Ở giữa hai tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Bắc, phần lưu vực “Tam hiệp” của Trường Giang dài bảy trăm dặm, là hiểm địa của tàu thuyền.
Tại nơi đứng đầu Tam hiệp, Địch Đường hiệp, có một con thuyền no gió, xuôi dòng chảy xuống, khi chạy qua bỗng dựng lên một cây huyết kỳ đỏ rực, tiếp đó lại kéo lên một lá cờ trắng nho nhỏ.
Nước sông tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, trên một đỉnh núi có người giương cao một ngọn cờ màu đen thêu rồng vàng, lay động trong gió mấy lượt, tin tức này lập tức truyền từ núi này sang núi khác, từ khe này qua khe khác, tới tận đến Địch Đường hiệp.
Tại Địch Đường hiệp có một sơn trại nằm vắt qua qua mấy ngọn núi, kéo dài tận hơn mười dặm, một thớt ngựa đang phi nước đại, người trên yên cơ hồ nép sát vào lưng ngựa, tạo thành một đường thẳng, tay cầm một ngọn cờ đen lớn thêu rồng vàng, lao vào trong sơn trại, vó ngựa làm bắn trung lên từng đợt bụi vàng.
Bụi đất còn chưa lắng xuống, người đó đã ghìm cương nhảy xuống đất, hai gã đại hán nhanh như tên bắn, lao tới nghênh tiếp, cùng kỵ sĩ ghé tai trao đổi mấy câu, trên mặt hai người đều lộ vẻ vui mừng, quay mình chạy vào trong trại. Đại hán mang cờ lúc này mới bước tới chỗ thùng gỗ đựng nước, múc một gáo dội lên mặt mình, giảm bớt hơi nóng hừng hực trên người sau một đoạn đường phi gấp.
Hai gã đại hán lao đi vội vã, vượt qua mấy trạm gác, đến chỗ một khu trại uy nghiêm dựng bằng gỗ khối đen xì như sắt thì dừng lại. Một đại hán cao gầy tinh hãn bước ra, hai đại hán kia ghé lại gần, nói nhỏ mấy tiếng, trên mặt đại hán cao gầy lập tức lộ vẻ mừng rỡ, ánh mắt nhìn hai người vẻ khen ngợi, vỗ vỗ mạnh vai họ, đoạn quay người đi vào trong.
Hắn không biết đã qua bao nhiêu cánh cửa, bao nhiêu hành lang, bao nhiêu lối rẽ, chợt dừng lại trước một cánh cửa đen, cẩn thận rón rén, cung cung kính kính tới gần. Một văn sĩ mình mặc áo trắng, tay phe phẩy quạt, thần sắc lạnh lùng bước ra.
Người bộ dạng cao gầy kia cũng ghé tới nói nhỏ mấy câu, trên mặt văn sĩ lập tức lộ vẻ không thể tin được, bộ dang ung dung bình đạm cũng vụt bay biến, lại truy hỏi mấy câu, trầm tư một thoáng rồi phất tay ra hiệu cho hán tử kia rời đi nhưng trên mặt đã không dấu nổi vẻ cuồng hỉ.
Văn sĩ đó lại trầm ngâm một chút rồi đóng gập quạt lại, thong thả bước vào sau cửa. Đi qua cửa thì tới một đại điện vô cùng rộng rãi, thật giống như bình nguyên, trong đại điện chẳng hề có bài trí gì, ở đằng xa là một chiếc bàn đá dài hơn ba mươi trượng, ở cuối bàn chỉ có một cái ghế, phía sau ghế có một tấm bình phong.
Trên bình phong vẽ hình một con rồng vàng đang muốn bay lên tận chín tầng trời, nhe nanh múa vuốt.
Đại điện này cực kỳ to lớn, không có cửa cũng chẳng có lối rẽ, lại càng không có trần vòm, ánh mặt trời từ trên không trực tiếp chiếu rọi xuống dưới, không có thứ gì có thể ở trên đại điện này, ngoài mặt trời, mặt trăng, sao, mây, thỉnh thoảng là nước mưa và chim chóc.
Khi văn sĩ kia bước vào, bước chân do không kiềm nén nổi vui mừng mà hơi nhanh hơn một chút. Do đại điện quá rộng lớn nên chiếc bài dài kia cũng không khiến người ta cảm thấy là quá dài.
