Chỉ nghe tiếng vó ngựa lộc cộc, té ra đó là hai kỵ binh Ngõa Thích đi tuần tra. Trương Đan Phong cười nói: “Đã có hai người này, tôi đảm bảo Trương đại ca sẽ về đến Bắc Kinh”.
Hai kỵ binh tuần tra thấy Trương Đan Phong và Vân Lối, đều ăn mặc kiểu võ quan Ngõa Thích, nhưng lại đi cùng võ quan người Hán, bất giác ngạc nhiên lắm, vội vàng chạy tới hỏi, Trương Đan Phong và Vân Lối rút soạt thanh kiếm, đến rơi binh khí trên tay hai người, kề kiếm vào cổ họ, Trương Đan Phong quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay chết?”
Hai người ấy nói: “Muốn sống!”
Trương Đan Phong lại nói: “Được, tiểu huynh đệ, kéo kẻ này ra một trăm bước, hỏi khẩu lệnh hôm nay của y!”
Vân Lối kéo người này ra đến một trăm bước, chỉ nghe Trương Đan Phong cao giọng nói: “Được, bây giờ hãy hỏi khẩu lệnh của chúng, nếu hai người bọn chúng nói không giống nhau chắc chắn là giả, đệõ có thể giết chết y.
Trương Đan Phong có nội công thâm hậu, đứng từ xa một trăm bước mà nói rất to, người bình thường thì dù có kêu gào cũng không nghe cho rõ được.
Trương Phong Phủ rất khâm phục, nghĩ thầm: “Trương Đan Phong quả nhiên suy nghĩ chu đáo, nếu không tách bọn chúng ra, chúng sẽ nói khẩu lệnh giả, chúng ta cũng khó phân biệt”.
Trương Đan Phong hỏi xong khẩu lệnh thì hỏi Vân Lối,Vân Lối nói: “Y nói khẩu lệnh hôm nay là Thường Nga”.
Té ra quân Ngõa Thích cũng biết đêm qua là tết Trung Thu của người Hán, cho nên lấy hai chữ Thường Nga làm khẩu lệnh. Trương Đan Phong cười lạnh: “Bọn chúng không nói dối”.
Vân Lối kéo người ấy trở lại, Trương Đan Phong lột áo ngoài của chúng, trói cả hai tên lên góc cây gần đó: “Các người chịu thiệt thòi một lát, sẽ có đồng bọn đến cứu”.
Thế rồi bảo Trương Phong phủ thay đồ, rồi lại cướp chiến mã phóng đi.
C Trương Phong Phủ hiểu rõ địa hình, cho nên chỉ đi bằng đường nhỏ, né tránh đại quân Ngõa Thích, tuy trên đường gặp không ít quân Ngõa Thích tra hỏi, nhưng vì nói đã được khẩu lệnh cho nên chẳng gặp chuyện gì. Trước khi mặt trời lặn cả ba người khi đến ngoại ô Bắc Kinh. Quân Ngõa Thích đã lập trại bày trận ở ngoại ô Bắc Kinh, hai quân đắp lũy đối địch nhau, ở giữa là một mảnh đất trống. Bọn ba người Trương Phong Phủ mạo hiểm phóng tới, quân Minh phóng tên ào ào, ba người vừa gạt tên vừa chạy thẳng tới. Tướng đánh ở vòng ngoài Bắc Kinh là Phó thống lĩnh Ngự lâm quân Dương Oai và Xa kỵ đô uý Phàn Tuấn, Dương Oai nhận ra Trương Phong Phủ ở phía trước nên lập tức hạ lệnh ngừng bắn tên, đón cả ba người vào trong trại.
Trương Đan Phong chưa kịp nghỉ ngơi đã lập tức hỏi: “Sĩ khí trong quân thế nào?”
Dương Oai thì thầm nói: “Có lời đồn bảo rằng Hoàng đế bị bắt làm tù binh ở thành Thổ Mộc, thật không dám dấu, lòng quân có hơi dao động”.
Trương Đan Phong nói: “Hoàng thượng bị bắt không phải là lời đồn. Ông hãy mau đưa chúng tôi vào thành, gặp mặt Vu đại nhân”.
Phàn Tuấn nói: “Ca ca của tôi thế nào?”
Ca ca của y là Phàn Trung, Trương Phong Phủ nhỏ nước mắt mà nói: “Ca ca của ông đã khảng khái hy sinh, mong ông có thể nối chí, giữ vững kinh đô”.
Thế rồi kể lại chuyện Phàn Trung vung chùy đánh Vương Chấn, chết mà cũng không cúi đầu, mọi người đều rất cảm động.
Dương Oai mời ba người vào trong thay đồ, rồi lập tức đưa họ vào thành. Dân trong thành túm năm tụm ba dò hỏi tin chiến sự, ai nấy điều lộ vẻ bi phẫn. Trương Đan Phong và Vân Lối vội vàng chạy đến nhà Vu Khiêm, lúc này đã canh ba nhưng nhà Vu Khiêm đèn đuốc vẫn sáng trưng.
Trương Đan Phong gõ cửa cầu kiến. Trong chốc lát cửa lớn đã mở quản gia ra báo: “Đại nhân đang ở trung đường, mời ngài vào bên trong”.
Trương Đan Phong bước lên bậc thềm, chỉ thấy Vu Khiêm một mình đi qua đi lại trong sảnh đường, Trương Đan Phong nói: “Vu đại nhân, chúng tôi đã trở về”.
Vu Khiêm nói: “Ồ, các người đã về đấy ư?”
Nhưng vẫn không ngừng bước. Vân Lối ngạc nhiên nghĩ bụng: “Vu Khiêm và Trương Đan Phong là bạn vong niên, coi chúng ta như con cháu, tại sao hôm nay gặp lại mà lại lạnh lẽ thế?”. Rồi buộc miệng nói: “Chúng tôi đã mang tấm địa đồ trở về, còn có cả bảo tàng của tổ tiên Trương đại ca”.
Vu Khiêm tỏ vẻ hơi mừng, nhưng lập tức rầu rĩ trở lại: “Thế ư? Chỉ e đã quá muộn”.
Thế rồi vẫn đi qua đi lại trong sảnh đường. Trương Đan Phong biết ông ta có chuyện quan trọng khó quyết định, chàng ngửa mắt nhìn lên tường, thấy chính giữa có bài thơ bảy chữ, thơ rằng: “Ngàn vạn nhát búa ra khỏi núi, lửa cháy phừng phừng chẳng sợ chi, thịt nát xương tan chẳng hề gì, phải để thanh bạch ở nhân gian!”
Đây là bài thơ Vịnh đá vôi, góc bên trái phía dưới có một hàng chữ nhỏ: “Ngày quân Ngõa Thích vây thành, chợt nhớ lại bài thơ cũ, cảm động nên ghi ở đây, Vu Khiêm tự đề”.
Trương Đan Phong chợt lớn giọng nói: “Vu đại nhân, đã thịt nát xương tan chẳng sợ chi, sao lại sợ những lời nghị luận của bọn tiểu nhân”.
