Võ Lâm Phong Thần Bảng

Chương 13 - Đêm Dài Lắm Mộng

trước
tiếp

Đàn chim câu bay lượn trên không một lúc, một con có sắc lông trắng rời đàn, lao vút xuống.

Lạc Tiểu Hồng vung đường nhuyễn tiên, thân roi thẳng ra, đoạn nàng gọi:

– Bạch vũ! Đáp trên đầu roi của ta đây này!

Chim câu trắng chừng như nghe tiếng người, thay vì đáp nơi đầu ngoài đường roi, xa hơn, nó lại đáp xuống chỗ tay cầm, gần Lạc Tiểu Hồng.

Nàng đưa tay kia, tháo mối dây nơi chân chim, lấy ra một mảnh giấy. Không kịp trao cho mẹ, nàng xem ngay:

«Cừu nhân đã xuất hiện, bọn tiểu muội sẽ đến trong phút giây!» Mắt sáng lên, Lạc Tiểu Hồng vừa trao mảnh giấy sang Huyết La Sát, vừa thốt:

– Dì và dượng đã hay tin rồi, mẹ ơi!

Huyết La Sát tiếp mảnh giấy, hấp tấp xem qua. Bà trầm ngâm một chút, đoạn nhìn Quan Sơn Nguyệt, cất tiếng:

– Già vốn có quen thân với Độc Cô Minh, đáng lẽ các hạ tới đây, già phải tiếp đãi tận tình, song rất tiếc việc trọng đại xảy ra bất ngờ, già không biết làm sao hơn …

Bây giờ, bà thay đổi thái độ hoàn toàn, xưng là già, gọi Quan Sơn Nguyệt là các hạ. Như vậy, là bà không còn bất mãn về cái việc Quan Sơn Nguyệt đến đây.

Nhưng, không bất mãn, là điều may mắn cho Quan Sơn Nguyệt, bà lại tỏ cái ý khó khăn, thì có khác nào bà bất mãn?

Qua khẩu khí của bà, Quan Sơn Nguyệt hay bất cứ ai khác cũng hiểu là bà không thể lưu Quan Sơn Nguyệt tại trang, ít nhất cũng trong thời gian này. Và, rõ ràng là bà đuổi khéo chàng.

Chàng đang nặng thắc mắc về trường hợp của ân sư, trước kia, chàng không tiện hỏi chi nhiều nơi Bành Cúc Nhân, một dịp may đã bỏ lỡ.

Bây giờ, chàng gặp Huyết La Sát một người ngoài Bành Cúc Nhân, biết hành tung của ân sư. Khi nào chàng lại bỏ qua dịp may một lần nữa?

Chàng khẳng khái thốt:

– Tiền bối đã là chỗ thâm giao của gia sư, thì việc của tiền bối, cũng như việc của gia sư, tại hạ là truyền nhân của cố hữu, đương nhiên phải thay thế cố hữu, làm một cái gì, hữu ích cho tiền bối. Lẽ đâu thấy tiền bối có việc rồi đành đoạn bỏ đi?

Huyết La Sát Lạc Hành Quân cười nhẹ:

– Khen các hạ đó, các hạ có khác gì lịnh sư ngày trước, thích gánh vác việc người. Song, già xin nói rõ, việc gì khác thì các hạ có thể giúp già, chứ việc này, chắc chắn là không được rồi. Thôi đi, các hạ không nên đâu!

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại hạ nghĩ, cái việc mà tiền bối đề cập đó chính là công cuộc đối phó với Hồ Hải Dị Tẩu chứ gì?

Lạc Hành Quân gật đầu:

– Đúng vậy, cho nên, già mới bảo là các hạ không nên can thiệp. Bởi lão ấy có tài nghệ vừa cao, vừa ngụy dị, võ công của lão ta kể như độc đáo trên giang hồ …

Bà cho rằng Quan Sơn Nguyệt chưa đủ sức đương đầu với lão già chèo đò, và sợ liên lụy đến chàng, nên bảo chàng rời khỏi Tà Dương Sơn Trang.

Lạc Tiểu Hồng không muốn cho Quan Sơn Nguyệt đi đâu cả, vội lên tiếng:

– Đành là lão ấy có tài cao, nhưng Quan đại ca cũng chẳng phải là kẻ vô dụng? Mẹ biết không, Quan đại ca đã đánh lão ta một chưởng làm lão văng xuống sông trong đêm rồi!

Lạc Hành Quân cười nhẹ:

– Mẹ chỉ sợ việc đó xảy ra sau khi con vung roi quất trúng lão, hai mũi châm đâm vào mạch môn của lão! Có như vậy, lão mới văng xuống sông con ạ!

Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt. Chàng cũng phải nhìn nhận lão nhân tài giỏi hơn chàng mấy phần, chính chàng chụp đúng cổ tay lão, vận chân khí bức lão, song lão chẳng việc gì. Chàng không giấu sự thất bại đó, thẳng thắn thốt:

– Tại hạ cũng biết mình kém lão ấy rất xa, dù có ở lại, chẳng phải để đương cự với lão, tiếp trợ tiền bối. Chẳng qua, tại hạ học thiếu, biết ít, muốn nhân dịp các vị cao minh trong vũ lâm so tài với nhau, tại hạ mục kích những đấu pháp tân kỳ để mở rộng kiến thức vậy thôi!

