Trong lúc ngất, Lương Tiêu cảm thấy bốn phương tám hướng lắc lư, khi mở mắt thì thấy mình đang nằm trên một chiếc xe ngựa. Liễu Oanh Oanh lời nói vẫn vang bên tai, lúc to lúc nhỏ, nhọn sắc đâm vào trái tim hắn. Chỉ nghe có tiếng hỏi:
– Ngươi tỉnh rồi à?
Lương Tiêu đưa mắt nhìn thì thấy A Tuyết ngồi lưng tựa vào một chiếc gối gấm, ho khẽ mấy tiếng rồi nói:
– Ngươi đói chưa? – rồi lấy ra hai món điểm tâm. – Đây là quả lê, còn có bánh sữa, rất mềm rất ngọt.
Lương Tiêu vẫn nằm im không nhúc nhích. A Tuyết lại nói:
-Ngươi không ăn bánh thì uống nước cũng được.
Rồi kề túi nước vào miệng Lương Tiêu, nhưng Lương Tiêu ngậm răng thật chặt làm nước chảy hết ra nền.
Chợt có tiếng cười nhạt, A Lăng thò đầu vào, liếc Lương Tiêu, mắng:
– Vô lại! – Rồi lại hỏi. – A Tuyết ngủ đủ chưa?
A Tuyết cười:
– Dạ rồi, tỷ tỷ đừng lo.
A Lăng quát:
– Tạm cái gì? Ta đánh xe đến mệt cả người, còn ngươi thì ngủ khoái trá. Thế là thế nào?
A Tuyết sợ hãi đáp:
– Tỷ tỷ đừng giận, lần này phiền tỷ quá. Lần sau tỷ bị thương, muội cũng đánh xe chở tỷ đi.
A Lăng càng tức, mắng mỏ:
– Nói bậy nói bạ, ai bị thương ?Ta không phải là loại vô dụng như ngươi.
A Tuyết sợ hãi, vội vàng đổi câu chuyện:
– Tỷ tỷ nhìn, tên này không chịu ăn không chịu uống gì hết!
A Lăng cười lạnh:
-Cứ để hắn chết đói. Đồ vô lại này để sống làm gì. Nếu ta mà là hắn, ta phải giết chết tên họ Vân đó chứ tuyệt thực để làm cái gì?
A Tuyết ngẩn người, chợt thấy Lương Tiêu mở mắt ngồi dậy, kéo thức ăn lại chậm chạp ăn. A Tuyết thấy gã thay đổi chủ ý thì thở ra nhẹ nhõm.
A Lăng cười lạnh nhìn Lương Tiêu mắng:
– Ngươi ăn thì làm được gì. Có tác dụng gì chứ? Chủ nhân đã nói rồi, ngươi bị người ta phế bỏ võ công, bây giờ còn yếu ớt hơn cả người thường. Muốn trả thù ư? Đợi kiếp sau đi.
A Lăng thích hành hạ cho người khác đau khổ, thấy mặt Lương Tiêu lộ vẻ đau đớn, cô ta rất khoái chí, lại cười nói:
– Không biết Liễu Oanh Oanh và Vân Thù đang vui vẻ ở bên nhau như thế nào?
Cô ta lợi dụng việc Lương Tiêu hôn mê, không rõ sự thật như thế nào để cố ý bịa đặt ra những lời này khiến hắn đau lòng, thấy Lương Tiêu chảy nước mắt, cô ta càng vui vẻ, lại định làm nhục hắn thêm thì đã nghe thấy một giọng vang lên:
– A Lăng, đi đâu mất rồi?
A Lăng biến sắc, đáp:
– Ây dà, muội ra đây!
Rồi thò đầu ra, vung cây roi ngựa đánh xe. Lương Tiêu ngồi ngẩn ra một lúc, ăn sạch món điểm tâm mới nhắm mắt nằm xuống.
Xe đi gập ghềnh, đi được nửa ngày thì dừng lại, A Lăng vén rèm, cười nhạt:
– Chủ nhân khai ân cho nghỉ một lát! – Cô ta liếc Lương Tiêu, hỏi. – Vô lại, ngươi có xuống không?
Lương Tiêu vén rèm xuống xe, trông thấy Hàn Ngưng Tử tóc buông xõa ngồi bên suối. A Băng thì đang múc một gáo nước dâng tận tay bà ta. Lương Tiêu đã đoán ra thân phận Hàn Ngưng Tử, bèn đi ra chỗ khác ngồi
Hàn Ngưng Tử nhìn Lương Tiêu, mỉm cười hỏi:
– Ngươi tên là gì?
