Hàn Ngọc Hà vừa nghe Lữ Lân nói thế, bất giác phì cười. Nụ cười của nàng trông thật ngọt ngào, nên diện mạo của nàng lại càng xinh đẹp gấp bội, khiến Lữ Lân cơ hồ chóa cả mắt.
Hàn Ngọc Hà vội vàng đứng thẳng người lên, bước lùi ra xa để tránh cho Lữ Lân nhảy lên cầu đá. Lữ Lân vội vàng vận dụng sức mạnh ra mười ngón tay, lấy đà bay vọt người lên mặt cầu, nhìn thẳng vào Hàn Ngọc Hà mỉm cười, khiến Hàn Ngọc Hà bừng đỏ đôi má và quay đầu nhìn đi nơi khác.
Một cảm giác mới lạ đang len lỏi vào tâm hồn.
Lòng họ lúc bấy giờ đã thoáng hiện hình bóng của tình yêu.
Giữa hai người trước kia, nguyên là một kẻ thù bất công đái thiên, thế nhưng giờ đây lại trở thành một đôi trai gái đầy thiện cảm với nhau. Việc ấy tuy có thể tại do hành động của Lữ Lân đã nhanh nhẹn tràn tới cứu nguy cho Hàn Ngọc Hà mà ra, song kỳ thực, lúc đôi bên vừa gặp nhau trên cầu đá, đưa mắt nhìn qua hình dáng của nhau là lòng họ đã nảy nở mầm mống yêu đương.
Song giữa hai người tuy đã biến thù thành bạn, nhưng trong thâm tâm của họ đều đang tưởng nhớ đến người bạn tình cũ của mình. Hàn Ngọc Hà đang tưởng nhớ đến Đàm Dực Phi cũng như Lữ Lân đang tưởng nhớ đến Đàm Nguyệt Hoa.
Bởi thế, họ không muốn biểu lộ tình cảm nhiều với đối phương đề phòng trong biển tình sau này lại bị phong ba rắc rối.
Lữ Lân nghiêm nghị nói:
– Hàn cô nương, giữa chúng ta cần tỷ thí nữa hay không? Hàn Ngọc Hà cúi đầu khẽ đáp:
– Võ công của anh cao cường hơn tôi, vậy chẳng cần phải tỷ thí nữa.
Lữ Lân vừa nghe qua câu trả lời ấy của Hàn Ngọc Hà, trong lòng hết sức cảm động.
Cá tánh của Hàn Ngọc Hà, Lữ Lân biết rất rõ. Nàng lúc nào cũng nóng nãy như lửa, vậy bảo nàng tỏ thái độ phục thiện trước mặt người khác thực là một chuyện không phải dễ.
Nhưng giờ đây nàng đã nói lên một câu nói như vậy, chứng tỏ nàng đã có chỗ khác xưa.
Trong phút chốc, Lữ Lân thấy việc mình đánh nhau chết sống với nàng trước đây thực là một chuyện hết sức vô lý.
Trước kia, Hàn Ngọc Hà lầm tưởng cái chết của phụ thân nàng tức Kim Tiên Hàn Tốn chính là do Lữ Đằng Không xuống tay sát hại. Trái lại, Lữ Lân cho rằng mẫu thân mình bị chết dưới tay của Hỏa Phụng Tiên Cô sư phụ của Hàn Ngọc Hà, do đó, đôi bên mới trở thành thù địch sâu sắc như đã thấy.
Sau đó, tuy Lữ Lân được mọi người nói cho biết, nên đã hiểu trước khi mẫu thân chàng giao tranh với Hỏa Phụng Tiên Cô đã trúng một chưởng của Quỷ Thánh Thạnh Linh rồi. Như vậy, bà ấy vì đang trọng thương nhưng lại sử dụng nội lực quá nhiều, nên mới mất mạng. Tuy vậy, cái chết của mẫu thân chàng xét ra cho cùng cũng dính dấp đến Hỏa Phụng Tiên Cô.
Nhưng giờ đây đối với Hàn Ngọc Hà, Lữ Lân thấy cô cũng có mối hận với Hỏa Phụng Tiên Cô đã giết hại phụ thân nàng.
Sau đó, hai người cẩn thận đi ngang qua chiếc cầu đá và cùng kéo nhau xuống chân núi phía bên kia. Khi đến nơi, Lữ Lân trông thấy dưới chân núi âý cũng có một vùng đất phù sa y như phía chân núi của chàng cây cối tươi tốt, hoa quả trĩu cành.
Đi thêm chẳng bao xa, hai người đã đến trước miệng một cái sơn động. Cả hai cùng bước vào trong, thấy sơn động ấy có một gian phòng đá suýt soát như Mặc Tiều Tiên Phủ, chung quanh cũng có mấy viên dạ minh châu thực to. Bên ngoài sơn động có khắc bốn chữ đại tự “Ban Long Thạch Phủ”.
Khi Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà vào đến gian phòng đá, thì Hàn Ngọc Hà kể lại đầu đuôi cho Lữ Lân nghe về mọi chuyện mình đã trải qua.
Thì ra khi chiếc thuyền chạm vào đá vỡ tan, Hàn Ngọc Hà bi sóng cuốn lên những tảng đá sát mé nước và nhờ thế nàng được thoát chết. Khi nàng tỉnh lại tưởng Lữ Lân đã bị vùi thây dưới lòng biển sâu.
Hôm ấy, nàng liền phát giác được Ban Long Thạch Phủ, đồng thời cũng tìm thấy được hai món bảo vật của Ban Long Tiên Bà để lại.
Hai món bảo vật ấy là cây Linh Chi bảy màu mà nàng đã uống và pho sách nói rõ về cách luyện Thái Âm Chưởng Pháp.
Hàn Ngọc Hà được Thái Âm Chưởng Pháp, trong lòng hết sức vui mừng. Nàng là con người rất thích võ công, nên liền gầm đầu nghiên cứu và khắc khổ rèn luyện ngay. Thứ chưởng pháp đó tuy có bảy thế, song kỳ thực thì rất khó luyện nên. Nàng phải trải qua hai năm dài mới rèn luyện thành công.
Bên trong gian phòng đá của Ban Long Tiên Bà hãy còn để lại rất nhiều y phục, nên Hàn Ngọc Hà đã dùng y phục ấy để thay đổi.
Nàng sống yên tại Ban Long Thạch Phủ, song và không làm sao ngờ được bên kia quả núi lại còn có người ở. Mãi đến khi Lữ Lân lên tiếng hú dài, nàng chú ý tìm kiếm và hai người mới được gặp nhau.