Lạc Hành Quân suy nghĩ một lúc đoạn cười nhẹ:

– Cũng được. Nể tình lịnh sư, già ưng thuận cho các hạ ở lại xem cuộc chiến, có điều các hạ đừng can thiệp mà thôi!

Lạc Hành Quân chấp thuận, Quan Sơn Nguyệt cao hứng vô cùng. Chàng cam kết:

– Nhất định tại hạ sẽ làm kẻ bàng quan, chẳng hề dám động!

Lạc Hành Quân nghiêm giọng:

– Làm một kẻ bàng quan, trước hạng người như lão ấy, chẳng phải dễ dàng đâu, đừng tưởng! Phải có tánh nhẫn nại cực độ mới được, lão ta như con chó điên, cắn càn, gặp người là cắn, đã chắc gì các hạ chịu đựng nổi sự khiêu khích của lão mà thản nhiên khoanh tay nhìn diễn tiến? Các hạ nên nhớ, cây có muốn lặng, ít nhất cũng phải tùy gió, gió không ngừng thì cây đừng hòng đứng im.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Thế là lão có ý sanh sự với bất kỳ ai lão gặp.

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Thói quen của lão là thế đó. Nếu lão biết được các hạ là truyền nhân của Độc Cô Minh, nhất định lão ta bám sát luôn, cho đến khi nào các hạ chịu đựng không nổi, phải động thủ với lão thì thôi. Lão ta có mối thù với Độc Cô Minh, kể ra còn nặng hơn đối với già nhiều!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Vậy mà ân sư không hề đề cập đến việc đó …

Lạc Hành Quân chận lời:

– Làm sao Độc Cô Minh nói cho các hạ biết? Giả như Độc Cô Minh tiết lộ với các hạ thì rất có thể …

Bỗng, bà ngưng câu nói, chừng như bà nhận thấy là mình hớ hênh rồi bà chuyển hướng câu chuyện sang đề tài khác:

– Dù thế nào đi nữa, các hạ không nên lưu ý đến lão là hơn mặc cho lão làm mọi trò khiêu khích, các hạ cứ lờ đi, như không nghe, không thấy gì cả. Nếu các hạ giữ được thản nhiên, lão ấy chẳng làm sao xuất thủ.

Quan Sơn Nguyệt không phục.

Bởi, mình không chạm đến ai, đó là cả một sự nhẫn nhịn rồi, vì biết rõ ai đó không có thiện cảm với mình, mà mình cũng phải lờ đi. Con nhà võ, nhịn như vậy là quá đáng. Huống hồ, khi lão khiêu khích, mình cũng nhịn luôn sao? Nhịn như vậy, được sao?

Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, chàng cao giọng thốt với vẻ ngạo nghễ:

– Chắc là tại hạ khó nhịn được, nếu lão ta cứ bám theo tại hạ mà khích nộ!

Lạc Hành Quân lắc đầu, khoát tay, nghiêm sắc mặt:

– Tuyệt đối không nên lưu ý đến lão. Cho cạc hạ biết, lão có cái thói, để ý đến ai, thì bám sát mãi người đó, như bóng theo hình, lão gây phiền não luôn luôn, cho đến một lúc nào đó, phải động thủ với lão!

Lạc Tiểu Hồng bất phục:

– Động thủ thì cứ động thủ, sợ gì lão?

Lạc Hành Quân lại lắc đầu:

– Vô ích! Không làm sao thắng nổi lão ta được.

Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:

– Thế lão là một kẻ bất khả xâm phạm?

Lạc Hành Quân gật đầu:

– Bất tử, đúng hơn. Không ai giết lão chết cả. Công phu của lão so với vũ học của chúng ta hoàn toàn bất đồng. Vũ công của chúng ta, không làm gì hạ lão được!

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Thật vậy?

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Già bịa chuyện mà làm gì.

Quan Sơn Nguyệt mơ màng.

– Thảo nào! Trong đêm vừa rồi, tại hạ chụp vào mạch môn của lão, cố vận chân khí truyền sang gây chấn động nơi lão, song lão chẳng việc gì! Hơn thế, lão làm cách nào chẳng rõ, hóa giải tiêu tan đạo chân khí của tại hạ …

Lạc Tiểu Hồng tỏ vẻ sợ hãi:

– Thế thì làm sao? Giao đấu với lão, không giết lão chết được, hóa ra giao đấu để chờ chết với lão sao?

Lạc Hành Quân trấn an nàng:

– Tuy vậy, chẳng sao đâu, bởi lão cũng chẳng giết được chúng ta. Bởi môn học của lão chuyên gây phiền nhiễu cho đối phương, chứ không có cái công dụng giết người. Cho nên, năm xưa, khi lập bảng Phong Thần, bọn của già đồng ý tặng lão cái danh hiệu Đầu Thống Quái Vật. Bởi lão chỉ là một quái vật, chuyên làm kẻ khác nhức đầu vì lão.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Phong Thần Bảng? Tại sao lại có Phong Thần Bảng, bảng đó lập như thế nào?

Lạc Hành Quân lỡ lời, nghe chàng hỏi, thoáng biến sắc mặt, khỏa lấp ngay:

– Đừng hỏi chi hết. Già không thể nói gì hơn. Già cảm thấy đã nói quá nhiều rồi, mà nói nhiều thì bất tiện. Già xin các hạ, từ nay, có gặp ai, đừng bao giờ đề cập đến cái bảng Phong Thần đó!

