Giang Nam Oán Lục

Chương 5 - Ma Cung Nhất Xuất Khuynh Thiên Hạ - Bán Dạ Đông Thành Hỏa Hựu Minh

trước
tiếp

Về đến Hàn gia trang, Khiết Doanh mau mắn kể lại trận chiến. Hàn trang chủ hồi hộp hỏi Tuấn Hạc :

– Thương thế của Tích Ngọc Lang Quân có nặng lắm không?

Chàng mỉm cười :

– Trang chủ yên tâm, gã không chết được đâu Nhưng phải tĩnh dưỡng ít nhất là một tháng.

Tuấn Hạc đứng lên cáo từ :

– Tiểu sinh còn phải truy tầm hạ lạc của Vạn Bác Hồ Tinh Cù Sở Hòa, xin được phép đi ngay.

Hàn phu nhân hỏi lại :

– Thế công tử định đi đâu để tìm lão hồ ly ấy?

Tuấn Hạc thở dài bảo :

– Tiểu sinh cũng chẳng có manh mối gì cả.

Hàn trang chủ vui vẻ nói :

– Công tử yên lòng! Tiểu nữ Hàn Diệu Anh đã cùng bọn gia nhân ra đi từ tờ mờ sáng. Chỉ nội trong ngày nay sẽ có tin tức của Cù trưởng lão.

Khiết Văn cười khúc khích :

– Tiểu nha đầu ấy đã chịu ra tay thì lo gì không tìm được họ Cù?

Tuấn Hạc ngơ ngác, không hiểu họ đang nói về ai? Khiết Doanh giải thích :

– Diệu Anh là nhị muội của thiếp. Tuy còn nhỏ nhưng tinh minh như quỷ sứ, khinh công tuyệt thế và giỏi nghề truy tung. Nó chính là cô bé hái sen mà chàng đã gặp hôm qua.

Tuấn Hạc ngượng ngùng nhớ lại mình đã ngâm thơ chọc ghẹo Diệu Anh.

Mãi đến chiều, Hàn nhị tiểu thư mới vế tới.

Người nàng ướt đẫm mồ hôi và tóc phủ bụi đường nên phải tắm gội xong mới ra báo cáo.

Diệu Anh mệt mỏi buông mình xuống ghế cạnh Hàn phu nhân rồi nói bâng quơ :

– Từ sáng đến giờ, bôn ba mấy trăm dặm đường cực khổ biết bao nhiêu. Thế mà chẳng có ai rót cho chung trà nào cả.

Khiết Doanh cười khúc khích :

– Văn tướng công hiền như đất, thế mà nhị muội cũng chọc ghẹo được ư?

Diệu Anh chu mỏ :

– Ai bảo công tử dám ngâm thơ chọc ghẹo tiểu muội trước. Y chỉ ngốc thôi chứ không hiền đâu.

Hàn phu nhân vội mắng con gái :

– Anh nhi nên giữ lời. Sao dám chê Tuấn Hạc là ngốc tử?

Dường như nàng rất sợ mẫu thân nên cười hì hì :

– Hài nhi chỉ nói đùa thôi!

Rồi nàng nghiêm giọng :

– Hài nhi đã hỏi thăm bọn hóa tử Cái bang. Họ cho biết Vạn Bác Hồ Tinh đã có mặt ở trấn Thủy Sơn – Cách đây hai trăm dặm. Nhưng ngay trong đêm đó, lão đã mất tích một cách bí ẩn. Hài nhi đến tận nơi điều tra thì phát giác một lá cờ nhỏ cắm trên xà nhà.

Nàng lấy từ tay áo ra một lá cờ vải màu đen, hình tam giác, cán nhỏ bằng cây đũa, hai đầu nhọn hoắc. Trên nền vải thêu hai chữ Luân Hồi. Và mặt kia là hình một gương mặt đang cười. Đường thêu có màu đỏ của máu, trông rất ghê rợn.

Hàn trang chủ giật mình than :

– Không ngờ Luân Hồi ma cung lại tái xuất giang hồ. Phen này võ lâm không tránh khỏi cảnh diệt vong.

Tuấn Hạc hỏi ngay :

– Bẩm Trang chủ! Chẳng hay lai lịch bang hội này ra sao?

Hàn trang chủ nhấp hớp trà rồi kể :

– Luân Hồi ma cung xuất hiện vào thời Nguyên Văn Tôn – Cách nay hơn sáu chục năm. Hành tung của họ cực kỳ thần bí và thủ đoạn cũng vô cùng ác độc. Hàng trăm cao thủ võ lâm đã bị giết hoặc mất tích. Nếu trên lá cờ thêu một gương mặt đang khóc thì nạn nhân chẳng thể nào sống sót. Còn căn cứ của họ thì chẳng ai biết nơi nào. Khi Minh Thái Tổ đánh đuổi được quân Mông Cổ thì Ma cung cũng im hơi lặng tiếng. Cù lão bị họ bắt đi, đúng là lành ít dữ nhiều.

Tuấn Hạc bi phẫn nói :

– Tiểu sinh sẽ huy động anh em Cái bang trên cả nước để tìm cho được tọa lạc của Ma cung.

Hàn trang chủ trầm ngâm một lúc lâu mới nói :

– Thực ra thì công tử muốn tìm họ cũng chẳng khó, chỉ nguy hiểm mà thôi. Năm xưa, lệnh sư – Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt – đã từng giết chết mười mấy sứ giả Ma cung. Trong đó có cả ái tử của Luân Hồi Đế Quân. sau đó, lệnh sư ẩn cư nơi nào không rõ nên oán thù chưa liễu kết. Nay công tử cứ vỗ ngực xưng là đệ tử của Cuồng Kiếm tiền bối và dương danh cho thiên hạ biết, chẳng bao lâu sau, Ma cung sẽ lần đến ngay.

