Chẳng rõ bao lâu, Thái Dũng sực tỉnh lại. Khí đá lạnh ngấm vào cơ thể, chàng mở choàng mắt ra mới hay mình đang nằm co ro trên bàn độc, trên người đắp một chiếc chăn đơn Thổ Cẩm. Nhớ lại chuyện lạ vừa qua, chàng trai vội tung chăn nhỏm dậy, nhìn quanh mới rõ mình vẫn nằm trong Mê Hồn Cung, chẳng thấy bóng dáng Hung Xà Tinh Quân Xà Nữ chúa đâu cả.
Nến cháy lụi gần hết, chỉ còn một, hai thoi góc phòng. Gió yên, hang sâu im lìm, lắng nghe có tiếng sóng ầm ì xa xôi. Không hiểu đêm hay ngày? Cái xác cùng đầu lâu viên tướng Tàu Pắc Hổi còn nằm cuối hang, đồ thờ vung vãi:
– Cô nương nữ chúa đâu rồi?
Chỉ có tiếng vọng âm chàng hắt lại. Ánh nến vật vờ, ngó quanh thấy y phục, hành lý gậy song còn nguyên, chàng vội quơ mặc, hồi tưởng việc truyền lực mê hồn, lòng chưa hết sững sờ, đỏ mặt. Vùng lần quanh định kiếm lối ra, chợt nghe có tiếng khóc tỉ tê đâu đây, bèn lần tới, phát giác tiếng khóc xế cuối cùng chỗ có treo một bức tranh đỏ như máu.
– Ai đó? Ai khóc trong đó?
Miệng hỏi tay định vén bức tranh, bỗng rụt phắt lại, hai con rắn hổ thò mang bành ra, phun phì phì. Tiếng khóc im bặt, rồi có tiếng đàn bà hắt ra.
– Đã thức đó ư? Công tử…
Nhận ngay được giọng Xà Nữ Chúa, Thái Dũng vội ứng tiếng:
– Mỗ… ngu mỗ đây! Cô nương… làm gì trong đó?
Tiếng thở dài hắt ra nghe buồn lạ:
– Mưa gió qua rồi! Giờ trong mình Lê đã mang điện lực kỳ công đến trăm năm, kíp rời biển Đông về đất liền, luyện võ phục thù. Chớ bận đến ta nữa!
Nghe nói, Thái Dũng cả mừng, vừa toan hỏi chợt nghe Xà Nữ Chúa lạnh lùng:
– Về đất liền! Lê là người độc nhất đã biết điều bí ẩn của ta, hãy chôn sâu bí ẩn trong lòng, nếu còn nghĩ đến ta. Hung Sát Tinh quân chuyển nguồn điện công thành thân tàn phế rồi, một con chó ghẻ cũng cắn chết! Còn chút vật thừa nay tặng nốt Lê làm kỷ niệm!
Lời dứt, bức tranh lay động, từ trong bay ra một cuốn sách kẹp thanh đoản kiếm đen xì.
Thái Dũng vừa đỡ lấy, đã nghe giọng nàng đưa ra:
– Uy danh, bản lãnh của Tinh Quân Hắc đều nằm trong đó! Cứ kiếm chỗ thanh vắng mà luyện tập, sức Lê chỉ nửa năm sẽ phóng được gươm đen! Thôi! Khá rời Mê Cung! Địa lôi phục sắp đóng cửa đó!
Thái Dũng vùng hỏi, giọng ngậm ngùi:
– Cô nương… sẽ đi đâu?
– Đừng bận óc! Tình hận đã giải, võ công đã hết, ta tìm lối về âm, còn nán lại cõi đời khốn đốn làm chi?
Thái Dũng vốn có tánh thiện, xúc động khôn cùng, tần ngần khẽ bảo:
– Ân trọng cô nương, kẻ này biết chi đền đáp, xin người cho gặp mặt lần cuối, nếu không…
– Một đêm truyền điện công, Lê đã giải hận tình chung thân cho ta rồi, còn gì nữa! Một đêm mưa gió tình để ngàn đời, vết lưu muôn kiếp, thân ta không còn là tiết phụ! Ôi thôi! Chớ dài dòng!
Thái Dũng đành ngậm ngùi vái ba cái, cúi đầu, xốc hành lý, lui ra.
Vùng nghe tiếng người đàn bà kỳ dị bật than:
– Kỳ nam tử! Hảo trượng phu! Lòng ngay dạ thẳng, giao hợp truyền công, dày xéo xác ta, vẫn một niềm ân kính, tiếc thay! Đời có trượng phu, ta sinh sớm làm chi mấy giáp! Lê công tử! Giờ định đi đâu?
Thái Dũng ngậm ngùi:
– Đời người oan trái, thù kết chung thân, ngu mỗ đi kiếm chuyện công, tìm thù báo oán!
Im mấy khắc, tiếng xà nữ vọng ra:
– Đông Quân núi ác, tài trí trùm đời, thông thạo trăm nghề hạ thủ! Đối đầu địch dữ, nó sẽ dùng khoa tác xạ giết liền, không giỏi nghề súng chết như chơi! Sao không tìm đến Bắc Thần? Vô địch tướng Thần Xạ Đại Sơn Vương miền Thập Vạn Vân Nam oai chấn giang hồ, thiện nghệ trăm môn, bắn nhanh như máy, tắt hàng đàn đom đóm trong nháy mắt! Đời xưa Bắc Thần cũng ôm mối phụ thù, tất xót cho người hiếu! Vĩnh biệt Lê!
Thái Dũng vừa chống gậy ra tới bãi khô lâu, bỗng nghe ầm một tiếng long trời, ngó lại cả vùng hang cùng đã vùi giữa những phiến đá sụp chồng chất.
Bất giác, chàng trai ngửa mặt than dài:
– Thương thay kỳ nữ! Phải tình oan nghiệt, vùi đời giai nhân! Từ nay trong thiên hạ, còn đâu danh lớn Tinh Quân!
Than xong, chống gậy vọt qua bãi đầu lâu, vừa ra khỏi lại nghe ầm tiếng nữa, hang đầu người đã thành đống đá vụn. Bèn cứ noi theo lòng hang đen hút, băng đi loanh quanh, khúc khuỷu, cứ một quãng lại nghe địa lôi nổ sau lưng, ầm ầm liên tiếp phút sau, ra đến cửa Mê Cung, còn đang nhìn định hướng lại nghe ầm ầm lôi phục chuyển theo, tựa địa chấn, chàng lật đật vọt tít lên một ghềnh cao, ngoái lại, cả khu núi đã đổ sụp, lấp hẳn hang Mê! Lúc đó mới kịp nhận ra trời đang lúc bình minh, cả khu Mê Sơn đỏ rực, chim chóc nghe nổ, bay tứ tán. Lạ nhất là không thấy một bóng dáng xà nữ nào quanh đấy.