Lương Tiêu đang buồn, chẳng màng để ý đến. Hàn Ngưng Tử mặt sầm xuống, A Băng mắng:
– Tên khốn kia, chủ nhân hỏi ngươi đó!
A Lăng liếc sang, cười nói:
– A Băng tỷ tỷ đừng phí công, gã bị câm đấy.
A Băng kinh ngạc:
– Thật ư ?
A Lăng cười:
– Thật đấy?
Hàn Ngưng Tử cười nhạt:
– Ai nói hắn bị câm?
A Lăng ngẩn người nhìn vẻ mặt bà ta, bất giác tim đập mạnh, nhìn trộm A Tuyết. Hàn Ngưng Tử lạnh giọng nói:
– Ngươi nhìn nha đầu ngốc ấy làm gì, nó không dám tố cáo ngươi đâu…
A Lăng quỳ xuống đất, run sợ kêu:
– Tỳ tử biết lỗi rồi, mong… mong chủ nhân tha tội!
Hàn Ngưng Tử lắc đầu:
– Ngươi khéo léo dối trên lừa dưới rất hợp khẩu vị ta, thưởng ngươi còn không hết, lấy đâu ra phạt?
A Lăng biết rõ tính bà ta nghĩ một đằng nói một nẻo, bất giác nước mắt đầm đìa. Hàn Ngưng Tử giơ tay ra đỡ cô ta dậy, thở dài:
– Thôi, ta không trách ngươi thật mà, có trách thì trách con ngốc kia.
A Lăng vẫn run bần bật, run run hỏi:
– Chủ… chủ nhân biết hết rồi ạ?
Hàn Ngưng Tử cười nhạt:
– Ngươi nói xem?
Đôi mắt đẹp của bà ta lướt qua ba nữ tỳ, ba người đều toát mồ hôi, chỉ cảm thấy từ trong ra ngoài không có gì giấu giếm được bà ta.
Lúc ấy, trên đường có ba người nông dân đi đến, một già hai trẻ, gánh những chiếc sọt đầy cam quýt, có vẻ mang ra chợ bán. Hàn Ngưng Tử bèn bảo:
– A Băng, A Lăng, các ngươi ra mua mấy quả quýt về đây nếm xem.
Hai người nghe vậy vui mừng, thầm hiểu chủ nhân để mình đi mua đồ ăn là đã coi như xí xóa tội lỗi, lập tức hoan hỉ tiến ra chỗ ba người nông dân, A Lăng giơ bàn tay nõn nà lên vuốt mái tóc đẹp, cười hỏi:
– Các vị, quýt bán thế nào?
Ông già nông dân cười đáp:
– Bẩm tiểu thư. Ở đây có ba loại quýt, tương ứng có ba giá tiền. Loại ngọt mà các tiểu thư vừa nếm là tám tiền, loại xanh này là bốn tiền, còn loại bẹt này là một tiền ba quả.
A Lăng mặc cả một hồi, giảm được loại ngọt dịu xuống bảy tiền, loại xanh xuống ba tiền, rồi chọn.
A Tuyết nhìn ra, thấy vậy hỏi:
– Chủ nhân, con… con đi giúp các tỷ tỷ mang quýt về nhé?
Hàn Ngưng Tử cười nhạt:
– Lo việc của ngươi đây. Ngươi đã biết sai chưa?
A Tuyết ngẩn người, bối rối gãi đầu. Hàn Ngưng Tử cười lạnh:
– Lần này xuất quan, trước sau ngươi đã phạm ba tội. Tội thứ nhất là để cho con tiện nhân A Lăng kia bày trò, cùng nó hợp sức để lừa ta.
A Tuyết sợ quá, chảy nước mắt, run run thưa:
– Con… con…
Hàn Ngưng Tử hừ một tiếng, lại tiếp:
– Tội thứ hai là lúc ở Ngũ Long Lĩnh buột miệng kêu lên để lộ hình tích, nếu không có ta ở đó thì ngươi còn sống không ?
A Tuyết càng biến sắc. Hàn Ngưng Tử lạnh lùng nói:
– Còn sai lầm thứ ba, đó là trận pháp Khôi lỗi khiên cơ thuật, ngày thường luyện bao nhiêu lần rồi mà còn loạn hết cả thế. Hừ, bây giờ ngươi rõ chưa?