Hàn Khiết Văn sợ hãi nói :

– Một mình tướng công sao có thể đối phó với Ma cung?

Hàn lão nghiêm sắc mặt :

– Tuấn Hạc không thể tránh khỏi việc đối đầu với Ma cung. Chính họ đã giết Văn Vi Trần – Ông nội của y. Còn về lực lượng thì họ Văn không đơn độc. Tiền nhiệm Môn chủ Biến Hình môn cũng là nạn nhân của Môn chủ. Khi nghe tin này, họ sẽ dốc hết nhân lực cùng Tuấn Hạc báo thù. Ngày mai ta sẽ dện Tổng đàn Biến Hình môn để bàn bạc với họ Cổ.

Mờ sáng hôm sau, Hàn lão lên ngựa rời trang viện, mãi gần trưa mới trở lại. Lão gọi chàng vào thư phòng, trao cho một chiếc trâm cài tóc bằng đồng đen, đầu lớn tròn như viên bi, khắc nổi những hoa văn rắc rối. Ông nghiêm nghị nói :

– Vật này là tín phù của Biến Hình môn. Người ngoài không nhận ra nhưng đối với đệ tử của họ Cổ thì rất quen thuộc và quý giá. Công tử dắt trâm này lên tóc, họ sẽ tìm đến liên hệ và chịu sự sai xử. Môn đồ Biến Hình môn giỏi nghề biến hóa nên rất đắc lực. Đao pháp của họ cũng khá lợi hại. Lúc nào cũng có người bám theo để bảo vệ công tử. Néu muốn sai phái gì, chỉ cần đưa tay sửa trâm, sẽ có người xuất hiện. Cuộc chiến với Ma cung vô cùng nguy hiểm, mong công tử cẩn trọng giữ mình.

Tuấn Hạc vòng tay cảm tạ rồi cài trâm lên búi tóc.

Trong tiệc tống hành, Tuấn Hạc hỏi Hàn lão :

– Bẩm Trang chủ! Xin hỏi lộ số võ công của Luân Hồi Đế Quân và bọn sứ giả Ma cung?

Hàn trang chủ vuốt râu tư lự :

– Về bản thân của lão Đế quân thì không rõ vì ngay dung mạo cũng chưa ai thấy qua. Còn bọn sứ giả, may nhờ lệnh sư giết được mấy tên nên võ lâm mới biết chúng mặc hắc y, mang mặt nạ gỗ. Võ công tương đương với các cao thủ nhất lưu. Bọn này sử dụng trường kiếm và kiếm pháp có nguồn gốc từ bán đảo Cao Ly. Dựa vào tuổi tác của đứa con bị giết có thể đoán năm nay Đế quân đã hơn bát thập.

Tuấn Hạc điềm đạm nói :

– Đã có anh em Biến Hình môn theo hỗ trợ, tiểu sinh không hề sợ bọn sứ giả, nhưng chỉ sợ liên lụy đến Văn gia bảo. Một mình Thiên Độc giáo cũng đã mệt rồi.

Hàn Khiết Văn cười bảo :

– Nếu thế, tướng công cứ mang mặt nạ, dùng thân phận khác mà đối phó với Ma cung.

Mọi người đồng khen phải. Tuấn Hạc hỏi lại :

– Việc gây sự chú ý của bọn Ma cung thì sao? Chẳng lẽ lại vác chiêu bài trên vai mà bổn tẩu?

Hàn trang chủ gật gù :

– Công tử chớ lo, Cổ môn chủ có cho lão phu biết rằng vừa nhận được võ lâm thiếp của Thiếu Lâm tự. Thông báo về đại hội bầu Minh chủ – tổ chức ở núi Hoa Sơn – ngày rằm tháng chín năm nay. Công tử cứ đến đấy mà dương oai diệu võ, ắt cả giang hồ đều biết mặt, biết tên.

Tuấn Hạc vẫn còn băn khoăn :

– Nhưng còn an nguy của Văn gia bảo thì sao?

Hàn phu nhân đỡ lời chồng :

– Cổ môn chủ sẽ cho hai trăm cao thủ tiềm phục quanh bảo. Hơn nữa, Tổng binh Lư Lăng là con cháu trong nhà họ Cổ, sẽ hết lòng bảo vệ Văn gia bảo.

Tuấn Hạc cảm kích nói :

– Xin Trang chủ cho tiểu sinh gởi lời tri ân đến Cổ môn chủ.

Diệu Anh bật cười khanh khách :

– Úi chà! Ngốc ơi là ngốc!

Khiết Doanh vội bịt miệng cô bé lại.

Hàn phu nhân lạnh lùng nói :

– Anh nhi hay nói càn, ta chiếu gia pháp phạt con tưới hoa một tháng.

Diệu Anh tái mặt bật khóc :

– Hài nhi sẽ xin lỗi cùng công tử, mong mẫu thân tha tội.

Nàng rời khỏi ghế, quỳ ngay xuống chân Tuấn Hạc, run rẩy nói :

– Tiểu muội thất ngôn, mong công tử lượng thứ.

Nhớ đến vườn hoa rộng mấy mẫu ở sao hậu viện, chàng không khỏi tội nghiệp cô bé. Tuấn Hạc liền khẩn cầu Hàn phu nhân :

– Diệu Anh tuổi còn non dại, thích chọc ghẹo người khác chứ không phải có ý khinh mạn. Mong phu nhân nể mặt tiểu sinh mà bỏ qua cho. Hơn nữa… tiểu sinh mới xuất đạo, chưa hề có kinh nghiệm nào, nhiều lúc cũng cảm thấy mình ngốc nghếch.

Vẻ thành thực của chàng khiến mọi người phì cười. Phu nhân vui vẻ bảo :

– Công tử đã có lời xin, ta sẽ tha cho Anh nhi.

Diệu Anh mừng rỡ, dương cặp mắt to tròn nhòa lệ, nhìn chàng với vẻ tri ân rồi bật thốt :

– Công tử tuy ngốc nhưng rất đáng yêu.

