Ngày hai mươi bảy tháng ba, đại cát.
Mọi sự đều nên làm.
Triệu Vô Kỵ đang nằm trên giường.
Chàng quất ngựa khinh kỵ, phi bôn đã ba trăm dặm, vừa xuống ngựa xông vào là xông thẳng ngã trên cái giường đó.
Cái giường vừa thơm tho, vừa mềm mại.
Là giường của Hương Hương, Hương Hương là nữ nhân, nữ nhân vừa thơm tho, vừa mềm mại, mỗi lần nhìn Triệu Vô Kỵ luôn luôn cười điềm mật như đường.
Ngoài song cửa ánh dương sáng lạn, khí hậu nắng ấm, hương hoa phởn phơ trong gió.
Triệu Vô Kỵ nhìn một góc trời xanh thẫm ngoài song cửa, chung quy thở phào từ tốn, lẩm bẩm :
– Hôm nay thật là một ngày tốt, ngày tốt để sát nhân.
Hương Hương hôm nay không ngờ không cười, chỉ hững hờ nói :
– Hôm nay quả thật là ngày tốt, ngày tốt để sát nhân.
Triệu Vô Kỵ dùng một ngón tay nâng cằm nàng, nhìn nàng :
– Nàng muốn sát nhân?
Hương Hương đáp :
– Chỉ muốn giết một người.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Giết ai?
Hương Hương đáp :
– Giết chàng!
Triệu Vô Kỵ tịnh không giật mình nhảy dựng, trái lại còn cười, còn cười xem chừng rất sảng khoái.
Hương Hương cắn môi :
– Tôi vốn thật muốn giết chàng, nhưng tôi nghĩ đi nghĩ lại, hôm nay chàng không ngờ còn muốn đến đây gặp tôi, cũng có thể tính là không phải dễ dầu gì.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Nàng biết?
Hương Hương đáp :
– Tôi đương nhiên biết, hôm nay là ngày đại hỷ của Triệu công tử.
Trong đôi mắt mỹ lệ của nàng đột nhiên có lệ quang :
– Tôi cũng biết Triệu công tử hôm nay đến đây chỉ bất quá vì muốn nói cho tôi biết từ nay về sau chàng và tôi đã như một đao bẻ làm hai đoạn, cho dù tôi sau này còn có thể nhìn thấy chàng, cũng nên làm như là người xa lạ.
Triệu Vô Kỵ không thể phủ nhận, cũng không thể bất giác có chút khó chịu :
– Ta còn mang đến một vật cho nàng.
Chàng rút từ trên người ra một chuỗi trân châu :
– Đây là ta đáp ứng cho nàng, ta còn chưa quên.
Trân châu tinh oanh tròn sáng, giống hệt như lệ thuần khiết của thiếu nữ vậy.
Hương Hương tiếp lấy, nhẹ nhàng vuốt ve, lẩm bẩm :
– Tôi biết chàng nhất định mang đến cho tôi, chàng luôn luôn là một nam nhân rất có tín dụng.
Nàng không ngờ không rơi lệ.
Tay nàng run lẩy bẩy, đột nhiên đứng bật dậy, dụng lực quăng chuỗi trân châu hướng thẳng vào mặt Triệu Vô Kỵ, hét lớn :
– Nhưng ai thèm ấp ủ chuỗi trân châu hôi thúi này của ngươi, ai thèm ấp ủ tên tiểu lưu manh ngươi.
Chuỗi trân châu tịnh không động được đến mặt Triệu Vô Kỵ, lại bay vụt ra ngoài song cửa.
Triệu Vô Kỵ lại cười :
– Tiểu lưu manh ít nhiều gì cũng có chỗ tốt chứ.
Hương Hương nhảy dựng :
– Có gì gọi là tốt, ngươi nói nghe thử?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Tiểu lưu manh ít ra cũng còn tốt hơn lão lưu manh, cũng còn tốt hơn lưu manh đã chết queo.
Chàng muốn giúp Hương Hương cười một tiếng.
Giữa bọn họ tuy tịnh không có điều kiện hay thệ ước gì, nhưng phân ly tất càng luôn khó tránh khỏi làm cho người ta bi thương.
Chàng một mực hy vọng lúc bọn họ ly biệt vẫn còn có thể cười một tiếng.
Hương Hương còn chưa cười thành tiếng, chuỗi trân châu hồi nãy bị nàng quăng ra ngoài song cửa lại đã bay trở vào.
Tiếp đó, “đinh” một tiếng, một mũi tên dài ba thước sáu tấc ghim chặt chuỗi trân chân trên cột.
Trên mũi tên lấp loáng ngân quang, lông bạc trên đuôi tên còn đang lay động, ngoài song lại có một mũi tên ngắn bay vào, ghim thẳng trên mũi tên đó.
Trường tiễn tuy cứng, đoản tiễn càng chuẩn.
Hương Hương nhìn ngây ngốc.
Tiễn pháp như vậy đích xác không phải là thời thường có thể nhìn thấy được.
Tiếng cười của Triệu Vô Kỵ lập tức biến thành cười khổ, thở dài nói :
– Đám chủ nợ của ta chung quy đã đến.
Hương Hương biến sắc :
– Bọn họ đến làm gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Chủ nợ đương nhiên là đến đòi nợ, nàng lẽ nào không nhìn ra hôm nay cũng là ngày tốt để đòi nợ sao?
Đây là một căn tiểu lâu, hiện tại đang là ngày xuân.
Ngoài tiểu lâu sáng tươi quang minh, trăm hoa đua nở, có đỏ tươi, có xanh thắm, có vàng chói.
Hai hắc y nhân đang đứng giữa đám hoa tươi, một nam một nữ, một trẻ một già.
Thiếu niên là một tráng hán người cao tám thước, lưng của lão phụ nhân đã cong vòng, đôi mắt lại lóe chớp phát sáng.
Hai người, hai cây cung, cung vàng tên bạc, một dài một ngắn.
Hương Hương đứng bên cạnh song cửa trên tiểu lâu, nhịn không được phải hỏi :
– Hai người đó là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là Hắc Bà Bà và con trai của bà ta.
Hương Hương hỏi :
– Hắc Bà Bà là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là người có thể dùng một mũi tên bắn trúng một con ruồi từ ngoài mười trượng.
Hương Hương biến sắc :
– Lão thái bà lưng còng đó lợi hại vậy sao…
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nhi tử của bà ta tuy không bắn chuẩn như bà ta, nhưng hai cánh tay trời sinh thần lực, một khi gã cao hứng, lúc nào cũng đều có thể bắn xuyên qua cả hai người.
Chàng thở dài nói tiếp :
– Kim cung ngân tiễn, tử mẫu song phi, hai mẹ con đó ai lỡ gặp được đều thật không may mắn chút nào.
Hương Hương hỏi :
– Chàng thiếu bọn họ cái gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Thiếu bọn họ hai người.
Hương Hương không hiểu :
– Làm sao có thể thiếu bọn họ hai người?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Có một lần ta nửa đêm uống rượu từ Minh Hồ Xuân đi ra, nhìn thấy có hai tiểu cô nương đang chạy trước mặt, con trai của bà ta đang đuổi theo phía sau, có một tiểu cô nương đã trúng một tên, miệng thất thanh kêu la xin cứu mạng!
Chàng lại thở dài :
– Nhìn thấy một nam nhân cao to lại đi rượt đuổi một tiểu cô nương như vậy, ta đương nhiên phải bạt đao tương trợ, ngăn chận gã giùm cho bọn chúng, để bọn chúng chạy thoát.
Hương Hương hỏi :
– Rồi sau đó?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Sau đó ta mới biết hai tiểu cô nương đó căn bản không phải là tiểu cô nương.
Hương Hương càng không hiểu :
– Không phải là tiểu cô nương thì là gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là nam nhân.
Hương Hương ngẩn người.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Trong giang hồ có bang thái hoa tặc kêu là “Nhất Oa Phong”, chuyên môn thích cải trang thành tiểu cô nương.
Hương Hương hỏi :
– Vậy hai tiểu cô nương đó đều là thái hoa tặc?
Triệu Vô Kỵ gật đầu cười khổ :
– May là hai mẹ con đó cuối cùng đã nhận ra ta không phải là đồng bọn của đám thái hoa tặc.
Hương Hương nói :
– Bọn họ đương nhiên cũng không thể buông tha chàng như vậy.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bọn họ cho ta hạn kỳ ba tháng, kêu ta bắt hai tên thái hoa tặc đó đem về.
Hương Hương thốt :
– Hiện tại hạn kỳ đã đến.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Mau đến quá.
Hương Hương hỏi :
– Chàng có tìm ra người cho bọn họ chưa?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Còn chưa.
Hương Hương nhìn chàng, lắc đầu thở dài :
– Trên thế gian này có thứ người chừng như luôn luôn thích đem sâu bọ thảy trong đầu tóc mình, chàng tại sao lại khơi khơi là thứ người đó chứ?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Chỉ có một hai con bọ cũng không quan hệ gì.
Hương Hương hỏi :
– Trong đầu tóc chàng còn có gì nữa?
Triệu Vô Kỵ thở dài :
– Chừng như còn có năm sáu con bò cạp, bảy tám con độc xà.
Hương Hương không hỏi nữa.
Nàng đã kinh hãi đến mức thanh âm cũng tê dại.
Nàng đã nhìn thấy một đống độc xà!
Độc xà đang nằm bên trong một cái bao bố rách to tướng, thò đầu qua kẽ rách, le lưỡi đỏ lưởng.
Cái bao rách đang nằm trên lưng một người.
Một người hình dạng kỳ quái, không những mũi khuyết đi một nửa, tai cũng bị nhai cắn đến mức không còn giống tai nữa, trong đôi mắt đầy những tia máu li ti, chẳng khác gì lưỡi đỏ loét của độc xà.
Trên người hắn lại khơi khơi khoác một áo bào đỏ đỏ xanh xanh, ngũ nhan lục sắc, càng làm cho hắn hiển lộ vẻ quỷ bí khủng bố khôn tả.
Có độc xà trường bò trên vai hắn, quấn lấy cổ hắn, le lưỡi liếm mặt hắn, hắn lại chừng chư cả một chút cảm giác cũng không có.
Hương Hương lại là người có cảm giác, Hương Hương gần như muốn ói mửa liền tại chỗ.
– Người đó cũng là chủ nợ của chàng?
– Ừm.
– Chàng thiếu hắn cái gì?
– “Thiếu hắn năm con rắn” – Trong miệng Triệu Vô Kỵ xem chừng cũng đăng đắng – “Năm con rắn độc nhất”.
Hương Hương có chút không tin :
– Chàng đã cứu hai tên thái hoa tặc, đó là sự sai lầm của chàng. Còn độc xà như vậy chàng có giết bao nhiêu cũng là đáng, tại sao còn phải đền cho hắn?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bởi vì hắn là Độc Bồ Tát.
Hương Hương hỏi :
– Độc Bồ Tát?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Hắn tuy đầy mình đều là độc, nhưng tâm của hắn lại giống như bồ tát.
Hương Hương hỏi :
– Bồ tát cũng nuôi rắn?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Người khác nuôi rắn là để hại người, hắn nuôi rắn lại vì để cứu người.
Chàng biết Hương Hương không hiểu, cho nên lại giải thích :
– Chỉ có thuốc dùng độc dịch và máu của độc xà luyện thành mới có thể giải được độc của độc xà.
Hương Hương lại hỏi :
– Chàng nợ hắn năm con độc xà gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Năm con độc xà đó là dị chủng, hắn lặn lội nơi cùng sơn ác thủy tìm kiếm cả ba năm trời mới bắt về được năm thứ độc vật đó.