Quan Sơn Nguyệt có thêm một nghi vấn.

Nhất định là cái bảng Phong Thần đó có liên quan trọng đại với vũ lâm, nói chung. Còn riêng sư phụ chàng, Bành Cúc Nhân, Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, kể cả Hồ Hải Dị Tẩu, sự liên quan phải trọng đại hơn gấp mấy lần.

Đột nhiên, chàng nhớ đến một việc, vụt đọc lên một câu đối mà chàng thuộc nằm lòng:

– Hoàng Hạc bay trên sông, Tán Tiên ở bờ hồ!

Lạc Hành Quân biến sắc một lần nữa. Bà hỏi gấp:

– Các hạ nói sao? Độc Cô Minh có tiết lộ với các hạ, lão ta là Hoàng Hạc Tán Tiên à?

Quan Sơn Nguyệt không đáp, ánh mắt chàng sáng lên, miệng điểm một nụ cười đắc ý, chàng cao giọng tự thốt:

– Thì ra, ân sư là Hoàng Hạc Tán Tiên!

Chàng nghi ngờ, ân sư hẳn phải có một ngoại hiệu nào đó, rồi nhớ đến câu đối trong gian phòng của Độc Cô Minh ngày trước chàng thử đọc lên. Nào hay, Lạc Hành Quân kinh ngạc, bật hỏi.

Câu hỏi của bà vô hình trung đã xác nhận điều chàng nghi ngờ!

Chàng không đáp, chỉ tự thốt như vậy, điều đó chứng tỏ là Quan Sơn Nguyệt chưa biết được Độc Cô Minh có cái ngoại hiệu đó, và Độc Cô Minh cũng chẳng hề tiết lộ với chàng …

Thế là Lạc Hành Quân hớ hênh rồi. Bà Hối hận, sững sờ một lúc. Nhưng, đã lỡ, bà còn biết làm sao, thôi thì đành vậy, bà hỏi tiếp:

– Các hạ nghe ai nói đến câu đối đó?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Chính mắt tại hạ trông thấy, tại thơ phòng của gia sư. Lúc đó, tại hạ chẳng hiểu gì cả, bây giờ nghe tiền bối đề cập đến bảng Phong Thần nào đó, tại hạ mới nghĩ ra.

Lạc Hành Quân cau mày:

– Già đã căn dặn các hạ, đừng nhắc đến cái bảng đó nữa, các hạ quên nhanh thế à?

Quan Sơn Nguyệt tắt nụ cười, chỉnh nghiêm sắc mặt:

– Tại hạ xin hứa, từ nay không đề cập đến bảng đó.

Lạc Hành Quân gật đầu, trầm lặng một chút, đoạn thở dài thốt:

– Ba tiếng đó, có cái tầm quan hệ rất trọng đại, già trong phút giây sơ suất, buột miệng nói ra, nếu có kẻ nào nghe lọt, thì tai họa sẽ xảy đến, to lớn vô lường.

Cho nên, già van cầu các hạ …

Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, chẳng rõ Phong Thần Bảng có bao hàm bí mật gì, quan hệ như thế nào, mà chỉ cần nhắc đến là tai họa lâm thân.

Chàng muốn hỏi cho rõ ràng, hỏi một lần để vĩnh viễn không còn thắc mắc nữa, song thấy thần sắc của Lạc Hành Quân ngưng trọng phi thường, chàng bỏ luôn ý nguyện, đồng thời cam kết:

– Tiền bối yên trí, tại hạ kể như chẳng bao giờ có nghe ai nói đến bảng đó, không nghe tức nhiên chẳng biết gì, và không tiết lộ với ai. Bởi có ai tiết lộ một việc mà mình chả nghe, chưa biết?

Lạc Hành Quân gật đầu:

– Tại sao, nhớ đến câu nói đó, các hạ lại nghĩ ra được ngoại hiệu của lịnh sư?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Tại hạ suy diễn từ những ngoại hiệu của các vị, tự nhiên hiểu liền. Một phần, đôi liễn đó, chẳng liên quan gì với hoạt động thường ngày của gia sư, thế mà người vẫn giữ mãi và chừng như trân quý nó lắm. Phần khác, các vị là những bằng hữu của gia sư, đáng lý ra, không nhiều lần thì ít, gia sư cũng có đề cập đến các vị, trong những lúc bình luận về nhân vật giang hồ chứ. Nhưng gia sư giữ bí mật hoàn toàn. Tại sao gia sư giữ bí mật về các vị? Tại sao gia sư trân quý câu đối đó? Hẳn phải có một nguyên nhân!

Lạc Hành Quân cau mày:

– Nhưng, câu đối đó có liên quan gì đêm già đâu?

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Mới xem qua, thì không thấy mối liên quan, suy nghĩ kỹ tất thấy rõ. Ngoại hiệu của các vị, có cái vẻ kỳ quái phi thường, ai ai cũng xưng hoặc thánh, hoặc thần, hoặc quỷ, hoặc ma. Thì tại sao lại chẳng có người xưng là tiên? Gia dĩ, gia sư cùng các vị quen biết nhau từ lâu …

Trực nhớ đến một việc, chàng bổ túc:

– Ngoài các vị Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, còn có một người nữa, cũng biết gia sư như các vị. Người đó, là Bành Cúc Nhân …

Lạc Hành Quân chớp mắt:

– Bành Cúc Nhân còn sống?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Bành tiền bối cùng đi với tại hạ, song vì một việc riêng phải tạm phân cách nhau.