Văn sĩ lại biết khi anh hào thiên hạ tới đây tụ họp, tất cả đều phải đứng, chỉ có một người duy nhất ngồi ở đầu kia chiếc bàn là có tư cách ngồi xuống chiếc ghế duy nhất đó, mà lại còn là ngồi nghe những người khác báo cáo, điều này đối với những người thành thực báo cáo kia mà nói, đã là một vinh dự mà họ tha thiết mơ tưởng rồi.
Nhưng văn sĩ thật sự không cách nào áp chế sự hưng phấn trong lòng, ông ta bước tới gần thêm một bước, vẻ mừng rỡ trên mặt lại tăng thêm một phần. Ông ta đang vội đi, bỗng nghe một giọng nói vang lên, đến từ trên đầu. Thanh âm này ông ta biết rõ, là người ở sau bình phong nói:
– Có chuyện gì?
Văn sĩ nghe mà chợt trong lòng khẽ run, vội nói:
– Bẩm báo Thiên vương, có chuyện mừng muốn báo.
Văn sĩ đó chính là Nhu Thủy thần quân Ung Hi Vũ, ông ta là một trong hai viên đại tướng dưới tay Chu đại thiên vương, thanh âm đó lại lạnh lùng nói:
– Ngươi vì một tin tức mà khi bước đi đã sơ suất quá mức. Trong năm mươi hai bước ngươi đi tới đây, có ít nhất bốn mươi bảy lần có thể cho người ta một đòn đắc thủ, thực sự là sơ suất đến cực độ!
Ung Hi Vũ nghe vậy không khỏi toát mồ hôi lạnh, hoảng sợ không thôi, giọng nói đó mới hỏi:
– Là chuyện gì? Tới gần bẩm báo.
Lúc này có một lão nhân tráng kiện từ sau bình phong bước ra, thân mặc trường bào màu xám, tay chắp sau lưng, chính là Chu Thuận Thủy. Ung Hi Vũ cuống quýt bước lên một bước, chắp tay vái xuống.
– Khấu kiến Thiên vương.
Chu Thuận Thủy phất tay:
– Nói đi.
Ung Hi Vũ lập tức nói:
– Lý Trầm Chu chết rồi.
Chu Thuận Thủy ngẩng phắt đầu lên, hai mắt như điện chớp, khiến cho Ung Hi Vũ giật mình chấn động. Ánh mắt Chu Thuận Thủy đảo nhanh qua một vòng, hồi lâu sau mới chậm rãi hỏi:
– Tin tức có chính xác không?
Ung Hi Vũ cúi đầu nói:
– Xác thực.
Chu Thuận Thủy thần sắc không đổi nhưng trong đáy mắt cuối cùng cũng lóe lên một tia mừng rỡ. Lão từ từ đứng dậy, tuy thân hình không quá cao lớn nhưng vô cùng tráng kiện, lão vừa đứng lên, Ung Hi Vũ liền lập tức lùi sang một bên.
Chu Thuận Thủy đứng lên, miệng lẩm bẩm không thành tiếng, đi đi lại lại. Ung Hi Vũ biết Chu đại thiên vương khi gặp chuyện thường hay đi lại trầm tư, càng không dám quấy nhiễu. Chu Thuận Thủy đi một vòng rồi liền vào sau trong bình phong.
Nhưng khi lão từ bên kia bình phong bước ra thì đã có quyết định. Lão ra lệnh ngắn gọn:
– Liếu Ngũ tất đến đầu hàng, nhưng kỳ thực là giả bộ. Lệnh cho ba mươi sáu phân đà, bảy mươi hai thủy đạo giả ý nhận hàng, chuẩn bị toàn diện chiến đấu.
…………….
Khi tin tức truyền tới người nhà họ Mặc, con cháu Mặc gia đang theo đại tướng Lưu Chú cùng hội binh tại Thuận Xương quyết chiến. Đâu đâu cũng là con cháu họ Mặc đang lau kiếm mài đao, ánh đao phản chiếu lên mặt người họ Mặc lấp lánh hàn quang.
Mặc Dạ Vũ nghe xong tin tức chí nói một câu:
– Phái mười tinh nhuệ tới phúng viếng, nếu chưa chết, chém thêm một đao vào linh cữu, nếu chết rồi, giết hết những người bên cạnh quan tài hắn.