Cả nhà lại ôm bụng cười.

Hàn Khiết Văn nói với giọng áy náy :

– Thiếp phải đi Hồ Bắc thăm thân mẫu nên không thể theo tướng công. Xong việc, thiếp sẽ đến Hoa Sơn ngay.

Tuấn Hạc không hiểu tại sao trái tim mình ngày càng hướng về phía nữ lang mặt nạm này? Chàng lộ vẻ lo lắng :

– Nếu vậy, ta sẽ cho Tiểu Bạch hộ tống nàng. Có nó bên cạnh nàng, ta mới yên tâm được.

Khiết Doanh cười khúc khích :

– Tướng công quá quan tâm đến biểu thư, khiến thiếp sinh lòng đố ky.

Tuấn Hạc ngượng ngùng không đáp. Khiết Văn đỡ lời :

– Tướng công thấy ta xấu xí nên thương hại đấy thôi. Doanh muội ghẹo chàng làm gì? Ngươi được theo tướng công đi Hoa Sơn, chưa thỏa chí hay sao?

Tuấn Hạc bỗng nói :

– Doanh muội hãy vì ta mà dẫn đám cao thủ Biến Hình môn đến Lư Lăng. Ta sẽ viết một phong thư giới thiệu nàng là thê thiếp, cha mẹ ta sẽ rất vui mừng. Trong thời gian ở Văn gia bảo, nàng hãy điều tra xem phụ thân ta có mang mặt nạ hay không?

* * * * *

Gần giữa tháng tám, có một chàng thư sinh đủng đỉnh vào thành Hợp Phì – Huy Châu. Chưa đến Hoa Sơn nên Tuấn Hạc không cải trang. Gương mặt anh tuấn, trung hậu kia khiến các nàng xuân nữ trên đường phố phải trầm trồ mơ tưởng.

Tuấn Hạc dừng cương trước tòa Hòa Giang đại tửu lâu trao cương ngựa cho gã tiểu nhị rồi xách tay nải hành lý lên lầu.

Trên này đã có sẵn gần trăm hào kiệt võ lâm. Họ cũng đang trên đường đến núi Hoa Sơn – Sơn Tây để tham dự đại hội bầu tân Minh chủ.

Võ lâm thanh bình nên việc triệu tập hảo hán tứ phương rất dễ dàng. Thanh Long Tử đã qui tiên, cần phải bầu người để thay thế.

Hơn nữa, mười bốn năm nay mới có được một thịnh hội tưng bừng thế này. Anh hùng Tam Sơn Ngũ Nhạc vui vẻ lên đường.

Tuấn Hạc chọn một bàn cạnh lan can để có thể ngắm nhìn phong cảnh. Tuy không hóa trang nhưng râu mép, râu cảm xanh đen, khiến gương mặt chàng khác hẳn đi.

Ăn vài bát cho vững bụng, Tuấn Hạc rót rượu nhâm nhi. Chàng không phải là người hay rượu nhưng cũng uống đôi chén để tăng nhã hứng.

Lúc này, vùng trung du sông Hoài đã chớm vào thu, không khí mát mẻ, dìu dịu. Cảnh thu không ảm đạm như miền Bắc nhưng cũng phảng phất nét u buồn.

Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến Tiểu Băng. Lạ thay, thấp thoáng cạnh bóng hình xưa là nữ lang mặt nam đen xấu xí. Khiết Doanh tuy kiều diễm nhưng lại mờ nhạt hơn.

Trong lúc dong ruồi trên đường thiên lý, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về duyên nợ của mình. Dẫu rằng hai nữ nhân kia đã tự nguyện giao ước như vậy, nhưng liệu chàng có thể vì sự từ chối của Tiểu Băng mà phụ rẫy họ hay không? Chàng cũng thầm thắc mắc, không hiểu vì sao vợ chồng Hàn trang chủ lại chấp nhận một hôn ước bấp bênh, bất công như vậy?

Chàng tự hiểu mình sẽ không thể bỏ Khiết Doanh và Khiết Văn. Tiểu Băng là bậc kỳ nữ tất sẽ thông cảm cho hoàn cảnh của hai kẻ hồng nhan bạc mệnh mà tha thứ cho chàng.

Những kỷ niệm bốn năm trước hiện về. Hơi ấm của Tiểu Băng trong đêm đông lạnh giá như còn đọng lại trong cơ thể chàng. Và da thịt ngọc ngà của hai thiếu nữ kia cũng hiện ra, Tuấn Hạc đỏ mặt, không dám nghĩ vẩn vơ nữa.

Chàng đảo mắt nhìn quanh, lắng nghe những lời đàm luận của hào khách. Một chàng trai áo màu tro, mặt mũi tinh ranh, đang trợn mắt, phùng mang, nhưng lại nói rất nhỏ như đang đề cập đến một vấn đề trọng đại. Với thính lực của Tuấn Hạc thì trong vòng năm trượng, dẫu tiếng lá rụng cũng không thoát khỏi. Gã tiểu tử ấy nói :

– Chư vị không tin ư? Cứ đến xem thử khắc rõ. Tòa nông trang ấy chỉ cách đây có hơn ba chục dặm về phía Đông. Thật là khủng khiếp khi thấy hàng trăm người mang xiềng xích mà làm việc. Lại còn bị đánh đập rất tàn nhẫn. Tiểu đệ còn nhận ra một số nhà sư và đạo sĩ.

Một người tỏ ý nghi ngờ :

– Có thể đó là một trại giam tù của triều đình thì sao?

Gã áo tro cãi ngay :

– Tiểu đệ đoan chác là không phải. Bọn canh gác đều mặc hắc y, mang mặt nạ gỗ, thân thủ nhanh nhẹn phi thường, chẳng thể là quân triều đình được.

