Đại Chiến Hacker

Chương 5 - Chương 5

trước
tiếp

Nhưng đó chính là Van, cô cũng đang khóc và ôm tôi chặt đến mức ngạt thở. Tôi không quan tâm. Tôi ôm cô, vùi mặt trong tóc cô.

“Cậu ổn rồi!” cô nói.

“Mình ổn,” tôi gắng bật nên lời.

Cuối cùng cô cũng bỏ tôi ra và một vòng tay khác bao bọc lấy tôi. Đó là Jolu! Họ đều ở đây. Nó thì thào vào tai tôi, “Người anh em, cậu an toàn rồi,” và ôm tôi chặt hơn cả Vanessa.

Khi nó buông tay ra, tôi nhìn quanh. “Darryl đâu?” tôi hỏi.

Họ nhìn nhau. “Có lẽ nó vẫn ở trong xe,” Jolu nói.

Chúng tôi quay lại và nhìn cái xe ở cuối ngõ. Đó là một chiếc xe mười tám bánh màu trắng, khó xác định hãng nào sản xuất. Ai đó đã mang cái thang gấp vào trong. Đèn hậu màu đỏ bật sáng, chiếc xe lăn bánh về phía chúng tôi, phát ra âm thanh píp píp đều đều.

“Đợi đã!” Tôi hét lên khi chiếc xe tăng tốc về phía chúng tôi. “Đợi đã! Còn Darryl thì sao?” Chiếc xe tiến đến gần hơn. Tôi vẫn gào lên. “Thế còn Darryl thì sao?”

Jolu và Vanessa mỗi người một tay kéo tôi lại. Tôi chống cự, miệng vẫn gào lên. Chiếc xe lùi tới đầu ngõ, quay ra đường, hướng xuống dốc và phóng đi. Tôi cố đuổi theo, nhưng Van và Jolu giữ tôi lại.

Tôi ngồi xuống vỉa hè, bó gối và khóc. Tôi khóc và khóc và khóc, những tiếng khóc nức nở mà tôi đã không còn khóc từ hồi bé tí. Chúng không ngừng tuôn ra. Tôi không thể thôi run rẩy.

Vanessa và Jolu giúp tôi đứng dậy và dìu tôi đi từng bước lên phố. Có một trạm xe buýt, họ để tôi ngồi xuống đó. Cả hai cũng khóc, cả đám ôm nhau một lúc, và tôi biết chúng tôi đều khóc cho Darryl, người mà không đứa nào dám hy vọng sẽ được gặp lại nữa.

Chúng tôi đang ở phía Bắc của khu phố Tàu, chỗ ngay sát khu North Beach, nơi có rất nhiều hộp đêm và hiệu sách phản văn hóa Ánh Sáng Đô Thị huyền thoại, phong trào thơ Beat đã được sáng lập tại đây vào những năm 1950.

Tôi biết rất rõ khu vực này. Nhà hàng Ý yêu thích của bố mẹ tôi nằm ở đây và họ thích đưa tôi tới đây để thưởng thức những đĩa mì ống lớn, những núi kem Ý khổng lồ với trái vả tẩm đường, tiếp đến là cốc espresso ngon chết người.

Giờ nó như một nơi khác, một nơi mà tôi được nếm mùi tự do lần đầu tiên sau một khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận.

Chúng tôi kiểm tra túi và tìm thấy đủ tiền để đặt một bàn tại một trong những quán ăn Ý, trên vỉa hè, dưới một mái hiên. Cô bồi bàn xinh đẹp đốt lò sưởi gas lên bằng bật lửa lò nướng, ghi lại yêu cầu của chúng tôi rồi đi vào. Cảm giác được chọn và gọi món ăn, được kiểm soát số phận của mình là điều kỳ diệu nhất mà tôi từng cảm thấy.

“Chúng ta đã ở đó bao lâu?” tôi hỏi.

“Sáu ngày,” Vanessa nói.

“Tớ nghĩ là năm,” Jolu nói. “Tớ không đếm.”

“Họ đã làm gì cậu?” Vanessa hỏi. Tôi không muốn nói về việc này, nhưng cả hai đều nhìn tôi. Và khi đã bắt đầu thì tôi không thể ngừng lại. Tôi kể cho họ mọi thứ, ngay cả lúc tôi bị ép phải tè ra người, và họ im lặng lắng nghe. Tôi ngừng lại khi người bồi bàn mang sô đa cho chúng tôi và đợi đến khi cô ta ra khỏi tầm nghe, tôi mới kể nốt câu chuyện. Qua lời kể của tôi, mọi chuyện nghe có vẻ thản nhiên. Cuối cùng, tôi không biết mình đang thêu dệt nên sự thật hay đang cố làm mọi chuyện bớt tồi tệ hơn. Những ký ức của tôi bơi như những con cá nhỏ mà tôi đang cố bắt, đôi lúc chúng vuột khỏi tay tôi.

Jolu lắc đầu. “Họ thật khắc nghiệt với cậu, chiến hữu,” nó nói. Nó kể cho chúng tôi câu chuyện của mình. Họ tra hỏi nó, phần lớn là về tôi, và nó luôn nói sự thật cho họ, trung thành với sự thật về ngày hôm đó và về tình bạn của chúng tôi. Họ đã bắt nó phải lặp đi lặp lại, nhưng họ không dùng những trò cân não với nó như cách họ làm với tôi. Nó được ăn trong phòng ăn tập thể cùng với những người khác, được ở trong phòng có ti vi chiếu băng video những bộ phim ăn khách năm ngoái.

Câu chuyện của Vanessa chỉ hơi khác một chút. Sau khi cô khiến họ tức điên vì nói chuyện với tôi, họ đã lấy hết quần áo của cô và bắt cô phải mặc một bộ đồ liền màu cam cho tù nhân. Cô bị bỏ trong xà lim suốt hai ngày mà không cho liên lạc với ai, dù hàng ngày cô vẫn được ăn. Nhưng phần lớn thì cũng giống Jolu: vẫn những câu hỏi ấy, lặp đi lặp lại.

“Họ thực sự ghét cậu,” Jolu nói. “Thực sự muốn hành hạ cậu. Tại sao?”

Tôi không thể tưởng tượng ra tại sao. Rồi tôi chợt nhớ.

Cậu có thể hợp tác, hoặc là cậu sẽ vô cùng, vô cùng hối tiếc.

“Đó là vì mình đã không mở khóa điện thoại cho họ, vào đêm đầu tiên. Thế nên họ đã chọn riêng mình.” Tôi không thể tin điều đó, nhưng không còn cách giải thích nào nữa. Đó là sự tuyệt đối không khoan dung. Tâm trí tôi xoay theo ý nghĩ này. Họ thực hiện tất cả những điều đó chỉ để trừng phạt tội không tuân thủ các nhà chức trách.

