Mặt trời đã lặn về hướng tây, những làn gió khô nóng từ ngoài thổi vào khiến cho vùng hẻo lánh này chẳng có được một buổi hoàng hôn mát mẻ. Cơn nóng bức ban ngày tưởng chừng hãy còn đè trên lòng người, trên những con đường nhỏ hẹp chỉ còn thưa thớt khách bộ hành.
Lúc này, một chiếc xe ngựa từ ngoài thành phóng vào, khi ngang qua cổng thành, gã đánh xe cho xe giảm tốc độ.
Tiếng vó câu giẫm trên con đường lát gạch, phát ra tiếng lọc cọc giòn giã. Rẽ qua con đường khác, cỗ xe ngựa dừng lại trước cửa một khách sạn.
Gã phu xe quát lớn một tiếng rồi nói :
– Thưa lão khách quan, đã đến thành Khang Tây Ba rồi đó! Lão khách quan cần trú điếm chứ?
Màn cửa sổ xe được vén lên, một ông lão râu trắng dài phủ ngực, mặt mày hiền từ thò đầu ra, ngước nhìn lên cửa khách sạn, chỉ thấy trên ấy có viết mấy chữ quái dị, bèn chau mày nói :
– Đây là khách điếm của người Hồi, còn cái nào khác không? Tốt nhất là khách điếm của người Hán.
Gã phu xe cười khan :
– Lão khách quan, nơi đây chỉ có hai khách điếm thôi, cái kia là của người Tạng, trong đó toàn là ngủ ván gỗ thôi, đêm lạnh chết đi được, hơn nữa lại không được sạch sẽ, lần trước tiểu nhân đến đây chính là ngủ trong cái khách điếm kia, khiến cho cả người đầy rận rệp, ngứa muốn chết, cuối cùng cũng phải…
Ông lão khoát tay ngắt lời :
– Thôi được rồi, đừng nói nữa! Ngươi hãy vào chọn cho lão phu một căn phòng tốt hơn hết…
Gã phu xe chưng hửng :
– Thưa lão khách quan, ở đây tổng cộng chỉ có ba cái giường hầm lớn, làm gì có phòng khách.
Ông lão ném ra một miếng bạc vụn :
– Vậy ngươi hãy bao cho lão phu một căn phòng hầm, bảo họ đêm khỏi cần đốt phân ngựa, lão phu có mang theo nhiều y phục, chẳng sợ lạnh đâu.
Gã phu xe đón lấy bạc, lẳng lặng đi vào trong khách điếm, không lâu sau trở ra cùng với một gã phổ ky.
Ông lão bước xuống xe ngựa, nói :
– Trong ấy là cháu ngoại của ta, hắn có bệnh trong mình, các ngươi hãy cẩn thận cõng hắn vào, đừng làm hắn ngã đấy.
Nói đoạn, ông lão đi vào khách điếm trước.
Gã phu xe chui vào trong xe, ẳm ra một thanh niên ăn vận sang trọng và khoác áo bông ngắn, gã nói :
– Vị này là Thiếu trại chủ trại ngựa Lạc Nhật ở Tân Cương, đến Tứ Xuyên du học chi đó, lại bị mắc bệnh ngặt nghèo, nên ông ngoại y mới cấp tốc đưa y trở về Tân Cương.
Gã phổ ky đón lấy người thanh niên, vẻ ngưỡng mộ sờ vào y phục của chàng ta, nói :
– Trại ngựa Lạc Nhật là một trại ngựa lớn nhất vùng Tân Cương, vị thiếu gia này thật có phước, ngươi xem nốt ruồi đỏ trên mi tâm này chính là đại phú đại quý. Ôi! Người giàu có như bọn họ động một chút là sinh bệnh, còn bọn nghèo khó như chúng ta tần tảo quần quật quanh năm, đến như bệnh là cái gì cũng chẳng biết…
Gã phu xe nói :
– Hai ta là kẻ nghèo khó, đâu có phước mắc bệnh, giả sử mắc bệnh thì không thể đi làm, chỉ có nước chết đói.
Hai người than thân trách phận xong bèn khiêng vị thanh niên công tử vào trong nhà, chui qua mái hiên lụp xụp, đi đến phía sau một gian nhà đất.
Ông lão nọ đang ngồi xếp bằng trên miệng hầm, trong tay đang bợ một túi thuốc nước hút rồn rột, ánh nến trên bàn soi bóng ông lên vách, không ngừng lay động.
Trông thấy người thanh niên được khiêng vào, lão đằng hắng rồi nói :
– Các ngươi hãy ra ngoài xe mang chăn vào đây.
Gã phu xe ứng tiếng đi ra, còn lại gã phổ ky cười sởi lởi nói :
– Lão gia gia có cần mời đại phu khám bệnh cho tiểu thiếu gia chăng?
Ông lão chau mày :
– Thôi đi đi! Ai bảo ngươi đứng đây thế?
Gã phổ ky vội khom mình lui ra khỏi phòng, miệng làu bàu đi sang phòng hầm đối diện, vừa ra đến cửa, chợt thấy một thanh niên mặt vàng như nghệ, hết sức xấu xí đi vào.
Gã phổ ky giật nảy mình hỏi :
– Ngươi vào đây chi vậy?
Người nọ ăn vận hệt như người vùng Thanh Hải, trợn trừng mắt nói :
– Ta vào đây trú, ngươi đui mắt hả?