Hương Hương hỏi :
– Bắt chúng về một lượt có ích lợi gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Dùng độc dịch của năm thứ độc xà đó có thể hợp thành một thứ thuốc giải được bách độc, nhưng lại nhất định phải đang lúc bọn chúng còn sống để cho bọn chúng tự phun ra độc dịch mới hữu dụng.
Hương Hương thốt :
– Tôi nghe nói độc xà chỉ có lúc cắn người mới có thể tự phun ra độc dịch.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Không sai.
Hương Hương hỏi :
– Vì muốn thâu tóm độc dịch của năm thứ độc xà đó, lẽ nào hắn chịu để cho bọn chúng đi cắn người?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Hắn chỉ còn cách đó.
Hương Hương hỏi :
– Hắn để bọn chúng đi cắn ai?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Cắn chính hắn.
Hương Hương lại ngẩn người.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Lúc ta nhìn thấy hắn, năm con độc xà đó đang cắn người hắn.
Hương Hương hỏi :
– Lúc đó chàng làm gì?
Triệu Vô Kỵ cười khổ :
– Nàng nói thử coi, ta còn có thể làm gì khác chứ, ta cả nghĩ cũng không nghĩ, bạt kiếm chém đứt năm con độc xà đó, mỗi một con đều chém thành bảy tám đoạn.
Hương Hương cũng không khỏi cười khổ :
– Xem ra kiếm pháp của chàng thật không tệ.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Nhưng chuyện đó ta lại đã làm sai.
Trong hoa viên rất tĩnh lặng, Hắc Bà Bà và Độc Bồ Tát hiển nhiên đều là người rất nhẫn nại.
Ngay lúc đó, xa xa đột nhiên truyền tới “tung tung” hai tiếng, thanh âm phảng phất ra xa vời, lại chừng như sát mang tai.
Nghe thấy thanh âm đó, sắc mặt của Hắc Bà Bà và Độc Bồ Tát đều chừng như có chút biến chuyển.
Hương Hương hỏi :
– Đó có phải là tiếng trống canh?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Phải.
Hương Hương hỏi lại :
– Tôi thật không nghe lầm chứ?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nàng không lầm.
Hương Hương hỏi :
– Hiện tại là ban ngày, người đó lại đánh trống canh, có phải bị bệnh không?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Y không bị bệnh, y muốn đánh trống canh lúc nào là đánh lúc đó.
Hương Hương hỏi :
– Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bởi vì trống canh y đánh khác với người ta, không phải để báo giờ.
Hương Hương hỏi :
– Y đánh trống canh gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là Đoạn Hồn Canh.
Hương Hương hỏi lại :
– Đoạn Hồn Canh?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Một khi y đánh trống canh ba, là có người nhất định phải đoạn hồn.
Trên mặt chàng cũng lộ xuất biểu tình kỳ quái :
– Đoạt Mệnh Canh Phu Liễu Tam Canh, nhất đả tam canh nhân đoạn hồn.
Lại có tiếng trống canh vang lên, thanh âm càng gần.
Tuy chỉ chỉ bất quá là tiếng trống canh rất phổ thông, nhưng hiện tại lọt vào lỗ tai người ta lại đã biến thành quỷ dị khôn tả.
Hương Hương nhịn không được phải hỏi :
– Hiện tại y đã đánh trống canh mấy?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Canh hai.
Hương Hương không nhịn được tay chân run lập cập :
– Canh hai vừa qua, canh ba càng mau chóng đến.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Không sai, canh hai vừa qua, canh ba rất mau chóng đến.
Hương Hương hỏi :
– Y cũng là chủ nợ của chàng?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là chủ nợ lớn.
Hương Hương hỏi :
– Chàng nợ y cái gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nợ y một đao!
Hương Hương hỏi :
– Chàng còn bao nhiêu chủ nợ nữa?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Chủ nợ lớn chỉ có ba người đó.
Hương Hương hỏi :
– Bọn họ đã sớm biết hôm nay chàng có thể đến đây?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bọn họ không biết.
Hương Hương nói :
– Nhưng bọn họ đều đã đến một lượt.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Là ta hẹn bọn họ đến.
Hương Hương cơ hồ nhảy dựng :
– Là chàng hẹn bọn họ đến? Chàng tại sao lại hẹn đám chủ nợ thấy sợ đó đến?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bởi vì món nợ thiếu người ta sớm muộn gì cũng phải trả.
Chàng bỗng cười cười :
– Lẽ nào nàng không thấy hôm nay cũng là ngày tốt để trả nợ?
Đoạn Hồn Canh lại vang lên.
“Tung tung, xèn”. Vẫn là canh hai. Tới lúc nào mới đến canh ba?
Ngoại trừ đoạt mệnh canh phu ra, không ai biết.
Liễu Tam Canh chầm chậm từ giữa muôn hoa bước tới, áo xanh vớ trắng giày xám hòa cùng khuôn mặt trắng nhợt.
Giữa muôn hoa vốn không có một người như vậy, hiện tại lại khơi khơi có một người như vậy bước ra.
Trong tay y có một cái cồng nhẹ, một khúc trúc gõ cồng, và một đoản trượng màu trắng.
Lẽ nào đó là vũ khí truy hồn đoạt mệnh của Đoạt Mệnh Canh Phu?
Người quanh năm không thấy ánh mặt trời, sắc mặt vốn trắng nhợt, đó tịnh không có gì là kỳ quái.
Kỳ quái là đôi mắt của y.
Đôi mắt của y cũng màu trắng, một thứ trắng tái kỳ bí, nhìn không thấy nhãn châu, cũng không thấy con ngươi.
Lẽ nào Đoạt Mệnh Canh Phu luôn luôn khiến cho người ta đoạn hồn lại là người mù?
Ngoài những luống hoa là một con đường nhỏ.
Con đường nhỏ uốn khúc, phô trương những viên sỏi tinh oanh như ngọc.
Hắc Bà Bà và con trai của bà ta đang đứng sát một cụm hoa thược dược gần con đường.
Người mù đương nhiên không nhìn thấy bọn họ.
Lúc Liễu Tam Canh đi lướt qua người bọn họ, lại bất chợt dừng chân, quay đầu hỏi :
– Hắc Bà Bà, không gặp lâu nay vẫn khỏe chứ?
Hắc Bà Bà lạnh lùng nhìn y, qua một hồi rất lâu mới hờ hững đáp :
– May nhờ phước khí của Liễu tiên sinh, đám cô nhi quả phụ bọn tôi còn chưa bị người ta chọc tức chết.
Liễu Tam Canh ngửa mặt lên trời, phảng phất đang trầm tư, cũng qua một hồi rất lâu mới thở dài thốt :
– Lần chia tay đó cũng đã mười ba năm rồi, ngày tháng trôi qua nhanh quá.
Hắc Bà Bà nói :
– Mỗi ngày đều có canh ba, quay đi là có canh ba, quay lại là có canh ba, ngày tháng làm sao không trôi qua nhanh được?
Liễu Tam Canh chầm chậm gật gật đầu, trên khuôn mặt trắng nhợt hoàn toàn không có tới một tia biểu tình.
“Hà huống có lúc một ngày còn chưa tới canh ba, quay đi là thấy canh ba, quay lại là thấy canh ba, có người già, có người chết, ngày tháng làm sao không trôi qua nhanh cho được?” Miệng hắn lẩm bẩm tự nhủ, đoản trượng màu trắng cầm trong tay lần dò trên đất, chầm chậm bước tới trước.
Bước đến trước mặt Độc Bồ Tát, y lại dừng chân.
Y còn chưa mở miệng, Độc Bồ Tát cũng không mở miệng, trong bao bố có hai con rắn như hai mũi tên bắn vụt ra, hoàn toàn không phát ra một chút thanh âm gì.
Người mù không nhìn thấy, đã không có thanh âm, người mù đương nhiên cũng không nghe thấy.
Hai con rắn đó vừa vút qua, đoản trượng trong tay y huy xuất, xảo diệu đập thẳng lên đầu của hai con rắn đó.
Hai con rắn lập tức như hay sợi dây từ trên không rơi xuống, nằm bất động dưới đất.
Liễu Tam Canh thở dài :
– Ta lại đã đập chết hai con rắn của ngươi?
– Hừm.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi có muốn ta bồi thường không?
Độc Bồ Tát hỏi ngược :
– Người bồi thường được sao?
Liễu Tam Canh hững hờ cười cười :
– Đó chỉ bất quá là một con trúc diệp thanh, một con phạn sản đầu, ngươi nếu muốn ta bồi thường, ta lúc nào cũng đều có thể bắt bảy tám chục con cho ngươi.
Độc Bồ Tát kinh ngạc nhìn y, thần sắc tuy đã biến, thanh âm lại rất lãnh đạm :
– Không cần ngươi nhọc tâm, tự ta cũng có thể tìm.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi đã không muốn ta đền bồi, ta cũng có câu khuyên ngươi.
Độc Bồ Tát nói :
– Ngươi cứ nói.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi xả thân vì rắn, dùng máu thịt đổi lấy độc dịch của chúng, tuy mỗi lần đều kịp thời trục độc ra, nhưng ít ít nhiều nhiều vẫn còn tàn độc lưu lại trong máu ngươi.
Y thở dài, lại nói :
– Bí kỷ trục độc thủ độc của Thiên Độc Tôn Giả tịnh không nhất thiết là tuyệt đối hữu hiệu.
Độc Bồ Tát không thừa nhận, cũng không thể phủ nhận.
Liễu Tam Canh thốt :
– Hiện tại tàn độc trong máu ngươi đã có một trăm lẻ ba thứ.
Độc Bồ Tát nhịn không được phải hỏi :
– Ngươi nhìn ra?
Liễu Tam Canh đáp :
– Ta là người mù, làm sao có thể nhìn ra?
Y hững hờ nói tiếp :
– Nhưng ta biết, độc tính trong máu ngươi chỉ cần thêm năm thứ nữa, bồ tát phải biến thành cứng đơ.
Triệu Vô Kỵ đã đi xuống lầu, đứng giữa ánh dương sáng lạn, nhìn Đoạt Mệnh Canh Phu.
Trong tâm chàng có phải đang tự hỏi mình?
Người đó thật ra có thật là người mù không? Hay là giả?
Chàng không biết.
Ngoại trừ Liễu Tam Canh ra, không có ai biết.
Trên con đường nhỏ trải đầy những viên sỏi tròn tròn bóng loáng, đoản trượng lò dò chấm trên sỏi, thanh âm phát ra rất kỳ lạ.
Đó tuyệt không phải là thanh âm của gậy trúc đụng lên sỏi đá, cũng không phải là thanh âm kim thiết gõ trên sỏi đá.
Cây đoản trượng đó dùng cái gì làm thành, Triệu Vô Kỵ cũng không đoán ra.
Chàng ngẩng đầu lên là nhìn thấy Liễu Tam Canh đã đi đến trước mặt chàng.
Đợi đến khi Liễu Tam Canh đã đi đến trước mặt, Triệu Vô Kỵ mới đoán định được Liễu Tam Canh tuyệt đối thật sự là người mù.
Bởi vì nhãn châu của y đã chết.
Một người có thể nhìn thấy tuyệt không thể có thứ nhãn châu đó, cho dù có giả cũng giả không được.
Liễu Tam Canh chợt hỏi :
– Ngươi đang nhìn nhãn châu của ta?
