Hứa chân nhân cứu giao long cái, mở một miệng giếng ở dưới chân núi Thành Hoàng để đưa một tia sáng mặt trời xuống bên dưới. Ông lại đem một nguồn nước vào hang động cho giao long cái có chỗ dung thân, lại hứa hẹn rằng chừng nào nó tu thành đại đạo tự nhiên sẽ có ánh sáng rực rỡ phát hiện. Riêng dân chúng thành Hàng Châu tự nhiên được Hứa chân nhân mở cho một miệng giếng lớn, cung cấp nước dùng cho nhân dân cả một vùng, múc hoài không hết. Về sau, người ta ngoa truyền rằng giếng này là nơi mà Hứa chân nhân dùng để nhốt giao long cái. Lại đồn rằng hễ có ánh sáng rực rỡ, giao long cái sẽ xuất đầu lộ diện. Vì thế, dân chúng bảo nhau răn trừng, mỗi khi trời chạng vạng tối, không ai được đem đèn đuốc tới gần miệng giếng, để đề phòng giao long cái có thể thoát ra ngoài. Đó chẳng qua chỉ là những lời ngoa truyền, lừa gạt đàn bà, con trẻ, chứ Hứa chân nhân đã hứa cho giao long cái ba ngàn năm tu thành đại đạo, đến nay còn phải đợi hơn hai ngàn năm nữa, mới tới kỳ hẹn đó, làm sao có thể xảy ra chuyện bất trắc được chứ ? Sự thật thế nào, kẻ làm sách này cũng không thể thăm dò được, đành bỏ qua một bên.
Đây đề cập tới một người, mà những hồi trước đã nhắc tới. Đó là phí Trường Phòng, học trò của Vương Nhất Chi. Trường Phòng được Nhất Chi truyền thụ cho tất cả kỹ năng của mình, lại khắc khổ dụng công, học có phương pháp, nên tài năng có phần vượt trội hơn thầy. Sau khi Vương Nhất Chi qua đời, chức vụ trị quỉ lại trao cho Trường Phòng đảm nhiệm. Chức vụ này không cao, lại hàng ngày gần gũi với ma quỉ, âm khí nặng nề. Cũng vì xử trị đám quỉ dữ, không tránh khỏi nhiều lần gây thù kết oán với ma quỉ.
Lúc Vương Nhất Chi còn tại thế, ông ta cũng không ưa công việc dễ gây thù kết oán này. Kết cuộc mắc phải đại họa, nhưng được chết toàn thây, lại tránh khỏi sa vào địa ngục, là may lắm rồi.
Được Thiết Quài tiên sinh đề bạt, Phí Trường Phòng tiếp nhận chức vụ của thầy, cũng không ham muốn công việc vất vả mà nguy hiểm này. Anh ta tuổi còn trẻ, chí hướng cực cao, đã nhập Đạo môn, lẽ nào là không hy vọng đạt tới địa vị thiên tiên ?
Gương thầy còn rành rành ra đó, chỉ vì một lúc sơ suất, mà kết quả là mắc đại họa, chết bất đắc kỳ tử. Điều đó cho thấy chức vụ này chẳng vừa ý anh ta chút nào. Chỉ vì mệnh trời khó tránh, miễn cưỡng phải tuân chỉ đó thôi. Vì thế, anh ta lập chí tinh tiến, không dám lơ là công việc một giây phút nào, để đợi kỳ siêu thăng thiên giới. Nào ngờ có Văn Mỹ chân nhân đi qua chốn này, nghe nói có người chăm lo việc tu đạo rất thành khẩn, mới báo tin cho đệ tử là Trương Quả, bảo Trương Quả hãy tới thăm dò, thử thách Phí Trường Phòng, coi thử anh này có phúc phận thành tiên hay không.