Vu Khiêm ngửa mặt thở dài, nói: “Hiền điệt, chỉ có một mình ngươi là hiểu ý ta. Chuyện này rất quan trọng, thịt nát xương tan là chuyện nhỏ, chỉ e ta sẽ mang nỗi oan này suốt đời”.
Trương Đan Phong nói: “Nay Thiên tử đã bị bắt, đại nhân suy nghĩ cho giang sơn đại Minh thì cần phải quyết đoán, dù cho ngày sau Hoàng đế có giáng tội, thịt nát xương tan, nhưng đại nhân cũng giữ được sự thanh bạch ở nhân gian, muôn năm nghìn đời vẫn sáng danh trong sử xanh, có điều gì đáng sợ nữa?”
Vu Khiêm nghe thế thì như giải được mối gút trong lòng, vỗ áo nói: “Hiền điệt nói phải. Ngày mai ta sẽ lập vua mới, giết hết nghịch đảng, đích thân đấp chiến cửu môn!”
Té ra Vu Khiêm nhận được tin Hoàng đế bị bắt, đã liệu đến việc quân Ngõa Thích uy hiếp Thiên tử, giờ đây chỉ còn một cách là lập vua khác để tỏ ra quyết tâm chống lại kẻ địch. Nhưng mình không phải là người trong hoàng thất, nếu ra mặt lập Hoàng đế thì sẽ gánh vác tránh nhiệm nặng nề. Ông cũng đoán truớc sẽ bị bọn gian đảng và người trong hoàng thất chỉ trích.Vả lại ngày sao nếu Hoàng đế trở về mà không tha thứ, chắc chắn cũng sẽ chịu họa diệt tộc. Cho nên ông đã suy nghĩ một ngày một đêm mà vẫn chưa quyết định, nay Trương Đan Phong phân tích lợi hại, khảng khái khuyên nhủ, Vu Khiêm mới gạt tất cả sang một bên đễ lo cho việc nước.
Ngày hôm sau Vu Khiêm tập hợp các đại thần chính trực trong triều, quyết định cách đối địch, trước tiên là lập em trai của Chu Kỳ Trấn là Chu Kỳ Ngọc làm Hoàng đế, tức là Minh Đại Tông, tôn Chu Kỳ Trấn là Thái thượng hoàng. Sau đó hạ lệnh giết hết vây cánh của Vương Chấn.
Kỳ Ngọc nối ngôi, đặt niên hiệu là Cảnh Thái, nghe theo kế sách của Vu Khiêm, trong một ngày đã giết hết hơn ba trăm vây cánh của Vương Chấn trong triều, lập tức phong cho Vu Khiêm làm Binh bộ thượng thư, Đề đốc chiến cửu môn, quân tâm phấn chấn, dân khí đằng đằng, một cuộc chiến bảo vệ kinh đô đã diễn ra ở Bắc Kinh.
Dã Tiên bắt được Hoàng đế triều Minh Chu Kỳ Trấn, vốn tưởng rằng có thể dễ dàng lấy được Bắc Kinh, sớm chiếm được Trung Nguyên, nào ngờ Vu Khiêm lập vua mới kêu gọi nghĩa binh trong thiên hạ, dấy binh Cần vương, Dã Tiên vừa kinh vừa sợ, lập tức xua quân tấn công Bắc Kinh. Ngày mùng chín tháng mười phá Tử Kinh quan, ngày mười một quân tiên phong đã đánh vào Tây Trực môn, Chu Kỳ Ngọc đã muốn giảng hòa, Vu Khiêm cực lực chủ chiến, một cuộc chiến năm ngày năm đêm diễn ra ở Bắc Kinh, quân Ngõa Thích tuy đã phá được Chương Nghĩa môn, Đức Thắng môn, nhưng quân sĩ giữ thành một mực tử chiến, hàng triệu dân Bắc Kinh không phân biệt già trẻ lớn bé, đều lên thành trợ chiến, cung tên không đủ, dân dỡ nhà mình, lấy gạch đá ném kẻ địch, quân Ngõa Thích tuy mạnh mẽ nhưng cũng phải núng thế. Đến ngày thứ sáu, có vài cánh quân Cần vương cũng vừa về tới nơi. Ngọn cờ quân Minh phất phới bay trên thành Bắc Kinh. Trương Phong Phủ từ bên cầm Ngự lâm quân xông ra, liên tục chém ba tên mãnh tướng, Vu Khiêm hạ lệnh một tiếng, quân dân trong thành Bắc Kinh mở cửa xông ra đánh địch. Dã Tiên e rằng cứ dằng co mãi, quân Minh kéo ra hết, lúc đo chắc chắn trong ngoài sẽ bị tấn công, đường về cũng bị quân Minh chặt đứt, thế rồi cân nhắc tình thế cho nên hạ lệnh lui quân, ngày mười một tháng mười quân Ngõa Thích đánh vào Tây Trực môn, đến ngày mười bảy tháng mười thì lui binh, thương vong bảy tám vạn người.
Ngày mười tám, ngoài thành Bắc Kinh sạch bóng giặc, những cánh nghĩa quân, từ Thông Châu, Hà Nam nối đuôi kéo vào thành, những cánh nghĩa quân này chỉ có vài vạn người rất nhỏ bé so với binh lực của quân Ngõa Thích, không ngờ nhờ vào sĩ khí của quân dân Bắc Kinh, huy thế tấn công cả trong lẫn ngoài khiến cho quân Ngõa Thích phải bỏ chạy khiến cho ai cũng vui mừng. Vu Khiêm tiếp đón các cánh nghĩa quân, phát hiện một cánh quân đã đến từ Giang Tô xa xôi, chỉ có mấy trăm người. Té ra cánh nghĩa quân này vốn là do Vân Trọng tổ chức với nồng cốt là trang đinh của Đàm Đài trang chủ, vốn có hơn một ngàn người, nhưng sau kịch chiến cho nên thương vong quá nửa, Vân Trọng cũng thất lạc trong cuộc chiến, giờ đây cánh nghĩa quân do Thiết Tý Kim Viên Long Trấn Phương xuất lệnh. Họ không phụ lòng Trương Đan Phong, quả nhiên đã đem bảo tàng của Trương Sĩ Thành về đến Bắc Kinh không sót một món nào.
Vu Khiêm vội vàng mời Thiết Tý Kim Viên Long Trấn Phương và Tam Hoa Kiếm Huyền Linh Tử về nhà mình gặp Trương Đan Phong, Vân Lối, Vân Lối nghe ca ca mất tích, cả kinh thất sắc vội vàng hỏi tình hình. Thiết Tý Kim Viên nói: “Trong cuộc kịch chiến ngày hôm qua, Vân trạng nguyên bảo chúng tôi bảo vệ báu vật, mở một con đường máu, ông ta chặn hậu ở phía sau, chống kỵ binh cho chúng tôi, Đàm Đài cô nương suất lãnh hơn mười trang đinh yểm hộ ở bên cánh trái. Chúng tôi biết rõ nguy hiểm nhưng vì bảo vệ bảo tàng cũng nghe theo ý của y, Vân trạng nguyên và Đàm Đài cô nương bị quân Ngõa Thích chặn đánh, Vân trạng nguyên rất dũng mãnh, y sắp mở được một con đường máu, không ngờ nghe một tiếng tên bật lên, Đàm Đài cô nương trúng một mũi tên không xông ra được Vân trạng nguyên quay lại cứu nàng ta, thế là cả hai đều mất tích!”
