Đại Chiến Hacker

Chương 6 - Chương 6

trước
tiếp

Bạn tin hay không thì tùy, nhưng ngày hôm sau, bố mẹ tôi bắt tôi đi học. Tôi chỉ vừa mới chợp mắt lúc ba giờ sáng, nhưng bảy giờ sáng, bố đã đứng ở cuối giường tôi, dọa sẽ nắm cổ chân tôi lôi ra khỏi giường. Tôi xoay xở để ngồi dậy – có cái gì đó đã chết trong miệng tôi sau khi dính chặt mí mắt tôi lại – rồi bước vào nhà tắm.

Tôi để mẹ ấn một miếng bánh mì và một quả chuối vào miệng, lòng khao khát rằng bố mẹ sẽ cho tôi uống cà phê ở nhà. Tôi có thể kiếm một cốc trên đường tới trường, nhưng thật khủng khiếp khi nhìn họ nhấm nháp từng chút chất lỏng vàng đen trong khi tôi thì lết mông quanh nhà, mặc quần áo và cho sách vở vào túi.

Tôi đã đi bộ tới trường hàng nghìn lần, nhưng hôm nay thật khác. Tôi đi qua các ngọn đồi để tới khu Mission, đâu đâu cũng có xe tải. Tôi thấy camera kiểm duyệt và camera giao thông mới được lắp đặt ở rất nhiều biển báo dừng. Ai đó đã trữ rất nhiều thiết bị giám sát, chỉ chờ có cơ hội là lắp đặt ngay. Vụ tấn công ở Cầu Vịnh chính là điều họ cần.

Thành phố dường như khẽ khàng hơn, như thể đang ở trong thang máy, ngượng ngùng bởi sự xét nét của hàng xóm láng giềng và mấy chiếc camera nhan nhản khắp nơi.

Quán cà phê Thổ Nhĩ Kỳ trên phố 24 luôn dành cho tôi một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ tuyệt vời để mang đi. Về cơ bản, cà phê Thổ Nhĩ Kỳ là bùn giả cà phê. Nó đủ dày để cắm một chiếc thìa vào và có nhiều caf- feine hơn những đồ uống trẻ con như Red Bull. Hãy xem Wikipedia viết gì: đây chính là cách Đế quốc Ottoman đã giành chiến thắng: những kỵ sĩ điên cuồng được nạp đầy thứ bùn cà phê đen huyền chết người.

Tôi rút thẻ ghi nợ ra để thanh toán và anh chàng nhăn mặt nói. “Không nhận thẻ ghi nợ nữa.”

“Hử? Tại sao không?” Tôi đã trả tiền cho thói quen uống cà phê của mình bằng thẻ ở quán Thổ Nhĩ Kỳ này hàng mấy năm nay. Anh ta lúc nào cũng xua tôi đi, nói rằng tôi còn quá trẻ để uống thứ này, và anh ta vẫn từ chối bán hàng cho tôi trong giờ học, khăng khăng rằng tôi đang trốn học. Nhưng sau nhiều năm, anh chàng người Thổ và tôi đã hình thành một mối cảm thông nhất định.

Anh ta lắc đầu buồn bã. “Cậu không hiểu được đâu. Đi học đi, nhóc.”

Không có cách nào khiến tôi muốn hiểu hơn là bảo tôi sẽ không hiểu được. Tôi nài nỉ anh ta nói cho tôi. Trông có vẻ như anh ta sẽ tống cổ tôi đi, nhưng khi tôi hỏi chẳng lẽ tôi không đủ tốt để mua hàng ở đây sao, anh ta cởi mở hơn.

“Vấn đề an ninh,” anh nói, nhìn xung quanh cửa hàng nhỏ với những bình đựng hạt cà phê khô và giá để đồ tạp phẩm Thổ Nhĩ Kỳ. “Chính phủ. Báo chí nói giờ họ giám sát tất cả mọi thứ. Đạo luật YÊU NƯỚC số II, Quốc hội đã thông qua hôm qua. Giờ họ có thể giám sát mỗi khi cậu dùng thẻ của mình. Tôi không đồng ý. Tôi không để cửa hàng của tôi giúp họ theo dõi khách hàng của mình.”

Tôi há hốc miệng.

“Có lẽ cậu cho rằng chuyện này chả có nghĩa lý gì? Có vấn đề gì đâu khi chính phủ biết cậu mua cà phê lúc nào? Bởi vì đó là một cách để họ biết cậu đang ở đâu, cậu đã ở đâu. Cậu nghĩ vì sao mà tôi rời bỏ Thổ Nhĩ Kỳ nào? Nơi nào chính phủ luôn theo dõi người dân, nơi đó không hề tốt đẹp. Tôi đã chuyển đến đây hai mươi năm trước để được tự do – tôi sẽ không giúp họ lấy mất tự do đâu.”

