Chàng đã uống Thiên Độc đan nên không thể chết vì chất độc trên mũi kiếm, và nhờ lọ linh đan chế từ cây Tử Diệp Bạch Liên nên vết thương không hoành hành.
Lúc trời mờ sáng, chàng đến được một sơn trang nhỏ dưới chân ngọn núi đá – Cách Tạ gia trang ba chục dặm.
Thấy trong nhà chưa ai thức dậy, Tuấn Hạc nhảy lên chạc ba cây cổ thụ cạnh tường, ngồi vận khí hành công.
Nửa canh giờ sau, chàng khôi phục được sáu thành công lực nhưng vết thương trên ngực phải rất đau đớn. Vầng dương lấp ló đàng Đông và dưới khu vướng kia có một hán tử tam tuần cao lớn đang luyện võ. Trong tay gã là một cây roi đen bóng, dài hơn nửa trượng. Phép đánh nhuyễn tiên của gã khá lợi hại nhưng không thể so với pho Hoàng Long tiên pháp của Nhật Ma Hách Đông Doanh. Trước lúc Tuấn Hạc lên đường, Hách lão đã trao cho chàng bản sao quyển Tiên phổ. Chàng đã thuộc làu nhưng chưa có thời gian rèn luyện.
Múa xong bài roi, hán tử quấn vào lưng rồi cầm thanh trường kiếm trên ghế đá. Gã bắt kiếm quyết rồi đánh từng chiêu. Tuấn Hạc kinh hãi nhận ra những chiêu này rất giống kiếm pháp của lão Tây điện chủ. Chàng cảnh giác ẩn nấp thật kỹ. May mà tàng cây rậm rạp nên khó bị phát hiện.
Lát sau, từ trong nhà, một lão nhân râu bạc bước ra. Gương mặt lão hiền lành và bình thường như bao kẻ già nua trong đám thường nhân Nhưng Tuấn Hạc đã thấy mắt lão lóe lên tia hàn quang lạnh lẽo. Trên vai lão ta là một bọc hành lý nhỏ.
Hán tử thấy lão nhân ra đến vội thu kiếm, kính cẩn vái chào. Lão nhân nghiêm giọng :
– Đơn Thu Cốt, nay ngươi đã học được tám thành của pho Luân Hồi ma kiếm, có thể đánh bại bất cứ cao thủ nào của phe bạch đạo. Hãy cố luyện tập thêm vài ngày nữa rồi lên đường đi Hoa Sơn. Ta nhắc lại, nhiệm vụ của ngươi là phải thắng tất cả những kẻ lên tranh chức Minh chủ, nhưng cuối cùng phải trá bại trước Thiếu cung chủ Tần Thái Bạch. Ngươi mà trái lệnh, bổn Đế quân sẽ không tha cho đâu! Hãy nhớ rằng trong máu ngươi đã có chất độc Tam Niên Qui – thiên hạ vô song.
Tuấn Hạc sửng sốt, không ngờ lại gặp Luân Hồi Đế Quân ở chốn này. Chàng cũng từng nghe Thiết Long nhắc đến hán tử họ Đơn, gã có danh hiệu Hắc Xà Tiên, cao thủ mới nổi danh ở vùng Hồ Bắc.
Đơn Thu Cốt cung kính nói :
– Đệ tử đã được Đế quân thu nạp, dạy cho kiếm thuật thượng thừa, thề sẽ xả thân đáp đền!
Luân Hồi Đế Quân hài lòng bảo :
– Ngươi là kẻ có căn cơ rất tốt để luyện võ – còn hơn cả ái tử của ta. Nếu sau đại hội Hoa Son kỳ này. Bách nhi được lên làm Minh chủ võ lâm, bổn Đế quân sẽ thu ngươi làm truyền nhân chánh thức. Giờ đây, ta ban cho một viên Tý Ngọ đại hoàn đan Chi Bảo. Giờ Tý đêm nay, ngươi hãy uống vào để có thêm mười năm công lực!
Hắc Xà Tiên mừng rỡ, quỳ xuống nhận kỳ trân Gã mở ra xem, thấy viên linh đan to bằng hạt nhãn, tỏa mùi thơm phức, liền hỏi :
– Bẩm Đế quân! vì sao phải uống đúng vào giờ Tý?