Vân Lối nghe xong thì càng lo lắng hơn. Vu Khiêm nói: “May mà quân giặc đã lui, tôi sẽ lập tức sai người đến ngoại ô Bắc Kinh tìm kiếm”.
Vân Lối nghe xong thì hơi yên tâm, chỉ nghĩ đến ca ca trong lúc thiên quân vạn mã bao vây mà vẫn bảo vệ cho Đàm Đài Kính Minh, có thể thoát hiểm hay không vẫn cho biết, nhưng việc đã đến nước này cũng chỉ mong Vu Khiêm có thể tìm được ca ca cho mình.
Ngày hôm đó Vân Trọng quả nhiên nguy hiểm vô cùng, sau khi Đàm Đài Kính Minh trúng tên, Vân Trọng chạy đến lọt vào vòng vây. Vân Trọng múa tít thanh đao trên tay phải, nhốt Đàm Đài Kính Minh vào màn đao quang, tay trái vận công phu Kim Cương chưởng, kẻ địch nào đến sát người đều bị chàng đánh chết, trong lúc kịch chiến đã đánh chết mấy chục tên giặc, nhưng kẻ địch đông vô cùng, dần dần cảm thấy sức cùng lực kiệt.
Đang lúc nguy cấp, chợt nghe phía bên trận địch vang lên tiếng trống, tiếng tù và, kẻ địch đang bao vây bỗng dồn về phía trước.
Té ra quân dân trong thành đánh ra, Dã Tiên điều binh lên phía trước tăng viện, cho nên áp lực đối với Vân Trọng đương nhiên giảm nhẹ.
Vân Trọng không biết nguyên cớ này, vừa thấy như thế thì lập tức phóng ngựa chạy ra, bảo vệ cho Đàm Đài Kính Minh, nửa canh giờ sau thì đã chạy xa chiến trường. Vân Trọng thở phào, chợt thấy Đàm Đài Kính Minh mặt tái nhợt, Vân Trọng hỏi: “Sao thế?”
Đàm Đài Kính Minh nói: “Không sao cả!”
Nhưng nàng chợt buông dây cương, người lắt lư như muốn đổ xuống khỏi lưng ngựa, Vân Trọng mỉm cười, dịu dàng hỏi: “Đàm Đài muội tử, trước đây khi ta bị thương được muội cứu chữa, muội từng bảo ta không nên ngang ngạnh, muội có còn nhớ không?”
Nói xong thì phóng qua lưng ngựa của Đàm Đài Kính Minh, giật dây cương rồi đỡ lấy Đàm Đài Kính Minh nói: “Đàm Đài muội tử, muội nghỉ ngơi một lát, chúng ta tìm nhà dân nấp vài ngày, rồi chúng ta lại vào kinh”.
Đàm Đài Kính Minh vốn chẳng có tình cảm gì với Vân Trọng, nhưng thấy chàng dịu dàng tử tế nên cũng dần dần cảm động.
Làng mạc gần chiến trường, tiêu điều chẳng còn bóng người. Vân Trọng lo lắng trong lòng, chợt thấy ở ngôi làng phía trước có một tòa nhà to lớn vẫn còn nguyên vẹn, mừng rỡ nói: “Trời không diệt được người, ở nơi này vẫn có người ở”.
Đàm Đài Kính Minh lắc đầu, nói: “Ngôi nhà đó e rằng chẳng có gì tốt lành, Vân huynh hãy cẩn thận”.
Vân Trọng nói: “Mặc kệ, có gì không tốt, muội hãy dưỡng thương trước đã”.
Thế rồi đỡ Đàm Đài Kính Minh xuống ngựa, đến gõ cửa, có người lớn tiếng hỏi: “Ai?”
Vân Trọng nghe giọng nói này rất quen thuộc, đáp rằng: “Tôi là nghĩa quân đến từ Giang Tô, xin nghỉ nhờ một lát!”
Cánh cửa mở kẹt ra, chỉ nghe người bên trong nói: “Té ra là Vân trạng nguyên”, giọng nói run run, tựa như vừa lo vừa mừng. Vân Trọng vừa nhìn thì thấy bên trong có hai người đứng sánh vai nhau, đó chính là Lộ Minh và Lộ Lượng.
Vân Trọng ngạc nhiên hỏi: “Hai vị sao lại ở đây?”
Lộ Minh nói: “Nửa tháng trước, tôi thấy quân giặc đánh vào, nên xin phép trở về hộ tống người nhà lánh nạn, không ngờ kẻ địch đến quá nhanh không trở về kinh được, cho nên tạm thời đành ở đây. Ồ, nữ anh hùng này cũng là nghĩa quân ư? Thật hiếm có, nàng ta đã bị thương? Hãy mau mau vào đây, chúng tôi có thuốc kim sang” Thế rồi dắt Vân Trọng vào trong hoa sảnh.
Lộ Minh nói: “Hai người hãy nghỉ ngơi, uống chén trà nóng trước”.
Thế rồi kêu người nhà dâng trà, Đàm Đài Kính Minh suy nghĩ rất chu đáo, thầm nhủ rằng: “Hai người này là võ sĩ trong cung, tại sao trong lúc kinh thành đang nguy cấp mà lại được phép về nhà? Vả lại nơi quân Ngõa Thích đi qua đều trở nên hoang tàn, tại sao nhà họ lại còn nguyên vẹn thế này?”
Rồi đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy trong sảnh có bày các loại binh khí thì càng nghi ngờ hơn. Lúc này Vân Trọng đã bưng chén trà, Đàm Đài Kính Minh vội vàng nháy mắt, Vân Trọng tựa như không hề biết, cứ kề chén trà lên môi, Đàm Đài Kính Minh lo lắng lắm, suýt nữa đã kêu lớn lên.
Chợt nghe bốp một tiếng, chén trà rơi xuống đất, Vân Trọng kêu lên: “Ối chao, không song, xin thứ cho tiểu đệ lở tay, xin hãy đổi một chén khác”.
Nói chưa xong thì đã thấy chén trà bốc khói, trong chén nào phải là trà, mà là chén độc dược! Thế là Vân Trọng đã xin nghi, chợt nghĩ lại Lộ Minh, Lộ Lượng là tâm phúc của Vương Chấn, Vân Trọng tuy chưa biết Vương Chấn bị Phàn Trung đánh chết như thế nào, nhưng thiên hạ ai cũng biết Vương Chấn là kẻ gian xảo, Đàm Đài Kính Minh không nháy mắt Vân Trọng cũng để ý.