Tuấn Hạc hân hoan vì không ngờ lại may mắn tìm ra cơ sở của Luân Hồi ma cung. Chàng muốn hỏi kỹ địa điểm mà không biết làm sao? Liền nhớ đến toán cao thủ Biến Hình môn. Tuấn Hạc đưa tay lên sửa trâm, lập tức, gã lái buôn mập mạp ở bàn mé tả bước đến, ngồi xuống trước mặt chàng. Gã thì thầm :

– Bẩm công tử! Thuộc hạ là Đồng Túc Luân, đệ tử của Cổ môn chủ, xin chờ sai bảo.

Tuấn Hạc đoán gã ít nhất cũng phải trên bốn mươi. Chàng áy náy :

– Sao Đồng huynh lại xưng hô khách sáo như vậy? Tại hạ hổ thẹn vô cùng.

Họ Đổng thản nhiên đáp :

– Môn chủ đã truyền nghiêm lệnh rằng công tử được coi như là Thiếu môn chủ bổn môn! Mọi người phải tôn kính và đem mạng sống ra mà bảo vệ.

Tuấn Hạc ngỡ ngàng trước lòng sũng ái của Môn chủ Biến Hình môn. Chàng đành chấp nhận vai trò, không tranh cãi nữa :

– Thôi được! Đồng huynh hãy cho ta biết gã áo tro ấy là ai, và có cách nào nhờ gã đưa ta đến tòa nông trang bí mật ấy hay không?

Họ Đồng cười đáp :

– Tiểu tử ấy mà Tam Thúc Thố Âu Tiểu Du, đạo chích khét tiếng vùng Giang Tả (Tả ngạn sông Hoài). Thuộc hạ sẽ bắt hắn đưa đường cho công tử.

Đồng Túc Luân đứng lên, bước vào nhà vệ sinh. Lát sau, gã bước ra với một dung mạo khác không phải một lái buôn hiền lành mà là một đại hán râu rồng uy mãnh, oai phong. Trên bộ võ phục màu xanh thẫm là đai lưng da to bản – cắm đầy những mũi phi đao. Tuấn Hạc ngồi quay về hướng ấy mới biết đại hán là họ Đồng. Nãy giờ không có ai vào tiểu tiện cả.

Đại hán nện gót, bước đến cạnh bàn của Tam Thúc Thố. Âu Tiểu Du tái mặt gọi :

– Đồng đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca đến héo gầy.

Đám hào khách cùng bàn cũng hoan hỉ hô hoán :

– Không ngờ Vô Ảnh Đao lại giá hạ nơi này.

Xin mời các hạ an tọa.

Đồng Túc Luân vui vẻ từ tạ :

– Cảm ơn chư vị! Tại hạ bận việc riêng, không có thời gian thù tạc.

Gã quay sang bảo Tam Thúc Thố :

– Ta có chuyện muốn nói với ngươi.

Tiểu Du líu ríu đứng lên, đi theo họ Đồng.

Vô Ảnh Đao là thủ lĩnh của đám đạo tặc khu vực sông Hoài, tính tình quang minh, thác lạc nên rất được trọng vọng. Tam Thúc Thố vốn là thủ hạ của họ Đồng.

Một hào khách cười vang :

– Phải chăng gã thỏ ba chân này đã đắc tội với Đồng huynh?

Vô Ảnh Đao đi ngang qua bàn Tuấn Hạc liền nháy mắt ra hiệu. Chàng hiểu ý, gọi tiểu nhị tính tiền rồi đi theo họ.

Ba người lên ngựa, đi về hướng Đông thành.

Đến một cách rừng vắng Đồng Túc Luân dừng cương. Âu Tiểu Du nhảy xuống, quỳ trên mặt cỏ mà lạy lục :

– Đại ca tha mạng! Từ ngày ấy đến nay, tiểu đệ đã thề không đánh bạc nữa. Số vàng trăm lượng ấy, tiểu đệ hứa sẽ hoàn lại dần.

Túc Luân trừng mắt :

– Ngươi dám đem đồng tiền xương máu của anh em ném vào chiếu bạc là không còn muốn sống nữa rồi. Nhưng may cho ngươi là có người đã để ý đến chút tài mọn của ngươi. Vì vậy ta sẽ bỏ qua chuyện cũ. Ngươi hãy ra mắt chủ nhân đi.

Tam Thúc Thố nhìn về phía hướng chỉ của họ Đồng, nhận ra chàng thư sinh râu rìa, da trắng như ngọc, đang đến gần.

Vô Ảnh Đao vòng tay nói :

– Bẩm công tử! Âu Tiểu Du là người tinh minh, lanh lợi, xin người cho gã theo hầu hạ.

Tam Thúc Thố thấy thủ lĩnh của mình hết lòng tôn kính chàng thư sinh, kinh hãi sụp xuống lạy tạ :

– Âu Tiểu Du mong công tử thương nạp, thuộc hạ nguyện phơi gan trải mật, một dạ trung thành!

Vô Ảnh Đao nghiêm khắc nói :

– Đây là Văn Tuấn Hạc, nhị công tử của Văn gia bảo. Nếu ngươi không hết lòng hầu hạ thì đừng trách ta tàn nhẫn.

Tiểu Du gượng cười :

– Đại ca yên tâm, tiểu đệ chỉ có một cái đầu, đâu dám để nó rơi mất.

Đồng Túc Luân quay sang nói với Tuấn Hạc :

– Thuộc hạ bận điều động anh em và cũng không tiện lộ diện. Tên tiểu quỷ này sẽ tháp tùng công tử. Bọn thuộc hạ sẽ âm thầm bám theo.

Gã cúi đầu chào rồi lên ngựa đi ngược về thành. Tuấn Hạc hết lòng khâm phục tổ chức của Biến Hình môn. Cao thủ của họ phân tán khắp giang hồ, dương danh bằng mặt giả, chẳng ai biết lai lịch thật.