– Bầy gái rắn đã cùng nữ chúa vùi thây trong ruột núi? Hay đã rời đi trong đêm qua?
Tưởng lại chuyện kỳ ngộ, còn bàng hoàng như trong mộng huyễn liêu trai, chàng họ Lê bèn nhét kỹ sách, kiếm vào mình, lập tức chống gậy, theo lối đá, ngược về hướng Đông.
Lát sau đã đến khu đèo treo, bốn bề quạnh vắng, xác chết ngổn ngang, toàn quân mặc áo đen, Thái Dũng lần đến cửa hang Mê Cung ngoài, thấy cửa hang đã bị đá sụp lấp gần hết, nhân nghĩ tới điện công truyền tối qua, tính thầm:
– Song Ma cùng bọn thuỷ thủ khéo còn mắc kẹt trong hang, chi bằng thử khai thông xem sao!
Bèn tụ chân khí xoè tay phải, đánh một nhát phản phong.
Nào ngờ, tay vừa phát ra bỗng nghe gió thổi ào ào, cả một khu vực đến mấy chục thước vuông rung động, rắc gẫy liền mấy thân cây, những có chưởng dữ từ đâu quạt lại. Lê vội vọt lùi, nghe “ầm” một tiếng tựa núi lở cả mấy phiến đá cửa hang đã nát nhừ, biến thành vôi trắng xoá. Ngạc nhiên, bước lại gần, mới hay sức chưởng nóng dữ đã quật nung vôi, bùng nhẹ một cái, vôi vụn, rơi lả tả, khét lẹt, để lộ ra cửa hang sâu hút tối thui.
Lúc đó mới vở lẽ, nội lực gia tăng thập bội, Thái Dũng vừa toan tiến vào, thình lình, từ trong vụt bay ra mấy luồng gió dữ, tiếp tiếng thét vang âm:
– Quân chó chết nào đem lửa đốt hang, nóng xám mặt mày! Đánh! Đánh!
Dũng giật mình nhảy giạt sang bên, từ trong, vút vút, liền hai hình thù trắng xoá như vôi bay vọt ra như tên bắn. Dũng chưa kịp định thần, hai hình thù đã vọt hai phương vị, nhất tề tung trảo, chưởng đánh liền, hét thé:
– Chó thối! Sao dám thui bà nội!
Chảo, chưởng cực lợi hại, chụp tới, Dũng vội dộng gậy, bốc vọt lên nóc cửa hang như pháo thăng thiên nói lớn:
– Khoan! Ai đó? Sao vội nóng? Mỗ đây!
Cặp hình thù đánh hụt, trông lên bất thần một hình mập hét lên một tiếng nhảy véo một cái dính luôn lên cổ hình cao, tru tréo:
– Cụ trẻ! Tôn sư… trời! Tưởng ma quỷ!
Dũng nghe kêu, dòm kỹ mới hay không ai khác Song Ma cặp đệ tử vợ chồng sam mình mẩy mặt mũi đầy vôi, thoạt coi, không nhận ra nổi?
Gặp lại nhau, mừng rỡ khôn cùng, hỏi ra mới hay trong đêm hôm động Mê Cung, Song Ma Kỳ hình cùng đám thủy thủ đều bị đá sụp vít trong ruột núi, từng khúc một. May nhờ đại pháo tàu Tây chận quân Cờ Đen, phá thủng sườn núi, lão Ma Hình thoát ra được, lúc trận vừa dứt, bèn kiếm cách phá, bới đá sập, đến sáng hôm sau mới cứu được mụ Ma Trảo và hai thuỷ thủ. Cả bọn bèn chia ngả đi tìm Thái Dũng, lật từng xác chết, không thấy, lại nghĩ Hung Sát Xà Tinh Quân còn trong núi mới tìm lối thủng xuống hang, không ngờ vừa loanh quanh, lần ra cửa, bị phản phong, vãi đá bụi vào, tưởng cường địch vào, vọt ra đánh.
– Hoá ra tôn sư! Suốt ngày đêm cụ trẻ đi đâu? Chúng đệ tử lo muốn chết! Lạ nhất cũng chẳng thấy tăm hơi lão Hung Tinh đâu nữa!
Thái Dũng bèn kể chuyện gặp lại Hung Sát nhưng chàng phải dấu hẳn chuyển bí ẩn lạ lùng trong Mê Cung nội, không cho biết chúa Mê Sơn vịnh Bắc Kỳ là nữ nhân.
Đoạn trỏ về phía núi Tây. Chàng khẽ thở dài, ngậm ngùi bảo:
– Lôi phục phát nổ. Tinh Quân đã vùi đời trong động đá! Giờ chúng ta nên kiếm thuyền về đất liền! Ngu mỗ đã được truyền bí pháp!
Song Ma cả mừng, lập tức cùng hai tên thuỷ thủ sống sót kiếm thuyền, rời Mê Sơn. Cũng may thuyền neo bốc kính vẫn còn.
Thay lại cột buồm, về tới đất liền Hòn Gay, Thái Dũng lập tức chia tay Song Ma Kỳ Hình, lên ngựa Huyết Phong đăng chếch sơn lâm đi về miền biên giới Việt – Hoa….
… Tây Bắc biên thuỳ…
Đèo cao dốc vút mờ sương, mấy dãy núi rừng trùng điệp còn ngậm bình minh, một sớm độ hạ trọng. Chim kêu, vượn hú, suối khe róc rách, ánh đỏ khé phương Đông, soi mờ một con đường mòn heo hút chạy vắt qua một vùng hiểm trở sang tận bên kia đất Tàu. Biên giới hoang dã, quạnh quẽ, thình lình có nhiều tiếng vó ngựa khua động rừng già, rồi phía Đông Bắc xế vụt hiện ra một đoàn nhân mã, băng mình phi như gió về nẻo biên thuỳ, đứng sững trên đèo cao, ngay đường mòn giới tuyến, lố nhố đến một trăm quân, toàn mặc quần áo đen.
Hai bóng nhân mã dẫn đầu, gò cương, đảo mắt, chiếu ống nhòm về phía xa xa, chỉ trỏ, bàn luận, hình thù khắc vào nền trời đỏ úa, rắn như đá tạc.
Một già râu thưa quá ngũ tuần, mặt lạnh lẽo chờn vờn tử khí. Một trẻ, gái đẹp, mắt phượng, mày ngài, môi cung, trạc ngoài hai mươi, từ khuôn mặt dáng thân ngùn ngụt toát ra đầy sức sống, cuốn hút đến chết lòng người, nhưng vẫn phảng phất nét có hồn của gái tướng rừng xanh lạnh bướng, coi binh lửa như trò chơi con trẻ! Sau lưng hai người, còn có một tên khách “khổng lồ” cao lớn như hộ pháp, luôn tay vuốt bộ râu quai nón.
Cô gái khoác áo choàng đen, cỡi ngựa vằn, gió sớm thổi tung tà áo, để lộ nền lót bằng gấm tía phủ thoáng dây súng tua tủa đạn quanh sườn.