Triệu Vô Kỵ cơ hồ giật mình muốn nhảy dựng. Người đó tuy không nhìn thấy, lại phảng phất có đôi mắt thần bí kỳ dị ẩn tàng tại một nơi thần bí trên người y, nhất cử nhất động nào của bất cứ người nào đều chừng như không qua mắt được y.
Liễu Tam Canh lại nói tiếp :
– Ngươi có phải muốn nhìn kỹ thêm nữa?
Triệu Vô Kỵ quả thật đang rất muốn nhìn kỹ thêm nữa.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi cầm mà nhìn.
Y dùng một ngón tay tự móc nhãn châu của mình ra, mắt y lập tức biến thành một lỗ hổng đen ngòm.
Nhãn châu xám xịt chết chóc, cũng không biết là làm bằng pha lê hay thủy tinh, lăn qua lăn lại trong lòng bàn tay y, giống như là một con mắt sống.
Cho dù mình biết rõ nhãn châu đó là giả, vẫn khó tránh khỏi bị giật mình nhảy dựng.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Hiện tại có phải ngươi đã nhìn rõ ràng?
Triệu Vô Kỵ chung quy thở phào một hơi :
– Phải.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi tốt hơn hết là nên nhìn cho rõ, bởi vì đó là cái giá của chuyện ta làm sai.
Trên khuôn mặt trắng nhợt của y đột nhiên lộ xuất vẻ bi thống, chầm chậm nói tiếp :
– Hai mươi năm trước, ta đã nhìn lầm một người, tuy bị y móc cả đôi mắt, ta cũng không một chút oán trách, bởi vì mỗi một người làm sai chuyện đều phải trả một cái giá lớn lao, vô luận là ai cũng vậy.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Ta hiểu rõ.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi nghĩ chuyện đó bằng hữu của ngươi có phải đã làm sai không?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Phải.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Có phải cũng nên trả một cái giá lớn lao?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nên.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Cho dù ta có chém một đao trên mình y, y cũng không chút oán trách?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Không sai.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Nhưng ngươi lại tình nguyện nhận một đao thế y?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Ta tình nguyện.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bởi vì y là bằng hữu của ta, hơn nữa đã thụ thương, không thể chịu thêm một đao nữa.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi có biết một đao của ta nặng cỡ nào không?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Không cần biết là nặng cỡ nào cũng vậy.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi không hối hận?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Ta cả đời này chưa từng hối hận.
Liễu Tam Canh chầm chậm thu hồi gắn con mắt trở lại, đôi nhãn châu xám xịt chết chóc phảng phất đang ngưng thị nhìn chàng.
Một đôi mắt giả có thể nhìn ra được gì?
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Hiện tại ngươi lúc nào cũng có thể động thủ.
Liễu Tam Canh nói :
– Tốt.
Đoản trượng của y vốn đang kè bên hông, y vừa phản thủ đã rút ra một thanh đao.
Đao giấu trong đoản trượng, đao sáng loáng như tuyết.
Triệu Vô Kỵ ưỡn ngực đứng thẳng, đã có quyết tâm chịu một đao, hà tất phải thoái lui.
Độc Bồ Tát đột nhiên nói :
– Đợi một chút.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Đợi cái gì?
Độc Bồ Tát đáp :
– Hắn còn có chủ nợ khác, ngươi ít ra nên đợi hắn trước tiên thanh toán hết món nợ với người ta rồi mới nói tiếp.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Nợ thiếu người ta sớm muộn gì cũng phải trả, ai trả trước trả sau đều như nhau.
Độc Bồ Tát hỏi :
– Ngươi thật đã chuẩn bị hôm nay trả hết tất cả nợ?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nếu không, ta tại sao lại tìm các người đến.
Độc Bồ Tát thốt :
– Như vậy thì ngươi không phải là Triệu Vô Kỵ.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Ta không phải?
Độc Bồ Tát trầm giọng :
– Ta chỉ biết có một Triệu Vô Kỵ.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Người nào?
Độc Bồ Tát đáp :
– Triệu Vô Kỵ của Đại Phong đường.
Đại Phong đường tịnh không phải là một bang phái phổ thông, tổ chức của bọn họ vừa rộng lớn vừa nghiêm mật, thế lực phân bố khắp nơi.
Tôn chỉ của bọn họ lại chỉ có bốn chữ: “Phù nhược sừ cường”.
Cho nên bọn họ không những làm cho người ta úy sợ, cũng được người ta tôn kính.
Độc Bồ Tát thốt :
– Đường chủ của Đại Phong đường tuy là Vân Phi Dương Vân lão gia tử, thực tế chấp hành mệnh lệnh lại là Triệu Giản, Tư Không Hiểu Phong, và Thượng Quan Nhẫn ba người, Triệu Vô Kỵ ta biết là công tử con của Triệu Giản.
Triệu Vô Kỵ thở dài :
– Không tưởng được ngươi không ngờ biết rõ mọi chuyện như vậy.
Độc Bồ Tát thốt :
– Ngươi nếu là Triệu Vô Kỵ đó, hôm nay không nên ở đây.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Ta nên ở đâu?
Độc Bồ Tát đáp :
– Trong hỷ đường ở đại sảnh của Triệu phủ, đợi người ta đến chúc mừng.
Hắn nhìn Triệu Vô Kỵ chằm chẵm, từ từ nói tiếp :
– Cả Tư Không Hiểu Phong và Thượng Quan Nhẫn hôm nay nhất định có thể đến, có bọn họ ở đó, thiên hạ còn có ai dám đi đòi nợ ngươi?
Triệu Vô Kỵ nói :
– Ta thiếu nợ người ta, ta phải trả cho xong, hơn nữa phải tự mình hoàn trả, tịnh không quan hệ gì tới Đại Phong đường, cũng không quan hệ gì tới phụ thân ta.
Độc Bồ Tát thốt :
– Ngươi nếu thật là Triệu Vô Kỵ đó, hôm nay là ngày đại hỷ của ngươi.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Không sai.
Độc Bồ Tát thốt :
– Ngày đại hỷ thông thường đều không phải là ngày trả nợ.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Nhưng từ nay về sau, ta là một người khác, bởi vì ta đã có gia thất của mình, có thê tử, mình không thể tự do lo toan như trước nữa.
Trong ánh mắt của chàng chợt phát sáng :
– Thê tử của ta là bạn lữ trọn đời ta, bọn ta nhất định phải hỗ tương tôn kính nhau, ta không chịu để nàng lấy một nam nhân vô tín vô nghĩa, thiếu nợ mà không trả.
Độc Bồ Tát hỏi :
– Cho nên ngươi nhất định phải thanh toán hết mọi món nợ, giải quyết hết mọi tranh cãi bất đồng trước khi cưới nàng ta?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Phải.
Hắc Bà Bà bỗng thở dài nhè nhẹ :
– Ta nghĩ nàng ta nhất định là một nữ nhân vừa ôn nhu, vừa mỹ lệ, hơn nữa thật là có phước khí.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Ta có thể cưới được nàng tịnh không phải là phước khí của nàng, là phước khí của ta.
Hắc Bà Bà thốt :
– Cho nên ngươi nhất định phải để cho nàng cưới một người đường đường chính chính, thanh thanh bạch bạch.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Một người chỉ cần sống mà không thẹn với lòng mình, cho dù mất cả đôi chân, cụt cả tay, cũng không quan hệ gì.
Hắc Bà Bà thốt :
– Cho nên ngươi tuy không tìm ra hai tên thái hoa tặc kia, vẫn muốn ước hẹn ta đến.
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Không sai.
Hắc Bà Bà chầm chậm bước qua, điềm đạm nói :
– Ngươi chuẩn bị dùng gì dể trả nợ cho ta? Một cánh tay? Hay một cái chân?
Ánh mắt của bà ta lóe sáng, thậm chí còn lạnh lẽo hơn cả đao quang của Liễu Tam Canh!
Triệu Vô Kỵ tịnh không tránh né ghê sợ mục quang đó, chỉ hỏi :
– Bà muốn ta trả bằng gì?
Hắc Bà Bà nhìn Độc Bồ Tát hỏi :
– Ngươi muốn hắn trả bằng gì?
Độc Bồ Tát trầm ngâm, từ từ đáp :
– Trên trời dưới đất, có trăm ngàn thứ độc xà, độc nhất lại chỉ có chín thứ.
Hắc Bà Bà nói :
– Chuyện đó ta đương nhiên không biết rõ như ngươi, ta cũng không muốn nghĩ tới.
Độc Bồ Tát thốt :
– Hắn thiếu ta năm con rắn độc, trong đó có ba con thuộc vào chín loại đó, ngoại trừ ta ra, trên thế gian tối đa chỉ có hai người có thể bắt sống ba thứ độc xà đó.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Là hai người nào?
Độc Bồ Tát đáp :
– Không cần biết hai người đó là ai, đều tuyệt không phải là Triệu Vô Kỵ.
Hắc Bà Bà thốt :
– Cho nên ngươi đã tính hắn không có cách gì có thể trả nợ cho ngươi.
Độc Bồ Tát thốt :
– Cho nên ta vốn không phải là đến đòi nợ.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Ngươi đến để làm gì?
Độc Bồ Tát đáp :
– Đến để báo ân.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Báo ân?
Độc Bồ Tát đáp :
– Hồi nãy Liễu tiên sinh nói không sai, độc trong máu ta đích xác đã đến mức cực hạn.
Mục quang của Hắc Bà Bà ngưng trọng :
– Chính ngươi cũng vốn không biết?
Độc Bồ Tát thở dài :
– Đợi đến lúc ta phát giác, năm con rắn đã quấn trên người, không thể ngưng dẹp.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Lẽ nào Triệu Vô Kỵ đã cứu ngươi?
Độc Bồ Tát đáp :
– Nếu không phải là vô tâm giúp ta giết chết năm con độc xà đó, hiện tại ta chỉ sợ đã cứng đơ.
Hắc Bà Bà nói :
– Không cần biết là hắn hữu tâm hay vô tâm, hắn thật đã cứu mạng ngươi.
Độc Bồ Tát nói :
– Không sai.
Hắc Bà Bà nói :
– Cho nên hắn không những không nợ ngươi cái gì, ngươi trái lại đã nợ hắn một mạng.
Độc Bồ Tát đáp :
– Không sai.
Hắc Bà Bà nói :
– Cái mạng của Độc Bồ Tát không thể đánh giá bằng tiền, ngươi chuẩn bị làm sao để đền trả cho hắn?
Độc Bồ Tát đáp :
– Ta có thể thay hắn trả một món nợ của hắn.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Ngươi muốn thay hắn đi tìm bắt hai tên thái hoa tặc đó về?
Độc Bồ Tát đáp :
– Ta thậm chí còn có thể trả thêm chút lợi tức.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Lợi tức gì?
Độc Bồ Tát đáp :
– Trả thêm cả một “Nhất Oa Phong”.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Ngươi nắm chắc?
Độc Bồ Tát cười cười :
– Độc của ta tịnh không phải chỉ có thể cứu người, cũng có thể lấy mạng người vậy.
Hắc Bà Bà cũng cười :
– Dĩ độc công độc, dùng độc xà của ngươi đi đối phó với một tổ ong độc đó, thật là không còn gì hay bằng.
Độc Bồ Tát hỏi :
– Ngươi chịu?
Hắc Bà Bà đáp :
– Ta tại sao lại không chịu chứ?
Độc Bồ Tát nhìn Triệu Vô Kỵ, mỉm cười :
– Vậy món nợ với hai người bọn ta, hiện tại ngươi đã thanh toán sạch.
Triệu Vô Kỵ không nói tiếng nào, cả một chữ cũng không nói.
Giờ này phút này, mình còn kêu chàng nói gì được nữa?