– Nam Tý, nữ Ngọ, uống sai thời khắc là khí huyết nghịch chuyển, chết ngay lập tức.
Nói xong, Luân Hồi Đế Quân bỏ đi. Thân pháp của lão nhanh như gió thoảng, chỉ trong chớp mắt đã khuất vào khu rừng đào. Tuấn Hạc thở dài, tự lượng mình còn kém xa.
Đơn Thu Cốt chạy theo ra cổng, thấy Đế quân đi khuất liền mỉm cười nham hiểm, vuốt mặt biến thành Thiếu giáo chủ Doãn Tự Vân. Tuấn Hạc từng cải trang thành họ Doãn nên đâu lạ lùng gì?
Họ Doãn lẩm bẩm :
– Bao năm nay, ta dùng gương mặt giả, dương danh Hắc Xà Tiên để thỏa mãn lòng hiếu sắc, không ngờ Luân Hồi cung chủ lại trúng kế, chọn ta làm vai chính trong kế hoạch xưng bá của họ. Mẫu thân ta quả là Gia Cát Lượng tái sinh. Phen này ngôi Minh chủ sẽ thuộc về Thiên Độc giáo.
Gã lau mồ hôi rồi mang lại mặt nạ. Mặt trời lên cao, vầng dương khá gay gắt. Doãn Tự Vân bước đến đứng dưới gốc cây cổ thụ, ngơ ngẩn nhìn về hướng Tây như nhớ nhung ai? Chợt gã tiếp tục lẩm bẩm :
– Tiểu Băng! Ta thề sẽ phải lấy cho được nàng! Dẫu phải dùng đến thủ đoạn hạ tiện ta cũng chẳng từ nan. Chỉ mình ta biết nàng ở đâu thôi Tuấn Hạc giật mình suy nghĩ, kiểm tra lại công lực rồi nhảy xuống.
Doãn Tự Vân giật mình, không ngờ lại có kẻ ẩn nấp trên cây. Gã lùi ba bước, rút cây Hắc Xà Tiên thủ thế và nhìn kẻ lạ mặt. Thấy đối phương không có vũ khí, gã yên tâm quát lớn :
– Ngươi là ai mà lại đến đây rình mò như vậy?
Tuấn Hạc lạnh lùng đáp :
– Ta là ai không quan trọng. Nhưng nếu ngươi tiết lộ chỗ ẩn cư của Thiên Độc Thánh Nữ Ôn Tiểu Băng thì ta sẽ tha chết cho!
Mắt họ Doãn lóe sát khí, bật cười nham hiểm :
– Thì ra ngươi là tên Văn Tuấn Hạc đã cùng Tiểu Băng bái đường đấy ư?
Tuấn Hạc cau mày :
– Ngươi không sợ chết ư?
Doãn Tự Vân vung roi tấn công luôn. Gã nhìn thấy ngực áo chàng đầy máu khô nên chẳng hề sợ hãi.
Tuấn Hạc cũng biết mình không thể chiến đấu lâu được nên phải tốc thắng.
Chàng lao vào vòng tiên ảnh, song thủ khoa nhanh, đánh bạt đường roi và ập đến. Đây chính là chiêu “Ngọc Thủ Liêm Câu” trong pho Tiêu Dao chưởng pháp.
Tự Vân thấy đối thủ trúng liền mấy roi vào lưng mà không dừng bước, kinh hãi lùi nhanh. Nhưng đã quá muộn màng, chưởng ảnh chập chờn vây chặt và giáng vào ngực gã.
Tuấn Hạc đã dồn hết chân khí vào chiêu quyết định này nên xương lồng ngực Tự Vân gãy vụn, phủ tạng dập nát. Gã ngã ngửa ra bãi cỏ dấy dua vài cái rồi tuyệt khí.
Lúc này, vết thương trên ngực Tuấn Hạc cũng vỡ ra, đau đớn vô cùng.
Chàng vội bóp nát bốn viên linh đan, nhét vào miệng vết thương và ngồi điều tức. Lát sau, chàng mở mắt, suy nghĩ một lúc rồi gỡ tấm mặt nạ Đơn Thu Cốt và lấy viên Tý Ngọ đại hoàn đan.