Chàng đi ngay vào vấn đề :

– Nhiệm vụ của ngươi là đưa ta đến nông trang bí mật mà ngươi đã tình cờ phát hiện.

Tiểu Du chòi hề hề :

– Việc ấy không khó, xin mời công tử.

Hai người lên ngựa phi mau. Hơn hai canh giờ sau, Tiểu Du rẽ trái, vào một con đường mòn trong khu rừng rậm. Được vài dặm, gã dừng ngựa, nhảy xuống và nói :

– Chỉ còn hơn dặm nữa là đến, chúng ta giấu ngựa ngoài này, nếu không sẽ bị những trạm canh phát hiện.

Giấu ngựa xong, Tam Thúc Thố vận khinh công lướt đi. Gã có danh hiệu như vậy cũng là nhờ có thân pháp nhanh nhẹn. Tính gã lại tinh ranh, quỷ quyệt nên muốn thủ tài chàng thư sinh này. Nào ngờ, chàng ta bình thản bám theo, ung dung như người đi dạo mát.

Tiểu Du nổi lòng háo thắng, chạy bán sống bán chết mà vẫn không bỏ rơi được Tuấn Hạc. Gã phục chàng sát đất, bỏ ý định tranh tài.

Quả nhiên, chung quanh nông trang có những trạm gác ngầm. Nhưng Tam Thúc Thố lợi dụng bóng chiều âm u, đưa Tuấn Hạc vượt qua.

Cuối cùng, hai người vào đến bức tường phía Đông của nông trang. Gọi là nông trang là vì Tiểu Du đã thấy những cánh đồng trồng một loại cây lạ thực ra khu vực này chỉ rộng độ mười mẫu đất. Vì vậy mới có tường bao chắc chắn, cao hơn trượng.

Tiểu Du mở túi bảo bối lấy ra một sợi dây đan bằng tơ. Tuy chỉ nhỏ bằng mút đũa nhưng rất bền chắc. Gã tung đầu có móc sắt lên đỉnh tường rồi trèo lên.

Tuấn Hạc nắm lấy sợi dây, giật mạnh để mượn sức rồi bốc thẳng lên đầu tường, chẳng cần phải leo trèo. Tiểu Du tròn mắt kinh ngạc. Gã đâu biết rằng chàng có thể bay nhảy không khác gì một con vượn. Chỉ cần một điểm tựa yếu ớt là đủ.

Hoàng hôn buông xuống, đám tù nhân uể oải vác cuốc xẻng trở về khu lán gỗ tồi tàn. Chỉ có đám tăng nhân và đạo sĩ là còn phân biệt được nhờ y phục. Tất cả đều lem luốc, dơ bẩn và rách rưới.

Họ gồm khoảng hơn trăm người, còn đám hắc y thì khoảng độ năm mươi. Chúng vung roi đánh đập đám tù nhân như đánh súc vật. Tuấn Hạc nghe lửa giận dâng trào.

Chàng quan sát những luống cây gần nhất và nhớ lại một đoạn trong Y kinh. Thì ra đây là giống cây Anh Túc, ở vùng biên giới Miến Điện. Trái của nó cho nhựa có tác dụng giảm đau và gây hưng phấn. Tuy nhiên, loại nhựa này gây nghiện. Đây cũng là dược liệu trong một số phương thuốc trị thương.

Chàng hạ giọng bảo Tiểu Du :

– Ngươi trở ra ngoài đưa Vô Ảnh Đao và các cao thủ vào đây.

Gã cười đáp :

– Họ đã vào cả rồi. Tổng số là ba mươi người.

Nói xong, gã đưa tay lên vẩy. Một người áo đen bịt mặt lướt đến, bám dây trèo lên. Nhìn dáng vóc có thể nhận ra đây là Vô Ảnh Đao.

Họ Đồng nhìn vào trong, ước lượng tình hình rồi hỏi :

– Công tử tính sao?

Chàng gượng cười :

– Ta không có chủ ý gì, mong các hạ chỉ giáo.

– Theo thiển ý thuộc hạ thì chúng ta hãy chờ trời tối hẳn, triệt hạ đám phòng vệ bên ngoài rồi hãy đột nhập.

Tuấn Hạc gật đầu, Vô Ảnh Đao trở xuống, điều động anh em áp sát các trạm canh.

Lúc trời tối hẳn, gã trở lại báo cáo :

– Bẩm công tử! Mười trên ở vòng ngoài đã bị tiêu diệt.

Tuấn Hạc thầm khen thủ đoạn của đám đệ tử Biến Hình môn. Họ hành động êm thắm đến mức quỷ thần cũng chẳng hay biết.

Đồng Túc Luân nói thêm :

– Theo thuộc hạ võ đoán thì bọn này chỉ là hạng thấp kém chứ không phải là sứ giả Ma cung. Bản lãnh của chúng còn thua xa thuộc hạ.

Tuấn Hạc yên lòng, ra lệnh tiến vào. Thủ hạ họ Đồng đều trang bị dây móc như Âu Tiểu Du nên vượt tường chẳng khó khăn gì.

Cả bọn âm thầm lướt về phía dãy nhà gỗ khang trang Đây là nơi ăn ở của bọn mặt gỗ.

Chúng đang xoay trần dùng cơm tối nên không trở tay kịp. Toán đao thủ Biến Hình môn tàn sát không thương tiếc, bất kể việc chúng không có vũ khí. Lợi hại nhất là Vô Ảnh Đao, mười tám mũi phi đao kia giết đủ mười tám tên.

Nhưng từ căn nhà kho gần đấy, bốn gã mặt nạ gỗ lướt đến như bay. Chỉ nhìn thân pháp cũng biết họ là thủ lĩnh nông trang này.