Độc Bồ Tát hỏi :
– Hiện tại ta có phải cũng không còn nợ ngươi?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Ngươi vốn không thiếu ta.
Độc Bồ Tát thốt :
– Vậy ngươi phải đáp ứng ta một chuyện.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Chuyện gì?
Độc Bồ Tát đáp :
– Hôm nay là ngày đại hỷ của ngươi, ngươi nên mời ta đi uống chén rượu mừng.
Triệu Vô Kỵ cười :
– Uống một chén không được, muốn uống ít ra cũng phải uống bốn năm chục chén.
Liễu Tam Canh đột nhiên thốt :
– Ngươi không thể uống.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Tại sao?
Liễu Tam Canh đáp :
– Bởi vì ngươi đã thụ thương.
Triệu Vô Kỵ kinh ngạc hỏi :
– Ta đã thụ thương? Thụ thương chỗ nào?
Liễu Tam Canh lạnh lùng thốt :
– Một đao của ta chém vào chỗ nào, ngươi thụ thương chỗ đó.
Đao còn đang trong tay y, lưỡi đao sáng như tuyết, vừa mỏng lại vừa bén.
Đao quang chiếu lên khuôn mặt trắng tái của Liễu Tam Canh, trên mặt y hoàn toàn không có bất cứ biểu tình gì.
Vô luận là ai đều nên nhìn thấy y tuyệt không phải là người dễ dàng bị làm cảm động.
Nếu quả mình nợ y một đao, tất phải trả cho y một đao, mình tuyệt không thể không trả, y cũng tuyệt không thể không đòi.
Vô luận là chuyện gì đều tuyệt không thể khiến cho y cải biến chủ ý.
Đoạn Hồn Canh lại vang lên.
“Tung, tung, tung”, là canh ba.
Là canh ba dùng lưỡi đao gõ ra.
Lòng bàn tay của Triệu Vô Kỵ đã đẫm mồ hôi lạnh.
Chàng tịnh không phải không sợ, chỉ bất quá chàng cho dù chàng có sợ gần chết, cũng tuyệt không thể bỏ trốn.
Liễu Tam Canh lạnh lùng nhìn chàng, lạnh lùng hỏi :
– Ngươi muốn một đao của ta chém chỗ nào?
Triệu Vô Kỵ thở dài :
– Lẽ nào ta còn có đất lựa chọn gì sao?
Liễu Tam Canh đáp :
– Ngươi không còn.
Đao quang lóe lên, người ngã gục xuống đất.
Một đao đó chém thẳng xuống ót, chém tịnh không quá mạnh.
Lưỡi đao vừa mỏng vừa bén như vậy, chém đứt đại huyết quản phía sau ót trái, máu tươi phún trào, cơ hồ bắn ra tới ngoài một trượng.
Máu màu xanh tái.
Máu tươi làm sao có thể có màu xanh tái? Có phải trong máu đã có quá nhiều độc?
Trong máu của Triệu Vô Kỵ không có độc.
Một đao đó cũng không chém lên người chàng.
Đao quang lóe lên, chàng đã chuẩn bị chịu đựng, nhưng một đao như tia chớp đó lại rơi trên ót trái của Độc Bồ Tát.
Độc Bồ Tát không tránh né.
Hắn tịnh không phải không muốn tránh né, chỉ bất quá đợi đến khi hắn tránh né, đã quá trễ rồi.
Hắn có nằm mộng cũng không tưởng được một đao đó lại chém hắn.
Mẹ con Hắc Bà Bà cũng không tưởng được, Triệu Vô Kỵ càng không tưởng được.
Bọn họ nhìn Độc Bồ Tát ngã quỵ, nhìn máu màu xanh tái từ dưới lưỡi đao phún ra.
Bọn họ tuy nhìn rất rõ, nhưng vẫn không minh bạch.
Triệu Vô Kỵ nhịn không được phải hỏi :
– Một đao của ngươi có phải đã chém lầm người?
Liễu Tam Canh đáp :
– Ta bình sinh chỉ lầm có một lần.
Y lầm đương nhiên không phải là lần này, từ sau khi bị người ta móc mắt của y ra, y chưa từng lầm qua lần thứ hai.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Người nợ ngươi một đao là ta, không phải là hắn.
Liễu Tam Canh nói :
– Ngươi đã nợ ta một đao, một đao đó của ta tùy tiện chém vào đâu chẳng được.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Nhưng ngươi không nên chém một đao lên người hắn.
Liễu Tam Canh nói :
– Một đao đó vốn nên chém lên người hắn.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Tại sao?
Liễu Tam Canh đáp :
– Bởi vì hôm nay ngươi không thể chết, cũng không nên chết! Người đáng chết là hắn.
Thân thể Độc Bồ Tát bất động, độc xà trong cái bao bố sau lưng hắn lại vẫn đang động.
Một con độc xà mềm mại bò ra, bò vào vũng máu của hắn, liếm máu hắn, độc huyết.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Trên lưng của hắn có phải có cái bao bố?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Phải.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Trong bao bố có gì?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Có rắn.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Có bao nhiêu rắn?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Trừ hai con hồi nãy đã chết ra, con có bảy con.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Hiện tại bảy con rắn đó có phải đã bò ra hết?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Phải.
Liễu Tam Canh thốt :
– Nhưng hiện tại trong bao bố nhất định vẫn chưa trống không.
Bao bố đích xác vẫn chưa trống không.
Độc Bồ Tát ngã quỵ xuống, bao bố đeo trên lưng hắn, độc xà tuy đã bò ra hết, bao vẫn còn phồng lên.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi tại sao không đến xem xem trong bao bố còn có gì?
Hắc Bà Bà xen lời :
– Để ta đi xem.
Bà ta dùng cây cung vàng của bà ta khều khều bao bố, lập tức có nhiều viên đạn giống hạt ngô đồng lăn vào vũng máu.
Đạn lăn đến đâu, độc xà lập tức tránh xa khỏi chỗ đó.
Triệu Vô Kỵ vốn nãy giờ thấy kỳ quái, Độc Bồ Tát luôn luôn có nghề phục xà, tại sao đám độc xà trong bao bố nãy giờ vẫn không thể an phục được?
Hiện tại Triệu Vô Kỵ mới biết tại sao.
Độc xà hễ đụng phải những viên đạn đó là giống như người đụng phải độc xà.
Hắc Bà Bà lại dùng kim cung khều một viên đạn ra khỏi vũng máu.
Bà ta không nói gì, cũng không cần nói gì, giữa mẹ con bà ta có một sự thỏa thuận ngầm mà bất cứ một ai cũng vô phương hiểu được.
Bà ta khều viên đạn đó ra, dây cung của con trai bà ta đã “bựt” một tiếng, ngân tiễn bay ra, đạn vỡ nát.
Chàng lập tức ngửi thấy một thứ hương khí hỗn hợp tạo thành từ tiêu thạch và lưu huỳnh.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Ngươi ngửi thấy gì?
Hắc Bà Bà còn đang ngẫm nghĩ, Triệu Vô Kỵ đã trả lời :
– Đó là Phích Lịch!
Phích lịch là một một tiếng sấm nổ, một tia chớp.
Phích lịch không thơm cũng không hôi, mình có thể tưởng đến, có thể nhìn thấy, lại tuyệt đối không ngửi thấy.
Triệu Vô Kỵ tại sao có thể ngửi thấy được?
Bởi vì phích lịch chàng nói tịnh không phải là sấm chớp trên trời, mà là một thứ ám khí dưới đất.
Hắc Bà Bà đã lão luyện giang hồ.
Bà ta từ lúc mười sáu tuổi đã bắt đầu xông pha giang hồ, hiện tại bà ta đã sáu mươi mốt.
Ba ta đã cưới chồng ba lần.
Chồng của bà ta đều là danh gia sử dụng ám khí, chính bà ta cũng tuyệt đối có thể liệt danh vào trong ba mươi vị danh gia ám khí đương thời, cung tiễn cũng có thể coi là ám khí.
Sự hiểu biết của bà ta về thứ ám khí đó lại tuyệt không nhiều như Triệu Vô Kỵ.
Bởi vì đó là độc môn ám khí của “Phích Lịch đường”.
Phích Lịch đường có thể uy trấn võ lâm, ít ra có một nửa nguyên nhân là vì thứ ám khí đó.
Lôi Chấn Thiên chủ nhân của Phích Lịch đường có thể liệt vào hàng đệ nhị trong số ba mươi danh gia ám khí cũng là vì thứ ám khí đó.
Tất cả mọi chuyện có liên quan đến thứ ám khí đó, đám đệ tử của Đại Phong đường từ nhỏ đã hiểu biết rất rõ.
Bởi vì Đại Phong đường và Phích Lịch đường là tử địch.
Bọn họ cho tới nay còn có thể cùng tồn tại chỉ là vì phe nào cũng không nắm chắc mình có thể thắng được đối phương.
Ngân tiễn bắn vỡ viên đạn, khí thế còn tồn đọng, “cạch” một tiếng ghim phập vào bản gỗ gần song cửa sổ của tiểu lâu, đuôi tên còn đang chấn động rung rung.
Hắc Bà Bà liếc mắt ra vẻ tán thưởng, nhìn con trai của mình một cái rồi quay đầu lại hỏi :
– Đó là Phích Lịch?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Dứt khoát.
Chàng tin chắc tuyệt không thể nhìn lầm.
Hắc Bà Bà hỏi :
– Nhưng nó tại sao lại không có oai lực của Phích Lịch như trong truyền thuyết?
Liễu Tam Canh đáp :
– Bởi vì độc huyết dưới đất.
Y từ từ cúi mình, dùng hai ngón tay lượm một viên Phích Lịch lăn gần dưới chân.
Y tuy nhìn không thấy, nhưng nghe được.
Tiếng gió lùa lá cây xào xạc, tiếng đạn lăn dưới đất, tiếng dây cung bắn “bựt”, nội trong vòng chu vi ba mươi trượng, tất cả mỗi một thứ thanh âm phát ra đều tuyệt đối không thoát qua khỏi tai y.
Viên Phích Lịch đó xem có vẻ vừa tươi vừa khô, giống như một trái khô cứng mới vừa rớt xuống từ trên cây.
Liễu Tam Canh búng ngón giữa, “vút” một tiếng, viên Phích Lịch bắn ra từ ngón tay giữa như một mũi tên.
Ngón tay đó của y giống như một dây cung căng cứng, viên đạn bay xa mấy chục trượng, vượt qua khỏi hoa viên rộng thoáng, văng trên một tảng đá lớn nơi góc vườn, lập tức phát ra một tiếng nổ thạch phá thiên kinh, khói xám đá vụn bay mù trời.
Hắc Bà Bà biến sắc.
Bà ta chung quy đã nhìn thấy oai lực của viên Phích Lịch đó, càng mãnh liệt đáng sợ hơn xa so với trong truyền thuyết.
Trong gió lại truyền đến mùi hỗn hợp tiêu thạch và lưu huỳnh, phảng phất còn kéo theo hương khí phấn sáp.
Trong Phích Lịch vốn đáng lẽ không có thứ mùi vị đó.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Đó là mùi gì vậy?
Liễu Tam Canh đáp :
– Sao ngươi không đi qua nhìn thử.
Triệu Vô Kỵ không cần phải bước qua nhìn, sắc mặt đã có biến chuyển.
Bụi phấn khói xám vừa hạ xuống, rơi rải trên một cụm hoa mẫu đơn mới nở, mẫu đơn đỏ tươi đột nhiên khô héo, từng cánh hoa rụng rớt biến thành đen sì.