Chàng đi một vòng xem còn ai khác nữa không? May thay, chẳng một bóng người! Thấy cuối vườn có một hố sâu để đổ rác và đốt lá khô chàng kéo xác Doãn Tự Vân quăng xuống dưới, lấp đi.
Vào đến bên trong, chàng nhận ra hũ gạo còn nhiều, và trên đầu giường còn có cả bản sao của mười chiêu “Luân Hồi ma kiếm” và bảy chiêu “Hắc Xà tiên pháp”.
Tuấn Hạc lật xem thử, thấy những chiêu này không khó học, liền nẩy ra một kế hoạch.
Trong mười bốn ngày sau đó, chàng vừa dưỡng thương, vừa rèn luyện pho Luân Hồi kiếm pháp và pho Hoàng Long tiên phổ. Ý định của chàng là sẽ đóng vai Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt mà tham gia đại hội Hoa Sơn. Tình cờ, chàng có mang theo mặt nạ Doãn Tự Vân đây là một vật rất hữu ích.
* * * * *
Giữa tháng chín, có một hán tử áo đen, lưng quấn nhuyễn tiên, vai mang trường kiếm đi vào trấn Kỳ Đồ dưới chân núi Hoa Sơn.
Nơi đây đã tràn ngập hàng ngàn cao thủ võ lâm đến dự đại hội nên chẳng quán trọ nào còn trống. Ngay các tửu lâu, phạn điếm cũng vậy.
Hán tử áo đen thấy nơi đâu cũng chật chội, đi thẳng đến đầu phía Bắc của tiểu trấn. Gã đành hài lòng với một quán cơm bên cạnh đường. Gọi là quán cho sang chứ thực ra bàn ghế đều bày dưới bóng mát của một cây Vu già.
Trời thu ở khu vực phía Bắc Hoàng Hà ảm đạm hơn phương Nam, cảnh vật xơ xác tiêu điều Chỉ có cánh rừng phong trên lưng chừng núi Hoa Sơn là đỏ rực.
Tây Nhạc Hoa Sơn nằm ở phía Tây tỉnh Sơn Tây, là một trong Ngũ nhạc của Trung Hoa. Nó có đến năm đỉnh: Đông, Tây, Nam, Bắc và trung tâm.
Tương truyền, Trần Đoàn lão tổ đã từng dụ Tống Thái Tổ Triệu Khuôn Dẫn đánh cờ – mà vật được đặt cược chính là ngọn núi này. Trên sườn núi vẫn còn một phiến đá bằng phẳng, di tích của ván cờ ấy.
Nhưng kiếm phái Hoa Sơn lại chẳng phải là truyền nhân của Trần Đoàn. Tổ sư của họ là Hách Đại Thông – đệ tử của Giáo chủ Toàn Chân giáo – Vương Trùng Dương thời nhà Kim.
Toàn Chân là một phái của Đạo gia. Vì vậy, Hoa Sơn cũng theo Đạo giáo.
Sau khi Vương Trùng Dương tọa hóa, Toàn Chân thất tử đã lập ra bảy nhánh. Sáu phái kia đều tàn lụi, chỉ riêng có Hoa Sơn phái là còn tồn tại.
Hán tử áo đen ăn no bụng, lững thững trên lưng ngựa, di dạo quanh đường phố trong trấn. Nhờ vậy gã phát hiện ra rằng cả Thiên Độc giáo lẫn Thiên Sư giáo đều có mặt.
Khi gã đi ngang một quán trọ xập xệ ở mé Tây tiểu trấn, một tên tiểu nhị cất tiếng mời chào :
– Thỉnh đại gia vào nghỉ chân, bổn điếm vẫn còn một phòng.
Hán tử dừng cương, vào gặp chưởng quỹ.
Lão ta hỏi tên theo đúng qui định của triều đình. Hán tử lạnh lùng đáp :
– Đơn Thu Cốt, ba mươi hai tuổi, quê Hà Bắc!
Gã chính là Hắc Xà Tiên, cao thủ hắc đạo, nhưng trên đời, không một ai biết rằng họ Đơn chính là do Tuấn Hạc hóa thân.
Chàng bước vào căn phòng tồi tàn, thở phào khi thấy giường kê sát cửa sổ nhìn ra vườn.