Trương Quả tuân lệnh thầy, tới thăm Phí Trường Phòng. Giữa đường lại gặp Lam Thái Hòa cùng Hà tiên cô, đang rủ nhau đi rong chơi. Ba người gặp nhau cùng chuyện trò thăm hỏi, Trương Quả mới rủ hai người cùng đi một chuyến. Hai vị tiên liền vui vẻ nhận lời, cùng Trương Quả cưỡi mây bay đi.
Ba người tới địa giới Lạc Dương, là nơi trú ngụ của Phí Trường Phòng. Lựa một bãi đất trống, họ hạ đám mây xuống thấp, rồi biến đổi thành ba vị đạo nhân bình thường, tìm tới nhà của Trường Phòng, xin ra mắt. Trường Phòng đang lúc chuyên tâm học đạo, nghe có đồng đạo cầu kiến, tự nhiên là rất hoan hỉ, vội chỉnh đốn lại quần áo, ra ngoài nghênh tiếp, mời vào trong nhà, thi lễ rồi ngồi xuống. Trường Phòng hỏi thăm tên họ, ba vị tiên không muốn chường mặt cho biết, bịa đặt một tên gọi khác để đáp lại, và nói:
– Chúng tôi từ Lĩnh Nam tới đây. Nghe tiên sinh đạo hạnh uyên thâm, thống suất các quỉ hồn trong thiên hạ, quả là một kẻ sĩ tài trí, đạo đức, nên chúng tôi mạo muội tới đây bái yết.
Nguyên Phí Trường Phòng giữ chức vụ thấp hèn, bản thân lại cao ngạo, tự kiêu, bình sinh rất ghét những ai nói tới việc anh ta trị quỉ, cho rằng người đó có ý lăng nhục mình. Rõ ràng là người đó đã coi anh ta không đủ tư cách để tu tiên, học đạo. Bạn bè biết tính khí anh ta như vậy, tuy biết rõ bản thân anh là quỉ sư, nhưng cũng phái né tránh, không bao giờ dám nhắc tới chữ “Quỉ” trước mặt anh ta. Không dè hôm nay có ba người khách không mời mà tới, vừa mở miệng nói câu đầu tiên đã nhắc ngay tới việc “trị quỉ”.
Trường phòng vừa nghe câu nói đó, liền đỏ rần hai má, không biết đường nào mà trả lời. Nhưng người ta là khách phương xa tìm tới, lần đầu tiên tới chơi nhà mình, Trường Phòng cũng không thể gây sự, đành nín khe. Ba vị tiên đều không thông hiểu việc đời, chẳng nhìn nét mặt cau có để hiểu rằng Trường Phòng bất mãn, cứ đem chuyện trị quỉ mà bàn tới bàn lui. Lại hỏi anh ta tình hình trị quỉ ra sao ? Bình thời đã thấy những loại quỉ dữ như thế nào ? Còn nhắc cả tới chuyện của thầy anh ta là Vương Nhất Chi, nói ông này hồ đồ, không biết chọn bạn mà chơi, cả tin vào người bạn xấu mà làm việc phạm pháp, mang lấy họa sát thân. Trường Phòng thực tình không chịu đựng nổi nữa, nhưng lại không thể đắc tội với khách phương xa, đành giữ thái độ thờ ơ. Mấy người kia hỏi ba, bốn câu, anh mới trả lời nhát gừng nửa câu. Ba người kia vẫn không hiểu ý, cứ tiếp tục bàn bạc lăng xăng, khiến Trường Phòng nghi ngờ. Ba vị khách quí này chẳng phải viễn khách, mộ danh tiếng mình mà lặn lội tới thăm. Nhất định họ đã có điều hiềm khích gì với ta từ trước, không chừng họ là kẻ thù của thầy ta trước đây, nay biết lão nhân gia đã qua đời, nên tới tìm ta để gây chuyện cũng nên. Trường Phòng đang tuổi niên thiếu, nóng tính, không thể để cho người khác lấn lướt như thế, mới đứng dậy, hướng về phía ba vị khách, chắp tay vái một vái, lên tiếng :