Chợt người già mặt lạnh hạ ống nhòm, bảo cô gái cô hồn:
– Quỷ cốc kia! Trong có một cây tháp chín tầng, không biết xây từ đời nào, thổ dân vùng biên thuỳ gọi Tháp Cửu Thiên, khẩu truyền hình như toà tháp cổ hoang này là di tích của một ngôi cổ tự, đời Quang Trung Hoàng Đế canh tân ra lệnh tập trung chùa chiền về trấn lỵ, sư trụ trì không theo, lấy cớ chùa ở giữa vùng biên giới không thuộc đất nào. Và biến nơi này thành một cứ địa chống triều đình Tây Sơn, quan trấn vùng Lào Kay, không làm gì nổi. Từ đó, trải mấy triều biến loạn, chiến tranh chỉ còn cây hoang, tháp thành sào huyệt của giặc cướp biên thuỳ, hiện nay quỷ cái chiếm vùng sơn cốc, nơi đầy thú dữ, mấy bề yểm tàng địa lôi, thổ dân đều bạc xa cả đến bọn buôn lậu, sơn tặc thổ phỉ quan binh cũng không bén mảng tới, ai cũng tưởng cốc quỷ không người! Vì quỷ cái ẩn hiện khôn lường, dấu kín hành tung, chú phải mất cả tháng mới biết chỗ nó ở đây!
Cô gái mặt cô hồn lẳng lặng rê viễn kính theo ngón tay người kia trỏ. Dưới tường đèo, rừng núi trùng trùng, tít xa, phía Tây Bắc cực, hiện ra một vùng u cốc ngụt sương, ánh bình minh chiếu vào coi tựa bức màn che gần hết cảnh vật, trông kỳ ảo lạ. U cốc nằm vắt qua biên giới, chạy vào một khu núi đá ngất trời, thuộc ngọn Phản Tây Phàn (Fan Si Pan) chạy chếch về miệt Cha Pa… Khí đá chăng đầy, giữa nền cây xanh núi biếc sương mờ đột khởi một ngọn tháp xam xám đã úa màu thời gian, coi nghiêng nghiêng, câm nín như một dã tượng quái gở đang dòm xuống vùng quỷ cốc đầy ma thiêng nước độc, chốc chốc lại vang âm tiếng thú dữ gầm mồi.
Người già mặt lạnh cười khô:
– Năm ngoái, quỷ cái bị lão Thần Quân cùng Thần Sầu bà đánh lộn hắn từ ngọn Mang Bành Sơn xuống, suýt chết, từ đó về bế cửa luyện công, rèn thuật, đêm nọ, đến Lê gia trang, chặn Hắc Huyết lưỡng quái, cùng môn đồ cướp được gia phả họ Lê đem về quỷ cốc, bao giờ cũng giữ trong mình. Con đường mòn này, gần cửa cốc, thế nào nó cũng phải đi qua! Giờ cháu tính sao? Tiến quân vào cốc hay gia nhập?
Cô gái buông viễn kính, khoác tay trỏ về phía tháp hoang:
– Vùng quỷ cốc biên địa này, biết dụng binh, một tay súng địch nổi trăm quân. Nghe đồn quỷ cái là tay túc trí, nhiều ma thuật, thủ hạ, tất phải bố phòng cẩn mật, đánh vào bất lợi, chưa chắc lấy được bảo vật. Tốt nhất, cứ rải quân mai phục, chờ đợi!
Người già vuốt râu, phất tay một cái lập tức, gã khách hộ pháp vọt ngựa đi. Nháy mắt cả cánh binh đen đã biến vào rừng xanh. Người già mặt lạnh cùng cô gái cỡi ngựa vằn vừa dợm ngoắt ngựa đi, bỗng tên khách hộ pháp từ nẻo biên giới phi ngựa lại, nói nhanh:
– Có hai người đi dưới thung lũng! Dáng khả nghi, không phải thổ dân!
Cả ba lao xuống đèo, vượt lên một ngọn đồi cao chiếu viễn kính về phía Bắc. Quả nhiên, giữa cánh rừng xanh, hiện rõ hai bóng nhân mã đang thả kiệu băng từ nẻo đất Tàu tiến sang đất Việt. Lối mòn quanh co, phút chốc hai bóng nhân mã đã lại gần, vụt thả nước kiệu nhỏ xuyên thung, bắt vào con đường mòn ngang bên quỷ cốc.
Bọn cô gái cỡi ngựa vằn chiếu viễn kính theo dõi, thoắt cái đã thấy hai bóng lạ đứng sững ngọn đèo, ngay chỗ mấy người vừa đứng, cách vùng phục binh ngót trăm bộ.
Hai bóng vừa ghìm cương nhìn về phía quỷ cốc, khuôn mặt nghiêng hiện trong ống kính, người già mặt lạnh đã bật trầm:
– Quỷ Tú Tháp Cửu Thiên! Khà! Ma đưa lối quỷ tìm đúng lối đoạn trường! Đến vừa đúng lúc!
Cô gái lẩm bẩm:
– À! Tiếng đồn không sai, con quỷ đẹp nhất biên thuỳ Tây Bắc! Còn đứa gái đi cạnh, sao coi nét mặt quen quen, hình như…
Ngay lúc đó, trên đèo, thình lình, bóng Quỷ Tú cúi nhìn xuống chân ngựa và rút phắt ra một cây trung liên, bắn lia một tràng ngắn về phía Quỷ cốc. Lập tức, có tiếng súng đáp lại.
Cô gái cỡi ngựa vằn nói nhỏ:
– Quỷ cái biết có phục binh, gọi thủ hạ! Mau nổi hiệu tấn công, một nửa chặn cửa cốc!
Gã khách hộ pháp vọt đi như tên bắn.
Trên đèo, không ai khác Quỷ Tú, Nhuỵ Kiều. Bắn xong loạt súng hiệu, Quỷ Tú vùng thét lớn:
– Ngựa không bịt móng, nội biên thuỳ chỉ có cha con gái thối Cờ Đen! Âm mưu chi, đem quân phục ngoài sơn cốc?
Bên này đồi, hai người vùng đưa mắt nhìn nhau. Cô gái có nét mặt cô hồn chính nữ tặc Bạch Ngân Sơn Long Nữ, cháu gái tướng giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, cùng người chú phó soái Độc Tinh Quân Phi Mã Ác! Cô gái cười khô:
– Quỷ cái gớm lắm! Nhìn thuộc từng dấu chân ngựa! Đứng phơi giữa trận, định nhử người bắn tìm mục tiêu! Mặc ả!
Trên đèo, Quỷ Tú thấy im phăng phắc, lập tức hoành súng, rê một đường cánh cung. Đạn vãi mấy phía, có viên “chíu” trốc đầu chú cháu nữ tặc Cờ Đen.