Tuấn Hạc ngả lưng xuống nệm, suy nghĩ một lát rồi mở túi hành lý, lấy ra một quyển sách mỏng, chỉ nhỏ bằng bàn tay. Đây là quyển nhật ký của Doãn Tự Vân – tức Đơn Thu Cốt. Chàng đã tình cờ tìm ra nó trong cán của cây Xà tiên.
Chàng đã đọc lướt qua vài trang và ghê tởm những gì đã viết. Nhưng hôm nay, chàng phải đọc thật kỹ để hiểu rõ nội tình Thiên Độc giáo.
Lực lượng Luân Hồi ma cung quá hùng hậu, chàng không thể một mình chống chọi lại. Vì vậy chàng có ý định gây cuộc tương sát giữa hai tà hội, chàng phải tiềm nhập Thiên Độc giáo hoặc Ma cung, quyển nhật ký này sẽ giúp chàng.
Doãn Tự Vân là một kẻ có tâm thần bệnh hoạn. Gã thích thú ghi chép lại những lần chiếm đoạt tiết trinh của các nạn nhân. Tuấn Hạc bỏ qua những trang ấy. Chàng chú ý những gì liên quan đến gia đình gã.
Đọc xong, chàng mới biết mồ hôi mình vã ra như tắm. Một cảm giác buồn nôn dâng tràn, Doãn Tự Vân đã là tình nhân của chính mẹ hắn – Giang Lăng Thần Nữ Liễu Nhược Thủy!
Tự Văn miêu tả từng nét nhỏ trên cơ thể mẹ hắn với bút pháp điên cuồng say đắm.
Tuấn Hạc vội đi tắm ngay để xua đuổi cảm giác nhơ nhớp. Nhưng dẫu sao chàng đã biết được sự sắp đặt của Giang Lăng Thần Nữ, cũng như hiểu rõ dã tâm của phu thê Thiên Độc giáo chủ.
Quyển sách tuy mỏng nhưng với nét chữ rất nhỏ Tự Vân đã ghi lại một lượng thông tin rất lớn Văn phong và thư pháp chứng tỏ gã cũng là một kẻ tài hoa.
Điều bí mật ghê gớm thứ hai là việc: Doãn Tự Vân chính là con của Giang Lăng Thần Nữ với Đông điện chủ Doãn Thiên Dũng của Luân Hồi ma cung.
Khi nhà Nguyên sụp đổ, Luân Hồi ma cung rút vào bí mật nên Doãn Thiên Dũng cũng biến mất. Mười năm trước đây, lão đã tìm đến Giang Lăng Thần Nữ bàn bạc với Thần Nữ kế hoạch khuynh đảo. Việc Thần Nữ nhận lời lấy Thiên Độc giáo chủ Ôn Thiếu Bảo là bước mở đầu.
Sau này, Doãn Thiên Dũng lại tiến cử Đơn Thu Cốt – tức Doãn Tự Vân – làm con cờ thí – để đưa Thiếu cung chủ Tần Thái Bách lên làm Minh chủ võ lâm. Căn cơ võ học của Thái Bách hơi kém nên chẳng thể có hy vọng qua được đến vòng cuối. Kế hoạch này dựa vào luật đặc cách của qui củ đại hội. Từ lúc đầu, người muốn tranh tài phải đăng ký và qua phần thử nội lực. Nghĩa là không được lên ngay.
Tuy nhiên, đến cuối đại hội, ai cũng có quyền khiêu chiến với người giỏi nhất còn lại trên đài. Nhưng người sắp được làm Minh chủ lại có quyền nhận lời hay từ chối cũng được.
Vào phút chót, khi Đơn Thu Cốt đánh bại tất cả Tần Thái Bách mới xuất hiện và trở thành Minh chủ – nhờ đánh bại họ Đơn.
Luân Hồi Đế Quân tin chắc rằng không có cao thủ nào – dưới năm mươi tuổi – có thể hơn được Hắc Xà Tiên.
Năm ngoái, Doãn Thiên Dũng đã giáp mặt Thiên Độc giáo chủ, đem kho tàng của người Mông ra làm mồi dụ dỗ. Họ Doãn bảo rằng bản đổ của Thiên Sư giáo đang giữ chỉ là đồ giả. Chính Luân Hồi Đế Quân mới nắm được họa đồ đưa đến kho tàng vĩ đại ấy – Vì lão ta là tai sai của người Mông! Đế quân đưa thủ hạ vượt trường thành, trở lại Trung Nguyên cũng vì mục đích là tìm ra kho báu.