Vô Ảnh Đao cùng ba thủ hạ xông đến chặn đường Chỉ một chiêu đầu, họ Đồng đã phải lùi bốn bước, còn ba người kia thọ thương. Tuấn Hạc kinh hãi nhập cuộc ngay. Chàng cầm thanh kiếm mà Vô Ảnh Đao trao cho – lúc đột nhập – xuất chiêu “Tịch Dương Vô Ngữ”. Kiếm quang tỏa rộng nhưng âm thầm, không hề phát ra tiếng động. Mục tiêu của chàng là hai gã mé tả.

Chúng thấy đường kiếm của chàng vô lực, cười nhạt đón chiêu. Nào ngờ mũi kiếm của chàng lặng lẽ xuyên qua lưới kiếm, đâm vào cơ thể chúng. Tuấn Hạc dồn đủ mười hai thành công lực vào chiêu kiếm nên sức công phá rất mạnh. Xương lồng ngực hai đối thủ bị đâm gấy, thấu đến phủ tạng.

Chính bản thân Tuấn Hạc cũng không ngờ chiêu này lại lợi hại như vậy. Chàng phấn khởi xông vào hai gã còn lại, chúng đã biết sợ nên chia nhau tấn công tả hữu, trước sau.

Phép đánh viên thủ này giúp chúng duy trì được một lúc lâu. Tuấn Hạc gặp đối thủ càng khôn ngoan lại càng thích thú. Chàng muốn bô xung sự thiếu thốn về kinh nghiệm chiến trường và nhân dịp này tìm hiệu lộ số kiếm thuật của Ma cung.

Khi nhận ra chúng chỉ biết có mười hai chiêu căn bản, Tuấn Hạc quyết định kết liễu trận đấu. Chàng vung tả thủ giáng một chưởng cách không vào tên trước mặt, gã cử chưởng tiếp chiêu, bị đẩy lùi gần trượng. Chàng liền quay ngoắc lại, nhảy xổ vào gã sau lưng, lần này là chiêu “Mai Liên Xung Địch”, kiếm khí rít lên vi vu như tiếng sáo, kiếm ảnh mịt mù như sương chiều. Đối phương kinh hãi múa tít trường kiếm, có chặn đường kiếm lại. Nhưng chỉ hoài công vô ích, đường kiếm của Tuấn Hạc vẫn phăng phăng ập đến, lướt ngay yết hầu của gã.

Tên còn lại phóng kiếm cản đường Tuấn Hạc rồi lao vào bóng đêm.

Tuấn Hạc không truy sát vừa ra hiệu cho Tam Thúc Thố Âu Tiểu Du đuổi theo. Chàng hy vọng sẽ tìm ra vị trí của Ma cung.

Lúc này, bọn đệ tử Ma cung đã bị giết sạch. Vô Ảnh Đao dẫn bọn thủ hạ lùng sục khắp nơi nhưng không còn mống nào. Gã phát hiện phía sau có hai chục con ngựa và mười cỗ xe song mã, liền báo cho Tuấn Hạc biết.

Chàng hỏi lại :

– Các hạ định đưa những nạn nhân này đến đâu tĩnh dưỡng?

– Bẩm công tử, cách đây vài dặm, có một cơ sở mật của bổn môn. Chúng ta sẽ chuyển họ về đấy.

Tuấn Hạc yên lòng, cầm đuốc chạy sang khu lán gỗ của tù nhân. Chàng mừng rỡ nhận ra Vạn Bác Hồ Tinh Cù Sở Hòa. Nhưng cũng như những người còn lại, họ Cù đờ đẫn, dương đôi mắt lạc thần, mê muội. Lão không nhớ gì cả.

Chàng thở dài quay ra, đám thủ hạ của chàng đã bắt kế xong mười cỗ xe. Họ vào đưa các nạn nhân lên.

Đoàn nhân mã rời nông trại, đi về cơ sở mật. Đó là một tòa trang viện rộng rãi, nằm giữa những thửa ruộng kê mầu mỡ.

Đêm ấy, Tuấn Hạc chẩn mạch và xem triệu chứng của Vạn Bác Hồ Tinh. Chàng đối chiếu với Y kinh và đoán rằng họ bị đầu độc bởi một loại mê dược – có gốc từ cây Anh Túc.

Chàng suy nghĩ đến sáng mới tìm ra một dược phương, đưa cho Vô Ảnh Đao vào thành hốt thuốc.

Tòa trang viện này là của một phú nông họ Tạ. Ông ta chịu ơn Đồng Túc Luân nên tự nguyện biến nhà mình thành cơ sở của Biến Hình môn.

Tạ lão tuổi đã cao nhưng xem ra vẫn còn sung sức. Đứa con nhỏ nhất của lão mới lên ba. Tổng cộng lão có đến hai vợ và chín người con.

Gần trưa, họ Đồng mang thuốc về, hai cô con gái của Tạ trang chủ hăng hái đốt lò sắc thuốc. Họ rất vui lòng được phục vụ chàng công tử anh tuấn và nho nhã kia. Bộ râu rậm và vết sẹo trên gò má trái của chàng chẳng hề làm họ sợ, vì ánh mắt và nụ cười rất hiền hòa.

Chiều đã buông mà Tam Thúc Thố Âu Tiểu Du vẫn chưa về. Vô Ảnh Đao nóng ruột :

– Công tử! Thuộc hạ sẽ đưa anh em búa ra truy tìm gã họ âu. Không chừng hắn lại đâm đầu vào một sòng bạc nào đấy.

Tuấn Hạc mỉm cười chấp thuận. Căn cứ này rất an toàn nên Vô Ảnh Đao kéo quân đi hết.

Thuốc đã sắc xong, Tuấn Hạc cho Cù lão uống và ngồi chờ xem diễn biến.

Trời tối hẳn, mảnh trăng non chênh chếch rọi qua song, nghe tiếng vó câu từ xa vọng lại, chàng cứ ngỡ bọn Vô Ảnh Đao về đến.