“Thế thì doanh thu của anh sẽ bị giảm đi nhiều đấy,” tôi thốt lên. Tôi muốn nói rằng anh là một người hùng và bắt tay anh, nhưng rốt cuộc tôi lại nói như vậy. “Mọi người đều dùng thẻ ghi nợ.”

“Có lẽ không còn nhiều nữa. Có lẽ khách hàng của tôi tới đây vì họ biết tôi cũng yêu tự do. Tôi đang làm biển thông báo treo lên cửa sổ. Có lẽ các cửa hàng khác cũng làm như vậy. Tôi nghe nói ACLU 1 sẽ kiện họ vì điều này.”

“Từ giờ trở đi em sẽ luôn mua đồ của anh,” tôi nói. Thực sự tôi muốn vậy. Tôi cho tay vào túi. “Ừm, nhưng em không có đồng nào cả.”

Anh mím môi và gật đầu. “Nhiều người cũng nói như vậy. Không sao. Cậu hãy dành tiền hôm nay cho ACLU.”

Trong hai phút, số từ mà anh chàng người Thổ Nhĩ Kỳ và tôi trao đổi với nhau nhiều hơn từ trước đến nay gộp lại. Tôi đã đến cửa hàng của anh cả nghìn lần. Tôi không hề biết anh lại có nhiệt huyết nhường ấy. Vốn dĩ tôi chỉ nghĩ về anh như một chủ quán cà phê gần nhà thân thiện. Tôi bắt tay anh và khi rời cửa hàng, tôi có cảm giác như anh và tôi đã gia nhập một đội quân. Một đội quân bí mật.

Mặc dù đã nghỉ học hai ngày nhưng dường như tôi không bỏ lỡ quá nhiều tiết học. Họ đã đóng cửa trường học một ngày khi thành phố đang cố gắng hồi phục. Có vẻ như ngày kế tiếp đã được dành để thương tiếc những người mất tích và bị cho là thiệt mạng. Báo chí công bố lý lịch của những vật tưởng niệm cá nhân và bị thất lạc. Các trang web tràn ngập cáo phó, có tới hàng nghìn cáo phó.

Trớ trêu thay, tôi cũng là một trong số những người nói trên. Tôi bước vào sân trường mà không hề biết điều đó, ai đó hét lên, rồi một lát sau có hàng trăm người vây lấy tôi, vỗ vai tôi, bắt tay tôi. Vài cô gái mà tôi thậm chí không biết còn hôn tôi nữa, và chúng còn hơn là những nụ hôn bạn bè. Tôi cảm thấy mình như một siêu sao nhạc rock.

Các thầy cô của tôi cũng phấn khởi không kém. Cô Galvez đã khóc nhiều như mẹ tôi và ôm tôi ba lần trước khi để tôi về chỗ ngồi. Có gì đó mới trước lớp học. Một máy quay. Cô Galvez bắt gặp tôi đang nhìn nó chằm chằm và đưa cho tôi một giấy phép có in tên trường bị vấy bẩn.

Ban quản lý Học khu thống nhất San Francisco đã mở phiên họp khẩn cấp vào cuối tuần và nhất trí bỏ phiếu thông qua việc đề nghị phụ huynh của từng đứa trẻ trong thành phố đồng ý đặt camera vô tuyến truyền trực tiếp trong mọi lớp học và hành lang. Luật pháp quy định rằng họ không thể bắt chúng tôi tới trường khi có camera ở khắp nơi, nhưng nó không nói gì về việc chúng tôi tình nguyện từ bỏ quyền hiến pháp của mình. Lá thư nói rằng Ban quản lý đảm bảo có được sự ưng thuận tuyệt đối của tất cả phụ huynh trong thành phố, nhưng họ sẽ sắp xếp để dạy những đứa trẻ mà cha mẹ chúng phản đối việc này tại một trong những lớp học “không được bảo vệ” riêng biệt.

Tại sao giờ chúng ta lại có camera trong phòng học? Bọn khủng bố. Tất nhiên. Bởi vì với việc cho nổ tung cây cầu, chúng đã ám chỉ trường học sẽ là mục tiêu kế tiếp. Dù sao thì bằng cách nào đó, Ban quản lý đã đưa ra kết luận như vậy.

Tôi đọc lá thư này ba lần rồi giơ tay lên.

“Gì vậy, Marcus?”

“Thưa cô Galvez, về lá thư này?”

“Sao vậy, Marcus?”