Thiên Độc giáo chủ mờ mắt vì lợi nên cùng họ Doãn kết tình huynh đệ, cùng âm mưu tiêu diệt Ma cung, chiếm lấy kho tàng.
Kế hoạch của họ là tương kế tửu kế, để Doãn Tự Vân lên làm Minh chủ võ lâm, bắt sống Thiếu cung chủ Tần Thái Bách, uy hiếp Đế quân phải đưa họa đồ ra chuộc mạng.
Tuấn Hạc đã rõ mưu đồ của họ, thầm kinh sợ dã tâm của bọn tà ma.
* * * * *
Sáng ngày rằm tháng chín, quần hùng ùn ùn lên núi Hoa Sơn và trấn Kỳ Đồ trở nên vắng lặng như tờ. Càng im ắng hơn nữa khi các phạn điếm, tửu lâu cũng chở dụng cụ đi theo.
Đại hội thường kéo dài đến mấy ngày, nên việc phục vụ bữa trưa cũng là một sanh ý có lợi nhuận không nhỏ. Họ đã dựng hàng trăm quán lá cạnh đấu trường, xào nấu tại chỗ và sẵn sàng phục vụ tận nơi.
Khách giang hồ đều là những tay tửu quỷ, tất sẽ mượn rượu để trợ hứng cho cuộc thưởng lãm võ thuật.
Mấy ngày nay, kinh tế trấn Kỳ Đồ phồn vinh hẳn lên nhờ đại hội. Đám chủ tiệm vui mừng về cái chết của tiền nhiệm Minh chủ Thanh Long Tử và thầm van vái các vị kế nghiệp đừng sống quá lâu. Sự đời nực cười: đôi khi tai họa của người này lại là niềm vui của người khác.
Tuấn Hạc – trong vai Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt – đủng đỉnh đi lên sườn núi. Chỉ vài mươi trượng đã đến một bình đài bằng phẳng, rộng hàng trăm mẫu. Phần đất sát vách được đắp cao hơn trượng thành một lôi đài. Vách núi lại nằm ở hướng Tây nên có thể che chắn ánh nắng buổi chiều. Chung quanh chỗ ngồi của khán giả lại có hàng tùng bách hàng trăm tuổi xòe bóng mát.
Không hiểu do sáng kiến của ai mà trên khắp mặt bình đài có đặt những khúc gỗ cao hai gang – dùng để làm đôn ngồi. Bốn khúc nhỏ vây một khúc lớn, thành một bàn tiệc rất lý tưởng. Tuấn Hạc thầm nghĩ :
– “Chắc đây là phát minh của đám đầu bếp trong trấn Kỳ Đồ?”
Có lẽ chàng đoán đúng vì ở cạnh những chiếc bàn thô sơ kia có viết số và tên tửu quán.
Quần hùng khoan khoái trước sự bố trí mới mẻ, tiện nghi này, ngồi ngay xuống và cao giọng gọi rượu. Ai cũng đã ăn sáng nên thức nhắm chỉ là lạc rang. Nhưng không sao, rượu phần Sơn Tây có tác dụng tiêu hóa rất tốt, chỉ lát nữa họ sẽ phải cần đến thức ăn. Các hào kiệt ngồi theo từng nhóm. Gỗ tùng rất nhẹ nên họ có thể di chuyển các thớt gỗ, ghép lại thành bàn lớn.
Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt mới xuất đạo vài năm, lại độc lai độc vãng nên chẳng quen biết ai. Gã ngồi một mình một bàn, càng thoải mái. Tuấn Hạc biết họ Đơn tính tình cô độc, cao ngạo nên cũng ra vẻ như thế. Nếu mà gã có nhiều bằng hữu thì chàng sẽ lộ ngay.
Chàng đi khá sớm, nên chọn được vị trí gần lôi đài – hàng thứ tư. Các hàng trên cùng dành cho những Chưởng môn các phái hay tiền bối võ lâm.
Lần lượt, những vị đức cao vọng trọng, long đầu các bang hội đã đến đầy đủ. Lúc phái đoàn Thiên Độc giáo đi ngang qua, Tuấn Hạc chăm chú quan sát và nhận được cái nháy mắt bí ẩn của Giang Lăng Thần Nữ.