Sau khi Hàn Ngọc Hà đã nói cho Lữ Lân biết mọi việc, thì Lữ Lân cũng kể cho nàng nghe về trường hợp của mình. Khi nói đến Mặc Tiều Tam Bảo hãy còn một món chưa phác giác được thì đôi tròng mắt của Hàn Ngọc Hà liền xoay qua nói:
– Lữ công tử, còn món bảo vật đó, rất có thể Thiên Tôn Thượng Nhân đã mang theo người. Như vậy, khi ông ấy từ trên chiếc cầu đá cao rơi thẳng xuống biển, thì hãy còn trong xác ông ta. Tại sao chúng ta không lội xuống biển để tìm xem? Lữ Lân thấy lời nói của Hàn Ngọc Hà rất chí lý, nên vội vàng lên tiếng đáp:
– Hay lắm! Thế rồi hai người bèn đi lần ra mé nước ngay phía dưới cầu đá. Lữ Lân tỏ ra đắn đo trong giây lát, đôi má bừng đỏ nói:
– Hàn cô nương, tôi chỉ có một bộ y phục bằng cỏ đan duy nhất này, nếu bị ướt đi thì làm thế nào? Hàn Ngọc Hà đáp:
– Không sao, Ban Long Tiên Bà còn để lại rất nhiều y phục trong sơn động, vậy anh cứ vào lấy một bộ thay đỡ.
Lữ Lân gật đầu và hai người bèn đưa chân lội vào nước. Khi đã lặn xuống sâu, họ mở mắt ra nhìn thấy nơi ấy nước sâu có hàng mười trượng nhưng trong veo như lọc. Đồng thời cũng thấy rõ trên lớp cát ở dưới đáy hãy còn hai bộ xương trắng.
Hai bộ xương ấy đang nằm song song với nhau dưới đáy biển, nhưng chẳng biết trải qua bao nhiêu năm rồi.
Hai người vừa trông thấy hai bộ xương trắng thì đoán biết ngay là di cốt của Thiên Tôn Thượng Nhân và Ban Long Tiên Bà chứ chẳng còn ai nữa. Mọi việc đã xảy ra xưa kia có lẽ đúng như sự phán đoán của họ.
Khi nhìn kỹ hơn, Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà thấy hai bàn tay của hai bộ xương ấy đang nắm chặt lấy nhau. Bởi thể họ đoán biết hai bậc đại dị nhân này sau khi đã bị trọng thương và trên chiếc cầu cao rơi thẳng xuống nước, vẫn chưa chết ngay. Tuy nhiên, họ không còn đủ sức để nổi lên mặt nước hồ, hầu bơi trở vào bờ nữa. Trước giây phút nhắm mắt lìa đời, trong lòng hai người đều cảm thấy hết sức hối hận về hành động của mình, nên đã cùng siết chặt lấy tay nhau để tỏ sự ăn năn sau cùng.
Nhưng dù sao, sự ăn năn của họ đã chậm đi một bước, vì họ không làm thế nào thoát chết được mà vùi sâu dưới đáy biển sâu mãi mãi.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà lặn đến hai bộ xương trắng, và không khỏi đều giật mình. Vì nghĩ rằng suýt nữa họ cũng đã giẫm vào vết xe đổ của tiền nhân. Cả hai bất giác đưa tay ra nắm chặt lấy nhau rồi lại bơi trở lên mặt nước.
Khi hai người đã trồi lên khỏi mặt nước, Lữ Lân bèn lên tiếng hỏi:
– Hàn cô nương, hai lão tiền bối ấy ở dưới đáy biển sâu thực là thanh thản biết bao.
Vậy tôi thà là bỏ đi món bảo vật thứ ba ấy, chứ không thể nhẫn tâm động đến hài cốt của họ. Vì hai người đã chết nhiều năm qua, chúng ta vẫn là đệ tử của nhị vị ấy. Chúng ta phải tôn kính họ mới được.
Hàn Ngọc Hà gật đầu khen phải, và đôi bên liền buông lỏng hai bàn tay ra, nhưng sắc mặt đều bừng đỏ.
Lữ Lân nói:
– Chúng ta đã lội xuống nước rồi, vậy tại sao không đến nơi chiếc thuyền bị đắm mà tìm lại ngọn roi vàng của cô? Hàn Ngọc Hà cũng cười đáp:
– Nếu vậy thì anh cũng nên tìm lại thanh đơn đao màu tía của anh chứ? Hai người cùng bơi đến nơi chiếc thuyền bị đắm trước kia và chẳng mấy chốc sau, họ đã đến địa điểm ấy. Sau khi lặn sâu xuống nước tìm kiếm một lúc, họ trông thấy hai món binh khí đang nằm yên trên những tảng đá ngầm, sát bên cạnh chiếc thuyền bị đắm. Hai người bèn nhanh nhẹn nhặt lấy binh khí của mình rồi lại trồi trở lên mặt nước, trong lòng hết sức vui mừng.
Sau đó, cả hai lại trở về Ban Long Thạch Phủ lấy y phục cũ của Ban Long Tiên Bà ra thay. Lữ Lân mặc một bộ y phục bông hoa có màu sặc sỡ, nên không khỏi bật cười. Hai người ngồi nói chuyện thân mật với nhau mãi cho đến trời tối hẳn, mới đốt lửa nướng khoai và câu thêm mấy con cá lên làm bữa. Họ quyến luyến nhau như không muốn rời xa, bước ra ngoài cùng ngồi nói chuyện thân mật dưới bóng trăng thanh mát.
Đêm hôm ấy, Lữ Lân mới thấy mặc dù Hàn Ngọc Hà bản tính nóng như lửa, song khi nàng dịu dàng vui vẻ, thì vẫn là một cô gái rất đáng thương. Sống gần lâu ngày bên cạnh Hàn Ngọc Hà, Lữ Lân cũng đã dần dần quên đi hình ảnh của Đàm Nguyệt Hoa. Nhưng chàng lúc nào cũng cố xua đuổi những ý định thay lòng đổi dạ đến ám ảnh mình.
Sáng sớm ngày hôm sau, hai người luyện tập võ công một lúc, rồi cùng nhau đi đến chiếc thuyền bị đắm tháo gỡ ván thuyền còn chắc chắn ra.