Ngay lúc đó, về phía quỷ cốc, súng bỗng nổ rền. Trông xuống, đã thấy một đoàn chừng mấy chục bóng người ngựa phóng ra như bay, tẻ thành hai mũi dùi lao kẹp lấy chân đèo.
Nhưng vừa tới cửa cốc, chừng đã nghe súng nổ rền, từng bóng người lộn nhào xuống chân ngựa, Đứng trên đèo, Quỷ Tú múa tít cây súng có cắm cờ đuôi nheo, thét:
– Quân ngốc! Vắt cái đuôi ngoài tầm súng!
Tiếng lảnh vang âm khắp biên địa, Độc Tinh Quân cau mày:
– Nội lực quỷ cái dạo này tăng gấp bội! Thế nào nó cũng qua Tàu!
Quả nhiên, trận đánh kéo dài, quân quỷ cốc không tiến nổi, tiếng súng hướng lên đèo, gần mãi. Quỷ Tú, Nhụy Kiều xuống ngựa, chiếm điểm tựa cầm cự, được hơn một giờ, hết đạn súng lớn phải rút xuống chân đèo. Vừa hay ngựa được một quãng, đã bị kỵ binh Cờ Đen đuổi riết, vãi đạn quanh mình. Quỷ Tú, Nhụy Kiều rút súng lục vừa bắn vừa chạy như giông, bắt vào con đường mòn qua thung xế ngọn đồi. Chú cháu nàng nữ tặc Bạch Ngân Sơn dừng. Ngựa đang phi đại, bất thần nghe tiếng quát rợn người:
– Quỷ Tú! Ta có lời chào! Bốn bề gươm súng, còn định đi đâu?
Quỷ Tú, Nhuỵ Kiều giật thót người, đảo tạt người sang phía trái mắng lớn:
– Quân chó tiểu nhân sao chưa chường mặt? Vô cớ nấp bắn trộm, muốn chi?
– Muốn cuốn gia phả họ Lê! Biết điều đưa đây!
Độc Tinh Quân từ trên vọt xuống. Vừa thấy dạng lão phó soái Phi Mã Ác, Quỷ Tú xẹt ngựa sát Nhụy Kiều, búng kín sang một chiếc hộp nhỏ:
– Lão chó Độc! Để chị cản, em mau thoát sang đất Tàu cho kịp!
Nhụy Kiều dấu luôn chiếc hộp, rạp mình tiến lên mạn Bắc biên thuỳ. Quỷ Tú cũng vọt theo chừng quãng ngắn đã bị Độc Tinh Quân chặn đường, cười lớn:
– Đưa đây! Ta sẽ tha cho!
Sau lưng, quân đen vẫn đuổi miết. Quỷ Tú liếc theo Nhụy Kiều giục người xốc luôn tới, vẫy liền ngọn súng. Nhưng… hết đạn!
Người đàn bà Chúa quỷ cốc hét:
– Chó độc! Có giỏi cùng ta đấu lực! Chịu được ba đường ta sẽ trao bảo vật!
Ngựa vọt lại, vừa tầm đạn, Độc Tinh Quân múa tít cây súng cối, lạnh lùng:
– Cô em quỷ cốc! Tài cao thuật giỏi, lắm mưu, nhiều mẹo, rơi vòng binh phục còn định khích sao? Chính ta mới là kẻ đặt điều kiện! Trao đây!
Đoàng! Một viên đạn “chíu” sát tai, Quỷ Tú quất ngựa lao sốc tới định vừa tầm chưởng, sẽ ra tay.
Nhưng Độc Tinh Quân lại lui ngựa, bắn đùa phát nữa, phía sau, quân đen ập tới. Độc Tinh Quân cười đắc chí:
– Cô em không biết điều, chớ trách ta xử tệ! Bay đâu! Bắn què ngựa cho ta!
Lời vừa dứt, liền mấy phát đạn đã bay lên, trúng chân ngựa. Con vật đổ nhào, Quỷ Tú quăng mình lên một cành cây xế hữu, đúng lúc quân đen kẹp tới, chừng năm, sáu mươi bộ dừng lại, súng chĩa tua tủa.
Đang cơn nguy cấp, bỗng từ nẻo xế Tây, trên trái đồi non, vụt nhô lên một bóng nhân mã, bóng nhân mã ghìm cương, in vào nên trời, sừng sững uy nghi ngựa xám xù bờm sư tử, phất đuôi dài chấm đất, người cỡi ngựa mặc quần áo chàm Thổ, chít khăn nhiễu Tam Giang, chân vận giày Tàu, dây súng trễ sườn, lưng cài gươm Mèo Tộc, trán vuông, mày xếch, miệng rộng tươi mắt sáng như điện, trạc ngót ba mươi, coi uy mãnh lạ thường. Vừa lên tới ngọn đồi người mắt sáng rút viễn kính chiếu xuống thung thấy bọn quân đen vây một thiếu phụ, vùng cau mày, lẩm bẩm:
– Hừ! Mấy năm không về nước, vùng biên vẫn như xưa! Một lũ đàn ông vây bức một người đàn bà hết đạn! Không biết thẹn mặt!
Lời dứt, người lạ lật vải thổ cẩm lót yên, rút phắt một cây trung liên, quát lớn:
– Lũ kia! Ỷ đông hiếp cô không biết xấu! Khôn hồn cút mau! Chớ bức đàn bà!
Độc Tinh Quân cùng đám thủ hạ nghe tiếng sang sảng tựa chuông đồng, vùng nhìn cả lên, chưa kịp cử động thêm, đã nghe súng nổ “tặc tặc”, đạn xé “chiu chíu”, liền cả chục con ngựa ngã nhào, hất tung quân cỡi.
– Biết điều mau đưa hộp sắt trong mình đây! Ta đã thấy quỷ cái trao cô em ban nãy!
Không thèm đáp, Nhụy Kiều nghiến răng tụ kình lực, vọt ngựa tới, múa hai tay phóng ra một đường độc phong quỷ chưởng, chụp xuống như cặp rắn hổ, cực kỳ ác liệt. Rất lạ là độc phong tụ kết đen xì đánh thốc cả vào ngực Long Nữ, nhưng vừa tới đầu ngựa, luồng đen một đường lại cất vút vòng cầu định mổ huyệt gáy, còn một đường hạ xuống đánh thốc xuống bụng Long Nữ, nàng vừa ra một phát phản phong đẩy lui cú mổ của địch, có ý coi thường, thình lình bị chưởng lạ đánh tới, nàng nữ tặc toan tránh ngựa sang bên, chẳng ngờ độc phong ập lại thoáng thấy có lẫn những vật đen li ti lấp lánh vãi theo, cô gái Bạch Ngân Sơn giật mình bật kêu:
– Độc châm quỷ phong!
Cấp thời không tránh kịp, nàng vội vận dụng toàn nội lực, xoè cả hai tay đánh vụt ra một nhát phản kình phong. “Bùng” một phản phong quật vào nhau phát âm tựa sấm nguồn, quái chưởng Nhụy Kiều tan biến, kình phong Long Nữ tràn sang nhanh như điện.