A Tuyết ngơ ngẩn gật đầu.
Hàn Ngưng Tử nói:
– Ba tội cộng lại, vốn không thể tha chết được. Nhưng ngươi bắt được tiểu tử này cũng coi như lập được đại công, có thể tha bớt phần nào tội lỗi. Ta vốn thưởng phạt rất phân minh, vậy cho ngươi một cơ hội nữa.
Bà ta lấy trong tay áo ra mấy xâu tiền:
– Đây là một trăm tiền. Con đi mua một trăm cam ngọt, cam xanh và cam bẹt, cứ theo giá mà A Lăng mặc cả, không được thừa không được thiếu, dùng cho hết một trăm tiền này. Nếu thừa dù chỉ một đồng hay thiếu dù một quả quýt thì con sẽ bị chặt một ngón tay. Cứ thế suy ra, chặt đến hết mười ngón tay thì thôi.
A Tuyết sợ sệt, không dám nhận tiền. Hàn Ngưng Tử cau mày:
– Thế nào ?
A Tuyết chảy nước mắt, đành đứng dậy, không sao nghĩ được làm thế nào có thể mua được một trăm quả quýt bằng một trăm đồng tiền. Chợt thấy A Băng, A Lăng đều ôm một bọc quýt quay về, chưa đến gần, A Lăng đã lên tiếng trước:
– Chủ nhân, quýt này ngon lắm…
Chưa dứt lời, chợt cảm thấy không khí nặng nề kỳ lạ, bất giác tim đập mạnh. Hàn Ngưng Tử bóc một quả quýt, lạnh lùng nói:
– Nha đầu ngốc kia, còn đứng sờ sờ ra đấy làm gì, đi đi chứ ?
A Tuyết đành buồn bã đi về phía ba người nông dân, đi được nửa đường thì vấp chân, đá trúng cổ chân Lương Tiêu. Cô ta bị thương chưa khỏi, tức thì ngã sấp xuống, đập mũi vào một hòn đá chảy cả máu. A tuyết vừa buồn vừa đau, lại không dám kêu la, chỉ gạt nước mắt khóc. Hàn Ngưng Tử thấy cô ta mãi không đứng lên thì quát:
– Nếu không mua được một quả quýt nào thì đừng về gặp ta nữa!
A Tuyết nhìn lên, trông thấy ba người nông dân đã nhấc quang gánh lên thì lập tức chạy đi, vội vàng vùng dậy nào ngờ trong bụng rất đau, không bò dậy được, ngoảnh lại nhìn thì thấy A Băng, A Lăng đều lạnh lùng nhìn ra hoàn toàn không có ý giúp đỡ, A Tuyết cảm thấy trái tim đông cứng cả lại, chỉ hận không được chết luôn.
Bỗng có một bàn tay từ bên cạnh thò sang, giơ tay áo lau nước mắt cho cô ta. A Tuyết thấy ấm lòng, ngẩn người nhìn người đó. A Lăng thấy vậy ghen tức, cười lạnh:
– Cái gã vô lại này cũng khéo lợi dụng lắm. Thằng yếu ớt và con ngu ngốc thật vừa một đôi.
A Tuyết ngượng đỏ mặt. Lương Tiêu vẫn giơ tay áo lau nước mắt cho A Tuyết, lại lén vạch ngón tay phải thật nhanh xuống đất: “Sáu ngọt, mười xanh, tám mươi tư bẹt. ” Đợi A Tuyết đọc xong thì lập tức lau đi. A Tuyết còn ngơ ngác, Lương Tiêu đã dìu cô đứng dậy, trỏ tay ra xa. A Tuyết ngước mắt nhìn, thấy ba người nông dân đã quảy gánh đi được một quãng, liền vội vàng kêu lên:
– Lão bá bá… tôi muốn mua quýt.
Ba người nông dân ngạc nhiên ngoảnh đầu lại. A Tuyết lúc này đã lo cuống, không cần cân nhắc xem lời Lương Tiêu là thật hay giả, liền kêu lên:
– Cho tôi mua sáu cam ngọt, mười cam xanh và tám mươi tư cam bẹt.
Hàn Ngưng Tử vừa nghe đã biến sắc mặt, đứng bật dậy. Ông già tính tiền, cười nói:
– Tiểu thư mua khéo quá, vừa đúng một trăm quả quýt không thiếu không thừa, lại cũng đúng một trăm tiền.