Hai người bận rộn suốt gần một tháng trường mới đem số ván thuyền còn chắc ấy kết thành một chiếc bè to. Đồng thời, họ cũng đã chuẩn bị đủ lương khô và nước ngọt để mang theo dùng dọc đường. Suốt thời gian một tháng, họ lại tìm lấy những mảnh vải buồm còn chắc kết thành một lá buồm khá to, và dùng cột buồm cũ để trương lá buồm ấy lên chiếc bè.
Với dự định của hai người, thì hành trình dù cho dài lắm cũng trong vòng một tháng sau là họ sẽ trở về đến đất liền được.
Khi mọi việc chuẩn bị đâu đấy, hai người liền hăng hái buớc lên bè vào một buổi sáng tinh sương, lấy sào chống cho chiếc bè tách khỏi Mặc Tiều Đảo. Chiếc bè đã nương theo chiều gió thổi, tíếp tục trôi mãi về phía tây.
Trong thời gian ngồi yên trên bè, hai người lại nghiên cứu thêm về võ công, nên cả hai đều được tiến bộ rất nhiều.
Những ngày lênh đênh trên mặt biển, may mắn lúc nào cũng trời quang mây tạnh, hơn nữa lại được ngọn gió thổi đều, nên chỉ vào ngày thứ tám là họ đã trông thấy được bóng đất liền.
Cả hai đều hết sức vui mừng, cất tiếng hú dài đầy sung sướng. Đến đúng trưa ngày hôm ấy, chiếc bè của họ lại càng gần đất liền hơn, nên đã trông thấy rõ những rặng núi cao gần mé biển. Nhưng hai người không biết vùng đất ấy là thuộc về địa phương nào.
Đến chiều tối, chiếc bè của họ đã chạy trở lên bãi cạn sát mé biển. Hai người bèn rời bè lội vào bờ, tiếp tục đi thẳng về phía rặng núi cao. Cả hai lần mò tìm đường đi tới mãi, và chừng nửa đêm thì đã đi đến một khúc quanh sườn núi, trông thấy nơi đó có một ngôi chùa.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà liền bước nhanh đến trước ngôi chùa để nghe ngóng, thấy bên trong đang im phăng phắc, nhưng có bóng đèn từ trong soi ra. Trước cổng chùa có treo một tấm biển to, bên trên đề bốn chữ vàng: “Nguyên Long Cổ Tự”.
Lữ Lân đưa chân bước tới, tay gõ mạnh vào cánh cửa. Chẳng mấy chốc sau, chàng nghe bên trong có tiếng then cửa khua lạch cạch, rồi thấy có một bóng tăng nhân thò đầu ra nhìn hai người, sắc mặt có vẻ hết sức kinh dị.
Lữ Lân vội vàng nói:
– Đại sư phụ, chúng tôi là người bị trôi dạt trên mặt biển lâu ngày, mãi đến hôm nay mới trở về được đất liền. Vậy chẳng hay đại sư phụ có thể cho chúng tôi ngủ nhờ một đêm không? Vị tăng nhân ấy đưa mắt nhìn về phía Hàn Ngọc Hà một lượt, đáp:
– Người xuất gia lúc nào cũng lấy lòng từ bi làm căn bản, nên việc nhị vị vào đây nghỉ ngơi thật ra chẳng có vấn đề chi cả. Song riêng vị nữ thí chủ này…
Lữ Lân đoán biết tăng nhân ấy không muốn để phụ nữ đến ngủ trọ trong chùa, nên định lên tiếng năn nỉ ông ta. Song Hàn Ngọc Hà đã tỏ ra sốt ruột, nói:
– Nếu không cho thì thôi. Tôi xin hỏi ông, nơi đây là nơi nào vậy? Vị tăng nhân đáp:
– Nơi đây là Thanh Thanh Cốc thuộc vùng Lao Sơn.
Hai người nghe qua, thì biết mình may mắn đã lọt vào nơi có dân cư, chứ chẳng phải là một vùng hoang vu không bóng người nên cũng lấy làm mừng rỡ. Hàn Ngọc Hà bèn thò tay kéo lấy Lữ Lân, nhanh nhẹn ra đi, nhắm đường mòn tiếp tục lướt tới.
Chẳng mấy chốc sau, hai người đã đi khỏi sườn núi. Hàn Ngọc Hà bèn lên tiếng nói:
– Chúng ta cứ ngủ giữa trời một đem, nào có hại chi? Hà tất phải tìm vào chùa để cho lão trọc ấy thoái thác mãi? Lữ Lân vốn biết cá tính nóng nảy của Hàn Ngọc Hà, nên lên tiếng hỏi:
– Thôi, cô đừng nói nữa, đêm nay cô liệu có ngủ được không? Hàn Ngọc Hà nhếch môi cười đáp:
– Anh biết được cá tính của tôi lắm. Vậy chúng ta sẽ đi suốt đêm nhé? Lữ Lân đáp:
– Như vậy thì còn chi hay hơn? Hai người đã sống trên đảo hoang suốt hai năm dài, vừa bước chân lên đất liền trong lòng họ thật ra hết sức vui mừng, không thể nào nằm ngủ yên cho được. Hai người bèn nắm tay nhắm phía trước chạy bay tới. Khi trời vừa bình minh thì cả hai đã rời khỏi vùng núi Lao Sơn, đến một quan lộ rộng rãi.
Hai người tuy từ nhỏ đến lớn chưa hề đến vùng Lao Sơn lần nào, nhưng về võ công của phái Lao Sơn họ, đã nghe nói đến. Trước đây mấy mươi năm, phái này tên tuổi vang lừng, song về sau vì vị Chưởng môn tạ thế, sư huynh sư đệ trong nhóm họ đã tranh giành ngôi vị Chưởng môn, gà nhà bôi mặt đá nhau và đã bị những môn phái thù nghịch thừa cơ tràn lên tiêu diệt tất cả.
Việc đó, số người trong võ lâm đều thường nhắc tới nhắc lui, là điều răn dạy hậu thế.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà là người sống trong gia đình võ học, tất nhiên đã có nghe nói đến nhiều lần.
Bởi thế họ cũng được biết vị trí của Lao Sơn, nên theo đường cái quan đi tới thì chỉ độ tám chín trăm dặm sẽ đến phủ thành Tế Nam, tức một phủ thành lớn nhất trong vùng Sơn Đông. Như vậy, với sức đi nhanh của họ, thì chẳng quá sáu ngày sau là đến được nơi ấy rồi.
Song, khi hai người đi đến quan lộ bỗng đều dừng chân đứng yên cả lại, không tiếp tục đi tới nữa.