Lạc Hành Quân giục:

– Khoan nói đến bà ấy, cứ tiếp việc hiện tại đi.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Tại hạ thấy các vị có ngoại hiệu kỳ quái, lại nghe tiền bối đề cập đến cái bảng đó, mà gia sư là chỗ đồng đạo của các vị, hẳn cũng có tên, tại hạ trực nhớ đôi câu đối của gia sư, ngắt hai chữ cuối của mỗi câu, ghép lại, thành Hoàng Hạc Tán Tiên! Như vậy, có Tiên, có Thánh, có Thần, có Quỷ có Ma, rất đủ để hình thành một cái bảng, như tiền bối đã cho biết.

Lạc Hành Quân lại hỏi:

– Tại sao các hạ quyết đoán lịnh sư có tên trong bảng?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đã là người quen thân của các vị thì gia sư hẳn có một ngoại hiệu khác, tương xứng với ngoại hiệu của các vị, chứ cái danh Minh Đà Lệnh Chủ, bất quá chỉ để xưng hô với toàn thể giang hồ thôi! Có ngoại hiệu khác, lại không xưng ra, hẳn phải do một nguyên nhân. Và chính vì người được liệt trong bảng đó, nên người không xưng ra …

– Thánh, Thần, Quỷ, Ma, đều có tên trong bảng, thì Tiên cũng phải có tên trong bảng, điều đó rất dễ hiểu!

Lạc Hành Quân khẽ thở dài:

– Các hạ vừa kín đáo, vừa tế nhị, thảo nào mà chẳng suy diễn ra lắm điều hay, điều lạ! Tuy nhiên, già tưởng cần khuyến cáo các hạ, là sự việc này, các hạ không nên tìm hiểu xa hơn, và cũng chẳng tùy hứng mà đề cập đến.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Vì lý do gì tại hạ không nên truy cứu? Chẳng lẽ sự việc đó …

Lạc Hành Quân cao giọng chận lời:

– Nếu các hạ còn nhắc mãi đến việc đó, nhất định già sẽ không để cho các hạ rời khỏi nơi này!

Quan Sơn Nguyệt nín lặng.

Bỗng từ xa có tiếng bánh xe lăn và tiếng ngựa hí vang lên vọng đến trang viện.

Lạc Hành Quân dịu ngay nét mặt thốt:

– Muội nương và muội phu của già đã đến!

Bà nhìn sang Quan Sơn Nguyệt dặn một lần nữa:

– Các hạ phải nhớ là đừng nhắc nhở đến việc đó trước mặt họ.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Cả bọn đồng nhìn ra đường.

Không lâu lắm, từ xa, một vầng bụi bốc lên cuốn tới như bay rồi một cỗ xe xuất hiện trong tầm mắt của họ.

Xe do ngựa kéo, ngựa thuộc loại tuấn mã, người đánh xe tác trung niên, có vóc dáng khôi vĩ, tướng mạo oai nghiêm, y phục rất sang trọng.

Cỗ xe dừng lại trước cổng trang, rèm xe được vén qua một bên, từ trong xe một thiếu phụ trung niên thò đầu ra ngoài. Tuy tuổi đã cao, sắp đẹp của bà vẫn còn rạng rỡ. Bà hỏi gấp:

– Thơ Thơ có tiếp được tin của bọn tiểu muội không?

Lạc Hành Quân gật đầu:

– Có. Ngu thơ cũng đã biết rồi. Con Tiểu Hồng có gặp lão quái vật đó trên sông Hoàng.

Thiếu phụ giật mình, đảo mắt sang Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái, chừng như để dò xét.

Lạc Hành Quân giới thiệu liền:

– Vị công tử này là truyền nhân của Độc Cô Minh đấy, còn người kia là bằng hữu của công tử.

Thiếu phụ lại giật mình lượt nữa, kêu lên:

– Hoàng Hạc …

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Hoàng Hạc đã đi dự hội Long Hoa, chỉ còn người của Minh Đà ở lại.

Thiếu phụ trầm ngâm một lúc lâu.

Quan Sơn Nguyệt hết sức bối rối, không biết phải xưng hô thiếu phụ như thế nào cho hợp lý.

Lạc Tiểu Hồng hiểu ra sự khó khăn của chàng, vội giới thiệu:

– Dì và Dượng tôi đó. Dượng tôi tên là Liễu Sơ Dương, còn dì tôi là Lạc Tương Quân.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay chào:

– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, kính bái nhị vị tiền bối.

Lưu Tam Thái cũng nghiêng mình chào hai người mới đến, nhưng không nói tiếng nào.

Lạc Tiên Quân gật đầu.

Liễu Sơ Dương khách sáo hơn, thốt một câu:

– Trông thế huynh có khí thái anh hùng, lão phu hết sức mừng cho bạn cũ chọn người nối nghiệp xứng đáng.

Quan Sơn Nguyệt toan đáp lại, song Lạc Hành Quân cất tiếng.