A Tuyết vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vàng tiến đến đưa tiền cho ông già, một trong hai người nông dân kia chọn một trăm quả quýt cho cô.
A Tuyết cảm ơn rối rít rồi ôm quýt mừng rỡ đi về chỗ chủ nhân. Hàn Ngưng Tử không nhìn vào giỏ, chỉ nhìn chăm chăm vào mặt cô ta, lông mày nhíu lại. A Tuyết lo lắng hỏi:
– Chủ nhân, lẽ nào mua sai sao?
Hàn Ngưng Tử lạnh lùng nói:
– Sai thì không sai, nhưng ngươi tính ra bằng cách nào vậy?
A Tuyết lén liếc Lương Tiêu, đôi má đỏ bừng, Hàn Ngưng Tử đá quýt đi, quát lên:
– Nha đầu ngốc này, ai dạy ngươi tính?
Mắt bà ta lạnh buốt, sắc tựa lưỡi kiếm. A Tuyết không hiểu vì sao, trong lòng không sợ hãi như trước nữa, cô ta thầm quyết định, dù chết cũng quyết không khai ra Lương Tiêu. Hàn Ngưng Tử thấy cô ta bướng bỉnh thì vô cùng tức giận, từ từ giơ chưởng lên, một lớp sương trắng từ từ ngưng tụ trên tay bà ta.
A Băng, A Lăng nhìn bà ta giơ chưởng, đều lộ vẻ sợ hãi. A Tuyết tuy sợ hãi nhưng trước sau vẫn không hé một lời. Chưởng giơ lên rồi chém xuống. Chợt nghe tiếng Lương Tiêu thét lên:
– chậm đã!
Hàn Ngưng Tử nhìn sang:
– Sao? Ngươi muốn nói gì?
A Tuyết biến sắc, lắc đầu với Lương Tiêu. Lương Tiêu làm như không trông thấy, đứng dậy nói:
– Ta dạy cô ấy mua quýt đấy, muốn đánh muốn giết thì tìm ta đây!
Mắt Hàn Ngưng Tử lóe lên sắc lạnh:
– Muốn làm anh hùng hả? Được, nói xem, ngươi tính ra bằng cách nào? Không nói được thì đừng trách ta tàn ác.
Lương Tiêu gập một gối xuống, lấy đá vạch xuống đất, nói:
– Nhân ba ba trăm đồng, bên trong trừ tổng số một trăm, còn lại hai trăm viên. Ba nhân giá cam ngọt, được hai mươi mốt, bên trong trừ một, còn hai mươi phần…
Gã giải từ từ, A Tuyết hoa cả mắt. Lương Tuyết giải xong, ném viên đá đi, nói:
– Vì đề có ba ẩn, nên phép toán là Tam phân thân thuật. Ngoài ra còn có vài cách giải khác, phức tạp rất khó diễn giải, nên nói đến đây thôi.
Cổ tay chợt đau nhói, thì ra đã bị Hàn Ngưng Tử nắm lấy, đanh giọng hỏi:
– Tiểu tử, ngươi là người của Thiên Cơ cung phải không?
Lương Tiêu đau nhói, quát lên:
– Con bà mới là người của Thiên Cơ cung ấy?
Hàn Ngưng Tử vặn hỏi:
– Còn không thú nhận? Ngoài các số gia của Thiên Cơ cung thì ai có thể giải được đề toán này chứ?
Lương Tiêu cau mày, lãnh đạm nói:
– Đề này cũng được coi là khó à? Hơi khoa trương quá.
Mặt Hàn Ngưng Tử thoạt xanh thoạt đỏ, mắt dán chặt vào Lương Tiêu, không nhận ra gã có vẻ giấu giếm gì, nét căm giận trong mắt nhạt dần đi, chợt buông Lương Tiêu ra, cười nhạt:
– Thiên Cơ cung luôn tự phụ thanh cao, chắc chẳng đào tạo nổi loại lưu manh vô lại như ngươi!
Ba người nông dân thấy không còn mối làm ăn gì nữa, lại nhấc sọt lên định đi. Không ngờ Hàn Ngưng Tử đột nhiên cúi mình, nhặt ba viên đá lên vung tay ném ra, sau mấy tiếng bụp bụp bụp trầm đục, não người hòa máu chảy túa ra, quýt lăn lông lốc. Hàn Ngưng Tử nói:
– Để ba tên này chạy thoát thì chẳng phải sẽ làm lộ hành tung của ta sao!