Chàng thở dài, không ngờ người đàn bà xinh đẹp tuyệt thế này lại là một dâm nữ trên đời có một không hai. Tuy đã gần ngũ thập mà Liễu thị chỉ như mới tam tuần. Bà ta mặc bộ xiêm y bằng the mỏng – theo kiểu đời nhà Đường – nghĩa là không có yếm che ngực và thân hình rực lửa kia càng lồ lộ dưới ánh dương quang. Quần hào dường như nghẹt thở trước vẻ đẹp khêu gợi, mời gọi ấy.
Thế mà Thiên Độc giáo chủ Ôn Thiếu Bảo hoàn toàn thản nhiên, không hề để ý đến việc hàng ngàn cặp mắt đang dán vào da thịt vợ mình. Lão đã ở tuổi thất tuần, thân hình cao gầy chẳng có vẻ gì là tráng kiện. Môi mỏng, cảm lẹm tăng vẻ nhu nhược nhưng chiếc mũi ưng và đôi mắt nhỏ kia khiến Tuấn Hạc e ngại.
Chàng linh cảm rằng Ôn giáo chủ chẳng phải là người mà Thần Nữ có thể xỏ mũi.
Giờ đây, chàng cũng đã hiểu vì sao Doãn Tự Vân trở thành kẻ thương luân, bại lý. Chính Thần Nữ mới là người gây ra việc này. Cảm giác buồn nôn, ghê tởm lại dâng lên.
Còn Giáo chủ Thiên Sư giáo Trương Tỳ Vân thì lại hoàn toàn khác. Mặt lão trắng như ngọc, vần trán cao, ngũ quan đoan chính. Tấm đạo bào cũ nhưng sạch sẽ và bộ râu năm chòm khiến lão trông rất tiên phong đạo cốt.
Sau vụ Tích Ngọc Lang Quân Trương Ân Tuấn bị Doãn Tự Vân đả thương, chạy khỏi Ôn Châu, Thiên Sư giáo và Thiên Độc giáo đã đụng nhau mấy trận. Số tử vong lên đến hàng trăm. Cuối cùng, Ôn Thiếu Bảo viết thư đình chiến và thề độc rằng hung thủ chẳng phải là Doãn Tự Vân, lúc ấy gã đang ở Nghi Xương.
Trương giáo chủ thấy vậy, giảng hòa với đối phương, nhưng tình giao hảo không còn nữa.
Hôm nay, song phương gặp nhau mà cứ tảng lờ như không thấy. Thực ra, giang hồ đã có qui định rằng : trong thời gian đại hội, mọi ân oán đều gác lại, tròn một tháng mới hết kỳ hạn. Luật này giúp cho mọi người đều có thể tham gia đại hội mà không sợ kẻ thù chặn đánh. Đồng thời, võ lâm cũng có được mấy ngày yên tịnh
Chính vì lẽ này mà Thiết Long Văn Chí Lãm cùng Nhật Nguyệt song ma đã đến Hoa Sơn.
Tuấn Hạc nhận ra gương mặt họ Văn đầy vẻ buồn phiền, luôn đảo mắt nhìn quanh, như muốn tìm ai đó. Chàng hiểu rằng ông ta đã nhận được hung tin về trận hỏa thiêu Tạ gia trang ở Hợp Phì và đến đây với hy vọng tìm ra chàng.
Như vậy Thiết Long đã biết việc chàng có võ công tuyệt thế. Vậy, vì sao ông ta không hề sợ hãi mà vẫn yêu thương chàng? Phải chăng Hoàng Diện Thái Tuế đã lửa gạt chàng?
Xét về bối phận, Nhật Nguyệt song ma phải được ngồi ở hàng trên cùng. Nhưng do họ đến trễ nên không còn chỗ. Thấy Doãn Tự Vân chỉ ngồi có một mình, còn dư đúng ba ghế, Thiết Long vui vẻ nói :
– Hai năm trước, Văn mỗ có duyên được gặp tôn giá ở ngoại thành Vũ Xương, không ngờ lại trùng phùng. Xin phép cho bọn tại hạ được ngồi chung.
Tuấn Hạc bối rối, nói giả lả :
– Tại hạ rất vinh hạnh, xin mời tam vị.