Tôi đã sợ hãi. Giờ thì tôi tức giận. “Lũ khốn,” tôi nói nhỏ. “Chúng làm thế để trừng phạt tớ vì tớ không hé nửa lời.”

Jolu chửi thề còn Vanessa thì hét lên bằng tiếng Hàn Quốc, điều mà cô chỉ làm khi vô cùng giận dữ.

“Mình sẽ đánh bại họ,” tôi vừa thì thầm vừa nhìn chòng chọc vào cốc sô đa. “Mình sẽ đánh bại họ.”

Jolu lắc đầu. “Cậu không thể, cậu biết mà. Cậu không thể chống lại họ.”

Không ai trong chúng tôi muốn nói về việc trả thù. Thay vào đó, chúng tôi nói về việc sẽ làm gì tiếp theo. Chúng tôi phải về nhà. Pin điện thoại của chúng tôi đã cạn và khu này đã bỏ dịch vụ điện thoại trả tiền từ mấy năm trước. Chúng tôi chỉ cần về nhà. Thậm chí tôi còn nghĩ tới việc đi taxi, nhưng cả bọn không còn đủ tiền để làm như thế.

Vì vậy chúng tôi cuốc bộ. Ở một góc phố, chúng tôi bỏ vài xu vào hộp báo San Francisco Chronicle và dừng lại để đọc trang bìa. Đã năm ngày kể từ khi xảy ra vụ đánh bom nhưng nó vẫn tràn ngập trang nhất.

Người phụ nữ có mái tóc cắt bằng đã nói về “cây cầu” bị nổ tung, và tôi đã đoán cô ta nói về cầu Cổng Vàng, nhưng tôi đã nhầm. Bọn khủng bố đã làm nổ tung Cầu Vịnh 1 .

“Thế quái nào mà chúng lại làm nổ Cầu Vịnh nhỉ?” tôi hỏi. “Cổng Vàng mới là cây cầu xuất hiện trên mọi tấm bưu thiếp.” Dù chưa bao giờ tới San Franciso nhưng bạn vẫn có thể biết cầu Cổng Vàng trông ra sao: nó là một cái cầu treo lớn màu da cam võng xuống đầy ấn tượng, nối liên căn cứ quân sự cũ tên là Presidio tới Sausalito, nơi tập trung tất cả những thị trấn sản xuất rượu tuyệt hảo cùng những cửa hàng nến thơm và các phòng tranh nghệ thuật. Cây cầu đẹp như tranh vẽ và là biểu tượng của bang California. Nếu bạn tới công viên Disneyland ở California thì ngay khi đi qua cổng, bạn sẽ thấy một mô hình của nó, với một đường ray xe lửa chạy xung quanh.

Vậy nên, lẽ tất nhiên tôi nghĩ rằng nếu bạn định cho nổ một cái cầu ở San Francisco, bạn sẽ chọn Cổng Vàng.

“Có lẽ chúng sợ các máy quay và vài thứ khác,” Jolu nói. “Cảnh vệ Quốc gia luôn kiểm tra ô tô ở cả hai đầu, lại còn những tấm rào cản người tự vẫn và những thứ linh tinh khác dọc đó nữa.” Từ khi được thông xe năm 1957, người ta cứ lên cầu Cổng Vàng mà nhảy xuống – họ đã ngừng đếm sau vụ tự tử thứ một nghìn vào năm 1995.

“Đúng thế,” Vanessa nói. “Hơn nữa Cầu Vịnh thực sự dẫn tới một nơi nào đó.” Cầu Vịnh dẫn từ trung tâm San Francisco tới Oakland rồi từ đó đi tới Berkeley, vùng ngoại ô ở Vịnh Đông là nơi ở của rất nhiều người đang sống và làm việc trong thành phố. Nó là một trong số ít những nơi ở khu Vịnh mà một người bình thường có thể mua một căn nhà đủ rộng để thực sự duỗi hết chân tay ra bên trong, rồi còn có trường đại học và hàng tá các nhà máy công nghiệp nhẹ bên đó. BART nằm bên dưới Vịnh và cũng nối liền hai thành phố, nhưng Cầu Vịnh mới là nơi diễn ra phần lớn hoạt động giao thông. Cầu Cổng Vàng là một cây cầu đẹp đối với khách du lịch và những người giàu có đã về hưu sống ở vùng đồng quê sản xuất rượu, nhưng nó gần như chỉ để trang trí. Cầu Vịnh mới thực sự là cây cầu huyết mạch của San Francisco.

Tôi nghĩ về điều đó trong một phút. “Các cậu nói đúng,” tôi nói. “Nhưng tớ không nghĩ tất cả chỉ có thế. Chúng ta cứ nghĩ rằng bọn khủng bố muốn tấn công các điểm mốc bởi vì chúng ghét những điểm mốc. Bọn khủng bố không ghét những điểm mốc hay cầu hay máy bay. Chúng chỉ muốn làm loạn và khiến mọi người hoảng sợ. Để khủng bố. Vì vậy tất nhiên chúng đã nhằm vào Cầu Vịnh khi mà cầu Cổng Vàng có đầy rẫy máy quay như thế – khi mà máy bay nào cũng bị dò kim loại và quét tia X-quang.” Tôi nghĩ thêm một lúc nữa, mắt đờ đẫn dõi theo những chiếc ô tô đang chạy trên đường, những người đang đi bộ trên vỉa hè, thành phố xung quanh tôi. “Những kẻ khủng bố không ghét máy bay hay cầu cống. Chúng yêu sự khủng bố.” Điều đó quá rõ ràng, đến mức tôi không thể nào tin là trước đây mình lại chưa từng nghĩ đến nó. Tôi đoán việc bị đối xử như một tên khủng bố trong vài ngày qua đã đủ để soi rọi lối tư duy của tôi.

Hai đứa bạn nhìn tôi chằm chằm. “Mình đúng phải không? Tất cả những thứ rác rưởi này, tia (X-quang) và máy nhận dạng này, chúng đều vô ích phải không?”

Họ gật đầu chậm rãi.

“Còn tệ hơn là vô dụng,” tôi nói, giọng tôi cao dần và vỡ ra. “Bởi vì cuối cùng chúng cũng ở trong tù với chúng ta, với Darryl…” Tôi đã không nghĩ về Darryl từ lúc chúng tôi ngồi xuống và giờ thì tất cả quay trở lại, bạn của tôi, mất tích, biến mất. Tôi ngừng nói và nghiến quai hàm.

“Chúng ta phải nói với bố mẹ,” Jolu nói.