– Đứng mãi tại đây nói chuyện sao? Mình vào nhà chứ.

Liễu Sơ Dương gật đầu, đoạn đến bên cạnh xe, thốt:

– Tương Quân, ngu huynh bế hiền muội nhé!

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ thầm nghĩ, dù cho họ có âu yếm với nhau đến mức độ nào, họ đã quá cao tuổi rồi, lý đâu lại ôm ẳm nhau trước mắt nhiều người như vậy?

Lạc Tương Quân «hừ» một tiếng:

– Trước mắt bọn trẻ, mình làm vậy xem kỳ quá.

Liễu Sơ Dương cười hì hì:

– Chẳng quan hệ gì. Đệ tử của Độc Cô Minh cũng như con cháu chúng ta, có chi đâu mà phải quá giữ gìn?

Lạc Tương Quân mắng yêu:

– Liễu huynh mặt dày, chứ tôi thì tôi thẹn lắm.

Bà vẹt bức rèm xe, bay vút ra ngoài như cánh bướm, đôi ống tay áo dài phất phơ giữa khoảng không, cứ như thế bà lướt đi vừa nhanh vừa ổn.

Nếu một người bình thường di động như vậy, thì chẳng có chi là đáng nói, nhưng Quan Sơn Nguyệt nhận ra đôi chân bà cụt đến gối. Bây giờ, chàng mới hiểu tại sao Liễu Sơ Dương đòi ẵm bà.

Chàng hết sức khâm phục, thuật khinh công của Lạc Tương Quân đã đạt đến mức hỏa hầu, bà không còn có đôi chân mà vẫn đi được như thường, lại đi nhanh hơn một danh thủ đệ nhất đẳng trong võ lâm.

Liễu Sơ Dương nhìn theo bóng vợ, điểm một nụ cười, gọi Lạc Hành Quân, thốt:

– Thơ thơ xem kìa, lịnh muội vẫn giữ cái tính khí như ngày nào. Trong năm vừa qua có một lần bà ta muốn lên đỉnh Thái Sơn xem Thái Dương xuất hiện nơi phương trời Đông, bà ta nhất định không chịu ngồi kiệu, cứ như thế ấy mà vượt núi, làm cho bao nhiêu du khách dâng hương tưởng là thần tiên giáng hạ, cùng rập quỳ nhau lậy, rồi cố lên núi để kịp thời van cầu ban phước lành. Bị nhiều người vây quanh, gây phiền nhiễu, nên bà ấy chẳng xem được cái cảnh Thái Dương lên!

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, kêu lên:

– Trên Thái Sơn, có một đỉnh cao, khách giang hồ thường đến đó, xem mặt nhật mọc nơi phương Đông, chừng như đỉnh đó có cái tên là Quan Nhật Phong, cao ngàn trượng. Vậy mà Lạc tiền bối dùng thuật khinh công lên tận đỉnh, thật là một sự kiện trên chỗ tưởng của tại hạ!

Liễu Sơ Dương cười nhẹ:

– Về những việc gì khác, lão phu không dám nói, chứ về thuật khinh công thì lão phu có thể cho rằng bà ấy là một tay vô song trên giang hồ. Hơn thế, bà ấy lại mất hai chân! Luyện khinh công đã là một việc khó, bởi khinh công là một môn học đòi hỏi lắm đặc điểm mà chẳng phải bất cứ người nào cũng có thể học được. Huống chi, luyện thuật khinh công khi mình mất cả đôi chân, nghĩ ra còn khó khăn gấp trăm gấp ngàn lần một người thường!

Lạc Hành Quân mỉm cười, mắng:

– Xú Quỷ! Ngươi lại nói xấu vợ đó à? Nếu nó nghe được, ngươi chẳng dễ chịu với nó đâu nhé! Sao ngươi dám nói nó tàn phế?

Liễu Sơ Dương dáp:

– Chẳng dễ chịu với bà ấy? Mặc dù bà mất đôi chân nhưng bà không lấy đó làm buồn phiền, trái lại bà còn lấy đó làm hãnh diện là khác bởi Thơ thơ cho rằng bà ta tàn phế chứ bà ta nghĩ là mình có tàn chứ chưa đến nổi bị phế …

Lão vừa gật gù, vừa tiếp:

– Kể ra, bà ấy cũng có lý, và bà hãnh diện cũng phải. Có cụt đôi chân, bà mới tỏ lộ được cái thuật khinh công siêu việt, vì người còn đủ đôi chân, có giỏi khinh công, cũng là sự thường, chứ bà thì bà cụt chân mà thuật khinh công của bà cao hơn bất cứ người nào còn đủ đôi chân, điều đó mới đáng khâm phục!

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Kể ra, vợ chồng ngươi giàu nghị lực vô tưởng! Như ngươi chẳng hạn, nhìn ngươi hiện tại, có ai ngờ ngày trước ngươi thọ bịnh như thế nào? Ta tưởng, cái hiệu Xú Sơn Thần của ngươi, phải thay đổi mới hợp lý. Bởi ngươi có còn xấu xí nữa đâu?