Lúc hai người còn kẹt trên hoang đảo, cũng như lúc còn bập bềnh trên chiếc bè to trôi lênh đênh ngoài biển cả, họ đều tha thiết muốn trở về đất liền. Nhưng sau khi đã đến đất liền, họ lại không biết đi về đâu? Lẽ tất nhiên hai người đều có gia đình cả, một người ở tại Nam Xương, và một người thì ở tại Tô Châu. Nhưng vì cha mẹ của Lữ Lân đã mất hết, cũng như phụ thân và em trai của Hàn Ngọc Hà đều qua đời, sư phụ nàng cũng sớm tiên du. Như vậy, tuy cả hai đều là người có nhà, song trên thực tế thì chẳng qua chỉ là người bơ vơ.
Chính vì lẽ ấy, nên hai người mới đứng sửng sờ. Trong giây lát sau, Hàn Ngọc Hà lên tiếng nói trước:
– Lữ công tử, giờ đây công tử định đi về đâu? Lữ Lân đáp:
– Trong lòng tôi đang do dự, chưa có một sự quyết định dứt khoát. Hàn cô nương, nếu tên Cầm Ma ấy suốt hai năm qua vẫn còn tiếp tục gây sự trong võ lâm, [mất trang] …………………
Riêng cuộc chiến trước Quỷ Cung, tuy phái Hoa Sơn người đông thế mạnh, song vì các môn phái khác cũng chẳng phải tầm thường nên đôi bên đều bị thiệt hại khá nặng, không ai giành được phần thắng lợi cả.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà nghe qua, trong lòng hết sức lấy làm lạ.
Hai người đi mấy ngày đường, và đúng trưa một hôm nọ, họ đã đến được ngoại ô thành Tế Nam.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà vừa mới vào đến cửa thành, thì bỗng cảm thấy có người đang bám sát theo lưng mình. Do đó, hai người bèn quay đầu nhìn lại mấy lượt và đều thấy số người ấy vẫn bám sát theo họ mãi. Đấy là ba gã đàn ông hình dáng rất quái dị, ăn mặc lạ lùng.
Gã đàn ông ấy khi thấy Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà quay đầu nhìn, liền giả vờ đưa mắt nhìn lơ đễnh như đang xem cảnh đường phố hoặc giả vờ bình thản nói chuyện với nhau, lần nào cũng y như lần nấy.
Ba gã đàn ông đó, Lữ Lân càng nhìn càng thấy họ quái dị hơn. Người đi giữa có thân hình cao lêu nghêu, nhưng chỉ có một chân, còn một chân khác thì đứt tiện đến háng, phải dùng gậy chỏi lên mặt đất để giữ thăng bằng. Hai gã đi hai bên, một gã cụt mất một cánh tay trái và một gã khác tay cầm gậy trúc tựa hồ đôi mắt đều mù! Ba gã đàn ông ấy chẳng những là người tàn phế mà trên gương mặt đều đầy những vết thẹo, trông vô cùng xấu xí hung tợn. Hơn nữa, y phục họ mặc thì xốc xếch, trông chẳng ra hình dáng chi cả.
Hàn Ngọc Hà trông thấy đối phương cứ bám sát theo mình mãi, lấy làm bực tức, mấy lần định quay lại gây sự, nhưng nhờ Lữ Lân kịp thời ngăn cản nên nàng mới chịu để yên.
Lữ Lân hạ giọng nói nhỏ rằng:
– Hàn cô nương, ba người ấy đang bám sát theo chúng ta, vậy e rằng ở phía sau họ lại còn có các cao thủ khác. Vậy chúng ta không nên gây sự với họ, làm cho số người còn ẩn mặt kia phải kiêng dè.
Hàn Ngọc Hà khẽ cười nhạt nói:
– Rõ là quân to gan nên mới dám bám sát theo chúng mình như vậy! Dứt lời hai người đưa mắt nhìn về phía ba gã đàn ông ấy một lượt, rồi mới tiếp tục bước tới.
Nhưng cả hai vừa bước đi thì đã nghe gã đàn ông cầm gậy trúc không ngớt điểm cốc cốc trên mặt đường, nhanh nhẹn bám sát theo họ như trước.
Hàn Ngọc Hà thấy thế, thật không làm sao để nén được cơn tức giận, lên tiếng nói nhỏ rằng:
– Chi bằng chúng ta hãy dẫn dụ ba gã đàn ông kia ra phía ngoại ô, để hỏi chúng muốn chi cho biết? Lữ Lân trông thấy đối phương vẫn bám sát theo mình mãi, trong lòng không khỏi lấy làm lạ. Nhưng chàng không rõ ba người ấy là nhân vật của môn phái nào nên khi nghe lời của Hàn Ngọc Hà, chàng thấy có lý, liền cùng nàng rẽ sang phía tây và chẳng mấy chốc sau họ đã đến cửa Vĩnh Cố của thành Tế Nam.
Thành Tế Nam là một ngôi thành to nhất ở Sơn Đông, mặc dù hai người đã ra khỏi cửa thành, song chung quanh đấy dân cư vẫn trù mật. Bởi thế hai người lại tiếp tục đi tới mãi chừng bốn mươi dặm đường mới đến một khu nghĩa địa rộng lớn đến hai ba mươi mẫu, chung quanh tùng bách cổ thụ mọc xanh um, rậm rạp, phong cảnh hết sức tĩnh mịch.
Hàn Ngọc Hà và Lữ Lân bước vào khu nghĩa địa, tìm đến ngồi yên xuống một chiếc chiếc ghế đá, rồi đưa mắt nhìn về phía đường cái để nghe ngóng.
Sau đó, họ thấy ba gã đàn ông dị hình dị tướng kia đã bước đến phía ngoài khu tùng bách, thỉnh thoảng thò đầu nhìn vào để theo dõi hai người. Bọn chúng chú ý nhìn một lúc thì lại kề tai thì thầm bàn tán với nhau.
Hàn Ngọc Hà vốn có ý muốn gây sự đánh nhau với họ, nên trông thấy thế bèn nghiêng vai hốt một nắm lá tùng.
Lữ Lân trông thấy nàng hốt lá tùng vào tay, thì biết ngay nàng định tấn công số người ấy.
Quả nhiên, Hàn Ngọc Hà cất giọng lạnh lùng hừ lên một lượt là đã vung mạnh cánh tay ném thẳng nắm lá tùng về phía trước. Tức thì tiếng rít gió liền thổi lên nghe vèo vèo, và nắm lá tùng đó nhắm phía ngoài khu tùng bách rậm rạp, bay vẹt tới nhanh như điện chớp.