“Chúng ta nên tìm một luật sư,” Vanessa nói.

Tôi nghĩ về việc kể lại câu chuyện của mình. Về việc kể cho cả thế giới biết tôi đã trở thành cái gì. Về những đoạn video không còn nghi ngờ gì nữa sẽ được tung lên, trong đó tôi đang khóc, khiến tôi chỉ còn là một con vật hèn hạ.

“Chúng ta không thể nói với họ bất cứ điều gì,” tôi nói không cần suy nghĩ.

“Ý cậu là sao?” Van hỏi.

“Chúng ta không thể được nói bất cứ điều gì,” tôi lặp lại. “Cậu đã nghe cô ta nói rồi đấy. Nếu chúng ta nói, họ sẽ đến tìm chúng ta. Họ sẽ đối xử với chúng ta như họ đã làm với Darryl.”

“Cậu đùa à?” Jolu nói. “Cậu muốn chúng ta…”

“Tớ muốn chúng ta chiến đấu,” tôi nói. “Tớ muốn được tự do cốt để có thể làm điều đó. Nếu chúng ta ra ngoài và bô lô ba la, người ta sẽ bảo chúng ta là những đứa nhóc dựng chuyện. Chúng ta thậm chí còn không biết mình bị giam giữ ở đâu! Sẽ không ai tin chúng ta. Rồi, một ngày, họ sẽ tìm tới chúng ta.

“Tớ sẽ nói với bố mẹ rằng tớ ở một trong những trại ở phía bên kia Vịnh. Tớ tới đó để gặp các cậu và chúng ta bị mắc kẹt, hôm nay mới thoát ra được. Báo chí đã nói vẫn còn người lang thang về nhà từ những trại này.”

“Tớ không thể làm thế,” Vanessa nói. “Sau tất cả những gì họ làm với cậu, làm sao cậu vẫn còn có thể nghĩ đến việc làm vậy chứ?”

“Nó đã xảy ra với tớ, đó chính là mấu chốt. Giờ thì đây là việc giữa tớ và bọn họ. Tớ sẽ đánh bại họ, tớ sẽ đưa Darryl trở về. Tớ sẽ không để lời nói dối này trở nên vô ích. Một khi bố mẹ chúng ta liên quan đến vụ này, chuyện thế là kết thúc. Sẽ không ai tin và không ai quan tâm. Nếu chúng ta làm theo cách của tớ, mọi người sẽ để ý.”

“Cách của cậu là sao?” Jolu hỏi. “Kế hoạch của cậu là gì?”

“Tớ cũng chưa biết nữa,” tôi thú nhận. “Hãy cho tớ thời gian đến sáng mai, ít nhất hãy cho tớ chừng ấy thời gian.” Tôi thừa biết một khi họ đã giữ bí mật đó trong một ngày thì nó sẽ vĩnh viễn là bí mật. Bố mẹ chúng tôi thậm chí còn nghi ngờ hơn nếu chúng tôi đột nhiên “nhớ ra” rằng mình đã bị giữ ở một nhà tù bí mật thay vì ở trong một trại tị nạn.

Van và Jolu nhìn nhau.

“Tớ chỉ xin một cơ hội thôi mà,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tìm hiểu câu chuyện trên đường về, làm sáng tỏ nó. Hãy cho tớ một ngày, chỉ một ngày thôi.”

Hai bạn tôi gật đầu rầu rĩ và cả bọn lại đi xuống đồi và về nhà. Tôi ở đồi Potrero, Vanessa ở khu Bắc Mission và Jolu sống ở thung lũng Noe – ba khu hoàn toàn khác nhau nhưng chỉ cách nhau vài phút đi bộ.

Chúng tôi hướng vào phố Chợ và dừng lại. Con phố bị chặn lại ở mọi góc, những ngã tư giờ chỉ còn là làn đường đơn, và đậu san sát dọc phố Chợ là những chiếc xe mười tám bánh khổng lồ khó xác định nguồn gốc như chiếc xe đã chở chúng tôi, phần mui bị che lại, đậu từ bến tàu tới khu phố Tàu.

Mỗi xe có cầu thang thép ba bậc dẫn xuống từ phía sau và rì rầm những âm thanh hoạt động của quân lính, những người mặc đồ vest và cảnh sát đi ra đi vào. Đám người mặc đồ vest đều đeo phù hiệu trên ve áo và bị quân lính kiểm tra kỹ lưỡng khi ra vào – những phù hiệu điện tử không dây. Khi chúng tôi đi qua một trong số họ, tôi nhìn vào và thấy cái logo quen thuộc: Cục An ninh Nội địa. Một người lính thấy tôi nhìn chằm chằm bèn trừng mắt lại với tôi.

Tôi tiếp nhận thông điệp, đi tiếp và chia tay đám bạn ở Van Ness. Cả bọn níu lấy nhau, khóc và hứa sẽ gọi cho nhau.

Đường về đồi Potrero có một lối dễ đi và một lối khó đi, đường khó đưa bạn qua một trong những đỉnh đồi dốc nhất ở thành phố, như kiểu bạn hay thấy trong phim hành động, những cảnh ô tô rượt đuổi nhau rồi bay vút lên không trung khi vượt tới đỉnh cao nhất. Tôi luôn chọn đường này để về nhà. Nó có nhiều con phố đông dân cư, những ngôi nhà cổ thời Victoria mà họ gọi là “các quý cô đỏm dáng 2 ” vì được sơn cầu kỳ công phu, với những khu vườn trước nhà đầy hoa thơm ngát và cỏ cao ngút ngàn. Bọn mèo nhà sẽ nhòm bạn qua hàng rào, và hiếm khi nào thấy mèo hoang.

Những con phố này yên tĩnh tới mức tôi ước mình đã chọn đường kia, qua khu Mission, nơi mà… náo nhiệt có lẽ là từ đúng nhất để mô tả nó. Ồn ào và sôi nổi. Đầy rẫy những kẻ say xỉn ầm ĩ, con nghiện cocaine cáu kỉnh và bọn sốc ma túy bất tỉnh, cũng không thiếu những gia đình đẩy xe nôi đi dạo, những bà cụ ngồi nói chuyện bên hiên nhà, những người lái xe ô tô cỡ lớn kéo theo âm thanh rầm rầm xuống phố. Có những tay hippie, đám sinh viên mỹ thuật theo phong cách emo 3 sầu thảm và cả hai tay chơi rock punk truyền thống, những lão già bụng phệ lòi ra khỏi cái áo phông in hình ngài Kennedy Quá cố. Rồi cả những gã mặc đồ phụ nữ 4 , các băng nhóm thanh thiếu niên hung dữ, những nghệ sĩ graffiti và kẻ ngụy trưởng giả luống cuống cố để không bị giết trong khi chờ mối đầu tư nhà đất mãn hạn.