– Xin lỗi ba vị, kẻ hèn này phụng chỉ biện lý việc quỉ, thứ nhất là để tiếp nối công việc dở dang của tiên sư, sau nữa vì nhàn rỗi, lạm dự công việc để giúp đỡ dân địa phương một phần nào. Chẳng dám chê quan nhỏ, chức thấp, nhưng thật tình chí nguyện của tôi không đặt ở đây. Đáng tiếc rằng chúng ta là chỗ sơ giao, hai bên chẳng có quan hệ gì sâu đậm, mà từ nãy đến giờ ba vị chỉ nói tới chuyện quỉ mà thôi. Kẻ hèn này chẳng dám nghi ngờ ba vị từng có mối qua lại với đám quỉ dữ, cũng không dám tin rằng ba vị nhận lệnh của người nào đó, tới đây để điều tra về chức vụ của tôi. Kẻ hèn này bình sinh vốn hiếu khách, gặp kẻ sĩ đồng đạo lại càng hoan nghênh, không dè hôm nay gặp được ba vị đạo trưởng, nghe những lời bàn bạc, khiến tôi rất thất vọng. Cứ tưởng các vị có điều gì hay để chỉ giáo, không ngờ ba vị chẳng bàn tới chuyện người, chỉ nói tới chuyện quỉ, khiến tôi chẳng hiểu ý ba vị ra sao, dám xin ba vị nói rõ cho biết, có được không ?
Ba vị tiên nghe nói, nhìn nhau cười ngất, cùng nói :
– Tiên sinh quả là một kỳ sĩ nóng tính trong thiên hạ. Chí nguyện của người đời nay, nếu không làm quan chốn dương gian, thì cũng làm lại nơi âm tào, địa phủ, cùng tốt như nhau. Tiên sinh đảm nhiệm chức vụ quan trọng hiện nay, chẳng lẽ còn có điều bất mãn ? Thế mới biết người đời hoài bão lớn nhỏ, chí hướng cao thấp, chẳng ai giống ai. Nhưng không hiểu chí tiên sinh cao tới bậc nào, nhắm tới sự nghiệp lớn tới đâu, có thể cho nghe được không ?
Trường Phòng đáp giọng lạnh tanh :
– Mỗi người một chí hướng, chẳng ai giống ai. Chúng ta là chỗ bèo nước gặp nhau, chẳng có quan hệ gì, tôi đã không mất thời giờ hỏi lai lịch ba vị, ba vị lại đòi biết chí hướng của tôi, há chẳng phải nhiều chuyện hay sao ?
Trương Quả thấy Trường Phòng giận dữ thật sự, vội cười, nói :
– Chúng tôi thật không biết tiên sinh giữ chức vụ này lại miễn cưỡng như thế. Chắc hẳn chí nguyện của tiên sinh đặt ở chỗ cao hơn địa vị hiện thời gấp bội. Chúng tôi không biết trước, nên đã lỡ lời nói năng đường đột, xin tiên sinh tha thứ. Vừa rồi chúng tôi hỏi chí của tiên sinh, cũng chỉ vì ngưỡng mộ khí tiết, muốn kết giao cùng tiên sinh. Dè đâu một người đức độ như tiên sinh, vừa nghe mấy lời nhỏ nhặt, chẳng quan trọng gì, đã vội nổi cơn thịnh nộ. Người có khí lượng hẹp hòi như thế, e rằng chỉ có thể biện lý việc cõi âm, sung chức quỉ lại, còn chuyện thần tiên đại đạo, chắc là không thích hợp. Giả sử tiên sinh đặt chí ở việc tu tiên, hoặc là các việc thần tiên đại loại, thì với khí độ đó, dường như tiên sinh không học nổi đâu, mong ông xét lại.