Chỉ nghe “bịch” một tiếng, trông sang, Nhụy Kiều đã bắn tung xuống đất, con ngựa đổ xuống, chết tươi không kịp kêu một tiếng, toàn thân đã biến màu kỳ dị, nửa trắng nửa đen, cái đầu chẻ làm hai còn cắm đầy trâm độc.
Cách sáu, tám bộ, Nhụy Kiều nằm vắt lên trên một bụi dây leo dưới gốc cây lớn, bất động như cái xác không hồn.
Nữ tặc Bạch Ngân Sơn phát cười lảnh sắc như thuỷ tinh vỡ, vọt luôn ngựa vằn tới gốc cây, nghiêng rạp mình, thò tả thủ chộp luôn vào ngực Nhụy Kiều, lôi ra một chiếc hộp sắt. Liếc nhìn qua nữ tặc giắt ngay vào mình, lạnh giọng lẩm bẩm:
– Tại mi dụng tâm dùng quỷ chưởng, rước hoạ vào thân! Thần công dòng họ Đông Quân tài sức mi sao chịu nổi! Chết chớ trách ta!
Cháu gái tướng giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc giật cương dợm ngoắt bỏ đi, bỗng dừng ngang nhíu đôi mày liễu, ngó xuống cô gái quỷ cốc, Nhụy Kiều nằm ngửa, mắt nhắm nghiền, khuôn mặt đẹp lạ thường, má đào đỏ ửng, trong cơn chết thiếp đi, coi nàng giống Thái Dũng như đúc khuôn. Khuy áo nàng bị giật tuột, để lộ nửa ngực trắng ngà, trên làn vải lót, lấp lánh một sợi dây chuyền vàng Tây. Tò mò, Long Nữ nhảy phắt xuống, thò tay lôi sợi dây chuyền ra coi, lòng sực kinh nghi, thấy buộc lủng lẳng một hình trái tim vàng chạm trổ rất tinh vi, có khắc hình một đoá hoa lê.
– Lạ thật! Sao giống sợi dây Thái Dũng đeo? Mặt càng như đúc? Là thế nào?
Càng nghĩ càng nghi hoặc, nữ tặc Bạch Ngân Sơn bèn cúi nghe ngực Nhụy Kiều, thấy vẫn phập phồng, liền đưa tay bắt mạch, kinh mạch hơi loạn lúc đó mới rõ Nhụy Kiều chỉ bị thần công phạm qua, nhờ con ngựa đã cản chưởng đạo nguy hiểm.
Nàng nữ tặc rút trong luôn trong mình ra mấy viên thuốc, bỏ vào miệng cô gái quỷ cốc, đoạn dùng công lực đả thông huyệt đạo. Chỉ nửa phút sau, Nhụy Kiều bỗng thở phào, mở choàng mắt ra, thét:
– Trời! Chết mất! Gái Cờ Đen! Nhục chết mất thôi!
Nữ tặc đứng lên, bỗng nghe tiếng súng nổ rền, thấp thoáng có bóng người ngựa từ nẻo Tây Bắc cuốn tới. Vừa lúc Nhụy Kiều tung mình dậy, nữ tặc Cờ Đen thót luôn lên ngựa vằn, vọt đi như tên bắn.
Nhụy Kiều nổi giận vung tay, rún người chạy theo, chỉ hơn mười bước đã mất dạng ngựa vằn, rập vó câu hắt lại, cùng tiếng nàng nữ tặc Cờ Đen vờn âm lảnh:
– Gia phả họ Lê, muốn lấy lại hãy lên Phi Mã Ác!
Nhụy Kiều dậm chân hét uất, vừa lúc bóng nhân mã từ sau bụi rậm vọt tới trên lưng ngựa xám bờm sư tử, người tuổi trẻ mắt điện, áo chàm Thổ, giày Tàu, nách cắp trung liên, hình dung tư thế thập phần uy mãnh, dập dờn theo nhịp ngựa phi, vừa nhác bóng Nhụy Kiều, bỗng thúc mạnh gót chân, đảo vọt thẳng lại nhanh như cơn lốc.
Nhụy Kiều giật mình, lùi phắt lại, còn đang thắc mắc hồi hộp chưa rõ bạn thù, bất thần nghe tiếng gọi vút đưa:
– Kiều em! Sao lại đứng đây? Kìa sao ngựa…
Trông ra, mới kịp thấy bóng Quỷ Tú ngồi sau lưng người lạ, đưa bàn tay ra.
– Lên mau! Quân chó đen sắp tới!
Ngựa xám xẹt lại, Nhụy Kiều nắm lấy tay Quỷ Tú, cất mình lên, vụt cái đã ngồi sau chúa quỷ cốc. Ngựa xám lao đi, lẹ như một cơn lốc cuốn người, thoắt đã biến dạng vào rừng rậm, tít phía Nam. Nửa phút sau, lão phó soái Phi Mã Ác dẫn bọn Thiên Lôi Đả Cờ Đen chạy tới, chỉ còn thấy xác con ngựa chết thiêu nằm trên mặt cỏ. Viên phó soái giặc đen gò phắt cương, nhìn dấu ngựa cười khà:
– Con vật bị Lưỡng Nghi Thần Công! Soái cô Long Nữ đã hạ gái Quỷ cốc, đoạt báu vật rồi! Về Đông thôi!
Cả cánh quân đen chạy theo dấu ngựa không đóng móng in nát cỏ rừng.
Lúc đó, con ngựa xám bờm sư tử đã phủ xuống cánh rừng Nam hơn dặm.
– Lũ giặc mặc quần áo đen có thù chi quyết đuổi nhị cô nương?
Quỷ Tú chép miệng:
– Không thù oán chi, nhưng bọn chúng mai phục cướp… một món gia bảo! Tiên sinh chắc không lạ, lũ đó là một lũ giặc trên Phi Mã Ác, tên già chính là em ruột con rể Lưu Vĩnh Phúc!
Người lạ mỉm cười:
– À! Giặc Cờ Đen kế truyền họ Lưu. May cô nương chưa gặp Đông Quân!
Quỷ Tú, Nhụy Kiều cùng bật hỏi:
– Tiên sinh biết lão?
Người lạ điềm nhiên:
– Võ lâm thiên hạ ai không biết tiếng Đông Quân độc? Một trong võ lâm tứ trụ hiện nay. Giờ ta đã ra khỏi tầm súng, nhị cô nương cần về đâu?
Đang mải suy nghĩ về người lạ, Quỷ Tú buột miệng:
– Về Quỷ cốc lấy quân!
Vừa nghe câu đó, người lạ vội quay lại nhìn người đàn bà mình vừa cứu, hơi nhíu lông mày chút, có dáng lạnh lùng:
– À, ra Quỷ Tú! Tiếng đồn không sai!