Triệu Vô Kỵ thất thanh :
– Hương khí có độc.
Trong viên Phích Lịch đó không ngờ có trộn chung một thứ độc phấn.
Liễu Tam Canh nói :
– Nếu không phải vì độc huyết dưới đất đã hóa giải độc của nó, hồi nãy kịch độc trong viên Phích Lịch đó đã đủ để lấy mạng bọn ta rồi.
Hiện tại lần này tuy là từ ngoài ba mươi trượng bộc phát, hướng gió tuy tịnh không phải đang thổi về phía bọn họ, nhưng bọn họ vẫn cảm thấy lảo đảo, phảng phất muốn ói mửa.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Đừng quên độc của Độc Bồ Tát tịnh không phải chỉ có thể cứu người, cũng có thể lấy mạng người ta.
Một viên Phích Lịch độc phấn đó vốn đương nhiên đã chuẩn bị để đối phó đám quý khách đi uống rượu mừng của Triệu Vô Kỵ.
Người có thể được Triệu Giản mời đến Hòa Phong sơn trang của lão đương nhiên là tinh anh của Đại Phong đường.
Một ngọn lửa trong lồng đèn đã đủ để dẫn hỏa nổ ba bốn viên Phích Lịch, trong đại sảnh của Hòa Phong sơn trang, hôm nay đương nhiên đèn đuốc huy hoàng, cũng không biết có bao nhiêu lồng đèn bao nhiêu ngọn đuốc mà kể.
Nếu quả để cho Độc Bồ Tát trà trộn tiến vào, len lén đặt trong mỗi lồng đèn hai ba viên Phích Lịch, đợi đến khi độ nóng trong lồng đèn dung hóa vỏ bọc bên ngoài, có thể dẫn đến kết quả gì?
Nghĩ đến đó, y phục toàn thân Triệu Vô Kỵ cơ hồ đã thấm đẫm mồ hôi lạnh.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi nhất định không tưởng được Độc Bồ Tát đã đầu nhập Phích Lịch đường.
Triệu Vô Kỵ quả thật không tưởng nổi.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ngươi nhất định cũng không tưởng được bọn chúng không ngờ dám hạ độc thủ với Hòa Phong sơn trang.
Bọn chúng dám làm như vậy chẳng khác gì đã tuyên chuyến với Đại Phong đường!
Một khi chiến tranh bùng nổ, tất trở thành quyết chiến sinh tử giữa hai bên, sự thảm liệt của chiến huống Triệu Vô Kỵ cơ hồ đã có thể tưởng tượng được.
Liễu Tam Canh thốt :
– Chuyện này cho dù không thành, tổn thất của bọn chúng chỉ bất quá là một mình Độc Bồ Tát, hắn tịnh không phải là trung kiên của Phích Lịch đường, có lẽ bọn chúng căn bản không để sinh mạng của hắn trong tâm.
Nếu chuyện đó thành công, tinh anh của Đại Phong đường rất có khả năng đã bị hủy đi trong phút chốc.
Triệu Vô Kỵ nắm chặt song quyền :
– Kỳ thật vô luận là thành hay không thành, kết quả đều như nhau.
Liễu Tam Canh hỏi :
– Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Bọn chúng đã dám làm như vậy, nghĩ tất đã có quyết tâm không ngại cùng bọn ta quyết chiến.
Thanh âm của chàng vừa hưng phấn vừa trầm trọng :
– Đại Phong đường của bọn ta có vô số đệ tử, đương nhiên cũng tuyệt không thể kinh sợ mà co rúc!
Đại Phong đường chỉ có liệt sĩ chiến tử, tuyệt không có những kẻ hèn nhát co rúc.
Chàng cơ hồ có thể thấy huynh đệ của Đại Phong đường giữa những tiếng nổ của Phích Lịch đang đổ máu khổ chiến.
Trong những người đó, có trưởng giả tôn kính của chàng, cũng có bằng hữu thân mật của chàng.
Những người đó lúc nào cũng đều có thể cùng chàng đồng sinh tử, cộng hoạn nạn.
Chính chàng cũng chuẩn bị làm như vậy.
Có lẽ bọn họ tịnh không nắm chắc chiến thắng, nhưng một khi chiến tranh bùng nổ, bọn họ tuyệt không hỏi han gì đến sinh tử thắng bại!
Chàng tin đám đệ tử của Đại Phong đường mỗi một người đều có thể làm như vậy!
Liễu Tam Canh lại bỗng cười cười.
Đó là lần thứ nhất y cười, Triệu Vô Kỵ kinh ngạc nhìn y, không nghĩ ra được vì sao y lại cười.
Liễu Tam Canh thốt :
– Ta đang cười ngươi.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Cười ta? Tại sao lại cười ta?
Liễu Tam Canh đáp :
– Bởi vì ngươi lại đã lầm.
Y không để cho Triệu Vô Kỵ mở miệng, lại nói tiếp :
– Hiện tại Độc Bồ Tát đã chết, Hòa Phong sơn trang vẫn an nhiên tĩnh tại, cho nên chuyện đó căn bản chưa thể xảy ra, Phích Lịch đường chỉ dám phái thứ người như Độc Bồ Tát đến hạ thủ chỉ bất quá vì bọn chúng cũng không dám khinh cử vọng động, cho dù có người đến hỏi bọn chúng, bọn chúng cũng tuyệt không thể thừa nhận chuyện đó là chủ ý của bọn chúng.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Nhưng…
Liễu Tam Canh ngắt lời chàng :
– Cục diện đối đầu giữa Đại Phong đường và bọn chúng đã duy trì hai ba chục năm, rất co thể còn tiếp tục thêm hai ba chục năm nữa, sau này thậm chí có lẽ còn có thể hóa địch thành bạn, ngươi hiện tại hà tất phải nghĩ thái quá.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Ta nên nghĩ làm sao?
Liễu Tam Canh đáp :
– Ngươi nên nghĩ đến tân nương tử mỹ lệ ôn nhu của ngươi, nghĩ đến chuyện về gấp uống rượu mừng với hảo bằng hữu của ngươi.
Ánh mắt của Triệu Vô Kỵ lại phát sáng. Chàng còn trẻ.
Chàng vốn là một thanh niên nhiệt tình như lửa, rất dễ dàng bị kích nộ, nhưng cũng rất dễ dàng biến thành cao hứng tràn trề.
Liễu Tam Canh thốt :
– Cho nên ngươi hiện tại nên mau mau cưỡi thớt khoái mã của ngươi trở về, hoán đổi áo lễ phục của ngươi, đến hỷ đường bái thiên địa.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Nhưng ta…
Liễu Tam Canh thốt :
– Hiện tại ngươi không còn nợ ta, cũng không còn nợ Hắc Bà Bà, nhưng ngươi nếu quả còn chưa đi, nếu quả còn để tân nương tử của ngươi bồn chồn lo lắng, ta tất phải tức giận.
Hắc Bà Bà thốt :
– Ta nhất định càng tức giận hơn!
Triệu Vô Kỵ nhìn bà ta, nhìn Liễu Tam Canh, đột nhiên phát hiện trên thế gian này tất vẫn có thể tìm được người tốt.
Thế giới này tất vẫn còn ấm cúng tràn trề, sinh mệnh tất lại càng khả ái.
Chàng lại cười.
Chàng lại cao hứng.
Tai họa tất lại càng cách xa chàng, rất xa, cẩm tú tiền trình ngập tràn hạnh phúc và yêu đương lại đang ở trước mặt chàng.
Chàng bật dậy :
– Được, ta đi liền.
Liễu Tam Canh thốt :
– Nhưng còn có chuyện ngươi nhất định phải ghi nhớ.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Chuyện gì?
Liễu Tam Canh đáp :
– Ngươi nhất định phải ghi nhớ ngàn vạn lần không thể bị người ta phục rượu say sưa.
Y lại nở nụ cười :
– Tân nương tử tuyệt không thích một ông chồng đang đêm động phòng hoa chúc mà ói mửa như một tên hồ đồ.
Hắc Bà Bà thốt :
– Không sai chút nào.
Khuôn mặt già nua của bà ta bỗng biến thành trẻ trung :
– Ta nhớ có một ngày ta làm tân nương tử, tân lang của ta uống say túy lúy bị ta đá văng khỏi giường ngủ cả đêm dưới đất, hơn nữa ít ra có ba ngày không thèm nói chuyện với y.
Trên mặt bà ta bỗng lại đỏ hồng, cười nhẹ :
– May là có những chuyện không nói cũng có thể làm được.
Liễu Tam Canh cười lớn.
Triệu Vô Kỵ tin rằng cả đời y rất có thể chưa từng cười lớn như vậy.
Triệu Vô Kỵ đương nhiên cũng cười :
– Ta nhất định ghi nhớ, lúc có người phục rượu ta, ta…
Hắc Bà Bà hỏi :
– Ngươi chuẩn bị làm sao?
Triệu Vô Kỵ nháy nháy mắt :
– Ta chuẩn bị trước hết trốn dưới đáy giường nằm, ít ra không bị người ta đá văng xuống.
Hắc Bà Bà cười lớn :
– Đó thật là chủ ý hay.
Nợ đã trả hết, sự tình đều đã giải quyết xong. Hiện tại còn chưa tối, gấp rút trở về vẫn còn kịp.
Tâm tình của Triệu Vô Kỵ khoan khoái cực kỳ.
Điểm làm cho chàng cảm thấy khoan khoái nhất là Hương Hương không những không kéo ghì chàng nữa, trái lại còn dắt ngựa đến trước cửa đợi chàng.
Trong ánh mắt của nàng tuy khó tránh khỏi bâng khuâng chút u oán, nhưng ít ra lệ ngân đã khô.
Nàng cúi đầu, dịu dàng thốt :
– Chàng đã nhất định phải đi, tôi cũng không muốn giữ chàng nữa, tôi có giữ cũng giữ không được.
Triệu Vô Kỵ nói :
– Cám ơn nàng.
Trong tâm chàng thật cảm thấy rất cảm kích, cảm kích sự hiểu thấu của nàng, càng cảm kích sự khoan thứ của nàng.
Không cần biết ra sao, chàng ít ít nhiều nhiều cũng cảm thấy mình có điểm không phải đối với nàng.
Hương Hương lại ngẩng đầu ngưng thị nhìn chàng :
– Nhưng tôi biết chàng sau này nhất định đến gặp tôi nữa.
Triệu Vô Kỵ trong tâm đang thở dài, dịu dàng thốt :
– Ta không thể đến nữa.
Hương Hương hỏi :
– Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Đến nữa cũng chỉ chuốc thêm khổ não ưu phiền, ta hà tất phải đến nữa.
Mỗi một người lúc còn trẻ đều khó tránh khỏi làm ra những chuyện hoang đường.
Người trẻ tuổi nào lại không phong lưu?
Chàng đã quyết tâm sau này phải làm một người chồng tốt, chàng có quyết tâm nhất định có thể làm được.
Hương Hương cắn môi :
– Nhưng tôi không tin.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Nàng không tin?
Hương Hương đáp :
– Tôi không tin chàng sau này vĩnh viễn không còn nhìn nữ nhân khác nữa.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Nam nhân gặp phải nữ nhân dễ nhìn, ngoại trừ kẻ mù và ngụy quân tử ra, ai cũng đều khó tránh khỏi phải nhìn một cái, nhưng ta tối đa cũng chỉ bất quá là nhìn nhìn mà thôi.
Hương Hương càng không chịu buông tha :
– Tôi cũng không tin bằng vào một mình nàng ta có thể vĩnh viễn cầm giữ được chàng.