Liễu Sơ Dương khoát tay gấp:

– Không! Không thay đổi! Bằng mọi giá, tiểu đệ phải giữ cái hiệu đó, thơ thơ ạ, bởi con người có căn có bổn, đừng bao giờ quên căn quên bổn. Cha mẹ sanh ra tiểu đệ với dung mạo xấu xí, tiểu đệ cải sửa rồi, đó là một cái tội bất hiếu, bây giờ lại bỏ luôn cái hiệu nữa, thì còn làm người làm sao được? Cái hiệu nhắc nhở hình hài cha mẹ sanh ra kia mà! Bỏ hiệu, là bỏ nguồn gốc luôn, không được đâu, thơ thơ ơi!

Quan Sơn Nguyệt không thể hiểu nổi họ nói với nhau những gì, nhìn theo bóng Liễu Sơ Dương thoát đi trước theo cho kịp vợ, suy nghĩ mông lung.

Lạc Hành Quân chậm lại, chờ chàng, dù bà là một vị tiền bối cũng phải giữ lễ đối với khách.

Khi Quan Sơn Nguyệt tiến lên, bà cùng chàng thong thả bước đi. Bà vừa đi, vừa đưa tay chỉ Liễu Sơ Dương, thốt:

– Ngày trước, lão ấy có gương mặt đầy nốt rỗ, trông xấu xí vô cùng.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.

– Thú thật với tiền bối, tại hạ không tưởng là một con người khôi vĩ lẫm liệt như vậy, trước kia lại là một kẻ xấu xí nhất đời! Chắc Liễu tiền bối học được thuật cải sửa dung mạo tân kỳ tinh diệu lắm nên mới tự biến đổi mình như ngày nay!

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Dùng thuật cải sửa dung mạo, biến đổi mặt mày của mình, đó là việc rất thông thường, có gì đáng nói đâu? Cái điều đáng cho chúng mình ca ngợi, là sự kiên tâm của họ Liễu, lão ấy chuyên chú tập luyện một huyền công, chính môn công đó bức những chỗ thịt lõm, lồi ra bằng mặt, xóa mất nốt rỗ, rồi dần dần làm tiêu tan những lằn, những vết còn lại, biến gương mặt lão lành lặn như mặt người thường. Chỗ ảo diệu của môn công đó, là đồng với việc sửa chữa gương mặt bằng phẳng, tạo luôn cho lão một sắc da đẹp đẽ như các hạ đã thấy.

Bà dừng lại một chút, rồi tiếp:

– Năm xưa, khi họ lấy nhau thì vợ là một tàn phế nhân, còn chồng là một gã có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt, giả dĩ chỗ lồi, chỗ lõm, hai vợ chồng hầu như mất cả nhân dạng, họ bị bằng hữu đàm tiếu không ít. Họ không buồn, không giận ai, trái lại họ xem những lời chê bai đó, như một khích lệ, họ cố công luyện tập. Nhờ họ có nhiều nghị lực, nên sau một thời gian họ thành công, vợ nổi tiếng là tay phi hàng đệ nhất trong vũ lâm, chồng thì trở thành một hán tử oai hùng.

Quan Sơn Nguyệt hết sức thán phục:

– Thì ra bằng hữu cười chê họ, chẳng khác nào gián tiếp khuyến khích họ tự tân, tự cường!

Lạc Hành Quân gật đầu:

– Trong số bằng hữu có hảo ý khích lệ họ, đáng lưu ý nhất là Hoàng Hạc Tán Tiên.

Quan Sơn Nguyệt lo ngại:

– Họ thực sự có oán hận những người bên ngoài thì cười chê nhưng bên trong lại khích lệ chăng? Nếu có, thì gia sư không khỏi mất cảm tình của họ!

Lạc Hành Quân mỉm cười:

– Các hạ yên trí. Vợ chồng họ đã hiểu, già dám bảo đảm là tình bằng hữu giữa họ và lịnh sư, có tăng chứ không giảm.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Chắc là sự việc đó cách nay phải lâu lắm …

Lạc Hành Quân mơ màng, hồi ức lại những gì đã diễn ra trong thời xa xưa, tình hoài man mác. Một lúc lâu, bà thốt:

– Phải! Cách nay độ ba mươi năm rồi! Ba mươi năm! Một khoảng thời gian dài với một người, nhưng rất ngắn đối với sự việc giang hồ! Mới ngày nào đó, ai ai cũng còn là những trang thiếu niên, huyết khí phong cương, thích hoạt động, rồi chớp mắt đã thấy tất cả đều pha sương lên mái tóc, chẳng những thế, mỗi người phiêu bạt một phương trời, không thường gặp mặt nhau như ngày trước cùng hiệp đoàn, hiệp lũ, bôn tẩu khắp non sông! Cái nhiệt náo ngày xưa đã biến thành cái u buồn hôm nay! Nghĩ cho cùng, bao nhiêu năm xuôi ngược đó đây, cầm như vùng dậy trong giấc mộng dài, tỉnh mộng rồi, kiểm điểm lại, trong tay nắm được những gì của nhau, ngoài một mối tình hoài man mác? Cố nhân! Cố sự! Niềm lưu luyến sau phút giây về lòng đất lạnh, mãi mãi nặng đọng trong u hồn!