Tôi đi lên đồi Goat và rảo qua quán Pizza Goat Hill, nơi này làm tôi nhớ lại nhà tù mà mình đã bị giam giữ, và tôi phải ngồi xuống cái ghế dài bên ngoài nhà hàng cho đến khi những cơn run rẩy kết thúc. Rồi tôi nhìn thấy chiếc xe tải trên đồi, một chiếc mười tám bánh với cầu thang ba bậc kim loại phía sau. Tôi đứng dậy và di chuyển. Tôi cảm thấy những ánh mắt đang dõi theo mình từ mọi hướng.

Tôi lao nhanh trên đoạn đường còn lại. Tôi không nhìn ngắm “các quý cô đỏm dáng”, mấy khu vườn hay bọn mèo nhà nữa. Tôi chỉ nhìn xuống đất.

Cả hai xe của bố mẹ tôi đều ở lối vào ga ra, dù bây giờ là giữa ngày. Tất nhiên, bố tôi làm việc ở Vịnh Đông nên chắc ông bị mắc kẹt ở nhà trong khi người ta sửa cầu. Còn mẹ, ờ, ai mà biết tại sao mẹ lại ở nhà.

Họ ở nhà vì tôi.

Tôi còn chưa kịp mở khóa cửa thì cánh cửa đã tuột khỏi tay tôi và mở tung ra. Cả bố và mẹ tôi, trông đều buồn bã và phờ phạc, đang mở to mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Chúng tôi cứ đứng đó như bị đóng băng mất một lúc, rồi họ lao ra kéo tôi vào nhà, suýt nữa làm tôi vấp ngã. Cả hai người nói quá to và nhanh khiến tất cả những gì tôi nghe thấy là những lời lắp bắp ồn ào, không từ nào ra từ nào và họ ôm lấy tôi mà khóc, tôi cũng khóc, chúng tôi cứ đứng như vậy trong gian tiền sảnh nhỏ, khóc lóc và thốt ra những âm thanh gần giống lời nói cho đến lúc hết cả hơi và vào trong bếp.

Tôi làm việc mà tôi luôn làm khi về nhà: lấy cho mình một cốc nước từ máy lọc trong tủ lạnh và bới lấy vài chiếc bánh quy từ “thùng bánh quy” mà chị gái của mẹ đã gửi cho chúng tôi từ Anh. Sự bình thường của việc này khiến tim tôi thôi không đập thình thịch nữa, nó bắt kịp trí óc tôi, và cả gia đình nhanh chóng ngồi vào bàn.

“Con đã ở đâu?” bố mẹ gần như đồng thanh hỏi tôi.

Tôi đã suy nghĩ về việc này trên đường về. “Con bị mắc kẹt,” tôi nói. “Ở Oakland. Con đến đó cùng mấy người bạn, cùng làm một việc này, rồi bọn con đều bị cách ly.”

“Trong năm ngày?”

“Vâng,” tôi nói. “Vâng. Thật tệ.” Tôi đã đọc về những vụ cách ly trên tờ Chronicle và không ngại ngùng chôm luôn những gì họ viết. “Vâng. Tất cả những ai bị bắt gặp trong đám mây đó. Họ nghĩ rằng bọn con bị tấn công bởi một loại siêu sâu bọ nào đó và tống bọn con vào những công ten nơ vận chuyển ở khu xưởng đóng tàu, như cá mòi ấy. Ở đó cực kỳ nóng và nhớp nháp. Cũng không có nhiều đồ ăn nữa.”

“Chúa ơi,” bố tôi đấm tay xuống bàn. Bố tôi đi dạy ở Berkeley ba ngày một tuần, làm việc với vài sinh viên cao học về chương trình khoa học thư viện. Thời gian còn lại ông tư vấn cho khách hàng trong thành phố và dưới Peninsula, các công ty trực tuyến trong Làn sóng thứ ba 5 đang tiến hành nhiều hoạt động khác nhau về lưu trữ tài liệu. Hiện là một thủ thư hòa nhã nhưng ông từng là một người theo chủ nghĩa cấp tiến chính cống vào những năm sáu mươi và chơi đấu vật hồi cấp ba. Thỉnh thoảng tôi thấy ông tức giận phát điên – ngay cả tôi đây cũng thi thoảng làm ông nổi giận như thế – và những lúc như thế ông có thể mất kiểm soát nghiêm trọng. Có lần bố tôi đã ném cả cái xích đu của hãng Ikea qua cả bãi cỏ của ông nội khi nó cứ đổ lên đổ xuống đến lần thứ năm mươi khi ông đang lắp ráp nó.

“Lũ người man rợ,” mẹ tôi nói. Bà đã sống ở Mỹ từ khi mới là thiếu nữ nhưng vẫn luôn thể hiện bản sắc Anh mỗi khi bà gặp cảnh sát, nhân viên chăm sóc sức khỏe, an ninh sân bay hay những người vô gia cư. Giờ thì bà dùng từ “lũ người man rợ”, ngữ âm Anh của bà lại rõ nét như xưa. Chúng tôi đã tới Luân Đôn hai lần để thăm gia đình bà và tôi không thể nói rằng ở đó văn minh hơn San Francisco được, nó chỉ tù túng hơn thôi.

“Nhưng họ đã thả bọn con ra, và chở bọn con về đây hôm nay.” Tôi ứng biến.

“Con có bị đau không?” mẹ hỏi. “Có đói không?” “

Có buồn ngủ không?”

“Dạ, mỗi thứ một ít. Và cũng Ngốc Nghếch, Thông Thái, Hắt Xì và Xấu Hổ nữa.” Chúng tôi có một trò đùa gia đình truyền thống về bảy chú lùn. Bố mẹ tôi đều khẽ cười, nhưng mắt họ vẫn ướt. Tôi cảm thấy rất tệ. Hẳn là họ đã lo lắng đến phát điên. Tôi mừng như bắt được vàng vì có cơ hội để đổi chủ đề. “Con rất muốn được ăn.”

“Bố sẽ gọi pizza ở Goat Hill,” bố nói.

“Không, không phải thứ đó,” tôi nói. Cả hai nhìn tôi như thể tôi bị đột biến vậy. Thường thì tôi rất thích pizza của Goat Hill – mọi khi tôi có thể ngấu nghiến món đó đến lúc nó hết sạch hoặc tôi nổ bùm mới thôi. Tôi gượng cười. “Chỉ là con thấy không thích pizza,” tôi nói một cách không thỏa đáng. “Chúng ta gọi ít cà ri được chứ ạ?” Ơn Chúa, San Francisco là trung tâm của đồ ăn mang về.