Đoạn chộp tay gã phổ ky, thấp giọng nói :
– Vừa rồi phải chăng có một vị lão tiên sinh tóc bạc râu dài cùng với một bệnh nhân thanh niên vào trú trong điếm?
Gã phổ ky ngẩn người, cảm thấy cánh tay như bị móng sắt bấu vào, đau đến độ gã phải rống lên :
– Này! Buông tay đi chứ…
Thiếu niên quái xấu thoáng biến sắc mặt, nạt khẽ :
– Ngươi nói khẽ một chút được không?
Nói đoạn buông tay ra. Gã phổ ky xoa bóp cánh tay, sửng sốt nhìn người thiếu niên quái xấu không mấy mạnh khỏe kia, dường như không ngờ y lại có sức mạnh dường ấy.
Nhìn xuống bàn tay thiếu niên nọ, gã chợt phát hiện đôi bàn tay kia khá là trắng trẻo và thon thả, so với bộ mặt xấu xí kia thì chẳng tương xứng chút nào.
Người thiếu niên thấy gã phổ ky thừ ra nhìn vào cánh tay mình, liền giấu tay ra sau lưng, quát khẽ :
– Ta hỏi ngươi có hay không?
Gã phổ ky giật mình, vội đáp :
– Có có có! Vị thiếu gia mắc bệnh có một nốt ruồi đỏ ở mi tâm, là tiểu chủ của trại ngựa Lạc Nhật ở Tân Cương, khách quan hỏi có phải y không?
Thiếu niên quái xấu gật đầu, móc ra một nén bạc chừng bảy lạng, trao cho gã phổ ky và nói :
– Đừng cho lão gia ấy biết là đã có người hỏi. Đây, cho ngươi đấy, lát nữa cho ta mượn cái xẻng nhá.
Gã phổ ky đón lấy nén bạc, mừng đến mức cơ hồ muốn quỳ sụp xuống. Ngẩng lên nhìn thấy người thiếu niên quái xấu đứng nơi cửa đưa tay vẽ hai cái lên vách, lập tức lách vào trong phòng hầm bên phía bên phải.
Gã phổ ky thấy gã phu xe đang lễ mễ ôm một gối chăn mền bước vào, vội giấu nén bạc vào lòng bước ra ngoài cửa. Lách người ngang qua gã phu xe, y chẳng thèm đếm xỉa gì đến, ngẩng cao đầu thầm nhủ:
“Thời vận của Mã Nhị Thuần này đã đến hồi xoay chuyển rồi, thần A La phò hộ cho hôm nay được gặp thần tài, cũng trở thành người giàu có, sao lại quen với một tên phu xe được?”
Gã phu xe cũng chẳng để ý đến Mã Nhị Thuần không đếm xỉa đến mình, vội vã đi vào trong.
Mã Nhị Thuần đứng nơi cửa, thấy trên góc vách có một ngôi sao nhỏ, cánh sao phía dưới còn được kéo dài như một cái đuôi. Gã phì cười thầm nhủ:
“Tên này thật nực cười, to đầu thế này mà còn vẽ bừa ba cái hình trăng sao như là trẻ con vậy”.
Gã nhổ một bãi nước miếng lên bàn tay, chùi mất ngôi sao kia đi, hít sâu một hơi, vừa định quay người đi vào trong quán, chợt mắt hoa lên, đã thấy một người đàn ông trung niên tay trái cầm một bức phiên dài, tay phải cầm một cái chuông đồng, trên vai vác một cái rương đứng trước cửa điếm. Người đàn ông trung niên trỏ vào bức phiên dài, lắc chuông nói :
– Chuyên trị các loại nghi nan tạp chứng, tiểu nhi bách bệnh, phụ nữ bách khoa, đảm bảo uống thuốc vào là hết bệnh ngay…
Mã Nhị Thuần sửng sốt :
– Cái gì? Uống thuốc vào là hết bệnh ngay ư?
Vị lang trung nọ có bộ mặt xương xẩu và dài thượt, khắp người bám đầy bụi, hiển nhiên là đã đặt chân đến nhiều nơi, ánh nắng đã làm cho gương mặt ngựa của y đỏ bừng, y trừng mắt nói :
– Bổn đại phu vừa mới chữa khỏi bệnh cho Phật Sống Điềm Châu ở Mông Cổ về đây, y thuật thần thông chẳng kém gì Biển Thước với Hoa Đà, ngươi dám xem thường bổn đại phu ư?
Mã Nhị Thuần bị vẻ hung hãn của vị lang trung làm cho khiếp vía, ngớ ra chưa kịp trả lời thì đã bị lão lang trung tóm lấy ngực áo, nói :
– Ngươi có muốn kiếm mười lạng bạc chăng?
Mã Nhị Thuần vừa định hét toáng lên, nghe có thể kiếm được bạc, liền lấy lại cam đảm nói :
– Làm thế nào mà kiếm được mười lạng bạc?
Vị lang trung buông tay ra nói :
– Nghe đâu chỗ ngươi có một ông lão giàu có mới đến phải không?
Mã Nhị Thuần gật đầu :
– Lão ta còn có một đứa cháu ngoại, là thiếu chủ của trại ngựa Lạc Nhật ở Tân Cương, nơi mi tâm có một nốt ruồi đỏ.
– Đúng rồi!