Quan Sơn Nguyệt xót xa vô cùng. Dù chàng chưa đến cái tuổi hoài cổ, nhưng con người rồi ai chẳng có lúc hồi đầu nhìn lại quãng đường qua. Lời nói của Lạc Hành Quân hôm nay, sẽ là những lời chàng sẽ nói sau này, sau ba mươi năm, bốn mươi năm …

Chàng lặng lẽ bước đi, bên cạnh Lạc Hành Quân, nghĩ xa, nghĩ gần, chàng lẩm nhẩm:

– Long Hoa Hội! Phong Thần Bảng!

Lạc Hành Quân nhìn sang chàng, trầm giọng bảo:

– Các hạ quên lời già ân cần dặn dò rồi sao? Đừng bao giờ đề cập cái đó trước mặt già, già sợ lắm!

Lạc tiểu Hồng đi bên cạnh mẹ và Quan Sơn Nguyệt, lúc đó mới cất tiếng:

– Có những sự việc quan trọng như vậy, sao từ lâu rồi mẹ vẫn dấu con?

Dượng rỗ chằng, rỗ chịt, mẹ cũng không tiết lộ cho con biết! Thì ra, cái danh hiệu Xú Sơn Thần quả có nguyên nhân!

Lạc Hành Quân gắt:

– Tiểu liễu đầu oán trách ta phải không? Ta làm sao đem những việc như vậy, thuật lại cho ngươi biết chứ?

Từ giây phút đó, cả ba im lặng đi bên nhau, không lâu lắm, họ đến đại sảnh.

Vào đại sảnh, họ thấy Liễu Sơ Dương và Lạc Tương Quân ngồi trên ghế, thần sắc an tường.

Lạc Tiểu Hồng nhanh chân, vào trước, còn Lạc Hành Quân và Quan Sơn Nguyệt dừng chân bên ngoài cửa sảnh đường, cả hai cũng nhìn quanh.

Là chủ nhân, Lạc Hành Quân cũng như hầu hết những chủ nhân trên đời, có thói quen khi xuất ngoại, dù chỉ trong chốc lát, trở về rồi là đảo mắt quan sát một vòng, xem có gì biến đổi chăng. Huống chi, Lạc Hành Quân đã là người trong giới giang hồ, và Hồ Hải Dị Tẩu có hứa hẹn sẽ đến đây, biết lão ấy đến lúc nào, ai dám bảo đảm là trước khi đến, lão không quẳng một vài viên sỏi dò đường?

Cho nên, cẩn thận, dè dặt, bao giờ cũng có lợi.

Phần Quan Sơn Nguyệt, chàng muốn nhìn qua cho biết cái phong quang của khu trang viện Tà Dương này như thế nào, nên không khỏi lộ phần nào tính kiếu kỳ.

Do đó hai người chậm lại một chút. Khi họ vào trong đại sảnh, thì đúng lúc Lạc Tiểu Hồng đang tường thuật cuộc gặp gỡ giữa nàng và Quan Sơn Nguyệt cùng Lưu Tam Thái cho vợ chồng Lạc Tương Quân nghe.

Thấy Quan Sơn Nguyệt bước vào, nàng bối rối thấy rõ.

Quan Sơn Nguyệt nghe lọt mấy tiếng cuối cùng, biết là nàng đang nói gì, điểm một nụ cười bảo:

– Lạc cô nương, cứ tự nhiên, thuật tiếp sự việc cho nhị vị tiền bối nghe.

Nhưng, nói gì thì nói đừng vu oan cho gã nam nhân uy hiếp một nữ nhân đấy nhé!

Chàng bước đến chiếc ghế cuối, ngồi xuống. Chàng biết rõ, các vị tiền bối này đều là những bậc dị nhân, họ có lối sống thoát tục, không câu, không thúc, thì đối với họ, chàng phải có thái độ tự nhiên, miễn sao đừng vượt khỏi phạm vi lễ giáo là được rồi.

Đem cái sáo thông thường vào cuộc tiếp xúc với họ, chỉ gây thêm sự bực bội cho họ, chứ chẳng ích gì. Cho nên, chàng thản nhiên ngồi xuống, có điều chàng chọn chiếc ghế ở cuối hàng, tỏ sự khiêm nhường một cách kính đáo.

Chàng thản nhiên, song Lưu Tam Thái lại áy náy quá chừng.

Thấy y bối rối Quan Sơn Nguyệt đưa mắt, ngầm ra hiệu, nhưng y vẫn xớ rớ mãi, chưa dám ngồi.

Liễu Sơ Dương mỉm cười thốt:

– Nhân huynh cứ tự nhiên, ngồi xuống đi. Bọn lão phu đã nghe Tiểu Hồng thuật lại sự tình trong đêm vừa qua. Chúng ta cứ xem nhau như đã quen biết từ lâu, chẳng có gì phải dè dặt quá độ.

Bấy giờ Lưu Tam Thái mới dám ngồi xuống bên cạnh Quan Sơn Nguyệt.

Lạc Tiểu Hồng cứ thuật tiếp. Nàng nói đến đoạn bức bách Hồ Hải Dị Tẩu phải nhảy xuống sông tránh đòn. Nói đến đó, nàng thích chí vô cùng, miệng vừa nói, vừa cười cả mắt nàng cũng cười luôn.

Khi nàng dứt lời, Lạc Hành Quân hỏi:

– Làm sao hiền muội và Liễu đệ biết được lão quái vật đang có mặt trong vùng?