Đại đệ tử Mặc gia Mặc Tối không hề lên tiếng nhưng Mặc Dạ Vũ giống như đã nhìn ra điều trong lòng hắn muốn hỏi.
– Nếu Lý Trầm Chu chưa chết, tất đang chờ chúng ta tới, chúng ta không thể không tới. Nếu Lý Trầm Chu chết rồi, thủ hạ hắn tất không kiềm chế được, sẽ tấn công chúng ta, chúng ta cũng không thể không tới.
Mặc Dạ Vũ nói xong, bước ra dưới ánh trăng sáng vằng vặc, ngẩng đầu nhắm mắt trầm tư. Bóng ông ta đổ dài trên đất, áo choàng bằng lụa bạc như một cánh chim lớn, phủ lên người ông ta, từ phía sau nhìn lại, hai hàng mi dài đến gần mép râu, vầng trán phản chiếu ánh trăng tỏa ra một màu trắng bạc.
Mặc Tối lặng lẽ lùi ra, không nói thêm một tiếng nào.
Hắn biết khi Mặc Dạ Vũ gặp việc lớn thường thích một mình đứng dưới trời cao trầm tư, không cho phép người khác quấy nhiễu.
Đường môn Đường Quân Thu là tổng liên lạc giữa Đường môn đất Thục và thế tục hồng trần, vì thế tất cả đệ tử Đường môn khi muốn ra ngoài xông pha giang hồ đều phải để ông ta thẩm tra trước hoặc là phải thông qua thử thách của ông ta.
Ông ta là người đứng thứ hai trong hàng con cháu đời hai của Đường môn, tọa trấn Trung Châu, tuy ở nơi xa nhưng vẫn luôn là “yết hầu” của Đường môn, những người muốn tới Đường môn, không cần biết là người trong võ lâm, không cần biết là quan lại, thương nhân, tất cả đều phải thông qua thế lực của ông ta. Trong Đường môn, ông ta có thể tính là nhân vật đứng đầu quản lý ngoại vụ, cùng với lão đại Đường Nghiêu Thuấn quản lý nội vụ, đều là người nắm đại quyền, so với lão tam Đường Đăng Chi, lão ngũ Đường Quân Thương chuyên huấn luyện cao thủ và sát thủ thì có thể nói là mỗi người một vẻ, đều có sở trường riêng.
Thế nhưng một loạt hảo thủ do Đường môn nội bảo phái ra gần đây, hết lượt này tới lượt khác, như Đường Đại, Đường Bằng, Đường Nhu, Đường Mãnh… đều có đi không về, thậm chí cả Đường Phì trong “Đường môn tam thiếu” cũng thất bại cáo chung. Người phái đi lần này đã là nhân vật số một trong tay lão ngũ Đường Quân Thương…
Đường Tống.
Đường Tống tới địa bàn ông ta, chuyện này đến cả Đường Quân Thu cũng không dám chậm trễ. Cao thủ Đường môn một khi đã tới chấp pháp thì sẽ lục thân bất nhận, thậm chí có thể đại nghĩa diệt thân.
Đường Quân Thu biết bên ngoài đã có chuyện, hảo thủ do Đường gia bảo âm thầm huấn luyện mười năm nay đã lần lượt được phái đi, có nhiệm vụ quan trọng cần hoàn thành, hai thủ hạ quan trọng của ông ta, Đường Bản Bản và Đường Thổ Thổ cũng đang khoanh tay chờ lệnh.
Ông ta thông báo cái tin chấn động nhất, nhưng cũng có lợi nhất với Đường môn cho trong mấy năm gần đây cho thanh niên áo trắng trước mặt.
Thanh niên đó lại không hề động dung.
Hắn trầm ngâm một lúc, khẽ hớp một ngụm trà. Lúc này đã là tiết thu, khí trời se lạnh, hắn lại hơi phe phẩy chiếc quạt, tiếp đó ngâm nga một điệu hát. Đường Quân Thu vẫn một mực chờ đợi, chờ đến hồi lâu, thanh nhiên đó không ngờ lại giống như ngủ gật, tay vẫn còn khe khẽ phẩy quạt lúc có lúc dừng.
Đường Quân Thu cảm thấy một chút gió lành lạnh, từ cây quạt kia thổi qua góc áo thanh niên kia rồi truyền tới. Đường Quân Thu cảm thấy một cơn phẫn nộ không tên.