Lương Tiêu thầm tức giận: «Nữ tử này vui buồn mừng giận, sinh sát đều thất thường, đúng là một người điên! »
Hàn Ngưng Tử đi mấy bước, chợt ngoái đầu lại, cười nói:
– A Lăng, ngươi chăm sóc tiểu tử này cho cẩn thận, nếu sơ suất mảy may thì ta sẽ lột da ngươi đó!
Lương Tiêu thầm ngạc nhiên: “Sao mụ mặt vàng này đổi tính nhanh thế? Tự dưng tử tế chắc không có gì tốt. Ta phải tăng cường đề phòng mới được. ”
A Lăng đổi ngay bộ mặt tươi cười, đỡ Lương Tiêu lên xe. A Tuyết liếc mắt nhìn Lương Tiêu, lâu lắm không nói năng gì. Lương Tiêu không nhịn được hỏi:
– Nhìn gì mà nhìn?
A Tuyết đỏ mặt, khẽ nói:
– Cám ơn ngươi nhé!
Lương Tiêu hững hờ đáp:
– Có gì đáng cám ơn đâu?
Trong lòng gã đang suy sụp vô cùng, chỉ muốn vùi đầu xuống mà ngủ. A Tuyết thấy gã lạnh lùng như thế, không nói được những lời cảm kích khác nữa, đành buồn bã ngủ, nhưng tim hồi hộp, lén nhìn Lương Tiêu, thấy gã đã nhắm mắt, lệ tuôn ra, lăn xuống theo gò má, để lại những vệt ướt loang lổ trên nền xe. A Tuyết cảm thấy trái tim nhói đau, tự nhiên căm hận Liễu Oanh Oanh vô kể.
xxx
Xe ngựa bắt đầu khởi hành, lúc đi lên, lúc đi xuống, lắc lư suốt cả ngày mới dừng lại. A Lăng thò đầu vào cười:
– Đến nhà rồi, xuống xe đi!
Lương Tiêu khom mình chui ra khỏi xe, đằng trước có một khu đình viện rất tươi xinh, núi non ôm ấp. A Tuyết nói nhỏ vào tai Lương Tiêu:
– Đây gọi là Tàn Hồng Tiểu Trúc.
Một đạo sĩ trẻ tuổi đi ra khỏi cổng viện, mặt mũi hiền lành, trán có nốt ruồi đen. Y chắp tay chào Hàn Ngưng Tử:
– Vũ Linh tham kiến chủ nhân!
Hàn Ngưng Tử lạnh lùng hỏi:
– Có chuyện gì sao?
Vũ Linh cười đáp:
– Thủ lĩnh Lũng Tây Cửu Trại theo lệ thường đến nộp tiền và lương thực, lúc này đều đang ở trong sảnh.
Nói rồi liếc mắt nhìn A Băng, rồi lại quay mặt đi, chào hỏi hai cô nữ tỳ còn lại.
Hàn Ngưng Tử nói:
– Vũ Linh, bây giờ ta còn có việc. Ngươi và A Băng đi lo liệu tiếp đãi, nếu thiếu tiền hay gạo, từ năm trăm quan trở lên chặt tay, từ một ngàn quan trở lên chặt đầu, không được làm trái quy củ.
Vũ Linh cười đáp:
– Tiểu nhân sẽ chú ý.
Hàn Ngưng Tử ngoảnh đầu lại nhìn A Tuyết, dặn:
– A Băng, ngươi đưa con ngốc này đi nghỉ, không được gây phiền toái gì cho nó nữa.
A Lăng còn hận A Tuyết lừa mình, vốn định về rồi sẽ từ từ hành hạ nhục mạ cô ta, nay nghe Hàn Ngưng Tử nói vậy, đành cười vâng lời. Hàn Ngưng Tử quay sang Lương Tiêu cười nhạt:
– Ngươi theo ta!
Lương Tiêu ngập ngừng không đi, nhưng bị A Băng đẩy một chưởng ngã dúi xuống đất, lúc ấy mới nhớ lại mình đã mất hết nội lực, đành bò dậy theo sau Hàn Ngưng Tử.
Hai người đi vào trang viện, rẽ theo lối đi chéo ra hậu sơn, vòng qua mấy hành lang, phía trước đột ngột hiện ra một rừng trúc.