Mẹ tôi tới chỗ ngăn kéo để thực đơn các món ăn mang về (thêm một sự bình thường nữa, cảm giác như thể được uống một cốc nước khi họng đã khô rã rời) và lật nhanh. Chúng tôi tạm thời thư giãn vài phút để xem thực đơn của quán thịt Pakistan ở Valencia. Tôi chọn món chả trộn nướng kiểu Ấn Độ và rau cải trộn kem với pho mát nông trang, cùng món lassi xoài muối (ngon hơn nhiều so với tên gọi của nó) và một ít bánh nướng nhúng nước đường.

Sau khi đặt món xong xuôi, một tràng câu hỏi lại bắt đầu tuôn ra. Họ đều đã nghe tin từ gia đình Van, Jolu và Darryl (tất nhiên) và đã cố gắng để báo cáo về sự mất tích của chúng tôi. Cảnh sát đã lấy tên, nhưng có nhiều “người di tản” đến nỗi họ không lập hồ sơ tìm kiếm ai hết trừ phi sau bảy ngày người đó vẫn mất tích.

Cùng lúc đó, hàng triệu các trang web đăng tin tìm người thất lạc mọc lên như nấm sau mưa. Vài ba trang ăn theo MySpace cũ đang cạn tiền lại tìm thấy nguồn thu mới từ việc đăng thông báo về những vụ mất tích. Xét cho cùng, một số nhà đầu tư mạo hiểm cũng có gia đình bị thất lạc ở khu Vịnh. Nếu những người này được tìm thấy thì có thể trang web sẽ thu hút thêm nhiều mối đầu tư mới. Tôi lấy laptop của bố và xem qua các trang mạng. Trên đó toàn là quảng cáo, tất nhiên, và ảnh của những người bị mất tích, hầu hết là những bức ảnh chụp ở lễ tốt nghiệp, đám cưới và những chỗ tương tự. Khá là kinh khủng.

Tôi tìm ra ảnh của mình và thấy nó được kết nối tới ảnh của Van, Jolu và Darryl. Có một mẫu đơn nhỏ để đánh dấu những người đã tìm thấy và một mẫu nữa để ghi chú về những người đang mất tích khác. Tôi điền vào ô của tôi, Jolu và Van, để trống ô của Darryl.

“Con quên Darryl rồi,” bố tôi nói. Ông không thích Darryl lắm – cứ khi nào ông phát hiện ra một chai trong tủ rượu của mình bị vơi đi vài phân, tôi lại đổ cho Darryl, mặc dù tôi vô cùng xấu hổ vì việc này. Tất nhiên, sự thật là cả hai đứa đều có lỗi, bọn tôi thường lượn lờ quanh quẩn, nếm thử vodka pha Coke sau mỗi lần chơi game thâu đêm.

“Nó không đi cùng chúng con,” tôi nói. Lời nói dối đắng ngắt trong miệng tôi.

“Lạy Chúa tôi,” mẹ tôi thốt lên. Bà siết chặt hai tay vào nhau. “Bố mẹ cứ tưởng khi về nhà các con sẽ đi cùng nhau.”

“Không,” tôi tiếp tục nói dối. “Không, đáng lẽ bọn con phải gặp nó nhưng rốt cuộc thì không thấy đâu. Có lẽ nó vẫn đang mắc kẹt ở Berkeley. Nó định đi tàu điện ngầm tới gặp bọn con.”

Mẹ tôi thút thít. Bố tôi lắc đầu và nhắm mắt lại. “Con không biết chuyện gì xảy ra với ga tàu điện ngầm sao?” ông nói.

Tôi lắc đầu. Tôi có thể thấy điều này sẽ dẫn tới đâu. Có cảm giác như mặt đất đang rung chuyển dưới chân tôi.

“Chúng đã cho nổ tung nó,” bố nói. “Lũ khốn ấy đã cho nổ tung ga tàu điện ngầm và cây cầu.”

Tin này vẫn chưa lên trang nhất của tờ Chronicle, tuy nhiên một ga tàu điện ngầm bị nổ tung dưới nước sẽ không sinh động bằng hình ảnh chiếc cầu treo bị xé toạc thành nhiều mảnh văng đi khắp Vịnh. Đường hầm tàu điện ngầm từ Embarcadero ở San Francisco tới ga West Oakland đã bị nhấn chìm.

Tôi quay lại với cái máy tính của bố để lướt qua các tít báo. Không ai chắc chắn, nhưng số thi thể được tìm thấy đã lên tới con số hàng nghìn. Giữa những chiếc ô tô lao thẳng từ độ cao 57 mét xuống biển và những người bị chìm trong tàu, số người chết vẫn đang tăng lên. Một phóng viên tuyên bố mình đã phỏng vấn một “tay chuyên làm giả giấy tờ tùy thân”, kẻ đã giúp “hàng tá” người giũ bỏ cuộc sống cũ của mình chỉ bằng cách biến mất sau vụ tấn công, có chứng minh thư mới, thoát khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc, những khoản nợ nần chồng chất và cuộc sống tồi tệ.

Nước mắt chảy dài trên gương mặt bố tôi còn mẹ tôi khóc nức nở. Họ lại lần lượt ôm lấy tôi, vỗ về tôi như để tự trấn an mình rằng tôi đang ở đây. Họ liên tục nói với tôi rằng họ yêu tôi. Tôi nói tôi cũng rất yêu họ.

Chúng tôi có một bữa tối đầy nước mắt, rồi bố và mẹ mỗi người đều uống vài ly rượu, bình thường như vậy là quá nhiều đối với họ. Tôi nói mình buồn ngủ, lần này thì tôi nói thật, và lẻn lên phòng. Tuy nhiên tôi không đi ngủ ngay. Tôi cần lên mạng và tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Tôi cần nói chuyện với Jolu và Vanessa. Tôi cần bắt tay vào việc tìm kiếm Darryl.

Tôi lén đi lên phòng và mở cửa. Tôi tưởng như đã không nhìn cái giường cũ của mình cả nghìn năm nay rồi. Tôi nằm xuống đó và với tay về phía cái tủ đầu giường để lấy laptop. Hẳn là tôi đã cắm lỏng phích điện – nó cần được chỉnh lại cho đúng – vậy nên cái laptop dần dần hết pin khi tôi đi vắng. Tôi cắm lại và đợi vài phút để sạc pin trước khi thử khởi động lại máy. Trong lúc đó, tôi cởi quần áo và ném vào sọt rác – tôi không bao giờ muốn nhìn lại chúng nữa – rồi mặc quần lót sạch và áo phông mới. Những bộ quần áo thẳng thớm, thơm tho nằm ngăn nắp trong các ngăn kéo khiến tôi thấy thật thân quen và dễ chịu, như vòng tay của bố mẹ vậy.