Nếu không phải, nếu không phải ông biết người này chính là Đường Tống… Người trong Đường gia nội bảo đang giở trò quỷ gì đây, kẻ sau lại càng kiêu ngạo hơn kẻ trước? Lần trước một tên Đường Bằng từ đó đi ra, vừa ngạo vừa mạn, ra ngoài không phải vẫn bị Quyền Lực bang giết mất đó sao!
… Chẳng lẽ những kẻ đó thật sự nghĩ mình đã già rồi?
Nhưng mình vì Đường môn phấn đấu, khổ sở mấy chục năm, có tình thế nào mà còn chưa từng thấy qua? Bày mưu tính cánh, xung phong hãm trận, có công lao hãn mã nào mà từng chưa lập? Không ngờ lại để cái tên nhóc chưa ráo máu đầu do đám “Nội đường” đó huấn luyện ra coi thường!
… Nhưng giận giữ thì giận giữ, nổi nóng là không thể được.
… Mình mấy năm gần đây ham nữ sắc, Đường lão thái thái đã rất không hài lòng, Đường Tống là hồng nhân bên cạnh Đường lão thái thái, lại càng không thể đắc tội.
Nghĩ tới Đường lão thái thái, ông ta không khỏi cảm thấy cả người phát lạnh, khẽ rùng mình một cái.
Lúc này Đường Tống đột nhiên hỏi:
– Ông lạnh à?
Đường Quân Thu cười đáp:
– Ban ngày ban mặt, không lạnh.
Mi mắt Đường Tống tách ra một khe hẹp, lại hỏi:
– Không lạnh tại sao ông lại rùng mình?
Đường Quân Thu lập tức bốc hỏa, nhưng liền cảm thấy ánh mắt Đường Tống từ sau khe hở cực hẹp kia lại giống như điện chớp đang nhìn chằm chằm vào ông ta. Đường Quân Thu không ngờ lại vẫn có thể kìm nén được, thầm nghĩ mình dù sao cũng là bá phụ của hắn, lăn lộn giang hồ cũng nhiều hơn hắn, hắn dám làm gì chứ? Lập tức cười nói:
– Ta rùng mình một cái thôi, thập lục thiếu cũng muốn tra hỏi đầu đuôi sao?
Đường Tống lười biếng đáp:
– Nhị bá phụ phát run, ta không muốn hỏi. Có điều nếu nhị bá phụ vì nghĩ tới lão thái thái mà phát run thì sợ là lão thái thái sẽ không thích…
Đường Tống mỉm cười biếng nhác:
– Đường Chu ở trong bảo, chính là vì nằm mơ bỗng giận giữ hét lên “lão thái thái” nên bị Đường Lão Áp xử tử, ông có biết chuyện đó không.
Đường Quân Thu đã biến sắc rồi. Đường lão thái thái chính là người có quyền lực lớn nhất Đường môn hiện nay, cũng là người phụ nữ có quyền lực nhất trong võ lâm hiện tại, Đường Lão Áp là nô bộc thân cận của bà ta. Sắc mặt Đường Quân Thu biến nhanh, hồi phục cũng nhanh, ông ta không ngờ lại cười a a vẻ ngốc nghếch, nói:
– Phải, phải, thập lục thiếu nhắc nhở rất đúng, ta già lão thành vô dụng rồi, nên học tập nhiều hơn… Chỉ không biết…
Ông ta nói tới đây, cố ý không tiếp tục nữa, chờ Đường Tống truy hỏi.
Ai ngờ tên nhóc con mới hai mươi mấy tuổi đầu này vậy mà lại chẳng hề nóng vội chút nào, không thèm hỏi lấy một câu, tiếp tục thong thả uống trà, rồi lại ngả mình xuống, bắt đầu nhắm mắt lại. Đường Quân Thu chửi thầm một câu: “Gặp quỷ rồi!” Chỉ có thể nói thẳng ra:
– Về cái chết của Lý Trầm Chu, không biết thập lục thiếu có tính toán gì không?
Nhãn cầu Đường Tống khẽ dịch chuyển, hời hợt hỏi:
– Ông thì sao? Ông có ý kiến gì không?
“Ý kiến? Tên nhóc này tự mình không có chủ kiến nên muốn thăm dò nông sâu ta đây! Được, cho ngươi xem!”