Nhưng lát sau, đoàn ngựa kia dừng lại chứ không tiến thẳng vào trang. Một linh cảm xấu khiến lòng bức rức, tuy thiếu lịch duyệt nhưng đầu óc mẫn tiệp, Tuấn Hạc nhận ra ngay quái sự. Chàng xách kiếm chạy ra ngoài, nhảy lên tàng cây cao nhất mà quan sát.

Nhờ ăn được linh quả mắt hàng sáng gấp bội người thường nên nhìn thấy những bóng đen thấp thoáng trong ruộng kê, tạo thành vòng vây hình cách cung, tiến đến Tạ gia trang.

Có lẽ phe đối phương không biết rằng Vô Ảnh Đao đã đưa thủ hạ đi cả nên mới cẩn thận như vậy.

Tuấn Hạc kinh hãi nhảy xuống chạy nhanh vào trong, nghiêm giọng hỏi Tạ trang chủ :

– Phía sau có đường thoát thân nào không? Cường địch đã ở phía trước.

Tạ lão biến sắc, run rẩy đáp :

– Thưa có, sau vườn là con rạch nhỏ, có sẵn thuyền.

– Vậy Trang chủ hãy gom góp những của cải quý giá nhất, đưa gia quyến thoát ra ngay.

Tạ lão là một nông dân già cẩn trọng, khi dính dáng vào việc giang hồ là đã dự phòng có ngày hôm nay. Vàng bạc, châu ngọc lúc nào cũng nằm sẵn trong bọc – để có thể đào tẩu thật nhanh. Chỉ nửa khắc sau, gia đình họ Tạ đã thoát hiểm. Họ chỉ đem theo được một mình Hồ Tinh.

Tuấn Hạc thở dài nhìn đám nạn nhân đang ngủ. Chàng xách kiếm chạy ra cổng trang, quát lớn :

– Luân Hồi ma cung! Bổn công tử đã chờ đợi lâu lắm rồi.

Phe đối phương thấy mình bị lộ, đứng cả lên, đuốc trong tay bật sáng. Tổng cộng có đến gần trăm tên.

Chúng đều đeo mặt nạ gỗ như nhau nhưng có một chút khác biệt. Tám tên đi đầu có thêm một ngôi sao bạc trên trán. Giống như bốn gã thủ lĩnh nông trang mà chàng đã gặp hôm qua. Có lẽ họ là Luân Hồi Sứ Giả? Và đặc biệt, có một người cao lớn, không mang dấu hiệu ngôi sao mà là một vành trăng khuyết bàng vàng. Vai vế của lão chắc khá cao. Chòm râu hoa râm đã nói lên rằng lão ta chẳng thể dưới sáu mươi.

Lão nhân ấy cất giọng khàn khàn :

– Ngươi dám giết môn nhân của bổn cung là không muốn sống nữa rồi.

Chàng lạnh lùng đáp :

– Ta còn muốn lấy cả chiếc đầu của Luân Hồi Đế Quân nữa đấy!

Đã nghe tên sứ giả thoát chết nói về bản lãnh của Tuấn Hạc nên lão ta nổi tính hiếu kỳ :

– Ngươi là ai mà dám đối đầu với bổn cung?

Tuấn Hạc thản nhiên đáp :

– Bổn nhân là Tiêu Dao thư sinh Công Tôn Độc Hành, truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần.

Lão già chấn động, ngửa cổ cười vang :

– Hay lắm! Bổn cung truy tầm lão quỷ Cuồng Kiếm đã nhiều năm mà không thấy. Nay ngươi sẽ thay lão ta mà trả món nợ năm xưa.

Một tên sứ giả từ trong trang chạy ra bẩm báo :

– Khải bẩm Tây điện chủ, trong trang không có ai, ngoài đám Lạc Hồn Nhân.

Lão Điện chủ gằn giọng :

– Thế mà gã cẩu tặc họ Âu lại bảo rằng có đến hơn ba mươi cao thủ.

Tuấn Hạc choáng váng, không ngờ Tam Thúc Thố đã bị bắt. Chàng hơi yên lòng khi gã không khai báo danh tánh của chàng ra.

Lão Tây điện chủ quay sang bảo Tuấn Hạc :

– Nếu ngươi chịu đầu phục bổn cung và khai ra chỗ ẩn nấp, hoặc chôn thây của lão Cuồng Kiếm thì bổn Điện chủ sẽ tha chết cho.

Tuấn Hạc mỉm cười :

– Đừng vọng tưởng vô ích, chính lão mới là người phải xin tha mạng đấy.

Dứt lời, chàng vung kiếm lao đến tấn công. Sáu gã sứ giả xông ra chân đánh.

Tuấn Hạc là người thông minh tuyệt thế, thân thể cao lớn, tay dài chạm gối – rất thích hợp với người luyện võ. Chàng đã có dịp chạm trán với bọn sứ giả ở nông trang Anh Túc nên nắm được đôi nét về kiếm thuật Ma cung. Nhờ vậy chàng không hề bối rối trước sự hợp công này.

Thấy tên mé hữu dùng một chiêu rất quen thuộc. Tuấn Hạc đoán được thế thức, liền thọc mũi kiếm qua chỗ sơ hở, đâm thủng yết hầu đối phương.

Chàng thi triển pho khinh công “Thiên Tinh Quá Hải”, cộng với thuật nhào lộn của Hỏa Nhãn Bạch Viên mà di chuyển trong vòng vây.

Lại thêm một tên nữa bị đâm thủng ngực. Tây điện chủ vô cùng kinh hãi khi nhận thấy chàng tìm ra sơ hở của kiếm thuật Ma cung.

Lão vội quát lớn :

– Lập kiếm trận!

Bốn tên sứ giả vội di chuyển theo phương vị tứ tượng phối hợp nhịp nhàng. Kiếm trận đã phát huy hiệu dụng, kìm hãm tốc độ di chuyển của Tuấn Hạc và dồn chàng vào chỗ bị động.