Ba gã đàn ông quái dị kia vừa trông thấy những lá tùng nhọn hoắc như những ngọn kim bay vèo về phía mình, thì vội vàng phi thân lướt thẳng ra ngoài mất hút, không còn nhìn thấy bóng hình đâu nữa.
Thế là những chiếc lá tùng do Hàn Ngọc Hà ném ra, lớp bay cắm sâu vào thân cây, lớp cắm thẳng vào mặt đất trông thực đáng sợ. Như vậy, cũng đủ thấy sức mạnh Thái Âm Chưởng của Hàn Ngọc Hà quả đã tiến bộ đến mức cao cường hiếm có, luồng sức mạnh thuần âm này đủ sức đánh vỡ được cả vật cứng rắn.
Khi trông thấy ba bóng người ấy lướt đi mất dạng, Hàn Ngọc Hà liền đứng phắt lên, cất giọng trong trẻo quát rằng:
– Đã dám theo dõi bọn ta đến nơi này, thế sao chưa nói chi cả mà đã bỏ chạy hết rồi? Nàng quát liên tiếp mấy lượt, nhưng bên ngoài khu tùng bách cổ thụ vẫn im phăng phắc không nghe một tiếng động.
Lữ Lân thấy thế cũng không khỏi hết sức lấy làm lạ, và cũng không làm sao đoán biết được ba người đàn ông đó thuộc người của môn phái nào. Nếu bảo bọn họ bám sát theo là có ý muốn gây sự, vậy giờ đây chính là một cơ hội tốt để đánh nhau, thế tại sao bọn họ lại bỏ chạy mất dạng là nghĩa lý gì? Trong khi Lữ Lân còn đang ngờ vực chưa có một sự phán đoán rõ ràng, thì Hàn Ngọc Hà đã rút ngọn roi vàng ra, định phi thân truy đuổi đối phương.
Lữ Lân biết việc này có điều oái ăm khó hiểu, nên vội vàng lên tiếng ngăn cản rằng:
– Hàn cô nương chớ nên nóng nảy, hãy chờ xem mọi động tịnh trước đã.
Hàn Ngọc Hà là người có tánh nóng như lửa, nên lúc vừa phát giác được ba gã đàn ông ấy bám sát theo sau mãi, nàng vốn có ý gây sự với đối phương ngay. Song vì có Lữ Lân can ngăn, nên nàng tạm thời dằn được cơn tức giận. Đấy là một việc hiếm có lắm rồi.
Giờ đây lửa giận đang bừng cháy trong lòng nàng, vậy không còn làm thế nào đè nén được nữa. Vì vậy, câu nói của Lữ Lân vừa mới chấm dứt, thì thân người nàng cũng vừa bay vọt lên cao nhằm phía ngoài khu tùng bách bay vút tới.
Trong khi thân người của Hàn Ngọc Hà còn bay lơ lững trên khoảng không, bất thần nghe có một tiếng gầm vang dội, đoạn bên ngoài khu rừng nghe có tiếng gầm quái dị nổi lên.
Tiếp đó, lại cột ngọn kình phong cuốn tới, đi đôi với một cái bóng đen to lớn, nhắm ngay phía Hàn Ngọc Hà lao nhanh tới.
Cái bóng đen to lớn ấy xuất hiện hết sức bất ngờ và tựa hồ đấy là một cụm mây đen đang từ từ bên ngoài khu tùng bách rậm rạp lướt vào, và sắp chụp vào người người của Hàn Ngọc Hà Hàn Ngọc Hà với đang phi thân lướt nhanh ra ngoài khu rừng, nhưng bất ngờ trông thấy cái bóng đen ấy bay xẹt vào thì thực nàng không kịp nhìn rõ đấy là vật chi mà chỉ vội vàng vung ngọn roi vàng dùng thế Nhật Nguyệt Sinh Huy đánh tới để tự vệ mà thôi.
Trong giây phút ngắn ngủi đó, Lữ Lân trái lại đã trông thấy rất rõ ràng, bóng đen bất thần từ ngoài lướt thẳng tới chính là một gã đàn ông có thân hình hết sức to béo.
Đối phương vừa vung một ngọn côn sắt dài ba thước mộc, to bằng cườm tay quét tới khiến kình phong rít lên ào ào nhắm ngay đầu Hàn Ngọc Hà giáng xuống.
Trong khi hai người hãy còn đang lơ lửng giữa khoảng không, thì đôi bên đã sử dụng ngay thế võ tấn công vào nhau và đôi chân vẫn chưa đứng yên trên đất.
Hàn Ngọc Hà vừa vung roi đánh ra, bất ngờ cảm thấy có một vật đen mun lồng lộn như một con rồng bắt từ trên giáng xuống ngay đầu mình, trong lòng kinh hãi. Nàng tự biết ngọn roi vàng trong tay mình không làm sao chống đỡ nổi, nên lại càng kinh hãi hơn.
Giữa lúc đang luống cuống, nàng vội vàng vung chưởng trái lên, dùng thế Ngọc Thố Đảo Dược quét ra êm ru, chẳng hề nghe một tiếng động! Thế chưởng đó chính là một thế chưởng vô cùng tuyệt diệu trong Thái Âm Chưởng, vì nguồn chưởng lực âm nhu sẽ cuốn tới tới liên miên bất tận và có sức mạnh như xô bạt được cả núi đồi, quét ra nhanh như gió hốt, không có một sức mạnh nào bì kịp.
Thái Âm Chưởng Pháp là một môn tuyệt học lừng danh trong võ lâm, vậy uy lực của nó nào phải tầm thường? Khi luồng chưởng phong vừa quét tới, liền nghe bóng đen to lớn nọ gầm lên một tiếng quái dị và nhảy lui ra sau ngay tức khắc! Trong lúc Hàn Ngọc Hà vung chưởng quét đối phương lui ra xa, thì đồng thời cũng liền cảm thấy sức mạnh từ ngọn côn của đối phương cuốn tới hết sức dữ dội, thế lao tới của nàng cũng vì đó mà bị chậm lại và rơi trở xuống mặt đất.