– Lý Trầm Chu chết, Liễu Tùy Phong không thể phục chúng, võ công lại không bằng người, chính là cơ hội tốt để lập tức tiêu diệt.
Đường Tống lúc này mới từ từ, nhưng hoàn toàn mở hai mắt ra, hắn đưa tay ngưng trọng nâng chén trà đến bên môi, khẽ hớp một ngụm, ngậm trà trong miệng, giống như đang cẩn thận thưởng thức, một lúc sau mới nuốt xuống, nói:
– Tin tức này không giống tin chính thức của Quyền Lực bang. Lần trước ta bảo ông giết quân nằm vùng “Bất hồi đao” của Quyền Lực bang, đã giết chưa?
Đường Bản Bản ở bên cạnh lập tức đáp:
– Giết rồi.
Lúc hắn nói, hai bàn tay buông thõng hai bên siết lại thật chặt. Hắn luyện Ưng trảo công suốt ba mươi năm, lúc nào cũng có thể phóng tới bóp chết kẻ địch, còn hữu hiệu hơn cả ám khí, Đỗ Lâm chính là chết dưới một đôi Ưng trảo thủ của hắn. Hắn trước nay luôn cảm thấy rất tự mãn.
Đường Tống quát nhẹ một câu:
– Ta không hỏi ngươi!
Đường Bản Bản cúi đầu nói:
– Dạ
Đường Quân Thu vội vàng nói:
– Là Đường Bản Bản giết chết hắn.
Đường Tống nói:
– Ông có biết y giết vô cùng kém không? Nếu không phải lúc hắn lao ra ngoài cửa sổ chịu phải một đòn của ta, bên sườn phải trúng một mũi mộc miên châm thì sợ là đã sớm để hắn chạy thoát rồi.
Đường Bản Bản nghe mà toàn thân phát run, hóa ra khi hắn giết Đỗ Lâm đã cẩn thận quan sát xem xung quanh có ai không, nhưng lại để Bất hồi đao Đỗ Lâm cảnh giác, nhảy ra ngoài chạy trốn, bỗng lại hơi ngừng lại một chút trước cửa sổ, để cho mình một đòn đắc thủ. Xong việc mới phát hiện, huyệt Khí Hải của Đỗ Lâm có một mũi châm bạc, lại không biết là ai ra tay xuất quỷ nhập thần như vậy, hóa ra là thập lục thiếu.
Đường Thổ Thổ thấy huynh đệ kết nghĩa của mình mặt như tro tàn, toàn thân phát run, không biết lý do tại sao nhưng cũng cảm thấy bất an. Đường Quân Thu mang theo hai người này đã lâu, vừa trông tình hình trong lòng đã hiểu ra được tám chín phần, lập tức hòa giải:
– A Bản tại Đường gia bảo từng đánh hạ thành Thạch Đầu rồng nằm hổ phục, lúc trẻ từng tại lầu Tảo Hiệp núi Thanh Lương, cứu tôn ông của thập lục thiếu… Một dải cơ nghiệm của Yến Tử Phàn đều có thể nói là do y đánh về…
Đường Quân Thu nói nhiều như vậy là muốn mượn những công tích đó để bảo vệ vị trí cho Đường Bản Bản. Đường Bản Bản dưới trướng ông ta, giỏi đoán ý người, mỹ nữ mấy năm gần đây quá nửa là do hắn câu kết với tham quan ô lại nên mới có thể cung ứng liên tục không dứt như thế. Cái tên Đường Thổ Thổ kia thì ngu ngốc hơn nhiều, đến cả một câu nịnh hót cũng không biết nói. Đường Tống nghe vậy, à lên một tiếng, nhìn Đường Bản Bản mỉm cười nói:
– Mấy năm gần đây ngươi đã vất vả rồi. Ngươi tại “ngoại vi” Đường môn giữ chức vụ gì?
Đường Tống dịu giọng hỏi vậy.
Đường Bản Bản được thương thành sợ, đáp:
– Là Tả thứ sử Tuần sứ của nhị đại gia…
Đường Tống cười nói:
– Rất tốt, bây giờ phong người làm Chánh Tư mã…
Đường Bản Bản mừng rỡ quá đỗi, đang muốn cảm tạ thì Đường Tống đã nói tiếp:
– Sắc phong thụy hiệu “Bản tán công”
Hắn nói xong câu đó, sắc mặt Đường Quân Thu lập tức biến đổi. Sắc mặt Đường Bản Bản lại chẳng hề thay đổi. Hắn đã chết. Thi thể hắn đang từ từ đổ xuống. Đường Thổ Thổ đứng bên cạnh đã hoàn toàn ngây ngốc, mặt vàng như đất.