Tôi bật nguồn laptop, xếp một đống gối ở đầu giường rồi tựa lưng vào đó, dịch người lại, mở máy tính và đặt nó lên đùi. Nó vẫn đang khởi động, trời ơi, những biểu tượng vụt qua trên màn hình trông thật tuyệt. Nó hoạt động, nhưng rồi bắt đầu cảnh báo pin yếu. Tôi kiểm tra lại dây điện, lắc lắc nó và laptop tắt phụt. Phích điện đã chính thức bị hỏng.

Thật sự là tình hình tệ đến mức tôi không thể làm gì được. Mỗi lần tôi bỏ tay ra khỏi dây điện là điện lại không vào máy và thông báo pin yếu lại hiện lên. Tôi xem xét cái laptop kỹ hơn.

Toàn bộ vỏ laptop của tôi hơi bị lệch tâm, đường nối chia rẽ ở một góc rộng rồi thu hẹp và mở rộng ở phía sau.

Đôi khi bạn nhìn thiết bị nào đó và phát hiện ra một chi tiết tương tự như vậy, rồi bạn tự hỏi, “Có phải nó luôn như thế này không?” Có lẽ do bạn không để ý thôi.

Nhưng với laptop của tôi, điều này là không thể. Bạn thấy đấy, tôi đã tự lắp nó. Sau khi bộ giáo dục phát SchoolBook cho tất cả bọn tôi, không đời nào bố mẹ tôi lại đi mua cho tôi một cái máy tính riêng, mặc dù về mặt lý thuyết thì SchoolBook không thuộc về tôi, tôi không được phép cài đặt phần mềm hay điều khiển nó.

Tôi có chút tiền tiết kiệm – từ những công việc vặt, Giáng sinh và sinh nhật, một chút tiền nhờ buôn bán trên eBay. Gom tất cả lại cũng chỉ đủ để mua một cái máy xập xệ có tuổi thọ năm năm.

Vậy là Darryl và tôi đã tự lắp một cái. Bạn có thể mua vỏ laptop giống như mua vỏ PC, dù chúng hơi đặc biệt hơn một chút so với một chiếc PC cũ đơn thuần. Trước đó tôi và Darryl đã lắp hai cái PC, gom các bộ phận từ trang Craigslist, những buổi bán đồ cũ tại gia và đặt từ mấy người bán hàng Đài Loan giá rẻ mà chúng tôi tìm thấy trên mạng. Tôi phát hiện ra rằng tự lắp ráp một cái laptop sẽ là cách tốt nhất để có được sức mạnh mà tôi muốn ở mức giá tôi kham được.

Để lắp ráp một cái laptop, ta bắt đầu bằng việc đặt mua một “barebook”, tức một cỗ máy chỉ có một ít phần cứng và những khe cắm cần thiết. Tin mừng là, một khi tôi hoàn thiện nó thì tôi sẽ có một cỗ máy nhẹ hơn nửa ký so với con Dell mà tôi vẫn mê mẩn, chạy nhanh hơn mà giá chỉ bằng một phần ba số tiền đáng ra tôi phải trả nếu mua Dell. Tin xấu là, lắp ráp một cái laptop cũng giống như làm một con tàu nhỏ trong chai vậy. Đó là một công việc rất tỉ mỉ, với nhíp và kính lúp, cố gắng lắp cho vừa mọi thứ vào cái vỏ nhỏ xíu. Không giống như một cái PC nguyên cỡ – bên trong chủ yếu là không khí – bạn cần tận dụng từng milimét khối không gian trong laptop. Cứ lần nào tôi nghĩ mình đã hoàn thành là lại xuất hiện cái gì đó khiến cái máy không thể đóng khít hoàn toàn, và nó lại quay về bàn làm việc.

Vì thế, tôi biết chính xác khớp nối laptop của tôi trông như thế nào khi nó đóng lại, và nó không giống thế này.

Tôi cứ lắc lắc phích cắm nhưng hoàn toàn vô vọng. Không có cách nào để khởi động máy mà không tháo nó ra. Tôi rên rỉ và đặt nó cạnh giường. Tôi sẽ giải quyết nó vào sáng mai.

Tuy nhiên, tôi chỉ nói thế thôi. Hai giờ sau, tôi vẫn đang chòng chọc ngó lên trần nhà, trong đầu chiếu lại những thước phim về những gì họ đã làm với tôi, đáng ra tôi nên làm gì, về tất cả sự hối tiếc và esprit d’escalier.

Tôi bò ra khỏi giường. Đã là nửa đêm và tôi nghe thấy bố mẹ đã đi ngủ từ 11 giờ. Tôi dọn vài khoảng trống trên bàn, gài mấy bóng đèn LED nhỏ lên tấm đỡ kính lúp và kéo ra một bộ tua vít nhỏ có độ chính xác cao. Một phút sau, tôi đã mở vỏ máy và tháo bàn phím ra, nhìn chằm chằm vào ruột máy. Tôi lấy một bình khí nén và thổi đám bụi mà quạt làm mát hút vào rồi xem xét mọi thứ.

Có gì đó không ổn. Tôi không thể nói đó là gì, nhưng cũng phải vài tháng nay tôi không tháo tung cái laptop ra thế này. Thật may là đến lần thứ ba phải tháo máy ra và tìm cách đóng lại, tôi đã thông minh hơn: tôi chụp ảnh ruột máy và mọi thứ bên trong. Nhưng vẫn chưa thông minh tuyệt đối: ban đầu, tôi lưu bức ảnh đó trên ổ cứng, và đương nhiên, tôi không thể xem nó khi laptop đã bị tháo tung. Nhưng sau đó tôi đã in ảnh ra mà đính lên ngăn kéo lộn xộn giấy tờ của tôi, cái nghĩa địa nơi tôi lưu giữ tất cả thẻ bảo hiểm và các sơ đồ chân chip điện. Tôi lục tung lên – chúng có vẻ bừa bộn hơn tôi nhớ – và mang bức ảnh ra. Tôi đặt nó cạnh máy tính và nhìn bao quát, cố gắng tìm ra chi tiết nằm không đúng vị trí.

Rồi tôi phát hiện ra nó. Băng cáp nối bàn phím với mainboard không chuẩn lắm. Nó thật kỳ cục. Không có mômen quay trên đó, không có gì để đẩy nó ra trong quá trình hoạt động bình thường. Tôi thử ấn nó lại và phát hiện ra dây cắm không chỉ bị đặt sai – còn cái gì đó nữa giữa nó và bảng mạch. Tôi gắp thứ đó ra và chiếu đèn lên.