Triệu Vô Kỵ thốt :
– Nàng ta có lẽ không cầm giữ được ta, nhưng ta biết sau này nhất định có người có thể giúp nàng ta cầm giữ ta.
Hương Hương hỏi :
– Người đó có thể cầm giữ chàng?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Chỉ có y mới có thể cầm giữ được ta.
Hương Hương hỏi :
– Người đó là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp :
– Chính là ta.
* * * * *
[Vệ Phượng Nương và Triệu Thiên Thiên]
Vệ Phượng Nương đang ngồi trước gương trang điểm, nhìn bóng mình trong gương, trong tâm cũng không khỏi có cảm giác rất thỏa mãn về mình.
Nàng quả thật là một nữ nhân rất đẹp, đặc biệt là hôm nay, nhìn càng dung quang hoán phát, mỹ diễm chiếu nhân.
Bởi vì nàng bình thời rất ít khi mặc y phục tươi đẹp như vầy, trên mặt cũng rất ít khi thoa phấn.
Nàng luôn luôn rất biết cách kềm chế mình.
Nàng biết chỉ có một nữ nhân hiểu biết cách tự kềm chế lấy mình mới xứng làm dâu Triệu gia.
Từ cái ngày lần đầu tiên nàng gặp Triệu Vô Kỵ, nàng đã quyết tâm phải làm dâu Triệu gia.
Bắt đầu từ ngày đó, nàng đã đính hạ mục tiêu nỗ lực cho cuộc đời mình.
Nàng học may vá thêu thùa, học nấu nướng, học nội trợ trị gia.
Hiện tại đồ ăn nàng nấu có thể nói hơn hết các nhà bếp danh tiếng của bất cứ tửu điếm nào.
Y phục nàng may, vô luận bất cứ ai mặc vào, đều có cảm giác vừa vặn thoải mái.
Cho dù là người kén chọn tỉ mỉ nhất đều không thể không thừa nhận nàng quả thật là một người vợ lý tưởng.
Nỗ lực của nàng cũng tịnh không uổng phí trắng tay.
Hiện tại nàng cuối cùng đã bước vào cửa Triệu gia, đã trở thành người của Triệu gia.
Đó tịnh không biểu thị nàng chuẩn bị làm một thiếu nãi nãi kiêu kỳ trong nhà.
Nàng quyết tâm sau này vẫn phải làm càng tốt hơn, khiến cho Triệu Vô Kỵ vĩnh viễn không thể hối hận đã cưới người vợ này.
Triệu Vô Kỵ anh tuấn, cực kỳ thông minh, tính khí tuy có chút hư hỏng, lại là một thanh niên rất tốt.
Một nam nhân như vậy đương nhiên có rất nhiều cô gái thích chàng.
Nàng biết chàng trước đây cũng rất phong lưu.
Nàng thậm chí còn biết chàng có qua lại với một cô gái tên là Hương Hương.
Nàng đã quyết tâm sau này phải quên hết toàn bộ mấy chuyện đó, bởi vì nàng cũng tin rằng chàng sau này nhất định có thể thay đổi.
Nàng nhận thấy chàng là một nam nhân thành thật, sau này cũng nhất định có thể làm một người chồng rất thành thật.
Có thể cưới một người chồng như vậy, một nữ nhân còn có gì không thỏa mãn chứ?
Nàng chỉ bất quá vẫn có chút khẩn trương.
Vừa nghĩ đến đêm hôm nay, nghĩ đến cái giường rộng rãi trong động phòng, tâm của nàng lại đập mạnh, mặt lại đỏ hồng.
Hiện tại tim của nàng đập rất nhanh… nhưng nàng cũng tịnh không quá lo lắng, mỗi một cô gái đều phải trải qua những chuyện đó, có gì mà phải lo sợ?
Hiện tại chuyện duy nhất khiến cho nàng lo lắng là Triệu Vô Kỵ hôm nay mới sáng sớm đã bỏ đi, đến bây giờ còn chưa quay về.
Hiện tại trời đã tối.
Nàng không những lo lắng mà đang bắt đầu khẩn trương, may là lúc đó, nàng nghe thấy thanh âm vui mừng của Thiên Thiên :
“Triệu Vô Kỵ đã về rồi”.
Triệu Thiên Thiên là muội muội của Triệu Vô Kỵ.
Nàng cũng như ca ca của nàng, thông minh, mỹ lệ.
Nàng không những là mỹ nhân hữu danh, cũng là hiệp nữ rất hữu danh trong giang hồ.
Từ lúc nàng còn rất nhỏ đã bắt đầu học kiếm, trong Đại Phong đường có rất nhiều cao thủ từng bại dưới kiếm của nàng, thậm chí cả ca ca của nàng đã từng bại.
Tuy nàng cũng biết ca ca cố ý nhường nàng, vẫn cảm thấy rất cao hứng.
Nàng năm nay mới mười bảy tuổi, đang ở tuổi hoa nở tươi tắn.
Đối với nàng mà nói, cuộc đời giống như một một chén rượu ngon ngọt đang đợi nàng thưởng thức.
Nàng cũng có tâm sự của nàng.
Một cô gái mười bảy làm sao mà không có tâm sự chứ?
Nàng vốn luôn luôn rất sảng khoái, cho đến buổi hoàng hôn đó.
Ngày xuân đó, nàng một mình ngồi ở hậu viên, nhìn hoa tươi đua nở khắp vườn, nhìn trời xanh trong vắt bao trùm mặt đất, nhìn tịch dương chầm chậm tan biến sau vùng núi xa xăm.
Nàng đột nhiên cảm thấy rất tịch mịch.
Nỗi tịch mịch của một cô gái muời bảy thông thường chỉ có một cách có thể giải trừ, một nam nhân có thể hiểu được nàng, hơn nữa phải là nam nhân nàng thích.
Nàng tìm không ra thứ nam nhân đó.
Bởi vì nàng một mực nghĩ nam nhân chân chính trên thế giới chỉ có hai người, một là phụ thân nàng, hai là ca ca của nàng.
Nam nhân khác nàng căn bản không để bọn họ trong mắt mình.
Nếu quả nàng còn mẫu thân, nàng còn có thể đem tâm sự của mình kể cho mẫu thân nghe. Bất hạnh là mẫu thân của nàng dã mất từ sớm.
Nàng cùng phụ thân thủy chung có một khoảng cách, đối tượng duy nhất nàng có thể nói chuyện là ca ca của nàng.
Hiện tại ca ca của nàng đã gần thành hôn, nàng biết mình sau này nhất định lại càng tịch mịch.
Tịch mịch.
Tịch mịch đáng sợ làm sao.
Triệu Vô Kỵ từ sớm đã bỏ đi, cho đến bây giờ vẫn còn chưa về, người lo lắng nhất là nàng.
Bởi vì chỉ có nàng mới biết ca ca mình đi làm gì.
Huynh muội bọn nàng luôn luôn không có bí mật.
“Huynh phải đi trả nợ, nhất định phải đi trả, nhưng có những món nợ huynh vị tất trả được, nếu quả huynh đến tối còn chưa về, rất có thể vĩnh viễn không thể về”.
Nàng không giữ ca ca lại, cũng không khuyên ca ca.
Bởi vì nàng hiểu ca ca, biết một nam nhân chân chính nếu quả quyết tâm muốn đi làm một chuyện, người khác có giữ cũng giữ không được, khuyên cũng vô dụng.
Trong tâm nàng luôn luôn kiêu ngạo mình có một ca ca như vậy.
Từ lúc hoàng hôn, nàng đã một mực chờ đợi, đứng trong góc hậu viên bên ngoài cửa chờ đời.
Đợi đến khi trời tối, nàng cũng đã bắt đầu khẩn trương.
Lúc đó, nàng nhìn thấy một người một ngựa như phong cuồng xông vào con hẻm ngoài hậu viên.
Nàng còn chưa nhìn thấy rõ dáng dấp của người đó đã biết người đó là ai.
Chỉ có Triệu Vô Kỵ mới có thể phong cuồng như vậy, chỉ có Triệu Vô Kỵ mới có thể cưỡi ngựa như vậy.
Nàng lập tức nhảy lên hoan hô.
“Triệu Vô Kỵ đã về rồi”.
Triệu Vô Kỵ đang thay y phục.
Cả thời gian tắm rửa cũng không có, chàng bắt đầu thay y phục, mặc cát phục của tân lang.
Trên người chàng càng nhuốm đầy mồ hôi, hai chân không những đau dần, hơn nữa da bắp chân đều trầy trụa vì va vào yên ngựa.
Ngựa chàng cưỡi trở về tuy là một thớt ngựa tuyển chọn từ nghìn con, hiện tại lại đã ngã quỵ.
Nó chưa ngã quỵ từ trước đã có thể coi là quá giỏi rồi.
Hiện tại chàng mới biến làm một tân lang thật không phải là chuyện dễ dàng.
Bắt đầu từ chuyện thay y phục đã rất không dễ dàng rồi.
Chàng trước đây chưa từng nghĩ đến mặc y phục tân lang lại phiền hà như vậy, còn khó khăn hơn cả mấy bé gái mặt y phục cho búp bê đất sét, may là chàng vẫn có thể nhẫn nại, bởi vì chàng biết cả đời mình tối đa cũng chỉ có một lần như vậy.
Ba người đang giúp chàng thay y phục.
Vốn đáng lẽ là ba nữ nhân, nhưng chàng kiên quyết nhất định phải dùng nam nhân.
Ba nữ nhân chàng vừa không quen biết vừa không thích muốn giúp chàng thay y phục, chàng không chịu được.
Chỉ bất quá trong phòng còn có nữ nhân.
Tuy nữ nhân đó trong mắt chàng mà nhìn tịnh không thể coi là nữ nhân, nhưng trong mắt người ta mà nhìn, nàng lại là một nữ nhân tuyệt đẹp, nữ nhân hoàn hoàn toàn toàn, ngoại trừ tính khí quá hư hỏng ra, cơ hồ có thể coi là nữ nhân trong nữ nhân.
Thiên Thiên đang ngồi trong góc phòng nhìn chàng thay y phục, đang ngồi dưới đất.
Trong phòng cho dù có tám trăm cái ghế, nàng cũng không ngồi trên ghế, bởi vì nàng thích ngồi dưới đất.
Nàng thích ngồi thoải mái dưới đất.
Cho dù dưới đất có hai vũng sình phía sau, một khi nàng thích ngồi, vẫn ngồi xuống như vậy.
Y phục dơ, nàng không thèm để ý tới một chút nào, người khác nói nàng ngồi mà không giống như ngồi, nàng càng không thèm để ý tới.
Nàng khác với Vệ Phượng Nương.
Nàng một mực chỉ làm chuyện nàng thích làm.
Triệu Vô Kỵ lắc đầu :
– Bằng vào cách ngồi của muội, sau này làm sao xuất giá chứ?
Thiên Thiên “hừm” một tiếng trong mũi :
– Huynh lo tôi không xuất giá được? Trời có sập tôi cũng không cưới người như huynh!
Triệu Vô Kỵ cười khổ.
Chàng chỉ còn nước cười khổ.
Thiên Thiên vẫn còn tức :
– Hà huống nam nhân như huynh còn có thể cưới vợ, tôi sao lại không xuất giá được chứ?
Triệu Vô Kỵ nhịn không được, lại muốn biểu thị ý kiến của mình :
– Nhưng muội là con gái, con gái ít ít nhiều nhiều gì cũng phải có chút bộ dạng như con gái!
Thiên Thiên bỉu môi :
– Con gái nên có bộ dạng ra sao? Giống như Hương Hương của huynh?