Đường Tống lại cười nói:
– Ngươi rất tốt, vừa không tham lam, lại không háo sắc, càng không nịnh bợ ton hót, lão thái thái rất coi trọng ngươi… Vị trí của hắn do ngươi kiêm quản.
Trên trán Đường Quân Thu thấp thoáng mồ hôi. Đường Tống lại nhấp một ngụm trà, khi uống trà, ánh mắt hắn nheo lại cực hẹp, không biết là đang quan sát người khác hay là đang thưởng thức tư vị của trà.
Đường Tống bỗng cười nói:
– Chuyện lần này của Quyền Lực bang tuyệt không thể đơn giản như vậy. Nếu chúng muốn chúng ta biết Lý Trầm Chu đã chết, chúng ta coi như không để ý tới, lấy bất biến ứng vạn biến… Càng huống hồ.
Hắn cười cười, ung dung nhàn nhã nói:
– Nghe nói trong Quyền Lực bang đã có người lợi hại nhất của Đường gia chúng ta, nắm giữ tất cả…
Đường Quân Thu vội đáp:
– Phải.
Hơi ngước mắt nhìn lại, chỉ thấy Đường Tống lại khẽ phe phẩy quạt thưởng trà. Đường Quân Thu đột nhiên phát hiện, khi gã thanh niên này uống trà, phẩy quạt, ánh mắt luôn nheo thành một đường chỉ, hiển nhiên là đều đang suy nghĩ, cũng không biết tại sao, một luồng hơi lạnh chợt từ gót chân chạy thẳng lên tới tận tim.
Đường gia một trăm mấy chục năm trước cũng có một nhân vật trẻ tuổi, âm độc mà lợi hại, tên là Đường Ngọc. Câu chuyện của y đã được tiền bối võ hiệp ghi chép lại vô cùng đặc sắc, khiến người ta đọc mà cũng phải thấy run sợ. Năm xưa Đường gia bảo đấu với “Hỏa phượng đường”, chết không ít người, nhưng thực lực của Đường gia bảo vẫn vững vàng không suy sụp.
Một trăm mấy chục năm sau, ba cao thủ trẻ tuổi của Đường môn, ngoài Đường Phì trọng thương không biết đã đi đâu ra, Đường Tống và Đường Tuyệt đều là nhân vật khiến người ta nghe danh mà biến sắc. Đường Tống lạnh lùng tàn độc, lục thân bất nhận, bề ngoài lại ôn văn nho nhã. Đường Tuyệt tối tuyệt, tuyệt đến ngay cả Đường môn cũng không có mấy người biết hắn tuyệt như thế nào.
……………….
Mộ Dung Thế Tình đã đến lúc tuổi già, trung niên vợ mất, người thương yêu nhất chỉ còn lại hai người con trai, gái.
Con trai ông ta Mộ Dung Nhược Dung, phong lưu tuấn nhã, tại năng sớm bộc lộ, ngộ tính cực cao, hơn nữa với đàn hát thi thư đều có tâm đắc. Hắn trời sinh tuấn tú, giọng hát lại hay, không những ẩn hiện có phong thái của cha mình mà trong kịch nghệ vũ đạo cũng có chút thành tựu.
Nếu như nhất định phải tìm ra nhược điểm thì Mộ Dung Nhược Dung chỉ có một nhược điểm:
Tâm cao khí ngạo!
“Ám sát Lý Trầm Chu”, ý nghĩ này là của bản thân Mộ Dung Nhược Dung, Mộ Dung Thế Tình không hề biết. Nếu như Mộ Dung Thế Tình biết, chắc chắn sẽ không để cho hắn đi. Ông ta rất yêu thương đứa con thông minh lanh lợi này, lại càng không muốn hi sinh số “phục binh” đã ẩn nấp trong Quyền Lực bang suốt mấy chục năm.
… Lý Trầm Chu há lại lại là kẻ dễ dàng ám sát được như vậy….