Thiết Long an tọa và giới thiệu :
– Hai người này là nghĩa phụ, nghĩa mẫu của Văn mỗ.
Chàng giả đò không nhận ra, chỉ cúi chào.
Một gã tiểu nhị lảng vảng gần đấy lập tức chạy đến ứng hầu. Thiết Long vui vẻ nói :
– Bọn ta chưa kịp ăn sáng, ngươi hãy dọn ngay một mâm thịnh soạn để Văn mỗ thù tạc với Đơn lão đệ.
Gã tiểu nhị mừng rỡ chạy đi ngay. Lúc này, giờ khai mạc đã đến. Chưởng môn phái Hoa Sơn là Hư Trúc chân nhân vòng tay cao giọng :
– Kính cáo đồng đạo võ lâm, Thanh Long Tử đạo huynh chẳng may đã qui tiên. Võ lâm chẳng thể thiếu người chủ trì. Vì vậy, bần đạo cùng hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang đã phát võ lâm thiếp, mời chư vị đến đây. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra một tân Minh chủ tài đức vẹn toàn.
Cũng như lần trước, chỉ những cao thủ dưới năm mươi tuổi, không có ác tính, mới được lên đài. Ban giám đài sẽ kết luận ai là người đủ tư cách. Xin mời những vị có tên sau đây bước lên để là nhiệm vụ giám đài :
– Phương trượng Thiếu Lâm tự Pháp Hoa thiền sư.
– Chưởng môn phái Võ Đang Minh Tâm Tử.
– Chưởng môn phái Hằng Sơn Huệ Hà sư thái.
– Toàn Chân trưởng giáo Hoàng Hạc Chân Quân.
– Thiên Sư giáo chủ Trương Tỳ Vân.
– Đào Hoa khê chủ Hồng Hợp Thượng.
Sáu người lần lượt bước lên đài, đứng cạnh Hư Trúc chân nhân. Cả bảy người cúi chào toàn trường rồi ngồi vào ghế giám đường.
Một đạo sĩ Hoa Sơn vung dùi gõ vào chiếc chiên đồng to lớn, báo hiệu đến giờ đăng ký danh tính thượng đài.
Võ học Trung Quốc rất phong phú và đa dạng nên chỉ có thể dùng công lực, sức mạnh làm tiêu chuẩn. Các đạo sĩ gánh ra chín chiếc đỉnh đá ba chân. Trọng lượng của nó là hai trăm cân, thí sinh phải nắm hai chân đỉnh, nâng cao khỏi đầu, mới được coi là hợp cách.
Nền tảng của võ công chính là nội lực. Dẫu kiếm thuật phi phàm mà không đủ sức giữ chặt vũ khí thì cũng vô ích. Nhưng ngược lại, khi đã có chừng hai mươi năm tu vi trở lên thì bàn lãnh lại phụ thuộc vào sở học. Kẻ mạnh mà không có chiêu thức tinh kỳ, ảo diệu thì cũng chẳng hơn được những người kém mình vài năm tu luyện.
Từng chín người một nhảy lên đài thử sức. Khi thành công họ mới khai báo danh tánh. Chẳng ai dại gì nói ra trước, lỡ cử không nổi thì thêm ê mặt.
Thực ra, chẳng phải ai cũng dám lên đài cử đỉnh. Thanh danh gầy dựng bao năm đâu thể để cho sứt mẻ. Nhất là người cao thủ chuyên luyện các tuyệt kỷ tinh xảo như ám khí, nhuyễn tiên, đoản kiếm… hoặc khinh công.
Nhưng có một thí sinh vừa lên đến nơi đã vỗ ngực xưng tên – giọng lão ta vang rền như chuông đồng :
– Bần tăng là Vô Giới hòa thượng ở Lục Bàn sơn – Tây vực. Năm nay tròn bốn mươi chín tuổi.
Quần hào cười ầm lên vì hai lẽ: Một là tấm thân to béo, phục phịch kia khoác một tấm tăng bào cũ kỷ màu vàng nhưng trên đầu là mái tóc rậm rì. Hai là gương mặt của lão già khăng, chẳng thể dưới năm mươi được.
Pháp Hoa thiền sư tủm tỉm cười bảo :
– Phật huynh xưng là đệ tử Phật môn sao lại để tóc?