“Có phải mục đích của việc khủng bố là khiến chúng ta sợ hãi không ạ? Vậy nên người ta mới gọi nó là sự-gây-kinh-hoàng 2 , đúng không ạ?

“Cô đoán là vậy.” Cả lớp nhìn tôi chằm chằm. Tôi không phải là học sinh giỏi nhất trường, nhưng tôi tranh luận khá tốt trong phạm vi lớp học. Họ đang đợi xem tôi sẽ nói cái gì tiếp theo.

“Vậy chẳng phải chúng ta đang làm điều mà bọn khủng bố muốn ở chúng ta sao? Có phải chúng đang chiến thắng không khi mà tất cả chúng ta đều hành động trong sợ hãi rồi đặt camera trong lớp học và tất cả những việc tương tự?”

Có những tiếng xôn xao bồn chồn. Một người giơ tay lên. Đó là Charles. Cô Galves gọi tên nó.

“Đặt camera sẽ giúp chúng ta an toàn, và khiến chúng ta bớt sợ hãi.”

“An toàn trước điều gì?” tôi nói, không đợi được gọi tên.

“Khủng bố,” Charles đáp. Những đứa khác cũng gật đầu.

“Làm sao mấy cái máy đó làm được hay vậy? Nếu một kẻ đánh bom tự sát lao vào đây và cho nổ tung tất cả chúng ta…”

“Thưa cô Galvez, Marcus đang vi phạm quy chế của trường. Chúng ta không được phép nói đùa về việc bọn khủng bố tấn công…”

“Ai đang đùa cơ?”

“Cảm ơn, cả hai em,” cô Galvez nói. Cô trông có vẻ rất không vui. Tôi cảm thấy tệ vì đã gây rối trong buổi học của cô. “Cô nghĩ rằng đây là một cuộc tranh luận rất thú vị, nhưng cô muốn dành nó lại cho một buổi học trong tương lai. Cô nghĩ hôm nay mà bàn luận về vấn đề này thì sẽ rất dễ gây kích động. Giờ, chúng ta sẽ cùng quay lại việc tán thành mở rộng quyền bầu cử, được chứ?”

Vậy là chúng tôi dành thời gian còn lại để nói về những người tán thành mở rộng quyền bầu cử và những chiến lược vận động hành lang mà họ đã nghĩ ra để đưa vào văn phòng của mỗi nghị sĩ bốn phụ nữ, gây sức ép và cho ông ta thấy tương lai chính trị của ông ta sẽ ra sao nếu như ông ta cứ tiếp tục từ chối quyền bầu cử của phụ nữ. Thường thì đây là đề tài mà tôi rất thích – những người thấp cổ bé họng khiến những người to lớn và đầy quyền lực phải sống trung thực hơn. Nhưng hôm nay tôi không thể nào tập trung nổi. Chắc hẳn do sự vắng mặt của Darryl. Cả hai đứa đều thích môn Nghiên cứu Xã hội và đáng ra lúc này, sau khi yên vị được vài giây, chúng tôi đang mở SchoolBook và bật chương trình chat, một kênh khác để bàn luận về bài học.

Đêm trước đó, tôi đã in ra hai mươi đĩa ParanoidXbox và để trong túi. Tôi đã đưa cho những người mà tôi biết là vô cùng đam mê chơi game. Họ đều có một hoặc hai Xbox Universal từ năm ngoái, nhưng phần lớn không dùng nữa. Các trò chơi rất đắt và không vui lắm. Tôi kéo họ ra giữa các tiết học, giờ ăn trưa, giờ tự học và ca ngợi các trò chơi của ParanoidXbox lên tận trời xanh. Miễn phí và vui – những trò chơi xã hội có khả năng gây nghiện mà những người hay ho, thú vị trên thế giới đều ưa thích.

Cho không một thứ để bán một thứ khác được gọi là “kinh doanh kiểu lưỡi lam” – những công ty giống như Gillette tặng cán dao cạo râu miễn phí cho bạn rồi lừa bạn phải trả một số tiền nhỏ để mua lưỡi lam. Tệ nhất là những hộp mực in – loại sâm banh đắt nhất thế giới còn rẻ hơn khi đem so với mực in, thứ chỉ đáng một xu mỗi galông nếu bán buôn.

Kinh doanh kiểu lưỡi lam phụ thuộc vào việc bạn không thể kiếm được “lưỡi lam” từ ai khác nữa. Nói cho cùng, nếu Gillette có thể kiếm được chín đô la từ mỗi lưỡi lam thay thế giá mười đô la thì chả có lý do gì một đối thủ cạnh tranh của họ lại không kiếm bốn đô la từ việc bán một lưỡi dao y hệt: lợi nhuận biên tám mươi phần trăm là con số khiến một người kinh doanh trung bình phải nhỏ dãi.