Nhưng Mộ Dung Nhược Dung vẫn đi ám sát y. Mộ Dung Thế Gia kết thù với Quyền Lực bang bắt đầu từ lúc Mộ Dung Anh bị giết. Mộ Dung Anh sở dĩ bị giết là vì sau trận chiến giữa với nhóm Tiêu Thu Thủy ở Ô Giang, Quyền Lực bang tưởng nhầm có người của Mộ Dung thế gia đối địch. Một đại thế gia và một đại bang phái vối đã hình thành thế cục đối lập rõ ràng, còn nói gì đến lúc có loại ác nhân gây họa như vậy! Chuyện này dẫn đến về sau Mộ Dung Anh Hùng bị Hồng Môn trận của Nam Cung thế gia giết chết, mà Nam Cung thế gia lại do Quyền Lực bang sai bảo. Mộ Dung Nhược Dung tuổi trẻ khí thịnh, muốn gây dựng nên một phen sự nghiệp, vì thế một mình tới Quyền Lực bang ám toán Lý Trầm Chu, phá vây không thành, bị Liễu Tùy Phong giết chết. Mộ Dung Nhược Dung cũng không thể trở về Cô Tô được nữa.
Mộ Dung Thế Tình nghe tin con trai bị giết trước, ba ngày sau mới có tin Lý Trầm Chu chết truyền tới.
Mộ Dung Thế Tình lúc đó đang ở trên tiệc rượu nghe tin con trai độc nhất bỏ mạng. Ông ta trào ra hai giọt nước mắt, nhỏ xuống chén rượu sắc như pha lê, qua chớp mắt lại nâng cười nó như cũ, vô cùng thoải mái, không hề có chút bi thường nào cả. Hôm sau ông tới chùa Hàn Sơn gặp một vị lão tăng bàn chuyện, liền đó tới chùa Linh Nham Hổ Khâu, vân du một ngày, đến ngày thứ ba cùng một đám danh nho bác học, võ lâm bắc đẩu mở đại yến bên đình Thương Lãng Tô Châu, tiệc tới nửa chừng thì nghe tin Lý Trầm Chu qua đời.
Mộ Dung Thế Tình vỗ bàn khóc lớn ba tiếng, hát lên một khúc bi thương:
Chiêu chiêu tố minh nguyệt, huy quang chúc ngã sàng.
Ưu nhân bất năng mị, cảnh cảnh dạ hà trường.
Vi phong xuy khuê thát, la duy tự phiêu dương.
Lãm y duệ trường đái, tỷ lý hạ cao đường.
Đông tây an sở chi? Bồi hồi dĩ bàng hoàng.
Xuân điểu phiên nam phi, phiên phiên độc cao tường.
Bi thanh mệnh trù thất, ai minh thương ngã tràng.
Cảm vật hoài sở tư, khấp thế hốt triêm thường.
Trữ lập thổ cao ngâm, thư phẫn tố khung thương.(*)Bài “Thương ca hành” một bài ca đời nhà Hán.
Ông vừa ngâm nga bi xướng vừa bước ra giữa đình, gạt lệ nói:
– Ô hô! Trầm Chu đã chết, Thế Tình sao phục sinh! Lý Trầm Chu đi mất rồi, thiên hạ khó tìm địch thủ! Các ngươi ngày mai hãy cùng ta tới Kim Lăng bái tế hắn.
Từ đó trẻ đi liền không rượu không tiệc, toàn thân héo khô, cực ít nói cười.
Mộ Dung Tiểu Ý là ái nữ duy nhất của Mộ Dung Thế Tình. Nàng đã sớm sắp xếp gọn hành trang, sai phái chọn người, chỉ chờ cha mình hạ lệnh xuống là có thể lập tức xuất phát. Nàng tuổi gần cập kê, thuần chân vô tà, xinh đẹp tuyệt lân, cầm kỳ thi thư họa, không gì không tinh thông. Càng lanh lợi hơn là nàng giỏi quan sát phán đoán cha mình lúc vui lúc mừng, lúc nhớ lúc mong, cho nên nàng biết quyết định “tới Kim Lăng” của cha mình đã sớm được tính toán chuẩn bị từ trong lúc du lịch, yến tiệc, vui chơi, uống rượu, náo nhiệt ba ngày trước rồi.
“Tới Kim Lăng” không hẳn là một lần phúng viếng, mà là một lần “hành động”… Một lần tổng hành động của Mộ Dung thế gia với Quyền Lực bang.