Liễu Sơ Dương cười nhẹ:

– Sáng sớm hôm qua, tiểu đệ tiễn đưa một người khách, khi trở vào nhà, bắt gặp một tấm thiếp của lão, kèm theo một bức họa.

Lạc Tiểu Hồng trố mắt:

– Bức họa gì, hở Dượng?

Liễu Sơ Dương tiếp:

– Một bức Hiến Thọ Đồ.

Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:

– Chắc là Ma Cô Hiến Đào!

Liễu Sơ Dương lắc đầu:

– Không phải đâu. Chính Ma Cô Hiến Hoa.

Lạc Hành Quân chớp mắt thích thú:

– Nghĩa là sao?

Liễu Sơ Dương mỉm cười:

– Thời gian qua đã lâu rồi, thế mà lão ta vẫn nhớ mãi những việc từ mấy mươi năm trước! Lão ta vẽ trong bức đồ hình dáng của tiểu đệ năm xưa dĩ nhiên là với gương mặt xấu xí, hai tay tiểu đệ nâng một bãi phân trâu, trên bãi phân, có cắm một đóa hoa. Hoa rất tươi!

Lạc Hành Quân cười vang:

– Lão ta vẫn còn hằn học vì việc ấy à?

Lạc Tiểu Hồng trố mắt hỏi:

– Bức họa như thế, ngụ cái ý tứ gì?

Liễu Sơ Dương toan giải thích, Lạc Tương Quân trừng mắt gắt:

– Ngươi định nói gì chứ?

Liễu Sơ Dương rụt cổ, thè lưỡi dài dài rồi cười hì hì:

– Nhất vợ, nhì trời, bà ấy không cho nói, Dượng nào dám nói, điệt nữ ơi, thôi vậy, cố suy nghĩ, tự tìm hiểu.

Lạc Tương Quân dửng đôi mày liễu, hậm hực:

– Cái lão tặc ấy vẫn không chừa bỏ thói quỷ! Cứ theo bọn chúng ta mà ám mãi! Nếu ngày mai, lão giữ lời hứa, tìm đến đây, nhất định ta xé xác lão thành ngàn vạn mảnh, ta mới hả cho! Lão tưởng đầu, ta sợ lão lắm sao!

Lạc Hành Quân khẽ thở dài:

– Hiền muội hãy bình tĩnh, sự việc quan trọng vô cùng, không giản đơn như hiền muội tưởng! Năm xưa, lão đã tỏ ra là lợi hại lắm rồi, suốt ba mươi năm nay, hẳn lão ta có tiến bộ chứ, chỉ sợ cả ba chúng ta khó lòng thủ thắng trong cuộc chạm trán với lão lần này!

Lạc Tương Quân bất phục, cao giọng:

– Thơ thơ sợ lão tặc à? Sợ gì chứ? Lão tiến bộ, chẳng lẽ chúng ta lại đứng nguyên một chỗ sao? Rồi Thơ thơ sẽ thấy, ngày mai, tiểu muội rút từ đường gân tà quái của lão cho lão biết tay!

Thấy em cương quyết phi thường, Lạc Hành Quân cũng phấn khởi lên.

Thực ra thì chẳng phải bà ta ngán gì Hồ Hải Dị Tẩu, đành là lão có vũ công cao, song nước đến thì đất ngăn, địch tới thì chận đánh, sợ gì? Chẳng qua bà quen tánh cẩn thận, hành động là một việc, dè dặt là một việc, suy người, xét ta, nhân hậu mới xuất thủ. Bà không muốn em gái khinh địch mà thành có hại. Bà thốt:

– Chính lão, lão chẳng có gì đáng cho chúng ta sợ, cái người đáng sợ, là người ở sau lưng lão, hiền muồi và Liễu đệ cũng thừa hiểu là Thất Độc Thủ Pháp vồ cùng lợi hại …

Quan Sơn Nguyệt giật mình Lưu Tam Thái biến sắc, kêu lên:

– Thất Độc Thủ Pháp? Có phải thủ pháp của Phi Lạc Đà sử dụng chăng?

Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương cũng kinh hãi, trố mắt nhìn Lưu Tam Thái.

Liễu Sơ Dương hỏi:

– Các hạ cũng biết Thất Độc Thủ Pháp nữa sao? Phi Lạc Đà là ai?

Quan Sơn Nguyệt thay lời Lưu Tam Thái, tường thuật sự tình ngày trước.

Cuối cùng, chàng bổ túc một câu:

– Theo tại hạ nghĩ, thủ pháp đó không đáng sợ lắm, bởi Bành Cúc Nhân tiền bối giải khai được, thì các vị cũng giải khai được!

Lạc Hành Quân ngưng trọng thần sắc:

– Thủ pháp đó biến ảo vô lường, người sử dụng nó có trăm ngàn cách thức phát xuất, ta chỉ sợ Bành Cúc Nhân gặp lúc người đó thi triển cách thức giản đơn nhất, nên giải khai dễ dàng như vậy.

Bà dừng lại một chút rồi tiếp:

– Dù sao đi nữa, chung quy Thất Độc Thủ Pháp cũng đã xuất hiện trở lại trên giang hồ rồi. Chính cái điều đó mới đáng cho chúng ta lưu ý. Gia dĩ, kẻ sử dụng lại lấy Phi Đà làm lệnh, thì sự việc hẳn phải rắc rối lắm …


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.