Vậy là những công ty kinh doanh lưỡi lam như Gillette đổ rất nhiều công sức để làm cho việc cạnh tranh với họ về sản phẩm lưỡi lam trở nên khó khăn và/hoặc bất hợp pháp. Trong trường hợp của Microsoft, mỗi Xbox đều có biện pháp đối phó để ngăn không cho bạn chạy các phần mềm được phát hành bởi những người không trả tiền mua quyền bán chương trình của Xbox.

Những người tôi đã gặp không nghĩ nhiều về việc này. Họ phấn khởi hơn hẳn khi nghe tôi nói rằng những trò chơi này không bị giám sát. Ngày nay, bất cứ trò chơi trực tuyến nào bạn chơi cũng toàn những thứ khó chịu. Đầu tiên, có những thằng khốn cố gắng dụ bạn tới những vị trí hẻo lánh, rồi chúng trở nên kỳ cục và giở trò bệnh hoạn với bạn. Rồi cảnh sát đóng giả những đứa nhóc khờ khạo để có thể bắt giữ bọn hư hỏng đó. Nhưng dù sao thì tệ nhất vẫn là những kẻ giám sát, họ dành toàn bộ thời gian để do thám những cuộc tranh luận và chỉ điểm chúng ta vì tội chống lại Các điều khoản dịch vụ, ấy là không tán tỉnh, không chửi rủa, và không “sử dụng ngôn ngữ rõ ràng hoặc mập mờ để đề cập một cách xúc phạm tới bất kỳ khía cạnh nào của tình dục hay thiên hướng tình dục.”

Không phải lúc nào tôi cũng nghĩ đến tình dục, nhưng tôi là một thằng con trai mười bảy tuổi. Tình dục đôi lúc cũng xuất hiện trong những cuộc nói chuyện. Nhưng cầu Chúa phù hộ bạn nếu nó xuất hiện khi bạn chat lúc chơi game. Nó thực sự là quả bom nổ chậm. Không ai giám sát các trò chơi của ParanoidXbox vì chúng không do công ty nào điều hành: chúng chỉ là những trò chơi mà các hacker viết cho vui thế thôi.

Các tín đồ game thích câu chuyện của tôi. Chúng vồ vập lấy những chiếc đĩa và hứa sẽ chép ra nhiều bản cho tất cả bạn bè – dù sao, game vui nhất khi bạn chơi cùng chiến hữu.

Về đến nhà, tôi đọc thấy một nhóm phụ huynh đã kiện hội đồng nhà trường vì những chiếc camera giám sát trong lớp học, nhưng họ đã mất ưu thế khi lệnh sơ bộ của tòa chống lại họ.

Tôi không biết ai đã nghĩ ra cái tên Xnet, nhưng nó gây lúng túng. Bạn có thể nghe thấy mọi người nói về nó trên các phương tiện di chuyển công cộng. Van gọi tôi để hỏi xem tôi có nghe được gì về nó không và tôi suýt nghẹt thở khi hiểu ra cô đang nói về điều gì: những chiếc đĩa mà tôi phát tán tuần trước đã được truyền đi khắp nơi trên mạng và sao chép lại rồi lan tới tận Oakland chỉ trong hai tuần. Điều này khiến tôi chột dạ – như thể tôi đã phá luật và giờ thì DHS sẽ đến mang tôi đi mãi mãi.

Những tuần sau vụ khủng bố thật khó khăn. Giờ đây, BART đã hoàn toàn từ chối việc thanh toán bằng tiền mặt, đổi sang thẻ RFID “không tiếp xúc” mà bạn sẽ vẫy trước cửa xoay để đi qua. Đúng là chúng tốt và tiện lợi thật, nhưng mỗi lần sử dụng chúng, tôi lại nghĩ đến việc mình đang bị theo dõi như thế nào. Ai đó trên Xnet đã đăng một đường dẫn tới sách trắng của Quỹ Biên Giới Điện Tử nơi cho ta biết các cách mà những thứ này có thể được dùng để theo dõi mọi người. Sách trắng này cũng có các mẩu chuyện về những nhóm đã phản kháng ở BART.