Vị lang trung mắt vút qua một vẻ mừng rỡ, từ trong lòng móc ra một nén bạc nhét vào tay Mã Nhị Thuần, nói tiếp :
– Ngươi chỉ cần khuyên vị lão khách quan râu bạc kia tìm đại phu xem bệnh, năm lạng bạc này là của ngươi, khi nào xem bệnh xong, ngươi còn có thêm năm lạng bạc nữa.
Mã Nhị Thuần mừng, thầm nhủ:
“Hôm nay quả là có thần tài gõ cửa, những nén bạc trắng phau cứ đua nhau nhét vào tay mình. Hắc hắc, Mã Nhị Thuần này ngày mai sẽ mua lấy một mụ vợ, mở một cái khách điếm…”.
Gã nhét nén bạc vào lòng nói :
– Xin đại phu hãy vào đây nghỉ, tiểu nhân sẽ đi hỏi thử ông cụ đấy ngay bây giờ.
Gã hí hửng đi về phía phòng hầm, đứng nơi cửa cất tiếng gọi :
– Lão gia gia, tiểu nhân có điều xin được bẩm cáo với lão gia gia.
– Vào đi.
Mã Nhị Thuần vào trong phòng, thấy ông lão râu tóc bạc phơ nọ đang ngồi xếp bằng trên hầm, trước mặt có một mảnh da dê được mở ra, trên đó có vẽ đầy những đường nét màu đen, dường như là địa đồ chi đó.
Gã đảo mắt, thấy người thanh niên nọ vẫn nằm im lìm trên nắp hầm, quay mặt vào trong, chẳng rõ đã ngủ hay chưa, gã cười xởi lởi nói :
– Thưa lão gia gia, tiểu nhân xin hỏi thử xem lão gia gia có cần mời đại phu không ạ?
– Đại phu?
Bất Lão Thần Tiên Lữ Vi Hóa trầm ngâm giây lát, đoạn nói :
– Đại phu ở địa phương này ư?
Mã Nhị Thuần dựa vào ý của Lữ Vi Hóa, gật đầu đáp :
– Vâng! Là đại phu ở địa phương này. Lão nhân gia ấy là một vị đại phu danh tiếng nhất trong vòng ba trăm dặm đây, ai mà chẳng bảo ông ấy y thuật cao minh, hơn hẳn Biển Thước với Hoa Đà gì gì đó… Nửa năm trước đây, Phật Sống Điềm Châu gì đó ở Mông Cổ gì đó bị mắc bệnh, đã đặc phái người đến đón ông ấy đi chữa, mãi đến nửa tháng trước mới về…
Lữ Vi Hóa cười cười :
– Y thuật của ông ấy quả đúng như lời ngươi đã nói chứ?
Mã Nhị Thuần thấy những lời khoác lác của mình đã có hiệu lực, bèn nói tiếp :
– Tất nhiên rồi, người ta là do tổ truyền mười ba đời, bí phương linh diệu như thần, nghe đâu tổ tông bảy đời trước của ông ấy còn là Ngự y gì đó tại Bắc Kinh nữa đấy.
Lữ Vi Hóa nực cười, thầm nhủ:
“Bách Lý Hùng Phong đã bị lão phu phong tỏa ba đại yếu huyệt, hai đường kỳ môn kinh mạch, để xem tên đại phu tổ truyền mười ba đời gì đó làm cách nào để chữa trị đây…”.
Những ngày qua vì tránh tai mắt của Thiên Tâm giáo, lão đã thuê hẳn một chiếc xe ngựa, hóa trang thành một ông lão phú hào đưa cháu ngoại trở về nhà, với tốc độ nhanh nhất đi đến Tân Cương.
Tuy lão chưa thấy qua võ công của Bách Lý Hùng Phong ra sao, song đã từng thấy chị em Vũ Văn Mộng gục ngã, Lương Long với chàng thì hai bên đều thụ thương, nên đã hiểu đại khái về căn cơ võ công của Bách Lý Hùng Phong rồi.
Do đó suốt chặng đường, lão chẳng những không chữa thương cho Bách Lý Hùng Phong, trái lại còn phong bế kinh mạch và huyệt đạo của chàng, khiến chàng không có cơ hội tự điều thương lấy.
Bởi lúc chàng tỉnh táo thì phải bị Lữ Vi Hóa bức hỏi về hạ lạc của mảnh ngọc thạch, song chàng nào biết mảnh ngọc thạch gì, tất nhiên đâu thể nói với Lữ Vi Hóa, như vậy Bất Lão Thần Tiên cũng đâu thể buông tha cho chàng.
Nên cứ thế, ngày đêm đăng trình, Bách Lý Hùng Phong cứ luôn hôn mê, không có chút sức lực nào phản kháng.
Do bởi Bất Lão Thần Tiên ứng phó khôn khéo, nên chẳng một ai biết lão là một cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, cứ ngỡ lão là một vị đại phú hào.
Xưa nay lão quen thói phóng túng, đâu như phen này cứ chui rúc trong xe ngựa, nỗi buồn bực đã khiến lão nảy ra ý muốn trêu cợt vị “thần y” tổ truyền mười ba đời nọ.
Lão nở nụ cười đắc ý, khoát tay nói :
– Vậy thì ngươi hãy đi mời ông ấy đến đi!
Mã Nhị Thuần mừng rỡ, khom lưng cúi đầu lui ra khỏi phòng, lát sau trở vào cùng với một vị lang trung tay xách rương thuốc.