Đoạn lại thản nhiên tế ngựa như bay. Ngồi yên mươi khắc, chừng không chịu nổi thắc mắc, bỗng người thiếu phụ vùng hỏi:
– Tiên sinh… hình như từ miền Vân Nam mới sang, chắc có biết vùng “Mười vạn núi”?
Người lạ gật đầu, ngựa xám vừa từ trên một trái đồi phóng xuống, bất thình lình, người thiếu phụ Quỷ cốc ngồi sau lưng, vụt đưa tả thủ thọc mạnh ngón tay trỏ vào sườn người lạ, tay phải vươn ra bóp luôn lấy mạch môn nơi cổ tay cầm súng, quát trầm:
– Ngồi im! Cử động, gái này sẽ điểm vào tử huyệt! Phải chủ soái Mười vạn núi? Nói mau!
Bất ngờ bị điểm luôn mấy huyệt, người lạ cứng đờ, không nhúc nhích, lên tiếng hỏi:
– Cô nương hỏi để làm gì? Không quen, giữa đường cứu người ngộ nạn chưa đủ sao? Lại đem oán báo ơn, hạ độc thủ?
Quỷ Tú cười khanh khách:
– Đoán không lầm, chủ vạn núi có mang bảo vật, mau đưa gái này! Đừng để phải xuống tay!
Người lạ khô lời:
– Tiếng đồn gái quỷ cốc mặt đẹp như tiên, lòng hơn quỷ sứ, giảo quyệt hồ ly, quả không ngoa!
– Tiên hạ thủ vi cường. Nhưng nếu chúa vạn núi oai chấn võ lâm, khi nào lại mắc lừa gái quỷ?
Giọng nói đều đều, lúc đó ngựa leo gần tới chân đồi, bất thần người lạ hét lên một tiếng như sấm nổ, đánh vụt hai tay về phía sau. Chỉ thấy loáng một cái như chớp giật, toàn thân người thiếu phụ cốc quỷ đã bắn vút lên cao, qua đầu ngựa lao xuống phía dưới như tên bắn.
Nhụy Kiều ngồi sau, chỉ còn nước ngây người kinh ngạc, giương mắt ngó thân hình Quỷ Tú bị quăng bổng xuống, xiêm y bay phất phới như bươm bướm. Tiếp liền tiếng người lạ cười ngất, Quỷ Tú vốn tay bản lĩnh bị thế túm ném quá nhanh, vừa giật thót mình một cái, thân hình đã bắn tung đi, thiếu phụ cốc quỷ trong cơn thất thần, vùng tự vận nội lực, vung hai tay đánh mạnh về phía trước, kìm hãm sức bắn đồng thời hai chân hất vút lên cao. Lập tức, thân hình thiếu phụ quay tít liền mấy vòng tựa chong chóng và theo đà rơi xuống chân đồi, ngay xế lối mòn, hai bàn chân hạ thẳng coi rất đẹp.
Nhưng… rập! ngựa xám cũng vừa lao xuống, vừa vặn lúc người đàn bà hạ chân lơ lửng, còn cách đất hơn thước, người lạ đã đứng vụt lên lưng ngựa, đưa tay phăng lấy ngang hông Quỷ Tú, bóp nhẹ một cái. Con ngựa còn trớn lao đi mấy thước mới dừng, người lạ đặt phịch thiếu phụ xuống đất, nhấc luôn cả Nhụy Kiều đặt xuống theo.
Cả hai nàng đều bị điểm trúng huyệt, cứng đờ như tượng gỗ.
Người lạ cười khanh khách:
– Mẹo quỷ có chước thần, từ nay khá cẩn trọng, may gặp mỗ lâu ngày về nước, rất ghét sát sinh, nếu không đã thành quỷ không đầu rồi đó! Mau về nhà luyện lại, khách võ lâm ngồi bên kẻ lạ bao giờ lại không bế huyệt phòng hờ!
Ngựa vọt đi. Hai nàng trợn mắt nhìn theo. Người lạ phất tay, từ giã. Bỗng thoáng nhẹ gió mơn, cả hai rùng mình một cái, chân tay cử động như thường.
Quỷ Tú chạy vụt theo.
Ngựa xám bay vào thung lũng, mang người lạ biến dạng giữa ngàn cây.
Người thiếu phụ quỷ cốc lẩm bẩm:
– Áo Chàm Thổ, gươm Mèo, giày Tàu, ngựa xám… Đúng “hắn” rồi! Không sai! Biên thuỳ Đông Dương phen này lại nổi sóng! Biết đâu hắn không về nước vì “vật đó”!
… Ngay sau lúc cướp được hộp gia phả họ Lê, nàng nữ tặc Cờ Đen mải miết phi nước đại về phía Đông.
Bảo vật lấy được rồi, tốt nhất cứ ung dung về Cha Pa chờ đợi thúc phụ sẽ chặn đường bọn chúng. Về Cha Pa, biết đâu không tìm được dấu vết “chàng”.
Chàng, Thái Dũng, người tuổi trẻ họ Lê tình cờ gặp gỡ tại miền Tây Côn Lĩnh. Và từ đó, trong những ngày xông pha rừng thẳm, đại dương, không lúc nào nữ tặc không thấy hình ảnh “chàng tuổi trẻ oan gia” lởn vởn trong đầu óc, hình ảnh người trai điển hiền hậu buồn rầu nghiêm chỉnh với biệt danh “Trại Phan An” tô bằng những nét sáng ngời… và u ám như vòm trời lập thu.
– Oan gia!
Cô gái nghẹn họng quất ngựa vằn chạy như bay cố xua đuổi niềm đau ngày càng lan rộng trong lòng. Từ đêm được biết Lê Gia Trang bị Phi Mã Ác tấn công đốt phá sau vụ thảm sát, cha chú mình vẫn cố sức tìm bắt giết Thái Dũng và chiếm lấy gia phả họ Lê, nàng hiểu rõ hai nhà đã kết chặt oán thù chẳng đội trời chung.
Nữ tặc vừa tới cuối thung, đã thấy lỗ chỗ bóng kỵ binh nhà nước dàn dọc trên một dãy đồi kéo xuống, trên một ghềnh đá, lão tướng De Monstre đứng sững dưới bóng soái kỳ, chiếu viễn kính, nói lớn:
– Nữ tặc Cờ Đen! Mau xuống ngựa chịu trói! Bản chức đợi đã lâu rồi!
Cô gái rừng xanh, ngoắt luôn ngựa, lộn về phía Tây.
Nhưng tới một dãy núi đá, bỗng lại nghe tiếng súng nổ vang rền. Cô gái dạt vào góc núi, dán mắt quan sát. Chỗ đó núi chạy vòng, chỉ còn ngả súng nổ có đường mòn.
– Quái! Quân nào chạm súng?
Cô gái nhíu mày, rút phắt một trái khói hiệu, bắn lên trời. Hiệu vừa lên, chợt thấy trước mặt một vệt khói xám vút lên thinh không.