Trong bàn phím của tôi có gì đó mới. Nó là một mẩu kim loại cứng, chỉ dày chừng một li, không có nhãn mác gì. Bàn phím được gắn vào nó, và nó được gắn vào bảng mạch. Nói cách khác, nó đã được đặt một cách hoàn hảo để chụp lại tất cả những phím bấm mà tôi gõ.

Nó là một con bọ.

Tim tôi nện thình thịch. Ngôi nhà đang chìm trong bóng tối và tĩnh lặng, nhưng đó không phải một thứ bóng tối dễ chịu. Ngoài kia có những đôi mắt, mắt và tai, chúng đang theo dõi tôi. Giám sát tôi. Sự giám sát mà tôi đã phải đối mặt ở trường giờ đang theo tôi về nhà, nhưng lần này, không chỉ có Phòng Giáo dục theo dõi tôi: Cục An ninh Nội địa (DHS) cũng góp mặt vào trò này.

Suýt nữa thì tôi lấy con bọ ra. Rồi tôi hiểu ra rằng ai đặt nó ở đây sẽ biết ngay nếu nó biến mất. Tôi để nó nằm yên đấy. Tôi phát ốm khi phải làm như thế.

Tôi tìm xem họ còn bỏ thêm gì nữa không. Tôi không tìm thấy gì, nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa với việc không còn gì khác? Ai đó đã đột nhập vào phòng tôi và gài thứ này – đã tháo rời laptop của tôi rồi ráp lại. Có rất nhiều cách để nghe trộm một cái máy tính. Tôi không đời nào tìm ra hết được.

Tôi dùng hai ngón trỏ ráp mọi thứ lại. Lần này, khung máy không chỉ đóng khít vào ngay mà cáp điện cũng đâu vào đó. Tôi khởi động lại máy tính và đặt ngón tay lên bàn phím, định cho chạy vài công cụ chẩn đoán để xem nó là thứ gì.

Nhưng tôi không thể làm vậy.

Khốn khiếp, có lẽ phòng tôi cũng bị nghe trộm. Có lẽ lúc này có một cái camera đang theo dõi tôi cũng nên.

Khi về nhà, tôi cảm thấy mình bị hoang tưởng. Nhưng giờ thì tôi sởn hết cả gai ốc rồi. Tôi cảm giác như đang quay trở lại nhà tù, quay trở lại phòng xét hỏi, bị theo dõi bởi các thực thể, những kẻ dùng quyền lực của họ để điều khiển tôi như con rối. Ý nghĩ này thật khiến tôi muốn khóc.

Chỉ một thứ dành cho nó.

Tôi vào phòng tắm, lấy cuộn giấy vệ sinh ra và thay bằng một cuộn mới. May thay nó đã gần hết. Tôi

mở phần còn lại của cuộn giấy và bới trong hộp phụ tùng cho tới khi tìm thấy một phong bì plastic nhỏ đựng đầy đèn LED trắng siêu sáng tôi đã lượm lặt được từ một chiếc đèn xe máy hỏng. Tôi cẩn thận xuyên dây dẫn qua ống bìa, dùng một cái đinh ghim để đục lỗ rồi lấy dây điện xâu chúng thành chuỗi bằng những chiếc kẹp kim loại nhỏ. Tôi xoắn các dây điện vào các dây dẫn cho pin chín vôn và nối vào pin. Giờ tôi đã có một ống đèn LED định hướng siêu sáng, tôi có thể đưa nó lên mắt và nhìn xuyên qua.

Năm ngoái, tôi làm một cái như thế này để đem đến hội chợ khoa học và đã bị tống khỏi hội chợ khi tôi chỉ ra một nửa số phòng học ở trường Chavez có giấu camera. Ngày nay, những chiếc camera nhỏ xíu còn rẻ hơn một bữa tối ở một nhà hàng loại ngon nên chúng xuất hiện khắp nơi. Nhân viên của các cửa hàng lén lút đặt chúng trong phòng thử đồ hay các salon tắm nắng và bán những cảnh phim mà họ quay trộm khách hàng cho những gã bệnh hoạn – cũng có khi họ chỉ tung nó lên mạng. Biết cách biến một cuộn giấy vệ sinh và những thứ trị giá ba đô thành một thiết bị phát hiện camera quả là một điều cực kỳ hữu dụng.

Đây là cách đơn giản nhất để tóm một camera theo dõi. Chúng có ống kính nhỏ, nhưng chúng phản chiếu ánh sáng như quỷ. Cách này hiệu quả nhất trong phòng tối lờ mờ: bạn cứ nhìn chằm chằm qua cái ống, nhẹ nhàng quét ống qua các bức tường và những nơi mà người ta có thể đã đặt một máy camera đến khi nào bạn thấy một tia sáng phản chiếu lóe lên. Nếu ánh sáng phản chiếu vẫn giữ nguyên khi bạn di chuyển, đó là một ống kính.

Không có camera trong phòng tôi – dù sao thì tôi không thể dò ra cái nào. Tất nhiên bọn họ có thể gài những con bọ ghi âm. Hoặc loại camera hiện đại hơn. Hoặc không gì cả. Theo bạn thì tôi có bị hoang tưởng không?

Tôi yêu cái laptop này. Tôi gọi nó là Salmagundi, từ dùng để chỉ bất cứ cái gì được làm từ đồ thay thế.

Một khi bạn đặt tên cho laptop của mình, bạn biết rằng giữa mình và nó có một mối liên hệ sâu sắc. Nhưng giờ thì tôi có cảm giác không bao giờ muốn chạm vào nó nữa. Tôi muốn ném nó khỏi cửa số. Ai mà biết họ đã làm gì với nó. Ai mà biết nó đã bị chỉnh sửa như thế nào để theo dõi tôi?

Tôi cất cái laptop đã đóng vào ngăn kéo và nhìn lên trần nhà. Đã muộn rồi và tôi nên đi ngủ. Mà dù sao thì lúc này tôi cũng chẳng thể nào ngủ được. Tôi bị nghe lén. Tất cả mọi người có thể cũng bị nghe lén. Thế giới đã thay đổi vĩnh viễn.

“Mình sẽ tìm cách trả thù họ,” tôi nói. Đó là một lời thề, tôi biết được vì nghe người ta nói thế, dù tôi chưa bao giờ thề nguyện gì trước đây.

Tôi không thể ngủ được nữa. Vả lại, tôi đã có một ý tưởng.