Rừng trúc rất thâm u, đường lối quanh co, tán lá rất dày, bốn bề mát rượi, đi như thế hơn hai mươi bộ thì trông thấy giữa những cây trúc có một pho tượng đá ngồi mặc áo giáp, há mồm nhăn trán, trông pho tượng rất quen mắt, Lương Tiêu mau chóng nghĩ ra, pho tượng này đã từng trông thấy trong Lưỡng nghi ảo trần trận, đó là Ngôi Khởi duyện sang thuộc Tướng tướng cảnh. Lương Tiêu còn đang nghi hoặc, lại đi tiếp mười mấy bước nữa thì gặp một pho tượng nữa vuốt râu chắp tay sau lưng, chính là Thiếu Lăng khổ ngâm thuộc Thánh văn cảnh, lại đi tiếp mười hai bước nữa thì đến pho Kiếm cập lý cập, pho tượng này cầm bảo kiếm, đi chân trần, nửa chạy nửa bước, chính là câu chuyện về Sở Trang Vương, bá chủ thời Xuân thu. Cứ thế, mười mấy bước lại gặp một pho tượng, Lương Tiêu càng nhìn càng kinh ngạc, đang lúc quan sát thật kỹ thì phát hiện ra những pho tượng này tuy làm giống hệt tượng ở Thiên Cơ cung nhưng khi nhìn kỹ thì khác biệt rất xa, tựa hồ người tạc tượng đã chỉ vội vàng bắt chước đẽo lại theo hình dáng, còn vị trí rất hỗn độn, không hợp với trận thế Lưỡng nghi ảo trần trận.
Đi được chừng hai dặm thì tới cuối rừng, ở đó trên vách đá có một cái hang, cửa hang hình tròn đóng chặt. Trên rầm cửa có khắc bốn chữ Thiên Viên Địa Phương, bên cửa có một một cái khóa bát quái.
Hàn Ngưng Tử xoay khóa, cửa đá cọt kẹt mở ra. Đằng sau cánh cửa là một căn phòng vuông vắn, bốn vách tường treo đầy những sơ đồ, có một chiếc giường đá kê sát tường, bên cạnh bàn đá đặt một chiếc bàn đá, trên bàn đặt một khay cát. Lương Tiêu nhác thấy rất kinh ngạc, vì trên khay cát này vẽ đầy những chu vi hình tam giác vuông, thương phương thực pháp, đều là các ký hiệu toán học.
Hàn Ngưng Tử dắt Lương Tiêu vào rồi khép cửa đá lại sau lưng. Một ánh sáng nhè nhẹ tràn ngập căn phòng. Lương Tiêu ngước mắt nhìn, chỉ thấy trên nóc hang có một hình vòm, sáng loáng như gương, bề mặt khảm đầy ngọc, sắp xếp theo vị trí sao trời, trên vách đá gần đỉnh vòm có đục một lỗ nhỏ, ánh sáng trời lọt vào, chiếu lên những hạt ngọc, hào quang của ngọc hắt lên tường, chiếu cả căn phòng sáng lên.
Hàn Ngưng Tử ngồi lên giường, hỏi:
– Chúng ta đã cùng đi một đoạn đường, kể cũng là có duyên, hai chúng ta làm quen với nhau nhé, ta họ Hàn, tên Ngưng Tử. Ngươi tên là gì?
Lương Tiêu trả lời. Hàn Ngưng Tử gật đầu:
– Lúc trước ngươi tỏ ý coi thường đề bài ta ra, chắc ngươi tinh thông toán học lắm?
Lương Tiêu nói:
– Đại khái cũng giải được một ít.
Hàn Ngưng Tử ngắm gã kỹ hơn, cười nhạt hỏi:
– Được, để ta xem xem bản sự của ngươi tới đâu? – Rồi trỏ tay về đề toán trên khay cát. – Ngươi tính ra được không?