Trường Phòng nghe vậy, vội nói :
– Ba vị tới đây, chỉ nói một lời đã giúp ích cho tôi rất nhiều, tôi xin vái nhận. Chẳng giấu gì ba vị, tôi sinh ra đã gặp vận số long đong. Lúc bé mồ côi, không từng được nghe những lời giáo huấn, sau này theo tiên sư Vương Nhất Chi, học được phép bùa chú, chẳng liên quan gì tới đại đạo. Lúc tiên sư còn tại thế, tôi đã có ý bỏ nhà đi vân du, phỏng cầu danh sư. Sau rồi lại phụng mệnh, kế thừa chức vụ của thầy, không dám lơ là với chức trách, nên chẳng có thời giờ mà nghĩ tới việc chuyên tinh huyền lý, vì thế lòng thường buồn bực. Không dè, ba vị từ xa tới, không đem chính đạo giúp đỡ nhau, trái lại còn đề cặp những điều mà tôi thường ấm ức trong lòng, nói hoài nói hủy, lại nói giọng chê bai, giễu cợt nữa. Đối với ba vị, đó là những lời nói vô tâm, đối với tôi lại là những điều đáng thất vọng, bất giác biểu hiện thái độ bất mãn. Nguyên nhân chính là như thế.
Ba vị tiên nghe nói, lại đưa mắt nhìn nhau, gật gù mấy cái, cùng nói : – “Thằng bé này dạy dỗ được đây !”, rồi đưa mắt cho nhau, cùng nhảy vọt lên. Chân họ vừa rời khỏi mặt đất, cả gian nhà bỗng hiện ra mây lành ngũ sắc, ba người cùng bay lên trời, để lại hương thơm ngào ngạt khắp căn phòng. Trường Phòng kinh hãi, vội dập đầu vái, thì ba vị đã ở trên đám mây nhìn xuống, cất tiếng cười ha hả. Trường Phòng quì lạy tận đất, hô to :
– Thưa ba vị tiên sư, vừa rồi đệ tử có mắt không tròng, nói năng bừa bãi, xin ba vị niệm tình đệ tử thành tâm mà tha thứ, thu nhận đệ tử vào môn hạ, giúp đệ tử sớm thoát khỏi bể khổ, thì ơn đức ấy đệ tử suốt đời ghi nhớ.
Trương Quả ở trên mây, phất tay một cái, bảo Trường Phòng đứng dậy, rồi đem lai lịch của ba người nói rõ cho biết, bảo anh ta nếu có thành tâm, nội trong ba ngày hãy lên đỉnh núi Bạch Vân ở phía Tây thành, tìm tới một tòa miếu cổ, sẽ thấy ba người ở đó, truyền diệu đạo cho. Câu nói vừa dứt, mây ngũ sắc tan đi, ba người biến mất.
Trường Phòng lạy xong, vào nhà trong. Số là vợ anh ta mất sớm, gần đây anh nối duyên với một cô gái, con nhà đại gia, tài mạo song toàn, vợ chồng rất thương yêu nhau. Thấy mặt chồng, cô ta liền hỏi :
Hôm nay có những ai tới thăm, mà bàn luận lâu lắt đến tận giờ này ?
– Nói để phu nhân mừng cho ta. Ta bình sinh không ham phú quí chỉ chuyên cầu tiên, hỏi đạo, chẳng dè hôm nay quả có ba vị thần tiên, thương ta thành tâm, đặc biệt tới chỉ giáo. Các ngài còn bảo ta ngày mai lên đỉnh núi Bạch Vân gặp mặt, các ngài sẽ truyền thụ đại đạo…
Bà vợ không đợi nghe hết câu, chu cái mỏ, nói :
– Quan nhân đúng là mắc chứng khùng điên. Ai chẳng biết trên núi Bạch Vân có rất nhiều hổ báo, mỗi năm ăn thịt người không ít. Ông tuy có chút pháp thuật, nhưng chỉ đủ đối phó với người ta, chứ gặp phải dã thú không thông tính linh, cũng đành bó tay. Tội gì mà phải mạo hiểm, chỉ vì những chuyện viển vông như thế ?