Anh em nhà họ Lộ thấy âm mưu đã bại lộ, thế là quát lớn, tuốt ra binh khí bao vây Vân Trọng. Lộ Minh sử dụng một cây trường kiếm, Lộ Lượng sử dụng một cái thiết bài, thiết bài múa tít kêu lên vù vù, thanh trường kiếm cứ thập thò sau thiết bài, đánh vào ba mươi sáu đại huyệt của kẻ địch. Vân Trọng một tay thủ ở trước ngực, một tay cầm đơn đao nghênh địch, quát lớn: “Anh em nhà ngươi muốn tạo phản ư?”
Lộ Minh cười lớn: “Đúng thế, chính là tạo phản. Ngươi thật chẳng biết trời cao đất dày?”
Vân Trọng nói: “Sao?”
Lộ Lượng nói: “Ta hỏi ngươi đưa nghĩa quân vào vào kinh cung có phải là Cần vương hay không?”
Vân Trọng chém ra ba đao, chặn chiếc thiết bài lại và thanh trường kiếm, lớn giọng nói: “Điều đó đương nhiên!”
Lộ Lượng cười lớn bảo: “Hoàng đế của ngươi đã bị quân Ngõa Thích bắt làm tù binh. Lời xưa nói rấy hay, kẻ hiểu thời thế là bậc tuấn kiệt, ngươi hãy mau mau buông binh khí xuống đi theo bọn ta đầu hàng quân Ngõa Thích thì có thể giữ được công danh phú quý, bằng không ngươi là trạng nguyên của nhà Minh, dù ta không giết ngươi, ngươi cũng khó thoát!”
Vân Trọng phẫn nộ vô cùng, cố nén lửa giận trong lòng, cười lạnh nói: “Té ra hai vị là bậc tuấn kiệt hiểu thời thế, thất kính thất kính”.
Lộ Minh tưởng rằng Vân Trọng đã bị lay động, thế rồi bước lên hỏi: “Ý Vân huynh thế nào?”
Vân Trọng quát lớn: “Ta muốn lấy mạng chó của ngươi!”
Thế rồi chém mạnh một đao xuống, chỉ nghe soạt một tiếng, thanh trường kiếm của Lộ Minh gãy thành hai đoạn, Vân Trọng chém đao này rất mạnh, đà đao vẫn còn đánh keng một tiếng trên tấm thiết bài của Lộ Lượng, cả hai người đều cảm thấy hổ khẩu nóng rang.
Lộ Lượng tức giận nói: “Ngươi có bản lĩnh thế nào mà dám nói lời cuồng ngôn ấy!”
Thế rồi cổ tay xoay lại đẩy thiết bài ra, đánh một chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh. Hỗn Nguyên bài pháp của nhà họ Lộ chủ yếu là đánh bằng thiết bài, khí lực của Lộ Lượng hơn hẳn Lộ Minh, thiết bài đè xuống ít nhất cũng có đến ngàn cân!.
Vân Trọng xoay cổ tay, chuyển sóng đao qua, chém keng một tiếng lên cái thiết bài, nhát kiếm này mạnh hơn lúc nãy, chỉ thấy lửa bắn lên tung tóe, thiết bài của Lộ Lượng đã mẻ mất một miếng, đao của Vân Trọng cũng cong lại. Hai bên đều thất kinh, mỗi bên thoái lui ba bước, Lộ Minh bước lên tấn công tiếp, ánh hào quang lóe lên, đâm thẳng về phía Đàm Đài Kính Minh, nàng ta đã bị trúng tên cho nên đôi tay rất yếu ớt, chỉ đỡ hờ một kiếm thì loạng choạng suýt nữa ngã xuống. Vân Trọng gầm lớn một xoay đau chém nhanh tới, chiếc thiết bài của Lộ Lượng lại đã đẩy tới, Vân Trọng liên tục chém ba đao, đẩy anh em nhà họ Lộ lui mấy bước. Đàm Đài Kính Minh đã chạy sang một góc, kêu lên: “Vân đại ca, huynh cứ giết địch, đừng lo cho tôi”.
Vân Trọng vung đao xông lên quay trở lại. Lộ Minh cười lạnh: “Ngươi đúng là không đến Hoàng Hà không cam lòng, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, ta sẽ cho ngươi biết lợi hại, khai kiếm”.
Thanh kiếm như thập thò như độc xà nhả nộc ở phía sau tấm thiết bài, mũi kiếm toàn chĩa vào chỗ yếu hại trên người Vân Trọng.
Vân Trọng triển khai đao pháp Ngũ Hổ Đoạn Môn thành một màn ngân quang che khắp người, chốc chốc lại phát chưởng trong màn đao quang, hai bên đều có công có thủ, trong căn sảnh nhỏ hẹp, đôi bên đều né tránh khó khăn, hầu như mỗi chiêu đều phải chạm nhau.
Lộ Minh và Lộ Lượng cùng thi triển thiết bài và kiếm, phối hợp với nhau rất kín kẽ, lúc thì kiếm đánh theo bài, lúc thì bài che cho kiếm tấn công, trong công có thủ, đầu đuôi hô ứng lẫn nhau, đúng là kín kẽ như áo trời. Lúc trước Lộ Minh, Lộ Lượng đã từng tỷ võ với Trương Phong Phủ, Trương Phong Phủ cũng không chiếm được tiện nghi, võ công của Vân Trọng hơi kém hơn của Trương Phong Phủ, cho nên càng khó khăn hơn, lại thêm Vân Trọng vừa mới thoát khỏi trận chiến, khí lực đã giảm hết mấy phần, đấu được hơn một trăm chiêu thì dần dần đuối sức, mỗi chiêu số đánh ra đều bị kẻ địch kềm chế.
Thêm hai ba chiêu mươi nữa, thế công của anh em nhà họ Lộ càng mạnh hơn Lộ Minh cười rằng: “Vân Trọng nhà người còn chưa phục ư? Nếu buông đao chịu thua, ta sẽ tha chết cho ngươi”.
Vân Trọng cả giận nghiến răng, lại chém thêm mấy đao mữa, chỉ cảm thấy thiết bài của kẻ địch nặng như núi, áp lực càng lúc càng nặng, bắt đầu lo lắng: “Mình dù có chết cũng không chịu nhục!” Thế rồi định giơ ngang đao tự sát, nếu mình chết đi, Đàm Đài muội tử há chẳng phải lọt vào tay kẻ địch hay sao?”. Thế rồi liếc mắt nhìn qua chỉ thấy Đàm Đài Kính Minh mặt lộ vẻ lo lắng, cứ nhìn chăm chăm vào mình, trong ánh mắt đầy vẻ cảm kích, khích lệ, tin tưởng. Vân Trọng phấn chấn tinh thần, đột nhiên quát lớn một tiếng, quét ra một chưởng, chưởng này đã dồn hết khí lực toàn thân của chàng, thi triển chiêu số hiểm hóc nhất trong Đại Lực Kim Cang thủ. Chỉ nghe một tiếng bốp vang lên, phép chưởng đã vỗ trúng thiết bài, Lộ Lượng kêu lớn, chiếc thiết bài đã vuột khỏi tay, hổ khẩu tóe máu, một cánh tay đã tê rần không thể cử động được nữa.