Lữ Vi Hóa tay bợ túi thuốc nước đứng lên, chỉ thấy vị đại phu nọ tuổi trạc tứ tuần, mặt dài như mặt ngựa, khốn nỗi dưới cằm lại để một bộ râu dê, sống mũi gác một cặp kính, mặt đỏ bầm trông phát gớm.
Lữ Vi Hóa thoáng chau mày :
– Vị này chính là thần y tổ truyền mười ba đời đấy ư? Xin hỏi đại phu quý tánh?
Đại phu nọ đáp :
– Không dám! Không dám! Tại hạ họ Mã…
Lữ Vi Hóa bật cười :
– Thảo nào vị phổ ky này cứ mãi khoác lác cho đại phu, té ra hai người đồng tông.
Mã Nhị Thuần ngớ người, đoạn cười nói :
– Lão gia gia, tiểu nhân xin cáo lui.
Lữ Vi Hóa chờ Mã Nhị Thuần đi khỏi, cẩn thận xem xét vị đại phu này một lúc, nhưng không thấy có điểm gì khả nghi, lão chỉ Bách Lý Hùng Phong và nói :
– Hắn chính là cháu ngoại của lão phu, xin nhờ đại phu chẩn đoán cho kỹ, xem thực sự đã mắc phải bệnh chi?
Mã đại phu đặt rương thuốc lên bàn, từ trong lấy ra một cái hộp nhỏ bằng kim luộc, chậm rãi mở ra, lấy ra một mảnh trúc dài hẹp và dài, hắng giọng rồi nói :
– Đạo y thuật gồm có bốn đại yếu quyết, đó là nhìn, nghe, hỏi và khám…
Y bước đến bên cạnh Bách Lý Hùng Phong, ngồi xuống và nói tiếp :
– Sở dĩ gọi là nhìn, nghe, hỏi, khám đó là nhìn khí sắc, nghe tiếng nói, hỏi bệnh tình, khám lục mạch, vị tôn lệnh này…
Lữ Vi Hóa “a” một tiếng, chỉ thấy Mã đại phu lật người Bách Lý Hùng Phong qua, ngưng thần xem xét, sau đó lắc đầu, đưa tay bợ cằm Bách Lý Hùng Phong cho há miệng ra, đưa mảnh trúc vào khuấy lưỡi chàng, gật đầu nói :
– Vâng! Vị thiếu gia này đã bị phong hàn, khí thế ứ đọng trong nội phủ nên mới mê man bất tỉnh, chỉ cần châm cứu và uống thuốc thư khí tĩnh thần, bồi bổ nguyên dương là sẽ khỏi ngay. Mời lão tiên sinh hãy đến xem kinh mạch này…
Lữ Vi Hóa thầm kinh hãi:
“Tên này tuy trông tướng mạo quái dị tầm thường, song y lý cũng khá tinh tường đấy chứ”.
Lão bước đến gần, chỉ thấy Mã đại phu nắm lấy Mạch Môn của Bách Lý Hùng Phong và nói :
– Xin lão tiên sinh hãy sờ vào đường kinh mạch này rồi ấn vào da thịt, thì sẽ biết ngay lời nói của tại hạ không ngoa…
Lữ Vi Hóa thấy đường kinh mạch đó nổi cộm lên nơi cổ tay, lại là đốc mạch thủ Thiếu Dương, lão thầm kinh hãi:
“Lão phu đâu có điểm vào đốc mạch thủ Thiếu Dương của hắn, chẳng hiểu vì sao hắn lại như vậy?”
Lão y lời đưa tay sờ lên đường kinh mạch nơi cổ tay Bách Lý Hùng Phong, lại ấn mấy cái lên da thịt.
Nhưng lão lại thấy chẳng có điều chi không ổn, vừa định hỏi đại phu, bỗng thấy nơi lưng bàn tay ngứa ngáy, từ ngón tay lan rộng ra, thoáng chốc đã lan khắp người, lão bất giác tái mặt.
Lão lặng thinh, từ trong túi thuốc nước vụt đưa ra thúc vào huyệt Mệnh Môn nơi bối tâm Mã đại phu.
Mã đại phu mọp người xuống, như thể xô Bách Lý Hùng Phong vào trong hầm như trước, nhẹ nhàng tránh khỏi đòn tấn công của đối phương. Đoạn quay đầu lại nói :
– Lão tiên sinh, trong thiên hạ hiện nay có một thứ độc chất có thể truyền qua cơ thể con người, chẳng hay lão tiên sinh có biết…
Chỉ trong thoáng chốc, Lữ Vi Hóa đã cảm thấy nơi phế phủ cũng hết sức ngứa ngáy và lan tận đến đáy tim, khiến lão thật muốn móc trái tim ra mà gãi cho đã ngứa.
Đại phu nọ mỉm cười :
– Trên đỉnh Bắc Thiên Sơn có một loại Tử Tuệ Hoa, và trong tuyệt cốc nơi phía nam Điểm Thương vùng Miêu Cương lại có sản sinh ra một loại Hồng Cân thảo, hai loại dược vật ấy nếu chia ra thì không hề độc hại, song nếu pha lẫn vào nhau thì lại độc hại vô cùng.
Y chầm chậm đứng lên nói tiếp :
– Điều đáng sợ nhất là độc này khi phát ra vô hình vô ảnh, phải đến khi hai loại độc tính hợp nhau thì mới phát sinh phản ứng, nhưng khi ấy thì đã muộn rồi.