Vô Giới cười ha hả đáp :
– Thiền sư thử nghĩ xem, trong hàng vạn ngôi chùa ở Trung Hoa, có bức tượng nào mà Phật Tổ Như Lai trọc đầu hay không? Bần tăng mới đích thực là đệ tử chân truyền của ngài.
Chưởng môn Thiếu Lâm cứng họng vì quả đúng như vậy. Minh Tâm Tử bèn đỡ lời cho thiền sư :
– Thôi được! Chuyện ấy không quan trọng lắm. Nhưng dung mạo Phật huynh chẳng có vẻ gì là bốn mươi chín tuổi cả.
Quần hào ồ lên :
– Đúng vậy! Ít nhất cũng phải sáu mươi.
Vô Giới ngửa cổ cười dài :
– Bần tăng có đem theo thẻ thuế thân.
Lão đưa ra một mảnh giấy nhàu nát cũ kỹ. Thiên Sư giáo chủ Trương Tỳ Vân nhận lấy xem. Lão cau mày bảo :
– Luật Đại Minh đâu có bắt tăng lữ phải đóng thuế thân?
Quần hào lại đồng thanh nói :
– Đúng vậy! Đây là thẻ già!
Vô Giới hòa thượng xua tay cãi :
– Chư vị không nhớ phép vua thua lệ làng hay sao? Lão Tuần phủ Cam Túc là người theo Nho học, bài xích Phật pháp nên đã bắt sư sãi phải đóng thuế thân. Lão còn cho rằng tăng lữ ăn không, ngồi rồi, không làm ra hạt thóc nào mà còn báo hại bách tính phải nuôi dưỡng nữa. Không tin, chư vị cứ đi Tây Vực mà hỏi.
Pháp Hoa thiền sư chột dạ nói :
– Hòa thượng đã nhất quyết như vậy, bọn lão nạp chẳng thể không tin. Đệ tử Phật môn lẽ nào lại nói dối.
Nói xong, thiền sư mới nhớ ra pháp hiệu của đối phương là Vô Giới, chuyện nói láo là chuyện bình thường.
Vô Giới hòa thượng mừng rỡ, xăm xăm bước đến bên chiếc đỉnh đá. Lão tần ngần một lúc cởi tăng bào xếp lại cẩn thận, đặt xuống đất. Thân hình lão mập mạp, bụng to phệ, trông rất khôi hài. Vô Giới thấy ở dưới bật cười liền quay xuống phân bua :
– Chư vị lượng thứ. Bần tăng bị kẻ gian lấy sạch hành lý, chỉ còn tấm tăng bào duy nhất.
Có người buộc miệng thét :
– Ai mà thèm lấy đống áo rách và hôi hám của lão chứ?
Vô Giới hầm hầm quát :
– Thì ra ngươi chính là kẻ đã lấy trộm của Phật gia. Nếu không, sao ngươi lại biết chúng rách và hôi hám?
Ngươi kia hổ thẹn, im bặt. Quần hùng ôm bụng cười.
Đào Hoa khê chủ Hồng Hợp Thượng hắng giọng :
– Mời hòa thượng thử sức, đừng làm uổng phí thời giờ của đại hội.
Vô Giới cười hì hì, quay lại. Lão xuống tấn, chụp lấy chân đỉnh rồi đưa lên cao rất nhẹ nhàng. Bắp thịt trên người lão nổi cuồn cuộn, khác hẳn lúc ban nãy. Lão ta còn biểu diễn thần lực bằng cách đi vài trượng mới chịu đặt xuống.
Toàn trường hoan hô như sấm dậy, Vô Giới đắc ý vòng tay cúi chào, nhơn nhơn nói :
– Xin cảm tạ!
Lão nhặt lấy tăng bào, khệnh khạng đi xuống. Lúc này, Đơn Thu Cốt cũng đang đi lên lôi đài. Gã ung dung nhấc bổng Thạch Đỉnh lên đầu và báo danh :
– Hắc Xà Tiên Đơn Thu Cốt, ba mươi hai tuổi quê Hà Bắc!
Nói xong, gã mới đặt đỉnh đá xuống. Quần hùng chấn động vì chẳng ai dám mở miệng khi cử đỉnh thế mà họ Đon làm được việc ấy!