Điều này gây bất ngờ cho anh em nhà họ Lộ, Vân Trọng đánh ra một chiêu đắc thủ, xông tới tựa như mãnh hổ, quát lớn một tiếng, lại quét thêm một chưởng nữa vào eo Lộ Minh. Lộ Minh cũng lanh lẹ, vội vàng né tránh, Vân Trọng chém xuống một chưởng, thế rồi xoay tay đoạt lấy kiếm của Lộ Minh.
Rắt một tiếng, thanh trường kiếm cũng gẫy đôi. Lộ Minh, Lộ Lượng đồng thời nhảy vọt ra, cả hai anh em đều cười lớn.
Vân Trọng ngẩn người định nhảy bổ ra chợt nghe Đàm Đài Kính Minh kêu lớn: “Không xong!”
Căn phòng đột nhiên xoay chuyển, chỉ trong chớp mắt trời đất tối sầm, rồi một tiếng ầm vang lên. Té ra căn hoa sảnh này có sắp đặt cơ quan, chỉ trong chốt lát căn phòng đã trở thành nhà ngục.
Vân Trọng vỗ ra một chưởng, chàng chỉ cảm thấy cánh tay như muốn gẫy, bức tường chẳng hề suy suyễn. Lộ Minh, Lộ Lượng ở cười lớn: “Nhà ngươi hãy bớt nóng nảy, cứ nghỉ ngơi trong vòng vài ngày, xin thứ bọn ta không thể tiếp đãi ngươi”. Ý muốn bảo để Vân Trọng đói vài ngày sau đó sẽ thu phục chàng. Vân Trọng tức tối nhưng cũng chẳng làm gì được.
Vốn là Lộ Minh, Lộ Lượng trong mấy ngày trước dã chạy thoát ra khỏi Bắc Kinh, lúc đó Vu Khiêm lặp vua mới, đang truy bắt bè đảng của Vương Chấn. Lộ Minh, Lộ Lượng thường ngày ra vào phủ của Vương Chấn, rất nhiều người biết chúng là tâm phúc của Vương Chấn, bọn chúng cũng rất nhanh nhạy, nghe có tin xấu, lập tức bỏ chạy, trước tiên lại về nhà sắp xếp, toan lập công lao để làm quà ra mắt quân Ngõa Thích, thế là Vân Trọng lại dẫn xác tới cho nên mới hạ độc thủ.
Vân Trọng sờ soạn trong bóng tối, Đàm Đài Kính Minh nói: “Tôi ở đây”.
Vân Trọng cẩn thận tiến sát qua, chỉ nghe Đàm Đài Kính Minh kêu ối chao một tiếng, té ra chàng đã đụng vào vết thương của nàng. Vân Trọng nói: “Đàm Đài cô nương, tôi chết không tiếc, nhưng hôm nay đã liên luỵ đến cô nương”.
Đàm Đài Kính Minh nghe chàng nói như thế thì cảm thấy bất an, cúi đầu thì thầm nói: “Không, chính là tôi liên lụy cho huynh, huynh cũng có thể chạy ra ngoài”.
Vân Trọng cảm thấy trong lòng rất ngọt ngào, nói: “Vết thương của cô nương thế nào rồi?”
Đàm Đài Kính Minh nói: “Dù sao chúng ta cũng chết, cứ mặc kệ nó?”
Vân Trọng nói: “Nhưng tôi không muốn thấy cô nương đau khổ!”
Trong phòng tối đen, ngoại trừ đôi mắt của Đàm Đài Kính Minh, Vân Trọng thật sự chẳng thấy gì. Đàm Đài Kính Minh trải qua hoạn nạn lại có thiện cảm hơn với Vân Trọng, nghe chàng nói như thế thì càng cảm động hơn, cuối đầu không nói. Vân Trọng nói: “Cô nương hãy cởi áo ra để tôi bôi thuốc”.
Thông thường những người biết võ đều mang theo thuốc kim sang, trị thương bên ngoài, Vân Trọng vừa nói vừa đưa tay ra, nói: “Cô nương hãy nắm lấy tay tôi, chỉ vào vết thương của cô nương”.
Đàm Đài Kính Minh nóng rang mặt, nhưng nghĩ lại trong phòng tối vén hết áo cũng chẳng hề gì, nàng vốn là người phóng khoáng, cho nên không đẩy tay Vân Trọng ra, mà cởi áo để cho chàng bôi thuốc.
Đàm Đài Kính Minh bị trúng tên ở trên vai, Vân Trọng sờ vào vết thương của nàng, cảm thấy một làn da trơn mịn, trong lòng dâng lên một cảm giác khó hình dung, chợt nghe Đàm Đài Kính Minh nói: “Vân huynh anh hùng trẻ tuổi, chết một cách không rõ ràng như thế này thật là đáng tiếc!”
Vân Trọng nói: “Hôm nay bảo tàng chắc chắn đã đưa về đến Bắc Kinh, tôi một lòng báo quốc, coi như đã làm một chút chuyện, chết cũng không có gì đáng tiếc”.
Đàm Đài Kính Minh xốn xang trong lòng, nhủ thầm: “Người này tuy cố chấp, lòng dạ cũng hơi hẹp hòi, nhưng cũng có chỗ đáng quý”.
Cả hai người ở trong phòng tối cũng không biết trải qua bao lâu, chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa hí, Vân Trọng nói: “Không xong. Kẻ địch đang bao vây Bắc Kinh, chắc chắn quân Ngõa Thích đã đến đây. Nếu bọn chúng bắt chúng ta giao cho Ngõa Thích, tôi thà tự sát còn hơn, cô nương hãy thứ lỗi tôi không chăm sóc”.
Đàm Đài Kính Minh cười nói: “Vân huynh chết, lẽ nào tôi còn sống một mình? Nếu tôi tham sống sợ chết làm sao đối mặt với Trương Đan Phong!”
Vân Trọng nghe xong, thấy mát lòng mát dạ, nhưng nghe nàng nhắc đến Trương Đan Phong thì lại khó chịu, nhủ thầm: “Té ra nàng coi Trương Đan Phong quan trọng hơn cả mình”.
Chỉ nghe tiếng vó ngựa càng lúc càng gần, tiếng trước cổng ngừng lại, một hồi sau thì nghe tiếng bước chân bước vào, Vân Trọng nắm chặt hai tay Đàm Đài Kính Minh, một hồi sau chợt nghe một giọng nói ồm ồm vang lên: “Ai bị nhốt trong đó?”
Vân Trọng giận mình ghé sát tai Đàm Đài Kính Minh nói nhỏ: “Đó là Đàm Đài Diệt Minh! Đệ nhất dũng sĩ ở Ngõa Thích”.
Đàm Đài Kính Minh nói: “Tôi cũng đã nghe được, y là đường huynh của tôi, tháng trước y đã từng đến Tô Châu, thăm Động Đình son trang”.