Giờ tôi sử dụng Xnet để làm hầu hết mọi việc. Tôi lập một địa chỉ e-mail giả qua Pirate Party, một đảng phái chính trị Thụy Điển ghét việc giám sát Internet và hứa sẽ giữ các tài khoản e-mail của họ bí mật tuyệt đối với mọi người, kể cả cảnh sát. Tôi truy cập qua Xnet một cách hết sức thận trọng, nhảy từ kết nối Internet của hàng xóm này tới kết nối của hàng xóm khác, luôn ẩn danh – hy vọng là thế – tới tận Thụy Điển. Tôi không sử dụng nick w1n5ton nữa. Nếu thầy Benson có thể đoán ra thì ai cũng có thể đoán ra. Trong một giây xuất thần, tôi đã chọn nick mới là M1k3y, và tôi nhận được rất nhiều e-mail từ những người đã nghe các phòng chat và diễn đàn online kháo nhau rằng tôi có thể giúp họ khắc phục cấu hình và kết nối Xnet.

Tôi nhớ Harajuku Fun Madness. Công ty đã hoãn trò chơi vô thời hạn. Họ cho biết vì “lý do an ninh” nên họ không nghĩ rằng việc giấu các đồ vật để mọi người đi tìm là một ý hay. Điều gì xảy ra nếu ai đó nghĩ rằng nó là một quả bom? Điều gì xảy ra nếu ai đó đặt bom vào cùng vị trí đó?

Điều gì xảy ra nếu tôi bị sét đánh khi đang đi bộ với một cái ô? Cấm tất cả các loại ô! Chống lại mối đe dọa sét đánh!

Tôi vẫn sử dụng laptop của mình, dù mỗi lần đụng vào nó tôi lại sởn gai ốc. Người nào đã nghe lén tôi sẽ thắc mắc tại sao tôi không dùng máy. Thế là hàng ngày tôi chỉ lướt qua vài trang web bất kỳ, mỗi ngày giảm thời gian ngồi máy đi một chút để những kẻ đang rình rập tôi sẽ thấy rằng tôi đang từ từ thay đổi thói quen của mình chứ không đảo lộn đột ngột. Chủ yếu tôi đọc về những lễ tưởng niệm đáng sợ – hàng nghìn bạn bè và hàng xóm của tôi đã chết dưới đáy Vịnh.

Thú thực là tôi ngày càng ít làm bài tập về nhà hơn. Tôi bận công việc ở nơi khác. Mỗi ngày tôi lại in thêm hàng chồng đĩa ParanoidXbox mới, năm mươi hay sáu mươi cái gì đấy, và mang chúng đi quanh thành phố, đưa cho những người mà tôi nghe nói là sẵn sàng chép ra sáu mươi đĩa khác và phân phát cho bạn bè họ.

Tôi không quá lo lắng về việc bị bắt gặp làm việc này, vì tôi có mật mã vững chắc. Thuật mã hóa còn được gọi là “cách viết bí mật”, và nó đã xuất hiện từ thời La Mã (thật vậy, Augustus Caesar rất thích thú với trò này và luôn phát minh ra mật mã của riêng mình, một vài trong số đó còn được sử dụng ngày nay để chèn thêm những câu đùa trong e-mail).

Thuật mã hóa là toán. Toán khó. Tôi không định cố giải thích chi tiết vì tôi cũng chẳng có đủ kiến thức toán học để giải thích – hãy đọc trên Wikipedia nếu bạn thực sự muốn biết.

Nhưng đây là cách giải thích trong sách: Có những hàm số toán học rất dễ thực hiện theo hướng này nhưng lại rất khó thực hiện theo hướng ngược lại. Thật đơn giản khi nhân hai số nguyên tố lớn để có một con số khổng lồ. Nhưng cực kỳ khó nếu chọn một số khổng lồ bất kỳ và đoán xem nó là tích của hai số nguyên tố nào.

Điều này có nghĩa là nếu bạn có thể nghĩ ra cách làm lộn xộn cái gì đó dựa trên việc nhân các số nguyên tố lớn thì việc lần ra đầu mối của đám hỗn độn mà không biết các số nguyên tố đó sẽ rất khó. Khó tới mức không tưởng. Tất cả máy tính trên thế giới có hoạt động hết công suất trong cả tỉ năm thì cũng không thể nào giải quyết nổi vụ này.

Một tin nhắn mã hóa luôn có bốn phần: tin nhắn gốc, hay còn gọi là “văn bản thuần túy”. Tin nhắn đã bị xáo trộn, gọi là “văn bản mật”. Quy luật được sử dụng để xáo trộn tin nhắn, gọi là “thuật toán”. Và cuối cùng là chìa khóa: một bí mật mà bạn đưa vào mật mã cùng với văn bản thuần túy để tạo thành văn bản mật.

Thường thì những người tạo mật mã cố gắng giữ bí mật tất cả mọi thứ. Mỗi cơ quan và chính phủ có thuật toán riêng và chìa khóa riêng. Phát xít Đức và các nước đồng minh còn không muốn cho những nước khác biết cách thức đảo các thông điệp của mình, nói gì đến chìa khóa họ có thể sử dụng để giải mã chúng. Nghe có vẻ là một ý tưởng hay ho, đúng không?