Nhưng chàng còn một ưu thế nữa mà chúng không hề biết. Tuấn Hạc gầm lên, dồn nửa nội lực vào hậu tâm rồi nhảy xổ vào đối thủ trước mặt. Ba sứ giả còn lại vung kiếm đâm vào lưng chàng. Chúng tưởng chàng phải bỏ ý định ban đầu Không ngờ, chàng vẫn thản nhiên xuất chiêu “Cân Động Trường Thiên”. Mục tiêu bị chặt bay đầu dù lưng chàng cũng trúng ba kiếm.

Những kẻ đâm sau lưng đang đắc ý bỗng sững sờ nhận ra mũi kiếm như chạm vào da voi. Tuấn Hạc quay ngoắc lại, đánh chiêu “Hoàng Diệp Diêu Linh”. Ba gã sứ giả đang ngơ ngẩn nên chẳng thể tránh được chiêu kiếm kỳ tuyệt. Mỗi tên lãnh một kiếm vào ngực, hồn du Địa phủ.

Tuấn Hạc luyện chiêu kiếm này đã đến mức xuất thần. Chàng có thể đâm trúng mười tám chiếc lá mà Tiểu Bạch tung vào người.

Lão Tây điện chủ thấy cả sáu sứ giả mạng vong, lòng thầm khiếp sợ. Nhất là thấy cơ thể chàng không tổn thương vì đao kiếm. Nhưng lão già dặn kinh nghiệm nên cũng biết chân khí chàng đã hao hụt rất nhiều.

Lão ta quát vang như sấm, ôm kiếm lao vào, khí thế mãnh liệt phi thường. Công lực lão ta có vẻ thâm hậu hơn Tuấn Hạc.

Chàng tự lượng sức mình, xuất chiêu “Lâm Ly Thúy Mặc”, thân hình chàng nghiêng ngã, lảo đảo như người say, trường kiếm vẽ nên những đường ngoằn ngoèo rất lạ lùng – như gã say đang múa bút. Một luồng kiếm kình âm nhu đón lấy đường kiếm và mũi kiếm uy hiếp tám đại huyệt trên thân trước của đối phương.

Kiếm ý của chiêu này là dĩ nhu thắng cương, đáng gọi là tuyệt học thế gian. Lão Điện chủ bị chặn lại, lửa giận bừng bừng, vung kiếm đánh dồn. Lão không sử dụng những chiêu của bọn sứ giả mà thi triển một loại kiếm thuật cao cường hơn hẳn.

Được hơn trăm chiêu, Tuấn Hạc nghe tay tê chồn, công lực giảm sút. Đối phương cũng biết vậy nên tấn công ráo riết, không để chàng thoát ra. Lão mỉm cười âm hiểm, đánh một chiêu cực kỳ quỷ dị và hung hãn. Kiếm quang loang loáng dưới ánh trăng ngà và tỏa khí lạnh như sương đêm.

Tuấn Hạc mệt mỏi nên đường kiếm không nhanh như mong muốn, bị lão đâm thủng ngực phải. Nội lực hao hụt nên Thiết Thạch thần công không còn bảo vệ được da thịt chàng nữa.

Tuấn Hạc nhảy lùi hơn trượng, điểm huyệt chỉ huyết. Lão Tây điện chủ cười khinh ngạo :

– Ta tưởng ngươi đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại, không ngờ cũng chỉ là gỗ mục!

Dứt lời, lão ập đến tấn công. Tuấn Hạc nén đau đánh chiêu “Tịch Dương Vô Ngã”. Đặc điểm của chiêu kiếm này là không hề phát ra chút kình lực hoặc âm thanh nào, vì vậy đối phương xem thường.

Nhưng thực ra, Tuấn Hạc cũng chẳng còn đủ sức để đánh hết chiêu, chàng liền biến hóa đi một chút. Thay vì vươn tay, đưa mũi kiếm lên qua chỗ sơ hở, chàng lại phóng mạnh. Nhờ thế, lão ác ma không ngờ đến. Lão kinh hãi lách ngay, bị kiếm cắm vào bả vai tả.

Tuấn Hạc chỉ chờ có thế, tung mình về phía sau, phá vòng vây mà đào tẩu. Bọn đệ tử Ma cung vội múa kiếm chặn lại. Nhưng đôi tay ma quái của chàng vươn dài, phất vào cổ tay hoặc khéo léo vỗ đẩy những thanh kiếm chạm vào nhau.

Đấy chính là thủ pháp “Lan Hoa Điểm Thạch” trong pho Tiêu Dao thất thập nhị thủ!

Thân ảnh chàng lại vô cùng linh hoạt, biến hóa nên dễ dàng thoát khỏi vòng vây. Chàng chạy ngược vào trang viện, ra phía sau, nhảy xuống con rạch, lặn một hơi dài mới trồi lên, ẩn dưới bụi cây cạnh bờ.

Lão Điện chủ đã được thuộc hạ băng bó xong, lão bật cười ghê rợn :

– Tiểu tử kia đã trúng một mũi Độc kiếm, chắc chắn chẳng thể thoát chết được, còn tìm gã làm gì nữa? Các ngươi hãy phóng hỏa đốt trụi nơi này, thiêu hủy luôn đám Lạc Hồn Nhân vô dụng kia đi.

Tuấn Hạc chết điếng người. Dòng lệ thương tâm trào ra khóe mắt. Chàng có ra mặt cũng không cứu được họ.

Ngọn lửa bốc cao, sáng rực cả một vùng.

Tuấn Hạc trợn mắt nhìn ngọn lửa, nghiến răng kèn kẹt, chàng thề sẽ giết sạch bọn Luân Hồi ma cung.

Bọn mặt gỗ lên ngựa rút lui. Tuấn Hạc cũng không đủ can đảm ở lại nhìn cảnh chết chóc, lên bờ nhắm hướng Bắc mà đi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.