Trường Phòng lắc đầu .
– Ta có phép rút đất, chỉ nhảy một cái là lên tới đỉnh núi, mãnh thú cũng chẳng đuổi kịp Người tu đạo mà còn sợ điều này, ngại điều kia, làm sao tỏ được thành tâm, thành ý ?
– Chúng ta sống trên chốn phàm trần mà được thế này là tốt lắm rồi, hà tất phải cầu tu đạo nào nữa ?
Phu nhân khuyên giải đôi ba phen, Trường Phòng vẫn khăng khăng không nghe, lại nghĩ thầm : “người tiên dặn bảo ta đi lần này, chỉ ra một địa phương nguy hiểm, đa phần là muốn thăm dò xem ta có thành tâm hay không ? Nếu ta dùng phép rút đất, nhảy một cái là tới nơi ngay, sao tránh khỏi người tiên chê cười ta múa búa qua cửa Lỗ Ban ?”. Vì thế, anh ta giấu vợ, âm thầm dự bị lương khô, sáng sớm ngày hôm sau len lén rời khỏi nhà, nhắm hướng Bạch Vân sơn tiến phát. Bà vợ cũng không kịp ngăn cản, đành âm thầm chờ đợi chồng về.
Núi Bạch Vân tuy ở gần miền, nhưng trước nay trên đó có nhiều mãnh thú, nên Trường Phòng cũng chưa lên núi lần nào. Đường đi lại quanh co, hiểm trở, hỏi thăm người địa phương nhiều lần, mới lên tới chân núi, lúc đó, trời đã về chiều. Nhìn thế núi, vô cùng hiểm trở. Tuy có lối đi nhỏ, nhưng quá chật hẹp, rất khó đặt chân. Cuối cùng, lên tới chỗ vách núi thì mồ hôi ra ướt đẫm, gân cốt mỏi rồi. Tuy vậy, cũng không dám ngừng lại nghĩ ngơi. Mặt trăng ló ra, thúc đẩy dũng khí, Trường Phòng tiếp tục leo lên cho đến lúc hai chân mềm nhũn toàn thân rã rượi, chịu không nổi nữa, ánh trăng lại lúc sáng lúc tối, khi trăng sáng còn có thể phân biệt lối đi, chứ khi mây đen che khuất, không còn nhận rõ đường đi nước bước, đành phải chọn một tảng đá, ngồi đợi sáng. Suốt một đêm, cũng từng nghe cọp gầm trên hang núi, mắt thấy ma núi hoành hành. Nhưng ma vốn sợ Trường Phòng, tự nhiên chẳng dám hại, riêng các loài hùm, sói, Trường Phòng không có cách nào chế ngự. Cũng may, anh biết phép rút đất, nếu mãnh thú xông tới tấn công, có thể đem ra sử dụng. Tuy nhiên, suốt một đêm đợi sáng, anh cũng không phải dùng tới lần nào.
Trời rạng sáng, Trường Phòng ăn lót dạ qua loa, rồi đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Nhìn lên trên, thấy đỉnh núi hiện ra thấp thoáng, trên đó lại thấy một tòa miếu cổ cũ kỹ, cho rằng các vị tiên sư ắt đang ở đó đợi ta. Lòng mừng khấp khởi, lập tức phấn chấn tinh thần, không buồn để ý gì tới đôi giày rách bươm vì leo núi ngày hôm qua, cũng không thấy gân cốt rã rượi nữa, có thể leo lên đỉnh núi dễ dàng. Lập tức đưa chân tiến bước. Lại vất vả leo một ngày trời mới lên tới nơi. Vừa ngừng chân, ngửng đầu nhìn lên, bất giác kêu khổ.