Không lưỡng lự, cô gái giục ngựa lao luôn về phía đó. Bỗng nghe đạn vãi xiên ngang, rồi A Thiên khách hộ pháp cùng hơn hai mươi tên giặc Cờ Đen phóng ra.
– Soái cô! Mau lộn lại! Phía đó đầy quan binh, quân ta ngộ chiến, phó soái gia đoạn hậu!
Long Nữ trỏ về hướng Đông:
– Tây Quỷ đổ tới! Rút mau!
Đoạn cùng bọn A Thiên chạy về phía hẻm cũ. Cách chừng vài chục bộ đã thấy tướng Tây đốc binh tràn lại. Sau lưng Độc Tinh Quân cũng vừa kéo ra. Hai bên bắn nhầu. Chú cháu tướng Cờ Đen cựa tử rút quân vào hẻm, chết quá ba mươi tên. Quan binh mấy phía ập lại, Long Nữ vừa bắn vừa rút qua hẻm, chẳng ngờ vừa thoát ra khỏi mười thước lại thấy một cánh quan binh từ phía xế Nam hiện ra vừa kẹp lại, chỉ còn cách hơn trăm bộ.
Trước sau tả hữu đều thụ địch, Long Nữ nhất thời dẫu tay gái thao lược khét danh biên thuỳ cũng phải bối rối chưa biết tính sao. Bỗng thấy Độc Tinh Quân lao tới:
– Vòng vây đang khép lại, quân ta chỉ còn non bảy mươi tay súng, tình thế hiểm nghèo, hướng Nam định còn cách khá xa, cháu mau thoát ra ngả đó! Để chú cùng A Thiên chặn chúng!
Súng rền, đạn vãi như mưa rào, Độc Tinh Quân cắp súng dẫn quân phóng dọc thung, bắn quan binh, che cho Long Nữ. Cô gái nhờ đó thoát ra khỏi chiến trường, trông lại Độc Tinh Quân cùng thủ hạ đã lẩn vào giữa mấy cánh quan binh, đang đánh giáp lá cà.
Nữ tặc đã toan lộn lại, nhưng thấy liều mạng vô ích bèn rạp mình ra roi chạy miết.
Nãy giờ, Cung Đình Giáo vẫn đứng ngựa trên gò cao, theo dõi cuộc chiến, chợt thấy bóng gái Cờ Đen rút chạy, lập tức bay ngựa tới chỗ viên giám binh, dẫn binh cả cánh quân trợ chiến đảo vòng sau trận, chia hai ngả kẹp theo.
Cô gái Cờ Đen chạy chừng mấy dặm, kiếm lối đi về nẻo Cha Pa. Đến một vùng sơn kỳ thuỷ tú, cô gái hạ nước phi, thấy trước mặt một con thác đổ ào ào bèn tiến ngựa tới, nào ngờ vừa tới gần ngẩng lên sực thấy một cánh quân binh đứng lù lù ngay gần chân, chĩa súng tua tủa. Viên giám binh đứng trước hàng quân, cất giọng ồm ồm:
– Gái Cờ Đen! Mau xuống ngựa! Bản chức muốn hỏi vài điều!
Vừa cầm súng, nàng nữ tặc liếc quanh, tìm kế thoát:
– Vùng núi này thuộc dãy Tây Phàn cách Cha Pa còn chừng 20 cây. Vậy ngọn thác kia chắc là Thác Bạc Đầu. Thổ dân thường nhắc tới, nếu thoát qua thác, sẽ vào được miền đất Thổ, Mèo tự trị, hiểm cứ, là thoát!
Bèn cười khanh khách:
– À! Tưởng ai hoá Tây Bàn! Ngày nọ bị ta bắt sống giữa trận như Henri Rivière bị Bá Dương cận tướng ông ngoại ta bắt trên lưng ngựa, không xấu hổ sao, còn lớn lối! Khà khà! Đợi gì không tước súng!
Viên giám binh hét lớn:
– Quân đâu! Lại lấy súng! Trung đội!
Cả hàng đầu tiến lên. Nào ngờ vừa đến, còn cách chừng 50 bộ, thình lình lực tiếng cười Long Nữ bốc lên, phát kình lực, chói tai, cả toán người ngựa như bị dùi đâm, lồng lộn chạy loạn, như điên.
Lúc đó, Cung Đình Giáo đứng cạnh giám binh vùng quát:
– Vây chặt lấy nữ tặc! Kẻ đạn chung quanh, bắn què chân ngựa!
Dứt lời, Cung múa súng giục ngựa lên, cùng giám binh ùa cả lại, nổ súng. Nhưng bị lính trước cản mặt, Long Nữ lợi dụng lúc hỗn loạn vọt luôn ngựa chếch qua chân thác, nơi có con suối vòng thúng. Súng nổ đì đẹt, quân hò inh ỏi, náo động sơn lâm. Tiếng động dưới rừng hắt lên cao vọng đến tai một khách lâm tuyền trên ngọn Thác Bạc Đầu. Trên đó, có một cái hang rất kín, dưới đỉnh thác, cửa hướng Đông, có nước trên thạch bàn đổ xuống thành một cái màn trắng che khuất không ai để ý tới. Khách lâm tuyền đang ngồi xếp chân, nhập định luyện công, kiếm khí tít trong hang, ngoài cửa hang lố nhố mấy bóng người ngồi, đứng.
Nhưng ngó kỹ chỉ là hình nhân mộc, các huyệt đạo đều có khoanh chấm đen. Ngay trước mặt khách lâm tuyền, đặt một pho sách mở rộng, đầy hình vẽ, cạnh sách đặt một thanh kiếm đen xì. Khách lâm tuyền ngồi trong xó tối, không rõ mặt, chỉ thấy hai con mắt đỏ rực, long lanh. Bỗng từ đỉnh thiên linh cái khách xông lên một luồng khói đen rớt vòng xuống miệng hang, càng lúc càng nhiều. Hai tay khách đặt ngửa trên đầu gối, bỗng nhiên đỏ rực như sắp bốc cháy, luồng khói đen chợt tắt, khách lâm tuyền hét lên một tiếng, hai tay chụp đốc kiếm, quăng vụt ra ngoài cửa hang.
Chỉ thấy nháng một đạo hắc quang, vút ra đảo vòng cầu nghe xoẹt hai tiếng nhẹ, ngoài cửa, hai cái đầu mộc nhân đã rụng lìa quay lóc. Tay khách đã cầm gọn thanh kiếm đen. Khách cười âm âm, vung tay, bất ngờ đứng phắt lại, nghiêng tai.
Từ dưới rừng, tiếng súng vừa nổ vang rền, ngân vọng hốc đá, át cả tiếng nước đổ.
– À, bọn nào bắn nhau dưới thác!
Buông lời, khách đứng phắt lên, tiến ra cửa hang. Ánh sáng chan hoà soi rõ khuôn mặt điển trai khác thường Trại Phan An Lê Thái Dũng.