Vân Trọng vẫn chưa biết chuyện của nhà Đàm Đài, trong lòng lo lắng muôn phần, nghĩ thầm: “Đàm Đài Diệt Minh võ công cao cường, nếu bị y bắt thì tự sát cũng không xong”.
Chợt nghe Đàm Đài Kính Minh lại nói: “Đừng lên tiếng, có lẽ hôm nay chúng ta không mất mạng, Vân huynh hãy nghe họ nói gì?”
Chỉ nghe Lộ Minh đáp rằng: “Bẩm cáo Đàm Đài tướng quân, trong này có nhân vật phi thường!”
Đàm Đài Diệt Minh hỏi: “Là ai?”
Lộ Lượng nói: “Nói ra chắc tướng quân sẽ mừng, ở trong này chính là Võ trạng nguyên Vân Trọng, trước đây là Phó thống lĩnh Ngự lâm quân, lần trước tướng quân vào kinh, chắc đã từng gặp y, trong Ngự lâm quân y chỉ thua Trương Phong Phủ, ngoài ra người còn lại là một thiếu nữ nghe nói là nữ tướng nghĩa quân gì đó đến từ Giang Tô rất xinh đẹp! Chúng tôi vốn định bỏ đói bọn chúng vài ngày, sau đó sẽ trói bọn chúng đem dâng lên, tướng quân đến đây thật đúng lúc, hai người này cứ để mặc cho tướng quân xử lý”.
Đàm Đài Diệt Minh kêu ồ một tiếng: “Đến từ Giang Tô? Nàng ta họ gì?”
Lộ Minh nói: “Chúng tôi vẫn chưa kịp thẩm vấn, tướng quân thấy nếu thích thì cứ giữ nàng lại, chúng tôi không để lộ nữa câu trước mặt Thái sư”.
Thái sư ở đây chính là Dã Tiên, hai anh em nhà họ Lộ dâng Đàm Đài Kính Minh cho Đàm Đài Diệt Minh khiến cho nàng vừa cảm thấy buồn cười vừa tức giận.
Chỉ nghe Đàm Đài Diệt Minh nói: “Được, thả bọn chúng ra đây để cho ta xem thử”.
Đột nhiên căn phòng lại xoay chuyển, cửa sắt mở ra hết, Vân Trọng chưa kịp nhìn thấy gì thì Đàm Đài Diệt Minh đã hỏi: “Chính là bọn chúng ư?”
Lộ Minh nói: “Vâng, chính là bọn chúng. Tướng quân, có gì không phải?” Nói chưa dứt lời, chỉ nghe ầm một tiếng, Đàm Đài Diệt Minh ra tay nhanh như điện, một tay tóm lấy nhấc lấy hai em nhấc bổng bọn chúng lên, táng hai cái đầu vào nhau, cả hai chết không kịp kêu lên một tiếng.
Đàm Đài Kính Minh thấy thế liền chạy đến ôm Đàm Đài Diệt Minh: “Ca ca”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Ồ, muội đã bị thương, để ta xem, vẫn không sao. Lần này muội trải qua bao gian nan vừa rồi lại bị anh em nhà họ Lộ bắt nhốt. Song, người trẻ tuổi phải trải qua nhiều nguy hiểm mới cứng cỏi được”.
Vân Trọng đứng một bên, ngây người nhìn Đàm Đài Diệt Minh, nói không ra lời. Đàm Đài Diệt Minh nói: “Vân Trọng huynh, sao lại trùng hợp, chúng ta lại gặp mặt. Lần này huynh không cần liều mạng với tôi nữa”. Thế rồi mỉm cười hỏi: “Lần này đến Tô Châu, huynh có gặp Trương Đan Phong không?”
Vân Trọng nói: “Đã gặp”.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Hai nhà đã hóa giải mối thù hận chưa?”
Vân Trọng yên lặng không đáp, Đàm Đài Kính Minh lắc đầu.
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Đó chính là chuyện nhà của các người, tôi là người ngoài không tiện để ý tới. Chỉ là tôi nhờ huynh chuyển lời, lần này nếu vào kinh gặp Trương Đan Phong thì bảo y hãy yên lòng, Bắc Kinh đã được giải vây, quân Ngõa Thích có lẽ đã trở về”.
Đàm Đài Kính Minh vui mừng nói: “Ồ, thật không? Ca ca, Dã Tiên đã cho huynh biết ư?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Y không nói. Nhưng trong tình thế này thì phải lui binh. Ta muốn phụng lệnh y đến trấn thủ Nhạn Môn quan, y sợ các cánh nghĩa quân của Minh triều kéo đến, chặn đường rút lui cho nên mở ra chia một nửa quân ở Nhạn Môn quan đến tiếp ứng cho y, ta âm thầm thông báo cho Kim Đao trại chủ, bảo họ hãy đột kích Nhạn Môn quan trong ngày ta lên đường, hôm kia đã nhận được tin quân Ngõa Thích trấn thủ Nhạn Môn quan và kỵ binh tuần tra bên ngoài bị Kim Đao chạy chủ đánh thương vong quá nữa, Dã Tiên không ngờ rằng đó là do ta, chỉ nghĩ rằng vì ta rút khỏi Nhạn Môn quan cho nên binh lực mỏng manh mới thất bại. Chuyện này khiến cho lòng quân chấn động, lại thêm tình hình nước Ngõa Thích không yên. Ta thấy trong vòng nửa tháng y sẽ lui binh”.
Vân Trọng nghe thấy thì ngạc nhiên, y không ngờ Đàm Đài Diệt Minh lại làm như thế, Đàm Đài Kính Minh hỏi: “Chúa công giờ như thế nào?”.Ý nàng muốn hỏi Trương Tôn Châu, Vân Trọng nghe nhắc đến tên kẻ thù thì chột dạ. Đàm Đài Diệt Minh cười khổ sở rồi nói: “Mấy ngày nay chúa công rất khổ não, người lúc nào cũng muốn thu phục lại giang sơn đại Châu, nhưng lại không muốn để cho người Ngõa Thích chiếm Trung Hoa, lòng rất mâu thuẫn. Ta cũng không khuyên giải được”.
Đàm Đài Diệt Minh nhìn bóng mặt trời rồi nói: “Ta phụng lệnh Dã Tiên đến đưa Lộ Minh, Lộ Lượng trở về, nay chỉ đành báo lại y bị kẻ thù giết chết. Thời gian không còn sớm nữa, ta phải đi đây”.
Nói xong rồi bước ra khỏi nhà họ Lộ, vệ sĩ y mang theo đều canh gác bên ngoài cửa, đương nhiên cũng đi cùng y.
Vân Trọng và Đàm Đài Kính Minh đợi quân Ngõa Thích rút lui, vội vàng phóng ngựa lên kinh, Bắc Kinh đã được giải vây, mấy mươi dặm xung quanh không có bóng giặc, hai người chạy được hơn ba mươi dặm thì gặp quân Minh dắt vào kinh đô, hội ngộ với Trương Đan Phong, Vân Lối, Vân Lối vui mừng ra mặt. Trải qua trận chiến này, Vân Trọng đã bớt thù hận Trương Đan Phong mấy phần.