Ngay khi đối phương đang nói, Lữ Vi Hóa đã cố vận khí dồn độc tính ra ngoài, nhưng vô hiệu, cảm giác ngứa ngáy càng lúc càng tăng, khiến toàn thân lão tê dại không còn cảm giác.
Lữ Vi Hóa nở một nụ cười nham hiểm nói :
– Lão độc vật, không ngờ ngươi lợi hại đến vậy, nhưng lão phu không hiểu tại sao loại Tịch Thể Truyền Độc, truyền độc qua thân người này tại sao lại không gây tổn thương đến tên tiểu tử kia…
Độc Thần Phùng Kim Nhận gỡ cặp mắt kính xuống, cầm mảnh trúc trong tay nói :
– Mảnh trúc này lão phu đã ngâm trong tinh chất của hoa Tử Tuệ ba giờ, còn cỏ Hồng Cân thảo thì ở trong chiếc hộp nhỏ bằng kim loại của ta.
Y đưa tay vuốt mặt, chiếc mặt nạ da liền rơi ra, cười nói :
– Cái này là do ta giết một người ở dọc đường, đã làm thành một cách vội vàng, ta vốn sợ ngươi có thể nhận ra, ai ngờ ngươi lại tưởng mình thực là lão trượng nhân của Đô Thiên Thần Ma Thuần Vu ở trại ngựa Lạc Nhật…
Lữ Vi Hóa ngồi tiu nghỉu trên ghế than thở :
– Quả đúng là có vay có trả, lão phu cả đời đã dùng thủ đoạn để hại người, không ngờ giờ đây lại táng mạng dưới thủ đoạn của kẻ khác.
Độc Thần Phùng Kim Nhận cười tợn :
– Hôm nọ lão phu bị ngươi ám toán, hôm nay lão phu trả lại cho ngươi, không quá đáng đấy chứ?
Lữ Vi Hóa lắc đầu :
– Không quá đáng, vậy có chi là đáng kể? Thủ đoạn của lão phu từng sử dụng hiểm ác hơn vậy nhiều, có điều là lão phu không hiểu tại sao tên tiểu tử này lại không bị trúng độc? Điều đó khiến lão phu chết không nhắm mắt.
Độc Thần Phùng Kim Nhận cười đắc ý :
– Lão phu đã thử qua một lần rồi, tên tiểu tử này dường như đã trải qua Thối Cốt đại pháp nên không sợ bách độc xâm phạm, không thì lão phu chẳng đã giết chết luôn tiểu tử này còn gì?
– À, thì ra vậy.
Lữ Vi Hóa đau khổ cúi gầm đầu. Độc Thần mắt thấy Lữ Vi Hóa đã sắp chết đi, mình sẽ đoạt được một kho tàng và bí kíp to lớn nhất gần trăm năm nay, bèn đắc ý nói :
– Hiện thời tuy rằng lão phu phải cậy nhờ vào độc vật, nhưng mai sau sẽ có thần công vô địch thiên hạ, tất không cần nhờ cậy vào độc vật nữa.
Lữ Vi Hóa bỗng ngẩng lên :
– Lão độc vật, ta e rằng trong tương lai ngươi vẫn phải cậy nhờ vào độc vật thôi.
Độc Thần ngớ người, chỉ thấy Lữ Vi Hóa hai tay vung lên, hai luồng sáng bạc lóe lên, đảo một vòng lớn, đan chéo vào nhau bay về phía mình.
Phụp! Ngọn nến bị tiện đứt, ánh lửa phụt tắt, trong phòng liền trở nên tối om. Căn phòng vừa hẹp vừa thấp, không có ánh nến, đưa tay ra không thấy năm ngón.
Trong bóng tối, chỉ nghe Lữ Vi Hóa đắc ý cười vang nói :
– Lão độc vật, con người không nên tự mãn, đắc ý quá mức không hay đâu!
Độc Thần liên hoàn phóng ra ba chưởng, đánh cho món ám khí có thể tự động bay vòng văng trở về, giận dữ mắng :
– Hay cho lão gian xảo họ Lữ kia, ngươi sắp chết đến nơi rồi mà còn cố vùng vẫy ư, chả lẽ lão phu còn sợ ngươi sao?
Lữ Vi Hóa nghe tiếng gió đón lấy hai ngọn ám khí, hai tay vung chéo, lại ném trở ra. Đồng thời lão di bộ lạng ra bốn bước, cười nói :
– Lão độc vật, ngươi có biết danh hiệu Bất Lão Thần Tiên của lão phu do đâu mà có không?
Độc Thần cũng chuyển đổi phương vị, trầm giọng :
– Lão già chết tiệt, ngươi chẳng là đã ép buộc lão khốn kiếp Cập Thời Vũ Chu Bác ở Chu gia đại bảo tại Xuyên Tây tuyên bố trước thiên hạ võ lâm…
Lữ Vi Hóa bật cười :
– Ha ha! Lão độc vật khá lắm, chuyện cũ hồi ba mươi năm trước còn nhớ rõ như vậy, nhưng ngươi còn nhớ món lễ vật mà gã Đường Vân Long, gia trưởng của Đường môn tại Xuyên Tây đã đưa đến để mừng thọ sáu mươi của tên tiểu tử Chu Bác chăng?