Sai.

Lần đầu tiên ai đó nói với tôi về trò phân tích thừa số nguyên tố này phân tích mọi thứ, tôi lập tức nói, “Không thể nào, thật vớ vẩn! Ý tớ là, chắc chắn cái việc phân tích thừa số nguyên tố này rất khó, dù cậu có nói gì đi nữa. Nhưng trước đây, con người từng không thể bay lượn, lên mặt trăng hoặc chế tạo ra ổ cứng có dung lượng nhiều hơn vài kilobyte. Hẳn là ai đó phải phát minh ra cách giải mã những tin nhắn này chứ.” Tôi tưởng tượng ra một ngọn núi rỗng, bên trong chật ních những nhà toán học của Cơ quan An ninh Quốc gia đang đọc mọi e-mail trên thế giới này và cười khẩy.

Thực tế thì điều này khá giống với những gì đã xảy ra trong Thế chiến thứ hai. Đấy là lý do vì sao cuộc sống không như trò Castle Wolfenstein 3 , nơi tôi đã dành nhiều ngày săn đuổi bọn phát xít.

Vấn đề là khó mà đảm bảo được bí mật cho thuật toán. Một thuật toán bao gồm rất nhiều yếu tố toán học, nếu nó được sử dụng rộng rãi thì tất cả những người sử dụng cũng phải giữ bí mật, và khi ai đó trở mặt, bạn sẽ phải tìm ra một thuật toán mới.

Thuật toán của phát xít Đức được gọi là Enigma, và họ sử dụng một máy tính cơ nhỏ tên là Enigma Machine để xáo trộn và phục hồi trật tự của những thông điệp mà họ thu được. Mỗi tàu ngầm, thuyền và trạm đều cần có một cái máy như vậy nên hiển nhiên là cuối cùng quân Đồng minh cũng chiếm được một cái.

Khi có chiếc máy, họ phá vỡ Enigma. Việc này được chỉ huy bởi Alan Turing, vị anh hùng của mọi thời đại mà tôi tôn sùng, người được xem là cha đẻ của những chiếc máy tính mà chúng ta biết ngày nay. Thật không may, ông là người đồng tính nên sau khi chiến tranh kết thúc, chính phủ Anh ngu ngốc đã ép ông phải tiêm hoóc môn để “điều trị” bệnh đồng tính luyến ái, và ông đã tự tử. Darryl đã tặng tôi một cuốn tiểu sử Turing vào sinh nhật thứ mười bốn – bọc trong hai mươi lớp giấy và đặt trong một chiếc ô tô người dơi đồ chơi được tái chế, nó lúc nào cũng làm thế với những món quà – và tôi trở thành tín đồ của Turing từ đó đến giờ.

Nhưng việc quân Đồng minh sở hữu một Enigma Machine và có thể chặn rất nhiều thông điệp vô tuyến của Phát xít Đức cũng không phải là vấn đề to tát lắm, vì mỗi chỉ huy có một chìa khóa riêng. Phe Đồng minh không có chìa khóa nên cỗ máy cũng không thể giúp được gì.

Đây chính là lúc sự bí mật làm hại tới việc mã hóa. Thuật toán Enigma có khiếm khuyết. Sau khi đã nghiên cứu nó kỹ lưỡng, Turing phát hiện những người viết mật mã của Phát xít Đức đã phạm một lỗi toán học. Bằng việc xem xét cỗ máy Enigma Machine, Turing đã có thể tìm ra cách giải mã bất kỳ thông điệp nào của Phát xít Đức, bất kể chìa khóa là gì.

Phát xít Đức đã phải trả giá bằng cả một cuộc chiến. Đừng hiểu lầm tôi. Đó là tin tốt. Cứ thử là một cựu chiến binh trong Castle Wolfenstein xem. Bạn sẽ không muốn quân Phát xít cai trị nước Mỹ đâu.

Sau chiến tranh, những người viết mật mã đã dành nhiều thời gian để suy nghĩ về việc này. Vấn đề là Turing thông minh hơn người đã phát minh ra Enigma. Bất kể thuật toán của bạn là gì, một ai đó thông minh hơn luôn có thể nghĩ ra cách để phá vỡ nó.

Và càng nghĩ nhiều về điều này thì họ càng nhận ra rằng bất cứ ai cũng có thể phát minh ra một hệ thống an ninh mà chính anh ta còn không biết cách phá. Nhưng không ai biết một người thông minh hơn mình có thể làm những gì.