Nghĩa quân lần lượt kéo vào kinh, Vu Khiêm đổi báu vật của Trương Sĩ Thành làm ngân lượng phát lương cho quân, lại có được tấm địa đồ quân dụng, sĩ khí phấn chấn, thắng liên tiếp mấy trận, sau nửa tháng quân Ngõa Thích quả nhiên đã lui khỏi Nhạn Môn quan.
Một ngày nọ, Vu Khiêm gọi Trương Đan Phong và Vân Lối đến, nói: “Có một chuyện rất mạo hiểm, hiền điệt có chịu làm không?”
Trương Đan Phong nói: “Nếu đại nhân căn dặn, dù dầu sôi lửa bỏng cũng không từ”.
Vu Khiêm trầm ngâm một chốc rồi nói: “Đêm qua ta đã làm một bài thơ, hiền điệt hãy xem trước đã”.
Trương Đan Phong mở tờ giấy, trên có bài thơ thất luật, thơ rằng: “Lỗ bố tinh trì thượng ngọc kinh, tam biên khấu lỗ nhất thời bình, dân gian ngọc thạch huân nghiệp, thiên thượng ngân hà tẩy giáp binh. Hùng hổ hữu công hàm tiến thiếp, khuyển dương cô kế khả thâu sinh, tùng kiêm hải vũ công trần tịnh, diệu toán tấn tri xuất thánh minh”.
Lỗ bố chỉ những tướng sĩ đó lập công lao. Ý nghĩa đại khái của bài thơ là, giờ đây những tiến sĩ có chiến công đã được thăng chức, bọn gian tặc bán nước đã bị tiêu diệt, mong rằng biên giới yên tĩnh, bớt động can qua. Trương Đan Phong xem bài thơ thì ngâm rằng: “Dân gian ngọc thạch huân nghiệp thiên thượng ngân hà tẩy giáp binh. Thơ hay, tấm lòng của nhà thơ càng đáng quý hơn. Ý của đại nhân là muốn hòa hảo với Ngõa Thích?”
Đúng thế, thiên hạ không ngừng can qua nay chúng ta đánh thắng trận, giản hòa với họ, chẳng có gì thiệt thòi, Thái thượng hoàng giờ đây đang ở nước người, chúng ta hãy tìm cách rước ngài về
Trương Đan Phong giật mình, nghĩ thầm: “Té ra là ông ta muốn cứu Hoàng đế. Nhưng nay đã lập vua mới, Thái thượng hoàng trở về e rằng sẽ làm khó Vu Khiêm, lúc đó chẳng phải ông ta đã gặp họa hay sao?” Chỉ nghe Vu Khiêm nói: “Hiền điệt, ta đã quyết. Vinh nhục thành bại của riêng ta là chuyện nhỏ, vua của thiên triều không thể làm tù binh cho kẻ địch. Các người hãy dò hỏi tin tức hộ ta, sau này ta sẽ sai sứ thần đến giảng hòa, đón Thái thượng hoàng trở về. Hơn nữa dã tâm của Dã Tiên không nhỏ, chỉ e sau khi thất bại thì lại tấn công lần thứ hai”.
Trương Đan Phong nghĩ ngợi rồi sảng khoái nói: “Được ngày mai tôi sẽ lên đường, vốn tôi không muốn về Ngõa Thích, nhưng vì chuyện này cho dù đao kề đứt cổ cũng phải đi. Nhưng chỉ một mình tôi đi ư?”
Vu Khiêm nói: “Ta đã nói với Vân Trọng, để Vân Lối đi cùng với hiền điệt nghe nói hai người song kiếm hợp bích sẽ không ai địch nổi, có đúng không?”
Trương Đan Phong nói: “Không dám. Nếu có nàng cùng đi thì thật là tốt, có thể ứng phó với mọi cường địch”.
Vu Khiêm mỉm cười, trong nụ cười đầy hàm ý.
Ngày hôm sau hai người Trương, Vân cáo biệt mọi người cùng rời khỏi Bắc Kinh, chuyến đi lần này hai người chợt thấy lòng dạ thơi thới. Trương Đan Phong bước lên cười rằng: “Tiểu huynh đệ, lần trước từ Giang Tô đến bắc Kinh, đều bảo quãng đường quá ngắn, nay đến Ngõa Thích đường sẽ xa hơn nhiều”.
Vân Lối mỉm cười: “Rồi cũng sẽ có một ngày tới nơi”.
Trương Đan Phong mỉm cười ngâm rằng: “Đời người không biết chông gay, dù sương dù tuyết cũng phải xông pha lên đường. Cuộc đời này chúng ta có đi rất nhiều, làm gì có ngày đi hết!”
Vân Lối cảm thấy xao xuyến trong lòng, nếu chàng muốn mình làm bạn đi hết cuộc đời, trong lòng đương nhiên cảm kích mối tình si của chàng, nhưng nghĩ lại lời căn dặn của ca ca thì lại không khỏi buồn bã, chỉ đành giả vờ không hiểu dụng ý của chàng, mỉm cười: “Tú tài nghèo, đừng ngâm thơ nữa, nếu chậm chỉ e chưa ra đến Nhạn Môn quan thì tuyết đã rơi, lúc đó mới thật là dầm sương đội tuyết!”
Hai người đi đường cười cười nói nói không hề cảm thấy thô tịch, nhưng mỗi lần Trương Đan Phong nhắc đến chuyện riêng hai người Vân Lối lại né tránh. Hôm nay đến Dương Khúc, quân giặc đã rút lui, quán các cửa tiệm trong thành đều đã mở cửa, quán rượu lần đầu tiên Trương Đan Phong và Vân Lối gặp nhau cũng thế. Trương Đan Phong cười rằng: “Tiểu huynh đệ, đệ có còn nhớ quán rượu này không?”
Vân Lối nói: “Suốt đời cũng không quên!”
Trương Đan Phong mừng rỡ nói: “Ồ, tiểu huynh đệ! Thật hiếm có chúng ta đều nghĩ như nhau…”. Vân Lối ngắt lời chàng: “Cái gì mà đều nghĩ như nhau, tôi không quên huynh đã đánh cắp tiền của tôi!”
Trương Đan Phong cười rằng: “Thôi được chúng ta đừng đấu khẩu nữa, về lại nơi cũ, chuyện xưa khó quên, chúng ta hãy uống vài chén cho say. Tiểu huynh đệ, đệ hãy yên tâm, lần này ta sẽ mời không bảo đệ ăn quỵt nữa!”
Vân Lối nghe chàng nhắc lại chuyện cũ, bất giác mỉm cười, rồi hai người buộc ngựa trước cửa tiệm cùng bước và bên trong. Quân giặc lui không lâu, khách uống rượu trong tiệm không nhiều, Trương Đan Phong còn nhớ lúc trước mình đã ngồi ở gần cửa sổ phía nam, thế là cùng Vân Lối chọn một bàn, bảo tiểu nhị bưng ra một bình rượu, cắt hai cân thịt bò, nộc một hơi ba chén rồi cười rằng: “Lúc đó ta ngồi uống rượu một mình, đệ cũng thế, ta còn nhớ đệ cứ liếc mắt nhìn ta, hay lắm, giờ đây chúng ta đã ngồi với nhau, đệ không cần nhìn lén ta nữa”.