Đâu đó trong tủ tôi có một chiếc hộp được bọc kín, bên trong là cái Xbox Universal vẫn còn nguyên đai nguyên kiện. Mỗi Xbox đều được bán dưới giá trung bình – Microsoft kiếm tiền phần lớn từ việc bắt các công ty trò chơi trả tiền để mua quyền sản xuất các trò chơi Xbox – nhưng Universal là Xbox đầu tiên mà Microsoft quyết định cho miễn phí hoàn toàn.

Mùa Giáng sinh năm ngoái, trên khắp các góc phố xuất hiện những kẻ thua cuộc thảm hại, ăn mặc như chiến binh trong series trò chơi Halo, ráng hết sức để trao những túi máy trò chơi này cho mọi người thật nhanh. Tôi đồ rằng cách này cũng khá hiệu quả – người ta nói rằng họ đã bán được một số lượng lớn các trò chơi. Lẽ tự nhiên, cũng có những biện pháp đối phó để đảm bảo rằng bạn chỉ chơi trò chơi của những công ty đã mua giấy phép sản xuất từ Microsoft.

Các hacker đã bỏ qua những biện pháp đối phó này. Xbox đã bị bẻ khóa bởi một thằng nhóc ở học viện MIT, người đã viết một cuốn sách bán rất chạy về Xbox, sau đó Xbox 360 hết thời rồi đến Xbox xách tay (nhưng tất cả chúng tôi đều gọi là “Xbox phải vác theo” – nó nặng những hơn một kilôgam!) cũng không tồn tại được bao lâu. Hãng Universal được xem là bất khả xâm phạm. Những đứa nhóc cấp ba phá vỡ nó chính là những hacker dùng hệ điều hành Linux người Brazil. Chúng sống trong một favela – một dạng khu ổ chuột.

Đừng bao giờ coi thường quyết tâm của một đứa trẻ giàu thời gian và nghèo tiền bạc.

Sau khi những đứa trẻ Brazil công bố bản đã bẻ khóa, tất cả bọn tôi đều phát điên vì nó. Chẳng bao lâu sau, có đến hàng tá hệ điều hành thay thế cho Xbox Universal. Chương trình yêu thích của tôi là ParanoidXbox, nhang nhác ParanoidLinux. ParanoidLinux giả định người điều hành nó đang bị tấn công bởi chính phủ (chương trình này dùng cho những người chống đối ở Trung Quốc và Syria), và nó làm mọi việc có thể để giữ bí mật cho các thông tin và tài liệu của bạn. Thậm chí nó còn thêm vào một đống kết nối “giả” để ngụy trang cho bất cứ việc vụng trộm nào mà bạn làm. Vậy nên, mỗi khi bạn nhận được một chữ trong thông điệp mang tính chính trị, ParanoidLinux sẽ vờ như bạn đang lướt web, điền các bảng khảo sát và tán tỉnh trong các phòng chat. Lúc đó, chỉ có một trong số năm trăm chữ mà bạn nhận được mới là thông điệp thực sự, một cái kim chôn trong một đống cỏ khô khổng lồ.

Tôi đã in ra một DVD ParanoidXbox ngay khi chúng mới xuất hiện, nhưng tôi chưa bao giờ mở cái Xbox trong tủ, tìm một ti vi để nối vào và làm những việc khác. Không cần đến crashware của Microsoft ngốn thêm một milimét diện tích làm việc quý giá nào thì phòng tôi cũng đủ chật chội rồi.

Đêm nay, tôi sẽ hy sinh. Mất khoảng hai mươi phút để ra khỏi giường và chạy đi chạy lại. Phần khó

nhất là không có ti vi, nhưng cuối cùng thì tôi nhớ rằng mình có một máy chiếu LCD nhỏ, nó có đầu nối ti vi RCA 6 chuẩn ở phía sau. Tôi nối nó với Xbox và chiếu lên mặt sau cửa ra vào rồi cài đặt ParanoidLinux.

Giờ tôi đã dậy và vận động, còn ParanoidLinux đang tìm các Xbox Universal khác để nói chuyện. Mỗi Xbox Universal đều có thiết bị điều khiển không dây cho nhiều người chơi cùng lúc. Bạn có thể kết nối với hàng xóm của bạn bằng đường dẫn không dây và vào mạng Internet, nếu bạn có liên kết Internet không dây. Tôi tìm thấy ba tín hiệu khác nhau của hàng xóm trong khu vực. Hai trong số đó có Xbox Universal cũng kết nối với Internet. ParanoidXbox chuộng loại cấu hình này: nó có thể đi qua các liên kết Internet của hàng xóm và sử dụng chúng để lên mạng qua mạng game này. Hàng xóm cũng chẳng thiệt thòi gì: họ đã trả tiền thuê bao trọn gói, và vào lúc hai giờ sáng thì họ chẳng làm gì nhiều trên mạng.

Phần hay nhất trong toàn bộ chuyện này là cảm giác mà nó đem lại: mọi thứ nằm trong tầm kiểm soát. Công nghệ của tôi đang làm việc cho tôi, phục vụ tôi, bảo vệ tôi. Nó không theo dõi tôi. Đây là lý do tại sao tôi yêu công nghệ: nếu bạn sử dụng nó đúng cách, nó có thể cho bạn sức mạnh và sự riêng tư.

Lúc này, não tôi đã thực sự vào guồng. Có rất nhiều lý do để chạy ParanoidXbox – lý do hay nhất là ai cũng có thể viết chương trình game cho nó. Đã có sẵn một cổng của MAME dành cho các ứng dụng giả lập game thùng, vậy nên thực tế là bạn có thể chơi bất kỳ trò chơi nào đã từng được viết ra, từ trò Pong cổ lỗ đến các trò viết cho Apple ][+, Colecovision, NES và Dreamcast, vân vân.

Thậm chí còn tuyệt hơn khi mà tất cả những trò chơi hay ho dành cho nhiều người được thiết kế riêng cho ParanoidXbox – những trò chơi theo sở thích miễn phí mà ai cũng có thể chơi. Khi kết hợp tất cả những điều này lại, bạn sẽ có một giả lập miễn phí với đầy đủ các trò chơi miễn phí và có thể giúp bạn truy cập Internet miễn phí.

Và phần thú vị nhất – theo như tôi nghĩ – là ParanoidXbox bị hoang tưởng. Mỗi bit xuất hiện trong không gian mạng đều được đảo tung lên. Bạn có thể nghe trộm nó nếu muốn, nhưng bạn không đời nào phát hiện ra ai đang nói, nói cái gì hay nói với ai. Những trang web, e-mail và tin nhắn trực tuyến ẩn danh. Chính là những thứ tôi cần.

Tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là thuyết phục những người tôi biết cùng sử dụng nó.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.