Bạn phải công khai một thuật toán để biết liệu nó có hoạt động không. Bạn phải nói cho càng nhiều người càng tốt biết nó hoạt động ra sao, để họ thử nó bằng mọi thứ họ có, kiểm tra độ bảo mật của nó. Càng tồn tại được lâu mà không bị ai phát hiện ra lỗi, bạn càng được an toàn.

Đó chính là cách để sống sót trong thời đại này. Muốn an toàn, bạn không được sử dụng phương thức mã hóa mà một thiên tài nào đó đã nghiên cứu tuần trước. Bạn phải sử dụng những thuật toán đã được mọi người sử dụng càng lâu càng tốt mà không ai biết cách phá. Dù bạn là một ngân hàng, một kẻ khủng bố, một chính phủ hay một thằng nhóc, bạn cũng sử dụng những thuật toán như nhau.

Nếu bạn thử sử dụng thuật toán riêng, rất có khả năng ai đó ngoài kia sẽ tìm ra lỗi mà bạn bỏ qua và sẽ trở thành một Turing đá ********* bạn, giải mã được hết những tin nhắn “bí mật” của bạn và khoái trá cười vào những chuyện tầm phào ngớ ngẩn, những giao dịch tài chính và bí mật quân sự của bạn.

Vậy nên tôi biết mật mã sẽ đảm bảo an toàn cho tôi trước những kẻ nghe trộm, nhưng tôi chưa sẵn sàng để giải quyết các biểu đồ.

Tôi ra khỏi BART, quẹt thẻ của mình qua cửa xoay rồi đi về phía nhà ga phố 24. Như thường lệ, có rất nhiều người lập dị đi lại trong ga, những gã say xỉn, những kẻ tín Chúa, những người đàn ông Mexico nhìn chằm chằm xuống sân ga và vài đứa nhóc tụ tập thành băng nhóm. Tôi nhìn thẳng qua họ khi lên cầu thang và chậm rãi bước ra đường. Túi tôi giờ đã rỗng, không còn phồng lên bởi những đĩa ParanoidXbox mà tôi đã phân phát hết, nhờ thế nên hai vai được nhẹ nhõm và tôi nhún nhảy trên phố. Những người thuyết giáo vẫn đang làm việc, hô hào bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha về Chúa Jesus và mọi thứ.

Mấy tay bán kính mắt giả đã đi, nhưng thế chỗ vào đó lại là những gã bán chó robot có thể sủa quốc ca và nhấc chân lên nếu bạn chỉ cho chúng một bức ảnh của Osama bin Laden. Chắc là có cái gì đấy hay ho trong bộ não bé nhỏ của chúng và tôi tự nhủ sau này sẽ nhặt vài con về rồi tháo tung ra xem. Tính năng nhận dạng gương mặt còn khá mới đối với đồ chơi, chỉ đến gần đây nó mới được đưa từ lĩnh vực quân sự sang áp dụng ở các sòng bạc để phát hiện những kẻ gian lận phạm pháp.

Tôi bắt đầu xuống phố 24, hướng đồi Potrero để về nhà, xoay vai, hít hà mùi burrito thoang thoảng từ các nhà hàng và nghĩ về bữa tối.

Tôi không biết tại sao đột nhiên tôi lại liếc qua vai về phía đằng sau, nhưng tôi đã làm vậy. Có thể là dính dáng một chút đến giác quan thứ sáu. Tôi biết mình đang bị theo dõi.

Có hai gã da trắng lực lưỡng, ria mép lún phún khiến tôi nghĩ tới cảnh sát hoặc mấy tay chạy xe mô tô đồng tính vẫn lượn quanh Castro, nhưng dân đồng tính thường có kiểu tóc đẹp hơn. Họ mặc áo gió màu xi măng cũ và quần jean xanh da trời, cạp quần bị che khuất. Tôi nghĩ về những thứ mà một cảnh sát có thể đeo quanh cạp quần, về cái thắt lưng đa năng mà gã ở DHS trong xe tải đã mang. Cả hai gã đều có bộ điện đàm bluetooth.

Tôi vẫn đi bình thường, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi đã dự tính điều này từ khi bắt đầu. Tôi đã tính rằng DHS phát hiện ra những gì tôi đang làm. Tôi đã đề phòng mọi hướng, nhưng người phụ nữ tóc cắt bằng đã nói rằng cô ta sẽ để mắt tới tôi. Cô ta nói tôi đã bị đánh dấu. Tôi nhận ra lâu nay mình vẫn chờ bị bắt trở lại nhà tù. Sao lại không chứ? Sao Darryl phải ở trong tù mà tôi thì không? Tôi đang trả giá cho những gì tôi đã làm? Thậm chí tôi còn không đủ dũng cảm để nói với bố mẹ mình – hay bố mẹ Darryl – những gì đã thực sự xảy ra với chúng tôi.