Trong khi Hàn Ngọc Hà vừa mới đứng vững đôi chân, bất thần nghe có ba tiếng vèo vèo rít lên. Tiếp đó lại thấy ba bóng người nhanh nhẹn tràn thẳng tới, ba bóng người ấy chính là ba tên quái dị đó đang chiếu sáng ngời nhìn chăm chú vào Hàn Ngọc Hà, trông thật hung tợn! Lữ Lân sợ Hàn Ngọc Hà có điều sơ thất nên đưa chân tràn ngay tới, đứng sánh vai cùng nàng, quét mắt ngó về phía bóng đen to lớn khi nãy…
Vừa đưa mắt nhìn qua thì Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đều không thoát khỏi giật mình sửng sốt! Thì ra bóng đen to lớn đã bất thần từ ngoài khu rừng lao thẳng vào, đi đôi với một luồng kình phong mãnh liệt và đã bị luồng Thái Âm Chưởng của Hàn Ngọc Hà đẩy lui ấy, chẳng phải là một người đàn ông mà chính là một người đàn bà! Hai người trông thấy bà ta mặc một bộ y phục màu đen, thân người cao có ngoài bảy thước mộc, phì nộn phi thường, sắc mặt đỏ bầm như gan heo, môi dày mũi hểnh, đôi mắt hõm sâu, đôi mày rậm đen, diện mạo xấu xí đến mức không ai xấu xí hơn nữa! Hàn Ngọc Hà vốn đang hết sức tức giận, nhưng vừa nhìn thấy khuôn mặt quá xấu xí của người đàn bà ấy, thì sau giây phút sửng sờ, nàng bất giác bật cười thành tiếng.
Người đàn bà đó tựa hồ biết Hàn Ngọc Hà đã bật cười trước diện mạo quá xấu xí của mình nên mớ thịt phì nộn trên khuôn mặt bà ta đều run rẩy, cất giọng the thé quá rằng:
– Sư phụ của ngươi hiện giờ ở đâu? Hãy nói mau! Hàn Ngọc Hà và Lữ Lân nghe người đàn bà xấu xí lên tiếng hỏi một câu rất đột ngột, khiến họ chẳng biết ất giáp chi ráo. Hai người băn khoăn không hiểu đối phương định hỏi sư phụ ấy là ai? Bà ta muốn hỏi Hỏa Phụng Tiên Cô? Ngọc Diện Thần Quân Đông Phương Bạch? Hay muốn hỏi hai nhân vật đã chôn vùi thân xác dưới đáy biển xanh từ bấy lâu nay, tức Thiên Tôn Thượng Nhân và Ban Long Tiên Bà? Hai người đứng sửng sờ trong phút chốc, bỗng thấy người đàn bà xấu xí đó bất thần vung ngọn côn sắt trong tay lên, gằn giọng quát to rằng:
– Sư phụ của hai đứa bây hiện giờ ở nơi nào? Hãy mau nói ngay! Gã đàn ông có thân hình cao lêu nghêu nhưng chỉ còn một giò đứng bên cạnh đấy, bèn lên tiếng nói:
– Đại tỷ, hãy bắt sống bọn chúng rồi sẽ tra hỏi sau có được không? Người đàn bà xấu xí chợt quay đầu lại, nhìn về phía gã đàn ông một giò hứ lên một lượt, mắng rằng:
– Ngươi còn lắm lời chi nữa? Nếu chẳng phải bọn ngươi cãi lời ta thì ngày hôm nay chúng ta đâu lại đến nỗi này? Vậy không mau câm miệng lại cho ta nữa sao? Người đàn bà ấy chẳng những diện mạo hết sức xấu xí mà ăn nói lại thô lỗ, xem ra chẳng hề có một chút chi gọi là trang nhã.
Gã đàn ông một chân không khỏi biến hẳn sắc mặt, đôi môi mấp máy như định nói chi, nhưng dường như hắn ta sợ hãi người đàn bà xấu xí nên đành câm miệng.
Lữ Lân nhìn qua bèn thầm nghĩ: “Dường như sư phụ của mình hoặc của Hàn Ngọc Hà, có ai đó là kẻ thù bất động đái thiên với đối phương, nên mới truy hỏi tung tích để gây sự trả thù như vậy. Riêng ba gã đàn ông quái dị kia vừa rồi đã bám sát theo mình mãi, nhưng không dám ra tay đánh nhau, rõ ràng là họ có ý chờ đợi người đàn bà xấu xí này đến trợ lực. Bọn họ sở dĩ vừa nhìn qua là đã đoán biết lai lịch của mình, rất có thể là do bọn họ đã trông thấy ngọn roi vàng trong tay của Hàn Ngọc Hà, vì nó là một món binh khí từng nổi danh khắp võ lâm. Chỉ cần nhìn qua có thể đoán biết được chủ nhân của nó là ai rồi!” Và nghĩ thế, nên Lữ Lân bèn hạ giọng hỏi:
– Bà định hỏi ai thế? Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn Tốn đại hiệp đều đã tạ thế cả rồi.
Người đàn bà xấu xí trước tiên hiện vẻ sửng sốt, nhưng tiếp đó lại quát to rằng:
– Cái chi là Hỏa Phụng Tiên Cô và Hàn đại hiệp? Hàn Ngọc Hà trông thấy lời nói của đối phương xúc phạm đến danh dự của cha mình, nên tức giận to tiếng nói:
– Bà thử lặp lại câu nói ấy một lần nữa xem? Lữ Lân cũng không khỏi ngạc nhiên, nhưng kế đó chàng đoán biết bên trong việc ấy chắc chắn có điều ngộ nhận chi. Chàng vội đưa mắt ra hiệu với Hàn Ngọc Hà, và lên tiếng hỏi:
– Nếu thế, bà định hỏi ai chứ? Người đàn bà xấu xí nghiến đôi hàm răng nghe kèn kẹt, sắc mặt đầy vẻ hung tợn trông chẳng khác chi một con quỷ dạ xoa, nói:
– Ta muốn hỏi tên Lục Chỉ tặc, một con người chẳng kể chi tín nghĩa, nhẫn tâm sát hại võ lâm đồng đạo, đáng kinh tởm hơn loài cầm thú ấy! Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đều nghe rõ giọng nói của người đàn bà xấu xí tỏ ra hết sức căm hận và ngay đến sắc diện của ba gã đàn ông kia cũng đang đầy nét hằn! Lữ Lân không khỏi hết sức lấy làm lạ, thầm nghĩ Lục Chỉ tặc mà bà ta vừa nói có phải là Lục Chỉ Tiên Sinh trên Tiên Nhân Phong trong vùng núi Võ Di hay không? Bởi thế chàng bèn lên tiếng nói:
– Có phải bà muốn nói Lục Chỉ Tiên Sinh ở Tiên Nhân Phong đấy không? Ông ấy cũng đã chết rồi! Người đàn bà hứ lên một tiếng to, nước bọt từ hai khóe miệng bay ra tung tóe nói:
– Cái chi là Lục Chỉ Tiên Sinh? Hai tên tiểu tặc ngươi giấu đầu lòi đuôi mãi, vậy chớ nên giả vờ nữa, hãy nếm thử mùi vị cây gậy sắt của ta đây! Dứt lời, bà ta bèn vung mạnh ngọn côn sắt lên, dùng thế Thiên Quân Vạn Mã quét thẳng tới trước, mang theo một luồng kình phong ào ạt mãnh liệt không thể tả.
Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà đều hết sức tức giận. Hai người liền nhanh nhẹn nhảy lùi ra sau một bước, Hàn Ngọc Hà vung chưởng dùng thế Hằng Nga Bôn Nguyệt quét thẳng về phía đối phương, trong khi Lữ Lân cũng nhanh nhẹn vung chỉ điểm tới! Những môn tuyệt học mà hai người đã rèn luyện suốt hai năm qua, một đàng là âm nhu, một đàng là dương cang, do đó hai luồng kình lực phối hợp lại, công thẳng về phía người đàn bà xấu xí, thì liền gây nên một sức mạnh không ai có thể tưởng tượng nổi. Bởi thế, cát sạn trên mặt đất liền bị chỉ lực và chưởng phong cuốn bay lên mịt mù, trông chẳng khác chi một cơn gió lốc.
Người đàn bà xấu xí, tựa hồ biết được võ công đối phương rất lợi hại, nên bất thần diễn biến ngay thế võ, vung cây côn sắt ra vun vút, gây thành một bức tường sắt thép che kín thân người lại.
Kịp khi luồng chưởng phong và luồng chỉ lực cuốn tới, thì bức tường sắt thép do cây côn sắt gây ra, đã chận đựng được thế công ấy ngay.
Nhưng vì sự phối hợp giữa luồng chưởng phong và chỉ lực cả Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà có tác dụng âm dương hỗ trợ cho nhau, nên sức mạnh cuốn tới cuồn cuộn không bao giờ dứt, mãnh liệt phi thường khiến thân hình to lớn của người đàn bà xấu xí ấy lảo đảo không còn đứng vững đôi chân, bị hất bay liên tiếp ra sau đến bảy tám thước dài! Vì thế, người đàn bà ấy tức giận gầm to, liên tiếp vung mạnh cánh tay nện thẳng đầu ngọn côn sắt xuống mặt đất, khiến đầu côn lún sâu đến một thước mộc, và nhờ đó bà ta mới gượng đứng vững thân người lại được.
Liền đó người đàn bà xấu xí bèn nhanh nhẹn quay mặt nhìn về phía ba gã đàn ông bên cạnh, quát rằng:
– Trong Bát Long Thiên Âm của Lục Chỉ tặc lấy được, lại có ghi chép cả những môn võ công gì tinh tuyệt lắm hay sao? Gã đàn ông một chân lêu nghêu, lên tiếng đáp:
– Không có, nhưng chỉ với Bát Long Thiên Âm cũng đã vô cùng lợi hại rồi.
Hàn Ngọc Hà và Lữ Lân sau khi từ hoang đảo trở về đất liền, đây là lần đầu tiên sử dụng tuyệt học mà họ đã rèn luyện được, để đối kháng với kẻ thù. Do đó, khi họ trông thấy vừa sử dụng một thế võ đánh ra, là đã đẩy lui được người đàn bà xấu xí, thì trong lòng đều hết sức vui mừng. Họ đang định thừa thắng tràn tới tấn công tiếp đối phương, thì bỗng nghe người đàn bà đó nói đến bốn tiếng Bát Long Thiên Âm nên không khỏi giật mình, dừng chân đứng yên lại ngay.
Người đàn bà nạt to rằng:
– Chỉ nói bá láp! Chả lẽ võ công của hai tên tiểu tặc này vừa sử dụng, chẳng phải là võ công trong Bát Long Thiên Âm hay sao? Nếu không phải như vậy, thì tại sao võ công của chúng lại cao cường hơn cả ta nữa? Gã đàn ông một giò nghe thế, sắc mặt không khỏi lộ vẻ luống cuống, nói:
– Đại tỷ, việc ấy thì tôi… hoàn toàn không được biết. Chúng tôi chỉ biết là hai năm về trước Lục Chỉ tặc nổi lên gây náo loạn trong võ lâm, khiến rất nhiều cao thủ bị mất mạng dưới Bát Long Thiên Âm của hắn, trong khi chẳng hề nghe ai nói là hắn dùng võ công để đánh nhau với ai bao giờ! Lữ Lân và Hàn Ngọc Hà nghe đến đây, lòng không khỏi thoáng có một ý nghĩ. Do đó, Hàn Ngọc Hà bèn ngắt lời hỏi:
– Này Lục Chỉ tặc mà các người đang nói, có phải chính là tên Cầm Ma ấy không? Gã đàn ông một chân đưa mắt nhìn về phía người đàn bà xấu xí một lượt, tựa hồ trước khi bà ta cho phép, hắn không dám lên tiếng nói bừa bãi vậy.
Người đàn bà xấu xí hỏi:
– Cái chi là Cầm Ma chứ? Gã đàn ông một chân nghe thế, mới lên tiếng nói:
– Đại tỷ, trước đây hai năm, Lục Chỉ tặc có xuất đầu lộ diện trong võ lâm độ hai tháng.
Lúc bấy giờ, người trong võ lâm đều gọi hắn là Cầm Ma. Tuy không ai trông thấy được diện mục của hắn, song kể từ ngày hắn tìm đến gây rối cho Phi Hổ Tiêu Cục tại Nam Xương, rồi lưu lại dấu tay trên vách đá bên cạnh gian hầm bí mật của Lữ Đằng Không, thì nhân vật võ lâm mới được biết hắn ta là kẻ có một bàn tay sáu ngón, nên đều gọi hắn là Lục Chỉ Cầm Ma.
Người đàn bà xấu xí khẽ gật đầu, nói:
– Té ra là thế! Lữ Lân nghe gã đàn ông một chân nhắc đến mọi việc xảy ra trước đây hai năm, thì máu nóng trong người chàng không khỏi sôi lên sùng sục. Nếu hai năm trước không có chuyện rắc rối đó xảy ra, thì mãi đến giờ phút này, cha mình vẫn còn tráng kiện, vui sống trong gia đình, thì thật hạnh phúc biết bao! Giờ đây, tuy chàng đã học được những môn võ công cao tuyệt trong đời, nhưng nguồn hạnh phúc gia đình của chàng không làm sao tìm lại được nữa.