Đề khởi đến Hương Hương, Triệu Vô Kỵ không nói gì được nữa.
Thiên Thiên lại không chịu buông tha :
– Nàng ta có phải thật sự rất thơm? Nàng ta thật ra thơm bao nhiêu chứ?
Nàng chừng như rất có hứng thú đối với vấn đề đó, Triệu Vô Kỵ chỉ còn nước mau mau đổi chủ đề :
– Hôm nay có phải có rất nhiều người đến không?
– Ừm!
– Những người nào đã đến?
– Người nên đến lại chưa đến, người không nên đến đều đã đến.
Triệu Vô Kỵ liếc muội muội mình :
– Huynh biết con trai của Đại đại gia nhất định chưa đến!
Thiên Thiên nhịn không được phải hỏi :
– Huynh làm sao biết?
Triệu Vô Kỵ cố ý cười theo điệu bộ rất âm hiểm :
– Bởi vì hắn vốn nên đến.
Mặt Thiên Thiên đột nhiên đỏ hồng lên.
“Đại đại gia” là Trí Đa Tinh Tư Không Hiểu Phong, người trong giang hồ đều công nhận là người có quyền lực nhất của Đại Phong đường.
Con trai của lão là Tư Không Khúc.
Tư Không Khúc có ý với Thiên Thiên, vô luận đối với một ai mà nói đều không phải là bí mật.
Triệu Vô Kỵ rất đắc ý.
Chàng cuối cùng đã làm cho muội muội nhiều chuyện của mình tạm thời ngậm miệng lại, nhưng chàng đã quên mình cũng có rất nhiều bí mật không còn là bí mật.
Tròng mắt của Thiên Thiên háy háy, đột nhiên thở dài :
– Đáng tiếc, thật đáng tiếc!
Triệu Vô Kỵ cũng nhịn không được phải hỏi :
– Muội nói đáng tiếc cái gì?
Thiên Thiên đáp :
– Đáng tiếc một người lại không đến.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Người nào?
Thiên Thiên đáp :
– Là một người vốn nên đến.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Ai?
Thiên Thiên đáp :
– Linh Linh đáng thương.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Nàng ta có gì liên quan đến huynh? Huynh còn chưa gặp mặt nàng ta nữa là.
Thiên Thiên đáp :
– Bởi vì huynh còn chưa gặp mặt nàng ta cho nên mới đáng tiếc.
Nàng cũng dùng khóe mắt háy ca ca mình :
– Huynh không phải luôn luôn rất muốn biết bộ dạng của nàng ta ra sao sao?
Triệu Vô Kỵ không có cách gì phủ nhận.
Chàng quả thật luôn luôn rất muốn gặp “Linh Linh đáng thương” đó xem dáng dấp ra sao. Đó cũng không phải là bí mật!
“Linh Linh đáng thương” đó là con gái một của Thượng Quan Nhẫn, Tam đại gia của bọn họ.
Tên của nàng là Linh Linh.
Thượng Quan Linh Linh.
Mọi người đều biết nàng là tài nữ, cũng là mỹ nữ.
Nhưng chưa từng có ai gặp được nàng.
Bởi vì nàng từ nhỏ đã bị phụ thân dẫn đến Hoàng Sơn, có người nói nàng đi học nghệ.
“Võ công của Hoàng Sơn “Diệu Vũ quán” Diệu Vũ sư thái là thích hợp nhất cho con gái”.
Cũng có người nói nàng đi dưỡng bệnh.
“Nàng trời sinh mắc một chứng bệnh kỳ quái, giống hệt như mẫu thân của nàng, nếu không thể an tâm tĩnh dưỡng rất có thể không sống quá được hai mươi tuổi”.
Thật ra nàng tại sao phải đi?
Không một ai biết, cũng không ai dám hỏi Thượng Quan Nhẫn.
Thượng Quan Nhẫn luôn luôn là người không dễ tiếp cận, càng không chịu để người ta đề cập đến vấn đề đó.
Cái chết của vợ lão, và con gái của lão đều là chuyện lão không chịu đề cập tới.
Nếu quả Thượng Quan Nhẫn không chịu đề cập tới chuyện gì, mình nếu đề cập tới, chẳng khác nào là chuốc khổ vào thân.
Không cần biết mình là ai cũng vậy.
Cả chủ nhân của Đại Phong đường Vân Phi Dương Vân lão gia tử đều biết tính khí kỳ quái của lão.
Đề cập đến Linh Linh, Triệu Vô Kỵ lại chỉ còn nước mau mau đổi đề tài :
– Lão đầu tử hôm nay có uống thuốc chưa?
Thoại đề đó vĩnh viễn là thoại đệ quan tâm nhất của bọn họ.
Bởi vì lão đầu tử là phụ thân của bọn họ.
Lối xưng hô “lão đầu tử” tuyệt đối không có một ý tứ không tôn kính nào, chỉ bất quá biểu thị sự quan tâm thân mật giữa phụ thân và huynh muội bọn họ mà người khác vĩnh viễn vô phương hiểu thấu được.
Trong mắt người khác, phụ thân của bọn họ có lẽ là một người rất đáng sợ, đại đa số người trong giang hồ một khi đề cập tới năm chữ “Kim Long Kiếm Triệu Giản”, trong tâm đều sinh ra một sự tôn kính gần như sợ sệt.
Trong mắt bọn họ, ông ta không những là nghiêm phụ, cũng là từ mẫu của bọn họ.
Triệu phu nhân mất qua đời từ rất sớm, ông ta một tay nuôi dưỡng huynh muội bọn họ thành nguời.
Những đêm lạnh trích thủy thành băng, người đắp mền cho bọn họ là ông ta.
Những bình minh tươi tắn gió xuân, dẫn bọn họ đi thả diều ngoài vườn cũng là ông ta.
Vì nuôi dưỡng hai đứa con, vị võ lâm cao thủ năm xưa một kiếm tung hoành giang hồ hiệp trợ bằng hữu Vân Phi Dương sáng lập Đại Phong đường đã dần dần thay đổi tính khí.
Những năm gần đây tính khí của ông ta càng vui vẻ, thân thể lại dần dần suy nhược, rất dễ bị mệt.
Sau khi xử lý chuyện quan trọng của Đại Phong đường, ông ta thường một mình ngồi trong thư phòng, mệt mỏi đến mức nói không ra hơi, có lúc thậm chí toàn thân đau đớn đến mức co cuộn lại.
Huynh muội bọn họ dần dần đã phát hiện ra sự đau đớn của ông ta, đoán định ông ta nhất định đang ẩn tàng một căn bệnh trong người.
Huynh muội bọn họ tuy có thể bắt ông ta miễn cưỡng đi gặp đại phu, nhưng lão nhân quật cường đó lại thường thường không chịu uống thuốc.
Ông ta thường nói :
– Chỉ có nữ nhân mới uống thuốc ngày này qua tháng nọ, lẽ nào các ngươi muốn ta coi ta như nữ nhân?
Ý tưởng đó tuy rất không chính xác, nhưng một khi ông ta nghĩ là đúng, tuyệt không có một ai có thể khiến cho ông ta sửa đổi.
Thiên Thiên thở dài nhè nhẹ :
– Hôm nay cha lại len lén đổ chén thuốc xuống cống.
Triệu Vô Kỵ cười khổ :
– Huynh thật nghĩ không ra cha tại sao lại sợ thuốc như một đứa trẻ vậy.
Thiên Thiên thốt :
– Nghe nói một người đến lúc tuổi già thường thường có thể phản lão hoàn đồng.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Nghe nói Lục lão bá ở Hoa Sơn đặc biệt đến đây, bệnh của cha tuy người khác không chẩn đoán ra là bệnh gì, nhưng dưới tay của Lục lão bá, thiên hạ còn có bệnh gì mà không trị hết được?
Lục lão bá là “Hoa Sơn Y Ẩn” Lục Thông, không những là danh đồ của Hoa Sơn kiếm phái, cũng là thần y hữu danh trong giang hồ.
Thiên Thiên nói :
– Hôm nay sau khi ăn cơm trưa xong, Lục lão bá đã bắt mạch cho cha.
Nàng nghĩ ngợi, lại nói :
– Hai người bọn họ còn ngồi trong thư phòng đàm luận rất lâu.
Triệu Vô Kỵ hỏi :
– Bọn họ khi đi ra có nói gì không?
Thiên Thiên đáp :
– Lúc bọn họ đi ra, lão đầu tử có vẻ rất cao hứng, còn đặc biệt bài một bàn rượu, hẹn Tam đại gia uống rượu ở hậu viên.
Tam đại gia là một trong ba vị cự đầu của Đại Phong đường, cả ngày khó nói ra tới một câu, “Thiết Kiếm Kim Nhân” Thượng Quan Nhẫn.
Kim nhân, tượng vàng. Tượng vàng còn có lúc mở miệng, muốn lão nói chuyện đơn giản còn khó hơn cả mở miệng tượng vàng.
Thiên Thiên nói :
– Lão hôm nay cũng uống rất nhiều rượu với lão đầu tử. Cho đến hôm nay tôi mới biết tửu lượng của lão rất có thể còn mạnh hơn cả huynh.
Triệu Vô Kỵ tươi mặt :
– Nói như vậy, bệnh của lão đầu tử nhất định đã có cơ hội biến chuyển.
Thiên Thiên thốt :
– Nhưng Lục lão bá lại tỏ vẻ tâm sự trùng trùng, không chịu uống rượu.
Triệu Vô Kỵ lại nhíu mày.
Lúc đó ngoài song cửa chợt truyền vào tiếng bước chân nặng nề, một người bên ngoài cất tiếng hỏi :
– Đại thiếu gia có trong đó không?
Triệu Vô Kỵ và Thiên Thiên đều nghe thấy đó là thanh âm của lão Khương.
Lão Khương đã sống trong Triệu phủ mấy chục năm nay, từ chức thư đồng của Triệu Giản đã trở thành tổng quản của Hòa Phong sơn trang, đôi chân vốn nhanh mạnh hơn ai hết, những năm gần đây lại mắc bệnh phong thấp, bước đi rất khốn khó.
Nhưng Triệu Giản trong tâm mục của lão lại vĩnh viễn là đại thiếu gia năm xưa.
Thậm chí cả cách xưng hô lão cũng không sửa đổi.
Thiên Thiên từ dưới đất nhảy dựng lên, đẩy song cửa sổ, phát hiện lão Khương luôn luôn nhẫn nại hiện tại không ngờ chừng như rất khẩn trương, tuy đã dừng chân, vẫn đang thở hổn hển không ngừng.
Nang nhịn không được phải hỏi :
– Thật ra có chuyện lớn gì mà ông khẩn trương vậy?
Lão Khương hớp hơi :
– Tư Không đại gia đã từ Bảo Định Phủ đến, đang ngồi trong hoa sảnh đợi đại thiếu gia ra gặp mặt, đại thiếu gia lại không biết đã đi đâu.
Thiên Thiên hỏi :
– Ông có đi tìm chưa?
Lão Khương đáp :
– Tôi chỗ nào cũng tìm rồi, không những tìm không được đại thiếu gia, cả Thượng Quan tam gia cũng biến mất không thấy bóng dáng đâu hết.
Thiên Thiên cũng có chút khẩn trương.
Lão Khương đã theo phụ thân nàng bốn chục năm, đối với một gốc cây một ngọn cỏ trong Hòa Phong sơn trang, lão đều rõ như lòng bàn tay.
Nếu quả cả lão cũng tìm không được, còn có ai tìm được?
Triệu Vô Kỵ chợt nói :
– Để tôi đi tìm.