Tôi bước nhanh hơn và điểm lại tình hình. Tôi không có gì phạm pháp trong túi. Dù sao thì không quá phạm pháp. SchoolBook của tôi đang chạy bản crack để tôi có thể chat và làm vài việc khác, nhưng nửa số học sinh trong trường cũng như vậy. Tôi đã đổi cách mã hóa mọi thứ trong điện thoại – giờ tôi đã dựng một bức ngăn giả để có thể mở văn bản thuần túy bằng một mật khẩu, nhưng tất cả những thứ quan trọng đã được giấu kín và cần một mật khẩu khác để mở. Phần bị giấu này trông như tin rác ngẫu nhiên – khi bạn mã hóa dữ liệu, người khác sẽ không thể phân biệt được chúng với những thứ hỗn tạp ngẫu nhiên – thậm chí họ sẽ không bao giờ biết chúng tồn tại ở đó.

Túi tôi chẳng có cái đĩa nào. Laptop của tôi hoàn toàn không có dấu vết phạm pháp. Tất nhiên, nếu họ nghĩ tới việc xem xét kỹ Xbox của tôi thì trò chơi sẽ kết thúc. Miễn bàn.

Tôi dừng lại. Tôi đã giấu mình khá tốt. Giờ đến lúc tôi phải đối mặt với số mệnh. Tôi bước vào quán burrito gần nhất và gọi một suất kèm thịt – thịt lợn xắt miếng – và thêm chút salsa. Có lẽ tôi sẽ đi ra sau khi đã ních căng bụng. Tôi cũng uống một tách horchata, đồ uống lạnh từ gạo, giống như bánh pudding gạo nhưng hơi ngọt và loãng (khi uống vào thì ngon hơn tôi tả nhiều).

Tôi ngồi xuống để ăn và cảm thấy hết sức bình tĩnh. Tôi sắp vào tù vì “tội lỗi” của mình, mà cũng có thể không. Sự tự do mà tôi có từ khi họ bắt tôi đến giờ chỉ là một kỳ nghỉ tạm thời. Đất nước này không còn là bạn tôi nữa: giờ chúng tôi ở hai phía khác nhau và tôi đã biết mình không thể nào chiến thắng.

Hai gã đàn ông bước vào cửa hàng khi tôi vừa ăn xong món burrito và đang chuẩn bị gọi ít churro – bột nhào chiên đường đỏ – để tráng miệng. Tôi đoán họ đã đợi bên ngoài và phát mệt vì sự ề à của tôi.

Họ đứng sau tôi tại quầy thu ngân, vây lấy tôi. Tôi lấy churro từ bà cụ đáng mến và trả tiền, cắn vài miếng bánh rồi mới quay lại. Tôi muốn ít nhất cũng phải được nếm bữa tráng miệng của mình. Nó có thể là bữa tráng miệng cuối cùng tôi được ăn trong một thời gian rất dài sắp tới.

Rồi tôi quay lại. Họ ở gần tôi đến mức tôi có thể thấy một cái mụn trên má của gã bên trái và gỉ mũi của gã còn sót lại.

“Xin lỗi,” tôi nói, cố chen qua họ. Gã có gỉ mũi liền di chuyển để chặn tôi lại.

“Thưa cậu,” gã nói, “cậu có thể ra ngoài cùng chúng tôi được không?” Gã chỉ về phía cửa.

“Xin lỗi, tôi đang ăn,” tôi nói và bước tiếp. Lần này gã đặt tay lên ngực tôi. Gã thở nhanh bằng đường mũi khiến cho gỉ mũi rung rinh. Tôi nghĩ mình cũng thở mạnh, nhưng khó mà nói được qua tiếng đập dồn dập của tim.

Gã còn lại hất nhẹ vạt áo gió trước, để lộ phù hiệu của Sở Cảnh sát San Francisco. “Cảnh sát đây,” gã nói. “Mời đi theo chúng tôi.”

“Để tôi lấy đồ của mình đã,” tôi nói.

“Chúng tôi sẽ lo việc đó,” gã nói. Gã có gỉ mũi bước tới gần tôi, chân gã đặt bên trong chân tôi. Trong võ thuật người ta cũng làm thế này. Nó giúp ta cảm nhận được nếu đối phương thay đổi trọng tâm, chuẩn bị chuyển động.

Dù sao tôi cũng không định chạy. Tôi biết mình không thể chạy thoát khỏi số mệnh.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.