Đôi mày dài của Lữ Lân liền nhướng lên cao, to tiếng nói:
– Lục Chỉ tặc mà các người hỏi, cũng chính là kẻ thù bất cộng đái thiên với tôi. Hiện giờ, hắn ta đang ở nơi nào, vậy các người có biết rõ không? Người đàn bà xấu xí bỗng đưa cao cánh tay lên nhổ chiếc côn sắt lên khỏi đất, rồi lại đưa mắt nhìn về gã đàn ông một chân đang đứng cạnh đấy.
Gã đàn ông ấy bèn lên tiếng hỏi:
– Ngươi là ai thế? Lữ Lân đáp:
– Ta đây chính là Lữ Lân, con trai của Phi Hổ Lữ Đằng Không mà ông vừa nói đến! Gã đàn ông một chân “ồ” lên một tiếng dài, nói:
– Té ra ngươi chính là tên tiểu tặc Lữ Lân! Lữ Lân nghe thế, không khỏi hết sức tức giận, nói:
– Tại sao ông bạn chạm đến danh dự người ta như thế? Người đàn bà xấu xí to tiến nói:
– Chẳng cần phải biết chúng ta là ai, cứ hỏi cho ra tung tích của tên Lục Chỉ tặc là được rồi! Lữ Lân gằn giọng quát to rằng:
– Cái chi là tung tích của tên Lục Chỉ tặc? Tôi làm sao biết được chứ? Gã đàn ông một chân cất tiếng cười nhạt, nói:
– Nếu ngươi không biết, thì tại sao ngọn Tử Dương Đao của ta lại ở bên sườn người thế kia được? Lữ Lân vừa nghe qua lời nói của đối phương, thì không khỏi ngơ ngác, vì chẳng hiểu ất giáp chi cả. Chàng lên tiếng hỏi:
– Cái chi là Tử Dương Đao? Hàn Ngọc Hà đang đứng cạnh đấy, trông thấy gã đàn ông một chân lúc nào cũng đưa đôi măt nhìn đăm đăm vào thanh đao đeo lủng lẳng bên sườn Lữ Lân, nên như thoáng hiểu ra mọi lẽ, quay về Lữ Lân nói:
– Lữ công tử, gã đàn ông đó bảo thanh đao tía đang đeo bên sườn anh, chính là của hắn trước kia! Lữ Lân vốn có tính ngay thẳng, do đó chàng thấy thanh đao của mình đang sử dụng, chính là vật vô chủ mà chàng đã nhặt được trên chiếc thuyền to lớn không người trước đây hai năm, nên sự tức giận trong lòng chàng liền giảm đi ít nhiều, hạ giọng hỏi:
– Thế sao? Gã đàn ông một chân bèn cất giọng lạnh lùng nói:
– Lẽ tất nhiên.
Lữ Lân lên tiếng giải thích:
– Ngọn đao này nguyên tôi đã nhặt được trên một chiếc thuyền to, nhưng không có chủ.
Nó là vật vô chủ, thế giờ đây ông lại bảo là của ông, vậy ông có bằng cớ gì để chứng thực điều đó? Gã đàn ông một chân đang tỏ ra luống cuống, thì người đàn bà xấu xí đứng bên cạnh đã gằn giọng quát rằng:
– Cần chi phải có bằng cớ để chứng minh?
– Rõ là trò đùa! Nếu chỉ nói một cách vô căn cứ như vậy, thì bảo tôi phải dâng hai tay đưa lưỡi đao này cho các người hay sao? Sắc mặt của người đàn bà xấu xí như càng có vẻ giận dữ hơn, vung mạnh ngọn côn sắt ra, gây thành một luồng kình phong ào ạt, cuốn thẳng tới trước! Nhưng ngọn côn sắt của bà vừa mới đánh ra được nửa chừng, thì bỗng bà ta thu nhanh trở về ngay, không nhằm tấn công đối phương.
Bà ta tỏ ra hết tức giận, giáng mạnh đầu ngọn côn sắt xuống đất nghe một tiếng ầm nói:
– Lão tam, ngươi hãy kể lại mọi việc đã xảy ra, khiến ngươi bị mất thanh đao ấy cho nó nghe qua một lượt nào!
– Tiểu tặc kia! Chỉ cần ngươi có đi đứng ít nhiều trong võ lâm thì ngươi tất nhiên sẽ biết được ngọn Tử Dương Đao này chính là di vật của Tử Dương Chân Nhân, và bấy lâu nay thuộc quyền sở hữu của ta.
Trước đi hai năm, khi Lữ Lân vừa nhặt được thanh đao màu tía này, thì trong lòng cậu ta nhớ mang máng về lai lịch của nó. Giờ đây, bỗng chàng nghe gã đàn ông một chân bảo thanh đao đó là của Tử Dương Chân Nhân, thì trong lòng chàng mới như bừng nhớ lại, buột miệng nói:
– Ồ! Té ra bốn người các ông đều là nhân vật trong Xuyên Trung Lục Xú.
Tử Dương Chân Nhân nguyên là một bậc danh hiệp tiền bối trong phái Võ Đang, song vì có sự bất hòa giữa các sư huynh và sư đệ trong môn phái nên mang ngọn Tử Dương Đao, tức món vật quý báu trấn sơn của môn phái, ra đi đến vùng Xuyên Khang và sau đó đã chết tại vùng Xuyên Trung.
Ngọn Tử Dương Đao vì thế đã lưu lạc từ Xuyên Trung, và sau đó gã lão tam trong Xuyên Trung Lục Xú là Xú Kim Cang Vương Nguyên lấy được. Chuyện đó trong võ lâm có rất nhiều người được biết.
Bởi thế, những nhân vật trong phái Võ Đang đã mấy lần kéo nhau vào vùng Xuyên Khang, có ý tìm Xuyên Trung Lục Xú để lấy ngọn đao trở về.
Nhưng vì số người Xuyên Trung Lục Xú đều là số người tuyệt kỹ võ công cao cường, hơn nữa họ là số người am thuộc địa hình Xuyên Trung, nên số nhân vật trong phái Võ Đang đã mấy lần kéo đến đều bị thiệt thòi to trước họ, và đành phải thất vọng trở về với hai bàn tay không!
-oOo-
Hết chương 46