Lão Khương hỏi :
– Ngươi biết ông ta đang ở đâu?
Triệu Vô Kỵ cười :
– Chỗ đó chỉ có tôi biết, để tôi đi tìm cho ông.
Chàng cũng không lo là trên người mình đã mặt áo tân lang, vừa nhún người một cái đã xông ra ngoài.
Lão Khương nhìn chàng, lắc đầu thở dài :
– Tính khí của tiểu thiếu gia thật giống hệt đại thiếu gia lúc trẻ.
Lão tuy thở dài, trong ánh mắt lại tràn đầy vẻ hân hoan.
Đại thiếu gia của lão cả đời chưa từng làm chuyện hại người, hiện nay tất có thiện báo.
Có thể chứng kiến tiểu thiếu gia trưởng thành cưới vợ, cuộc đời ông ta không có gì để hối hận nữa.
Lão chỉ hy vọng tiểu thiếu gia có thể mau chóng tìm ra đại thiếu gia của lão, mau chóng đi bái thiên địa, vào động phòng, để cho lão lại thở ì ạch đi tìm lão đầu bếp uống vài chén thống thống khoái khoái.
Thiên Thiên lại có chút không tin tưởng cho lắm :
– Tôi không tin ở đây còn có nơi mà cả bọn ta cũng không biết đến.
Lão Khương thốt :
– Có những nơi bọn ta vốn không nên biết.
Thiên Thiên hỏi :
– Tại sao?
Lão Khương đáp :
– Bởi vì đó nhất định là trọng địa cơ mật mà đại thiếu gia xử lý công sự, đại thiếu gia luôn luôn công tư phân minh, đương nhiên không thể để cho bọn ta biết.
Thiên Thiên hỏi :
– Vậy tại sao Triệu Vô Kỵ biết được?
Lão Khương đáp :
– Tiểu thiếu gia là truyền nhân của đại thiếu gia, tương lai sau khi đại thiếu gia thoái hưu sẽ kế thừa sự nghiệp của ông ta, những chuyện đó ông ta đương nhiên nên để cho tiểu thiếu gia biết.
Thiên Thiên càng không tin :
– Tại sao chỉ có ca ca của ta mới có thể biết? Ta lẽ nào không phải là con ruột của ông ta?
Lão Khương đáp :
– Ngươi? Ngươi là con gái.
Thiên Thiên hỏi :
– Con gái thì sao?
Lão Khương đáp :
– Con gái phải xuất giá, sau khi xuất giá là người của nhà người khác.
Lời nói của lão là lời nói thật, lão luôn luôn nói thật.
Thiên Thiên muốn bác lão mà không có cách nào bác, chỉ còn nước trừng mắt nhìn lão :
– Tôi không cưới chồng xem ông làm sao.
Lão Khương cười :
– Ta làm sao? Ta có thể làm gì chứ?
Lao nhíu mày, lại nói :
– Chỉ sợ đến lúc đó, người khác cho dù có muốn ngươi không xuất giá cũng không được.
* * * * *
[Ngày lành hoàng đạo]
Tổ chức Đại Phong đường vừa nghiêm mật, vừa bao la, thế lực của Đại Phong đường không những trải đều khắp Trung Nguyên, mà còn vói xa tới tận quan ngoại.
Đại Phong đường có thể có ngày nay, ngoại trừ nhờ vào hùng tâm khí phách khó ai bì kịp của “Long Quyển Phong Thần” Vân Phi Dương ra, cũng còn vì lão còn có ba hảo bằng hữu một mực cùng lão đồng sinh tử cộng hoạn nạn, cùng lão sát vai tác chiến, thủy chung không chia cách.
Ba người đó là Tư Không Hiểu Phong, Triệu Giản, và Thượng Quan Nhẫn.
Bọn họ dùng máu và mồ hôi sáng lập nên Đại Phong đường, thắng lợi và quang vinh đương nhiên cũng nên chia sẻ cho bọn họ cùng hưởng.
Từ khi Vân Phi Dương lão gia tử tuyên bố bế quan năm năm, khổ luyện một thứ kiếm pháp tuyệt đại vô song, quyền đảm trách Đại Phong đường đã hoàn toàn đè lên vai bọn họ.
Bọn họ vốn là sinh tử chi giao, không những có thể cộng hoạn nạn, cũng có thể cộng phú quý.
Cho nên giữa bọn họ chưa từng có chuyện tranh quyền đoạt lợi xảy ra, chỉ một lòng đối ngoại, phù nhược sừ cường.
Nhưng tính khí và tính cách của ba người bọn họ lại tuyệt đối là ba điển hình bất đồng.
Tư Không Hiểu Phong lớn tuổi nhất, tính khí ôn hòa nhất, là “trí giả” hữu danh trong giang hồ.
Lão bình sinh không chịu tranh đo với người ta, càng không thích giết người đổ máu.
Lão nghĩ vô luận là chuyện gì đều có thể dùng trí tuệ của con người để giải quyết, căn bản không cần động đến đao kiếm.
Cho nên người trong giang hồ lén đặt cho lão một ngoại hiệu khó nghe, gọi lão là “Tư Không Bà Bà”!
Đệ tử môn hạ của Đại Phong đường đối với lão thập phần tôn kính, tâm lại tịnh không nhất định thật sự bội phục.
Đám thiếu niên nhiệt tình huyết khí phương cương luôn luôn nghĩ chuyện lão làm khó tránh khỏi có điểm hư ngụy, có điểm yếu nhược.
Bọn họ tràn trề hùng chí, lại không thể thi triển ra.
Bởi vì Tư Không Hiểu Phong đã sớm quyết định phương châm cho bọn họ đối phó Phích Lịch đường.
“Người không phạm ta, ta không phạm người”.
Chưa đến lúc tất yếu, tuyệt không xuất thủ.
Đệ tử môn hạ của Đại Phong đường nếu xâm nhập vào địa giới của Phích Lịch đường, giết không tha!
Thượng Quan Nhẫn là tượng vàng vô luận gặp chuyện gì cũng đều “ngậm kín miệng”.
Cả những người thân tín đã theo lão nhiều năm cũng đều rất khó nghe được lão mở miệng nói một câu.
Lão thủy chung nghĩ mỗi người đều có quyền bảo vệ chuyện riêng tư, tuyệt không cho phép bất cứ một ai hỏi chuyện riêng tư của lão.
Cư thất của lão luôn luôn cấm vệ sâm nghiêm, chưa từng có ai dám vọng nhập một bước.
Lão cũng giống như Triệu Giản, vợ đã quá cố, con gái duy nhất lại đưa đến nơi xa.
Hiện tại lão không những không có thân nhân, thậm chí cả bằng hữu cũng không có bao nhiêu người.
Sự cô tịch và cao ngạo của lão, thiên hạ đều biết, căn bản không có ai có thể tiếp cận lão.
Cho nên ba người bọn họ, được đám đệ tử ưu ái nhất là Triệu Giản.
Triệu Giản thời thiếu niên quất ngựa xông pha giang hồ, ân thù vạch định phân minh, giữa đường bạt kiếm, máu phún năm bước.
Tính khí của lão lúc về già tuy đã dần dần bình tịnh hòa hoãn, lại vẫn là người trung kiên tính tình quang minh lỗi lạc.
Một khi mình thật là bằng hữu của lão, cho dù có muốn lão cắt đầu lâu xuống giao cho mình, lão cũng không nhíu mày.
Thứ người đó chính là anh hùng điển hình trong tâm mục của đám thiếu niên.
Mọi người không những tôn kính bội phục lão, hơn nữa thật tâm yêu thích lão, hôm nay là ngày đại hỷ của con trai duy nhất của lão, mọi người đương nhiên đều muốn đến uống một chén rượu mừng với lão.
Cả Vân lão gia tử đã bế quan hai năm trên đỉnh núi Thanh Thạch cũng đặc biệt phái người đem quà lễ đến mừng.
Mọi ngươi đang đợi xem phong thái của tân lang, càng muốn xem tân nương tử vừa hiền tuệ vừa mỹ lệ.
Triệu Vô Kỵ vừa xuất hiện, mọi người đã vây quanh.
Tuy chàng tịnh còn chưa bước ra tới đại sảnh, nhưng trong hậu viên cũng có người, đâu đâu cũng đầy người.
Mọi người nhìn thấy tân lang mặt cát phục còn chưa bái thiên bái địa đã chạy loạn ra, đều cảm thấy vừa kinh ngạc, vừa cao hứng, tuyệt không có một ai nghĩ là chàng thất lễ.
Công tử của Triệu nhị gia vốn nên là một nam tử hán không câu nệ tiểu tiết, hào sảng phóng khoáng.
Triệu Vô Kỵ chừng như không dễ gì thoát khỏi vòng vây của bọn họ, xuyên qua một cánh rừng đào hoa trong hậu viên, bước qua một con đường nhỏ uốn khúc, đã đến một tiểu viện bao bọc trúc xanh.
Gió lùa lá trúc xào xạc, tiếng cười nói bên ngoài không lọt được vào đây.
Trong tiểu viện có mái hiên năm gian, ba sáng hai tối, chính là nơi tĩnh tại đọc sách của chủ nhân Hòa Phong sơn trang.
Lão Khương đương nhiên biết nơi này, đương nhiên đã tìm đến.
Lão không tìm ra đại thiếu gia của lão chỉ vì ở đó vốn không có người, sau sau trước trước đều không có ai hết.
Nhưng Triệu Vô Kỵ tịnh không cảm thấy thất vọng, bởi vì chàng biết bí mật của địa phương này. Chỉ có chàng biết.
Gian nhã thất ở mặt sau mới là thư trai của Triệu Giản, bốn mặt đều có kệ sách, bước vào là như lọt vào một thành trì sách vở.
Nhưng ở đó cũng không có người.
Triệu Vô Kỵ bước dài vào trong, xác định ở đó không có ai, không những không khẩn trương, trái lại càng yên tâm.
Bởi vì chỉ có chàng biết cái kệ sách bên vách trái còn có một bí mật, đó mới là trọng địa cơ mật nơi phụ thân chàng xử lý sự vụ của Đại Phong đường.
Chàng tin rằng phụ thân chàng nhất định đang ở trong đó, rất có thể đang cùng Thượng Quan tam gia thương nghị đại sự cơ mật gì đó.
Chàng tịnh không trực tiếp tiến vào, chỉ dùng một cái chặn giấy bằng làm đồng xanh gõ nhẹ ba tiếng lên xà gỗ.
Chàng gõ ba lần đều không có phản ứng gì.
Lúc đó chàng mới bắt đầu có chút khẩn trương, dụng lực đẩy kệ sách, kệ sách hé mở một đường, chàng xông thẳng vào.
Phụ thân chàng quả nhiên đang trong mật thất, trên người còn đang vận trường bào màu tím đặc biệt đặt may để mặc trong ngày vui của con trai lão, trong tay còn đang cầm một hộp thúy ngọc đựng thuốc lá mà bình thời lão không thể nào buông cất.
Nhưng đầu lâu của lão đã biến mất.
Triệu Vô Kỵ quỵ xuống, không khóc rống, cũng không rơi lệ.
Trong mắt chàng không có lệ, chỉ có máu!
Một cơn gió từ bên ngoài thổi vào, thổi bay hai tờ lịch, chừng như bị một bàn tay vô hình bóc lật, lật đến trang thứ ba, trên mặt viết rõ ràng :
“Hai mươi bảy tháng ba, đại cát, nên cưới hỏi”.
Ngày đó quả thật là ngày nên làm mọi sự, là ngày lành hoàng đạo đại cát đại lợi.