Vân Lối e thẹn nói: “Ai nhìn lén huynh, lúc đó tôi thấy huynh như đã say, rất buồn cười, lại giống hai tên trộm cứ liếc nhìn huynh, huynh cũng không hề biết cho nên tôi mới nhìn huynh, nào ngờ huynh lại có ý bỡn cợt tôi, không nhắc thì thôi nhắc lại đến lúc này tôi vẫn còn rất giận huynh!”
Trương Đan Phong nói: “Thật không!” rồi tỏ vẻ nửa thật nửa đùa. Vân Lối giận dỗi nói: “Lòng dạ huynh thật là xấu xa!”
Trương Đan Phong nói: “Thật không? Vậy ta là một ca ca xấu ư?”
Vân Lối nói: “Huynh còn trêu tôi, tôi sẽ không nói chuyện với huynh nữa!”
Trương Đan Phong lại uống cạn một chén cười rằng: “Hai tên tiểu tặc theo dõi ta lúc trước ngồi ở phía đông”.
Khi quay đầu nhìn lại chỉ thấy ở phía đông cũng có người ngồi, đó là một đạo sĩ mặc áo xanh tướng mạo hiên ngang. Vân Lối nói: “Người này chắc chắc không phải là một tên tiểu tặc”. Thế rồi cũng uống cạn một chén.
Vân Lối tuy không muốn nhắc lại chuyện xưa, nhưng cũng trở về nơi cũ, nhớ lại tình cảnh lần đầu tiên gặp rở Trương Đan Phong trong lòng cũng có nhiều cảm xúc, nàng nghĩ bụng: “Lúc ấy mình căm ghét chàng, không ngờ nay lại trở thành tri kỷ, cũng không ngờ rằng chàng lại là kẻ thù của mình, còn đại ca của mình thì cứ nhớ mối thù đời trước. Chuyện đời quả thật khó đoán”.
Trương Đan Phong chợt nói: “Tiểu huynh đệ, Hắc Thạch trang cách đây hơn mười dặm. Đệ có cần đến thăm nhạc phụ đại nhân của đệ không?”
Vân Lối ngạc nhiên, nhớ lại tình cảnh buồn cười hơn cùng Thạch Thúy Phượng động phòng, suýt chút nữa đã phun rượu ra. Trương Đan Phong nghiêm mặt nói: “Phu nhân của đệ đã đợi lâu như thế, giờ đây đã qua cơn chiến loạn, đệ cũng nên đến thăm nàng để cho nàng yên tâm”.
Vân Lối giật mình, nghĩ lại tấm tình sy của Thạch Thúy Phượng thầm nhủ: “Đúng thế mình nên đến thăm nàng. Nhưng làm sao cho nàng biết thân phận thực của mình?”
Đến khi ngẩng đầu lên thì thấy Trương Đan Phong đang mỉm cười của mình Vân Lối giận dỗi, nói: “Huynh cười cái gì? Huynh chẳng phải đã từng mặc đồ phụ nữ đó sao, suýt nữa cũng đã động phòng với con gái của Dã Tiên!”
Trương Đan Phong cười nói: “Nhưng ta đâu có thành thân với người ta”.
Vân Lối nói: “Thôi được chúng ta hãy uống xong rồi đến tìm nàng, cho nàng biết thân phận của tôi. Nhưng không biết Châu Sơn Dân đang ở đâu?”
Trương Đan Phong nói: “Chuyện của đệ vốn lo chưa xong, còn muốn làm mai nữa ư? Ta hỏi đệ, đệ có thay bộ y phục khác, nếu không Thạch tiểu thư thấy đệ thì sẽ không buông đệ đi”.
Khi Vân Lối ra khỏi Bắc Kinh đã cải dạng nam trang, nàng cúi đầu nhìn mình thì thầm cười: “Huynh nói nhỏ tiếng, đạo sĩ ấy hình như đang chú ý đến chúng ta”.
Trương Đan Phong nói: “Y không phải là kẻ trộm, đệ hãy yên tâm”.
Vân Lối đang có tâm sự trong lòng, uống vội chén rượu rồi nói: “Chúng ta đi thôi!” Rồi gọi tiểu nhị đến lấy tiền, nhưng túi tiền không cánh mà bay. Nàng ngạc nhiên nghĩ bụng: “Chả lẽ đại ca lại bỡn cợt mình” Rồi nàng kêu lên: “Mau trả lại túi tiền!” Quay đầu nhìn lại thì thấy đạo sĩ áo xanh đứng một bên, Trương Đan Phong vỗ bốp một chưởng về phía y quát rằng: “Giữa thanh thiên bạch nhật mà ngươi dám giở trò!”
Đạo sĩ ấy đột nhiên ngiêng vai, né tránh chưởng lực của Trương Đan Phong, nói: “Ngươi dám đánh người?”
Vân Lối thất kinh đạo sĩ này ra tay thật nhanh, y có thể né tránh một chưởng của Trương Đan Phong, Trương Đan Phong ra tay rất nhanh, đột nhiên chụp tới cười lạnh nói: “Té ra ngươi là kẻ trong nghề!” Thế rồi giật được túi tiền của Vân Lối, quát rằng: “Tang vật ở đây, ngươi còn dám nói gì nữa?”
Chỉ nghe soạt một tiếng, đạo bào của đạo sĩ ấy bị Trương Đan Phong kéo rách một mảng, y lướt ra khỏi chưởng lực của Trương Đan Phong, phóng ra khỏi cửa sổ.
Lão chủ quán kêu lớn: “Ối chao, tiền rượu của tôi, người đâu, có cường đạo”.
Trương Đan Phong vội vàng mở túi tiền, ném ra một đĩnh bạc đặt trên bàn: “Hãy tính trả cho tôi”.
Đĩnh bạc này trả tiền rượu cho cả ba người vẫn còn dư, lão chủ quán vui mừng, đã định đáp tạ, Trương Đan Phong đã kéo Vân Lối cùng nhảy xuống.
Trên đường người rất ít, chỉ thấy đạo sĩ cưỡi một thớt khoái mã phóng ra cửa thành. Trương Đan Phong vội vàng phóng lên ngưạ đuổi theo.
Vân Lối nói: “Đã lấy lại túi tiền, còn đuổi theo làm gì?”
Trương Đan Phong nói: “Không, đạo sĩ này thân phủ phi phàm, chắc chắc không phải là tên tiểu tặc bình thường, ta phải hỏi cho rõ ràng!”
Con Chiếu dạ sư tử mã hí dài, tung vó phóng về phía trước.
Đó chính là:
Quái tặc ở nơi nào, hiệp sĩ vội đuổi theo.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.