện lên tình cảnh lúc hai người mây mưa với nhau, vùng bụng bất giác trở nên nóng bỏng. Y ngước mắt nhìn nàng đang ở ngay trước mặt, không kìm được nuốt khan.
Khi ánh mắt của hai người chạm nhau, căn phòng trở nên tĩnh lặng tới mức có thể nghe thấy từng tiếng thở.
Thẩm Hành muốn được mây mưa với A Uyển, rất muốn, nhưng bây giờ y không thể, vì nàng vẫn còn đang trong thời gian ở cữ, hơn nữa… y không biết nàng rốt cuộc có bằng lòng hay không. Xưa nay, y chưa từng cưỡng ép nàng chuyện gì cả.
Cuối cùng y dời ánh mắt đi, sau đó nhét đôi chân của A Uyển vào trong chăn, cất giọng bình tĩnh: “Khuya rồi, chúng ta mau đi ngủ thôi.”
Tiêu Uyển thoáng do dự, cuối cùng vẫn khẽ nói một tiếng “dạ”, nhưng trong lòng lại có chút buồn bã. Nàng vốn cữ ngỡ vừa rồi sư phụ sẽ hôn mình, nhưng y lại không làm thế.
Chắc hẳn sư phụ vẫn còn để bụng chuyện giữa nàng và Tư Mã Cẩn Du.
“Sư phụ, ngày mai chúng ta hãy đặt tên cho đứa nhỏ nhé. Đặt nhủ danh trước, mấy năm nữa hãy đặt tên chính thức.”
“Được.”
Hằng ngày, Thẩm Hành đều dậy rất sớm, y phải nấu bữa sáng cho A Uyển. Từ sau khi sinh nở, sức khỏe của A Uyển rõ ràng đã yếu hơn trước rất nhiều, do đó Thẩm Hành lại càng phải bỏ thêm tâm tư vào việc ăn uống của nàng.
Có điều hôm nay Thẩm Hành còn phải làm thêm một việc khác nữa, đó là đặt tên cho con mình.
Đêm qua trước khi đi ngủ, A Uyển nói là muốn đặt tên cho đứa nhỏ, mà để nghĩ ra một cái tên hay hiển nhiên không phải là việc dễ. A Uyển vừa sinh nở xong, sức khỏe còn yếu, không tiện suy nghĩ nhiều, nên Thẩm Hành bèn gọi tâm phúc của mình lại.
Tâm phúc của Thái tử trông ngày ngóng đêm, rốt cuộc đã chờ được tới ngày Thái tử phi toàn tâm toàn ý theo về với Thái tử điện hạ.
Y nhủ thầm: Bây giờ Thái tử coi như đã thành gia, ngay đến con cái cũng đã có rồi, bây giờ chắc sẽ đến lúc lập nghiệp! Thái tử điện hạ, người cứ việc sai tiểu nhân đi vào nơi nước sôi lửa bỏng, tiểu nhân sẽ cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi!
Thẩm Hành trầm ngâm giây lát rồi nói: “Đi tìm Mộ Dung Thái phó nhờ ông ấy đặt cho ta mấy cái nhũ danh vừa may mắn vừa dễ nghe cho con gái ta đi.”
Tâm phúc của Thái tử chua xót quá chừng.
Thái tử điện hạ hết đặt tâm tư trên người Thái tử phi rồi lại đến lượt tiểu Quận chúa ư? Tiền đồ của ta xem chừng còn xa xăm quá… Không! Y nghĩ thầm, nhất định là tàng bản đồ trên người Thái tử phi đã chạy qua người tiểu Quận chúa rồi! Thái tử điện hạ xem chừng muốn hy sinh cả cuộc đời đây!
Tâm phúc của Thái tử có hiệu suất làm việc rất cao, lại vừa hay gặp lúc Mộ Dung Thái phó đang rảnh rỗi, thế là chỉ sau một chốc đã có mấy cái nhũ danh được biết ra trên giấy. Y mang những tờ giấy đó tới dâng lên trước mặt Thẩm Hành.
Thẩm Hành ngó qua một chút rồi nói: “Mấy cái tên này đều không tệ.”
Tâm phúc gật đầu thưa: “Nghe có vẻ tầm thường quá. Ta thích hai chữ Giảo Giảo này hơn, vằng vặc trăng sáng[1], rất có ý cảnh.”
[1] Giảo Giảo có nghĩa là vằng vặc, thường dùng để miêu tả ánh trăng.
Tâm phúc nói: “Vẫn là Thái tử điện hạ có cặp mắt tinh tường.”
Thẩm Hành bưng bữa sáng mà mình vừa chuẩn bị xong lên, nói: “Mang những tờ giấy đó tới cho A Uyển lựa chọn đi.”
Tâm phúc vội vàng nói: “Bữa sáng này cũng để tiểu nhân bưng luôn là được rồi.”
Thẩm Hành mỉm cười lắc đầu. “Khỏi cần, đồ ăn của A Uyển ta không thể không cẩn thận một chút.”
“Dạ, tiểu nhân hiểu rồi.” Nhưng Thái tử điện hạ, Thái tử phi là hòn ngọc trên tay người, có ai dám hạ độc Thái tử phi ngay trong phủ Thái tử này cơ chứ…
Khi Tiêu Uyển dùng bữa sáng, Thẩm Hành mỉm cười nói: “Hôm qua chẳng phải A Uyển đã nói là muốn đặt tên cho con của chúng ta ư? Ta đã nhờ Mộ Dung Thái phó nghĩ sẵn cho mấy cái tên rồi, nàng xem xem có thích không, nếu không thích, ta sẽ nghĩ thêm mấy cái tên khác.”
Dứt lời, y nháy mắt ra hiệu cho tâm phúc của mình.
Tâm phúc của Thái tử cung kính dâng lên một chiếc khay sơn màu đỏ, bên trên có mấy tờ giấy được xếp rất chỉnh tề.
Tiêu Uyển liếc mắt nhìn qua, lại chăm chú xem xét một hồi, sau đó chợt cười nói với Thẩm Hành: “Mấy cái tên này đều không tệ.”
Trong mắt Thẩm Hành ngợp đầy nét cười. “Ta cũng thấy thế.”
Tiêu Uyển cầm tờ giấy có viết hai chữ “Giảo Giảo” lên, nói: “Cái tên này rất hay, có điều vầng trăng thì lạnh lẽo hiu quạnh quá.”
Thẩm Hành cười nói: “A Uyển nói rất có lý, xem ra cái tên này không hợp với con của chúng ta rồi.”
Tâm phúc của Thái tử lẳng lặng đưa mắt liếc nhìn Thẩm Hành.
Ánh mắt Tiêu Uyển chợt dừng lại trên tờ giấy để ở dưới cùng, sau đó tươi cười rạng rỡ nói: “A, cái tên Châu Châu này hay quá. Sư phụ, chàng nói xem có đúng như vậy không?”
Tâm phúc của Thái tử lại lẳng lặng đưa mắt liếc nhìn Thẩm Hành lần nữa.
Thẩm Hành mặt không đổi sắc nói: “Ta cũng nghĩ vậy, minh châu bảo châu như châu như bảo, đọc liền một tràng nghe rất xuôi tay, không tầm thường chút nào, quả thực rất hợp với con của chúng ta.”
Tâm phúc của Thái tử chỉ biết khóc thầm…
Trên người Thái tử phi nhất định là có một thứ gì đó còn ghê gớm hơn cả tàng bảo đồ! Phải rồi, nhất định là như vậy!