Độc Thần bỗng kêu lên tiếng quái dị :
– Hay nhỉ! Lữ lão gian, có lẽ món thánh dược giải độc Bách Bộ Hoàn Hồn tán của nhà họ Đường đã bị ngươi lấy trộm, thảo nào ngươi đã bị trúng một chưởng Thiên Độc chưởng của lão phu hồi hai mươi năm trước mà không chết.
Bất Lão Thần Tiên Lữ Vi Hóa cười nói :
– Chính tay Chu Bác đã dâng tặng cho lão phu, sao lại là trộm…
Độc Thần ré lên :
– Lữ lão gian, Bách Bộ Hoàn Hồn Tán tuy thần diệu, nhưng không giải trừ được chất độc vô ảnh ấy đâu, ngươi vẫn sẽ bị độc phát toi mạng bất kỳ lúc nào thôi.
Lữ Vi Hóa cười khan :
– Chỉ cần lão phu không chết ngay thì vẫn có cách tìm được thuốc giải.
Độc Thần lớn tiếng :
– Ngươi đã bội ly Thiên Tâm giáo, không sợ Giáo chủ tìm ngươi ư? Chả lẽ thủ đoạn của Bạch Đà sơn chủ ngươi không biết sao? Họ…
Y nói chưa dứt bỗng rú lên :
– Ui da! Lữ lão gian, ám khí của ngươi là gì thế này?
Lữ Vi Hóa cười khẩy :
– Đó là Khúc Côn Bản mà lão phu mang về từ Xiêm La, sửa đổi một ít và đặt lại tên là Hồi Toàn Nhận.
Lão vung tay, lại hai ngọn Hồi Toàn Nhận nữa được phóng ra, nói :
– Lão phu thưởng cho ngươi hai ngọn nữa đây!
Đoạn tung người nhảy lên trên hầm. Bốn ngọn Hồi Toàn Nhận bay loạn xạ khắp trong phòng, phát ra tiếng gió rít vụt vù, cơ hồ bay khắp cả mọi xó xỉnh.
Trong bóng tối, Độc Thần chỉ bằng vào tiếng gió mà bay nhảy né tránh, thật vô cùng khổ sở, y chợt nảy ra một cách, bỗng liên tiếp bổ ra ba chưởng, đoạn phi thân nhảy lên trên hầm.
Ý định của y là mượn vào Bách Lý Hùng Phong để buộc Lữ Vi Hóa dừng tay lại.
Song y vừa nhảy lên, y chạm vào một chòm râu dài, mới hay Lữ Vi Hóa cũng đã nhảy lên trên giường từ trước.
Y lẳng lặng liên tiếp phóng ra năm chưởng. Lữ Vi Hóa chẳng chịu kém, hơi lùi ra sau, đồng thời cũng đánh ra năm chưởng.
Trong phòng vang lên năm tiếng nổ rền, hai người cùng lùi ra sau hai bước, bốn ngọn Hồi Toàn Nhận đang bay vì chịu sức xoáy tương phản của khí kình, đều rơi hết xuống đất.
Độc Thần bỗng tức tối hét :
– Lữ lão gian, tên tiểu tử ấy đâu rồi?
Lữ Vi Hóa còn sợ đó là quỷ kế của Độc Thần bèn lặng thinh không đáp, lạng người sang bên, soát hết cửa bên hầm đất, làm gì còn bóng dáng Bách Lý Hùng Phong đâu nữa?
Lão sững người, đầu óc xoay qua hàng trăm ý nghĩ, chợt hét lớn :
– Lão độc vật, đội nóc nhà!
Lữ Vi Hóa phất mạnh hai tay, tung người lên cao, rào một tiếng vang rền, nửa bên nóc nhà đã bị xuyên thủng, tiếp theo đó lại một tiếng vang dội, nửa bên nóc nhà kia cũng đã bị Độc Thần đội thủng.
Bầu trời đầy sao soi xuống sáng cả căn phòng, nhưng ngoài hai người ra, Bách Lý Hùng Phong đã biến mất như làn không khí.
Hai người cùng đưa mắt nhìn nhau, buông tiếng cười gằn, bốp bốp cùng đối nhau hai chưởng, rồi đồng loạt phi thân xuống đất, biến mất trong bóng đêm mịt mù.
* * * * *
Màn đêm vừa mới giăng ra không bao lâu, bầu trời xanh biếc treo đầy những vì sao lấp lánh, vầng trăng lưỡi liềm hệt như chiếc thuyền con trong mộng ảo, chở theo ông già thời gian cùng với bao niềm hy vọng chầm chậm lướt đi.
Đêm của vùng này đến sớm hơn, tiếp cận với vùng đại mạc, khí hậu cũng chịu ảnh hưởng nhiều bởi vùng sa mạc ngày thì nóng rực, đêm thì lạnh đến mức khắp phố phường không tìm được lấy một con chó hoang.
Đêm tĩnh lặng, cái thành nhỏ im ắng, bỗng từ một góc tường chui ra một bóng người.
Y ngước trên trời cao, ánh sao soi trên người y, thì ra là người thiếu niên quái xấu đã vào trong khách điếm hồi chiều.
Y khẽ buông tiếng thở dài lẩm bẩm :
– Sao chẳng thấy một người nào cả thế nhỉ? Nếu họ mà trông thấy ký hiệu do ta đã lưu lại tại mỗi nơi quan trọng, lẽ ra phải đến đây rồi. Họ không đến, bảo ta một mình đối chọi với hai tay cao thủ này, làm sao mà rút lui an toàn?