Chỉ một thời gian ngắn, mặt chàng trai đã rắn như đá, mắt như điện, chứng tỏ nội lực phi thường. Chàng vọt ra ngọn thác, giữa lúc Long Nữ Bạch Ngân Sơn, phá chạy. Vừa nhác qua cảnh tượng, chàng đã hiểu ngay, vùng kêu khẽ:
– Kìa Thiên Kiều! Đơn thân sa vòng binh phục, sắp bị lính nhà nước bắt còn đâu! Nhà nước vẫn treo giải đầu nàng cả bạc xoè, phen này nguy mất!
Tự nhiên, chàng thấy lo cho “người bạn gái con kẻ đại thù”, lộn luôn vào lấy võ khí. Hai tay súng vọt ra phục sau mỏm đá bên ngọn thác, vừa toan bắn xuống, bỗng ngay lúc đó, tiếng liên thanh nổ rền “tặc tặc” một luồng đạn đen đã vẫy trước quan binh, từng loạt ngựa gẫy chân, nhào tốt. Quan binh náo động, dừng ngựa dáo dác, viên giám binh chiếu ống nhòm tứ phía, dừng nẻo Tây Bắc.
Tít xa, trên đèo, đứng sững một bóng nhân mã, ánh nắng chiếu viền sáng rực, coi tựa bóng thiên thần cỡi ngựa trên mây. Hình thể khắc vào nền trời uy mãnh, bóng kỵ sĩ cắp trung liên bắn xuống không ai khác người khách biên đình áo chàm Thổ đã cứu Quỷ Tú, Nhụy Kiều khỏi tay quân Cờ Đen.
Người lạ có ý nương tay, chỉ bắn gẫy chân ngựa, ngó xuống vùng thác lẩm bẩm:
– Gái nào đây xem chừng tay quen trận mạc lắm! Lạ thật, hôm nay về nước, toàn gặp đàn bà bị vây đánh. Mấy năm xa nước, chẳng lẽ giờ biên thuỳ rừng rú, giặc cái như rươi!
Đạn đạo vẫn kẻ đều, cả cánh quân nhốn nháo. Kiếm đường men tránh đuổi, nàng nữ tặc Cờ Đen nhờ thế hay ngựa vằn xế băng khu thác, chạy về nẻo cực Tây, nơi có một lối mòn thổ dân xuyên qua một quèn núi thấp.
Nào ngờ, vừa tới nơi, cô gái giật mình chạy xế ngang, vì cánh quan binh vụt hiện ra, đông như kiến vừa tới cửa quèn đã dạt theo hình cung giương khéo lại kín như bưng, dưới cây cờ soái, lão tướng De Monstre trỏ kiếm Tây, quát lớn tiếng Quảng Đông làu như cháo:
– “Rồng Cái”! Phen này có chạy lên trời không thoát! Chú ả đã bị bắt sống rồi, còn đợi gì không xuống ngựa chịu trói!
Long Nữ nghiến răng, đảo ngựa tìm lối thoát.Trên đèo, người áo chàm vừa rê ngọn súng, bắn được mấy phát, bỗng thấy bốn bề, quan binh ào tới như kiến vỡ tổ, phía trước Tây Quỷ, phía sau Tây Bàn, phải Cung Đình Giáo, trái Cung Đình Quyền. Loáng mắt cả bốn phía đã ập cả lại, Long Nữ thét dữ, bắn luôn hai cối đạn, chết 12 tên lính thì quan binh đã sấn tới như ném sát ngựa vằn. Trên đèo xa, người lạ lắc đầu, chúc ngọn súng, nhún vai. Trên ngọn thác, Thái Dũng lắc đầu, bối rối. Dưới thung, tình thế tuyệt vọng, Long Nữ còn nổi xung, tuốt gươm chém bay cả chục đầu nữa, người ngựa, đều bị thương, còn đang hăng máu, liều mạng, bỗng nghe tiếng cận tướng A Thiên trên một ngọn đồi xa tít vọng lại:
– Soái cô! Quả bất địch chúng, phó soái sa cơ, soái cô chớ liều mạng uổng! A Thiên về ngay cấp báo soái gia rửa thù!
Cô gái vừa dừng tay, bất ngờ bị Cung Đình Giáo vọt lại, sau lưng chém xả một nhát vào tay gươm. Nghe gió, cô gái vùng đảo lại, lưỡi gươm Cung phạt trúng nàng, trượt xuống. Cô gái thấy nhói bắp đùi bên phải, máu tuôn xối, nghiến răng, chém lia gươm. Nhưng cả chục lính lực lưỡng đã liều nhào lại vồ, hất tung được, lại lớp khác tới. Từ xa viên tuần phủ nhè lúc nàng giơ cao tay gươm, rút súng bắn hai phát trúng cườm tay. Cô gái rời tay súng, Cung Đình Giáo ập lại, chém đứt gươm, tay trái thọc luôn vào yếu huyệt. Bị nhát điểm bất ngờ, nàng rủn cả người, cả hai cha con họ Cung cùng sấn lại tung dây trói nghiến. Nội lực đã tiêu, dây gân cọp quấn như bó giò, nàng nữ tặc lừng danh vô địch tướng biên thuỳ đành thúc thủ, ngồi im, trợn mắt phượng nhìn địch.
Viên giám binh tiến lại, còng luôn hai tay, hô lớn:
– Con Rồng cái này dữ lắm! Xích cả chân lại! Dư đảng nó còn trên núi, vây bắt mau!
Mấy đơn vị phía ngoài lập tức vắt lên đèo. Cung Đình Giáo cười đắc chí:
– Bị điểm huyệt, rồng cái tài mấy cũng vô dụng! Đại tá yên tâm!
Nhưng viên giám binh chừng sợ bóng sợ gió, vẫn cứ hô lính đem xích sắt buộc cả hai chân, vòng qua bụng ngựa. Đứng trên đèo, người lạ chiếu viễn kính, bất giác cau mày giận dữ:
– Thì ra nữ tặc Phi Mã Ác, con gái Đông Quân! Lũ lính kia thật hèn nhát, bắt chém một người con gái, còng trói như bó giò còn sợ xiềng cả chân người ngựa! Hừ! Đã thế, ta sẽ cho chúng biết tay!
Dứt lời, người lạ biến luôn ngựa vào rừng già, không buồn để tới đám lính kỵ đang ào lại.
Dưới thung, lão tướng Tây đã dẫn bọn Độc Tinh Quân đến chỗ Long Nữ, cười bảo:
– Bữa nay bắt được chú cháu ngươi, mới rửa được hận ngày nào cho quan giám binh! Bản chức có lời khen tài giặc họ Võ! Thôi! Dẫn chúng về bản doanh!
Cả bọn bị bắt đến hai mươi người, trong đó có cả mấy viên đầu mục. Long Nữ nghe lời tướng Tây, vùng cười gằn.