Dựa vào vách, y hít thở một hơi đoạn tiếp :
– Vì oan gia ấy, không chừng đành phải liều mạng thôi.
Y lách người một cái, liền khuất vào trong một cái hang to cạnh góc tường.
Chừng nửa giờ sau, chỉ nghe một tiếng vang khẽ, một chiếc xẻng bị vứt ra đường, liền theo đó đã thấy gã thiếu niên quái xấu chui ra.
Động tác của y rất nhanh nhẹn, khom lưng lôi một cái bao dài ra, sau đó vác lên vai phi thân ra ngoài thành.
Qua khỏi một ngọn đồi nhỏ đã thấy một con rạch khá sâu. Bên cạnh con rạch có một ngôi thần miếu hoang phế, phía sau ngôi thần miếu có một cây cổ thụ cao lớn, xòe cành rộng như một cái dù khổng lồ, cành lá sum sê che cản hết ánh trăng sao.
Gã thiếu niên quái xấu tần ngần đứng trên đỉnh đồi, theo lời đồn của dân chúng quanh vùng, nơi đây thường có nhiều ma quỷ dữ tợn xuất hiện, y trấn tĩnh tâm thần thầm nhủ:
“Vũ Văn Mộng ơi! Xưa nay ngươi vẫn tự hào là nữ trung hào kiệt, không sợ bất kỳ nguy hiểm nào, sao hôm nay lại trở nên nhát gan như thế này?”
Đoạn phi thân về phía ngôi miếu hoang. Vào đến bên trong, chỉ thấy nhện giăng bụi bám, dưới đất bừa bộn toàn là rơm cỏ, cơ hồ không có lối đi vào.
Vũ Văn Mộng chau mày thầm nhủ:
“Sao ở đây bừa bộn thế nhỉ? Hẳn là lũ mục đồng lân cận đã chăn dê ở đây, hễ gặp trời mưa thì đi vào nghỉ ngơi nên mới làm cho bẩn thỉu thế này”.
Nàng lấy ra một cái hỏa tập ra bật cháy. Dưới ánh lửa lập lòe, mắt nàng lướt qua những đống rơm cỏ, trông thấy một cái thần án cạnh tường liền thoáng lộ vẻ mừng rỡ.
Vượt qua những đống rơm cỏ, nàng đến bên chiếc thần án, đặt cái bao dài cặp dưới nách lên đó.
Nàng thở phào một hơi, đoạn từ trong dây lưng lấy ra một vật bằng giấy cứng xếp thành hình dẹt, nắp áo rung một cái liền xòe ra, sau đó dùng hỏa tập đốt cháy chiếc tim ngòi cắm ở giữa.
Có lẽ đó là chiếc đèn dầu nàng đã tự làm lấy bằng giấy thiếc để dùng trên bước đường giang hồ, có thể gấp lại mang bên mình rất tiện lợi.
Dưới ánh đèn dầu mờ nhạt, nàng cởi chiếc bao dài ra, bên trong té ra là Bách Lý Hùng Phong đang nhắm mắt nằm im lìm.
Nhìn gương mặt nhợt nhạt của chàng, Vũ Văn Mộng với giọng xót xa nói :
– Hùng Phong ơi Hùng Phong! Chàng anh hùng dường nào? Sao giờ đây lại bị người ta bỡn cợt trong tay như thể trẻ con thế này?
Tâm trạng nàng lúc này đang lẫn lộn cả xót thương và oán hận, song tình yêu vẫn chiếm phần hơn, không thì nàng đâu mạo hiểm lặn lội đuổi theo chàng như thế này.
Giờ đây, trông thấy bộ dạng tội nghiệp của Bách Lý Hùng Phong, bao cơ cực oán hờn thảy đều tan biến.
Nàng thơ thẩn nhìn vào mặt Bách Lý Hùng Phong, hồi lâu mới thở dài não nuột, lẩm bẩm :
– Oan gia ơi hỡi oan gia, bất kể chàng đối với tôi như thế nào, tôi cũng không bao giờ hận chàng…
Nàng chơm chớp mắt, ngẩng lên, làn mi rậm đã treo vài giọt lệ long lanh.
Bức tượng thần phía sau thần án vẫn im lìm bất động, bộ râu dài bám đầy bụi trắng xóa.
Vũ Văn Mộng thì thầm :
– Trên có thần minh, tấm lòng của tiểu nữ có trời chứng giám, quyết không dối trá, nếu cha già có điều chi sai trái đối với Hùng Phong, tiểu nữ xin nguyện gánh chịu giùm cha già, tiểu nữ nào muốn trở thành kẻ thù của chàng…
Nàng chẳng rõ Bách Lý Hùng Phong có thù hận lớn lao gì với Bạch Đà sơn, nhưng nàng lại ôm ấp tấm lòng muốn hóa giải niềm hận thù ấy, làm những gì mà mình nhận thấy nên làm.
Âm thầm cầu khấn một hồi đoạn nàng lau khô nước mắt, từ trong túi da lấy ra một lọ ngọc trắng, mở nắp trút ra một hoàn thuốc.
Nàng với giọng trìu mến nói :
– Đây là viên Đại La Hoàn mà sư phụ đã cho, tôi đã cất giữ từ bốn năm qua, tiếc không dám uống, hôm nay…
Bỗng nàng vỗ một cái lên đầu, gượng cười nói :
– Chàng đã bị lão quỷ kia phong tỏa huyệt đạo, không nhúc nhích được và đã mất tri giác, sao mi lại còn nói chuyện với chàng? Ôi! Hôm nay ta sao thế này? Cứ lẩn tha lẩn thẩn hoài!
Nàng đưa tay xoa lên người Bách Lý Hùng Phong, vận chỉ thăm dò những nơi huyệt đạo bị phong tỏa.
Già Âm sư thái vang danh với môn Lan Hoa Phất Huyệt Thủ vang danh võ lâm, Vũ Văn Mộng đã được chân truyền, tất nhiên là phải thông thạo về phép điểm huyệt và giải huyệt. Sau một lúc thăm dò, nàng bất giác hậm hực nói :
– Lữ lão quỷ thật là hiểm độc, lại sử dụng thủ pháp triệt mạch phong huyệt bế hết toàn bộ hai đường mạch lớn. Nếu kéo dài thêm hai ngày nữa, Hùng Phong ắt phải mất hết công lực, kinh mạch toàn thân bị co rút, lúc ấy…
Nàng không dám nghĩ tiếp, bởi nàng hiểu với cá tính của Bách Lý Hùng Phong nếu bị mất hết võ công, ắt chỉ có một con đường chết mà thôi.
Nàng bất giác rùng mình, đoạn nhắm mắt vận công, trong thoáng chốc đã điểm hết toàn bộ huyệt đạo trên người Bách Lý Hùng Phong.
Tim đèn lụn dần, ánh lửa yếu dần, y phục nàng ướt đẫm mồ hôi nhưng nàng vẫn không dám ngơi tay. Tay hữu bợ vào huyệt Ngọc Trụ sau ót Bách Lý Hùng Phong, tay tả lẹ làng điểm khai huyệt Thừa Tương, miệng ngậm Đại La Hoàn kề vào miệng chàng đưa sang.
Lúc này nàng chẳng sợ mắc cỡ nữa, bởi sinh mạng của Bách Lý Hùng Phong hoàn toàn phụ thuộc vào giây phút này, nếu chỉ một chút sơ suất, chân khí trong người chàng không phối hợp được với sự kéo dài của kinh mạch, tất bao công sức sẽ bị hoài phí, kinh mạch bị co rút mà chết.
Bách Lý Hùng Phong thoáng động đậy, đã nuốt lấy Đại La Hoàn vào bụng, tay trái Vũ Văn Mộng tống nhẹ, lập tức làm cho chàng ngậm miệng lại.
Xòe bàn tay thẳng như ngọn dao, nàng lẹ làng bổ vào bả vai Bách Lý Hùng Phong.
– Ối!…
Bách Lý Hùng Phong cất tiếng rên khẽ rồi tỉnh lại.
Nàng thở ra một hơi dài, ánh mắt chàng phóng lên mái nhà dột nát, chuyển sang ngọn đèn dầu, sau đó mới trông thấy Vũ Văn Mộng.
Chàng kinh ngạc :
– Ngươi… ngươi là ai?
Vũ Văn Mộng mừng rỡ :
– Chàng đã tỉnh rồi ư?
Ký ức của chàng vẫn còn dừng lại nơi cảnh tra hỏi hay gắt của Lữ Vi Hóa, ngưng một lát chàng hỏi :
– Đây là đâu? Còn ngươi là ai?
Vũ Văn Mộng không màng đến lau mồ hôi, đưa tay lên gỡ mặt nạ, hớn hở nói :
– Chàng xem tôi là ai này?
Bách Lý Hùng Phong kinh ngạc :
– Nàng… nàng là Vũ Văn Mộng? Chính nàng đã cứu ta?
Vũ Văn Mộng gật đầu :
– Chàng thấy khỏe hơn chút nào chăng?
Bách Lý Hùng Phong gượng cười :
– Khắp người xương cốt nhức nhối, cơ hồ như bị tháo rời ra vậy.
– Đó là hiện tượng phải có, chàng bị lão quỷ Lữ Vi Hóa phong bế huyệt đạo đã lâu, hơn nữa đã dùng thủ pháp triệt mạch kỳ độc, làm cho kinh mạch chàng bị co rút…
Bách Lý Hùng Phong thấp giọng :
– Xin cảm ơn nàng! Phen này đã khiến cho nàng phải cực nhọc, tôi chẳng biết phải nói sao…
Vũ Văn Mộng mắt rớm lệ :
– Chàng đừng nên nói nhiều, hãy nhắm mắt vận công đi.
Bách Lý Hùng Phong thè lưỡi liếm môi nói :
– Tôi khát quá, chẳng biết ở đây có nước hay không?
– Ồ! Tôi quên mất, ở ngoài kia có một con rạch, tôi đi lấy nước về ngay.
Vũ Văn Mộng vừa dứt lời, ngoài cửa bỗng vang lên một tiếng cười giòn :
– Ha ha! Lão phu ngỡ là ai đã cướp mất Bách Lý Hùng Phong, có lẽ là Bạch Đà công chúa của chúng ta, xem cái vấp ngã của Bất Lão Thần Tiên và ta phen này chẳng phải là oan uổng.
Vũ Văn Mộng tái mặt, quay phắt lại, đã thấy Độc Thần Phùng Kim Nhận lẳng lặng đứng nơi cửa, y nham hiểm nói :
– Xin chào Vũ Văn cô nương!