Lương Tiêu liếc mắt nhìn qua, thấy trên khay cát viết rằng: “Giả sử có một tòa thành tròn, không biết tỉ lệ giữa chu vi và bán kính là bao nhiêu, bốn cổng đều mở toang, ngang dọc đều có những đường chữ thập, đường chữ thập tây bắc là quẻ càn, hai người Giáp và Ất đứng ở đây, Ất đi về hướng đông một trăm tám mươi bộ thì gặp một ngọn tháp thì dừng, Giáp đi về hướng nam ba trăm sáu mươi bộ ngoảnh lại nhìn ngọn tháp đó thì đang ở chính nửa đường kính của tòa thành. Hỏi đường kính tòa thành là bao nhiêu?” Bên dưới có hình tam giác vuông. Hàn Ngưng Tử cười giòn, giọng đắc ý:
– Ngươi giải được bài toán này thì ta sẽ để ngươi sống, còn không giải được thì không phải nói nữa.
Lương Tiêu nhướng mày, lạnh lùng nói:
– Cạnh huyền đi qua đường tròn thôi mà, có gì ghê gớm đâu? – Rồi vung tay giải. – Lấy cạnh góc vuông nhân với cạnh huyền làm thực. Lấy tổng cạnh huyền và cạnh góc vuông làm pháp, thực trừ pháp, thương là hai trăm bốn mươi. Đường kính của thành là hai trăm bốn mươi bộ.
Bài toán này Hàn Ngưng Tử suy nghĩ khổ sở đã lâu mà không tìm ra hướng giải, nào ngờ Lương Tiêu trong chớp mắt đã làm ra, cách tính hết sức tinh vi khó mà tưởng tượng được. Hàn Ngưng Tử chằm chằm nhìn lời giải vẻ mặt âm trầm khó hiểu, trầm ngâm hồi lâu rồi mới nhíu mày nói: “Sao có thể giải dễ dàng như vậy được?” Lương Tiêu nói: Đây chính là thuật tìm chu vi hình tròn(chú thích: tương đương với hình học của Trung Quốc cổ đại), nói khó thì không khó nhưng nói dễ cũng chẳng dễ. Nếu không biết phương pháp thì khó mà làm được nhưng nếu đã biết phương pháp rồi thì lại thấy rất dễ dàng. Trừ bài toán tìm đường tròn có tâm nằm trên cạnh huyền và tiếp xúc với hai cạnh còn lại của tam giác vuông còn có tám loại bài toán khác phân biệt là: đường tròn ngoại tiếp cạnh dài và cạnh ngắn tam giác vuông, đường tròn có tâm nằm trên cạnh ngắn nhất tam giác vuông và nội tiếp với hai cạnh còn lại, đường tròn có tâm nằm trên cạnh góc vuông dài của tam giác vuông và nội tiếp với hai cạnh còn lại, đường tròn có tâm là đỉnh góc vuông tiếp xúc với cạnh huyền, đường tròn ngoại tiếp của tam giác vuông về phía cạnh huyền, cạnh góc vuông ngắn, cạnh góc vuông dài, đường tròn có tâm nằm trên cạnh huyền, cạnh góc vuông ngắn, cạnh góc vuông dài của tam giác vuông và ngoại tiếp với đường kéo dài của hai cạnh còn lại, gộp vào gọi là “Đỗng Uyên cửu dung”(chín bài toán đường tròn tiếp xúc)”
Hắn vừa giải vừa viết ra chín dạng. Hàn Ngưng Tử nhìn hắn, trong lòng bất giác nhói đau, thầm nghĩ: “Phong thái giải toán của thiếu niên này giống người đó đến năm sáu phần. ”
Lương Tiêu viết xong các dạng toán, ngẩng đầu lên nhìn, chợt thấy Hàn Ngưng Tử nhìn mình vẻ mặt ngây dại, bất giác lấy làm lạ:
– Có gì chưa rõ không?
Hàn Ngưng Tử giật mình hồi lâu rồi hỏi:
– Ngươi… không phải là người của Thiên Cơ cung thật chứ?
Lương Tiêu không đáp, chỉ hừ một tiếng.
Hàn Ngưng Tử ngồi ngẩn ra hồi lâu, thở dài rồi mới theo phương pháp của Lương Tiêu diễn giải trên khay cát, nhưng chỉ tính được hai hàng là nước mắt rơi tong tong xuống khay cát.
Lương Tiêu thấy cử chỉ kỳ quái, đang kinh ngạc thì chợt thấy Hàn Ngưng Tử dưới làn nước mắt, chợt để lộ ra làn da trắng ửng hồng, trong lòng rất lấy làm kinh ngạc. Hàn Ngưng Tử thấy thần sắc gã có vẻ lạ, sực hiểu nguyên do, lấy khăn tay lau mặt, để lộ ra khuôn mặt thật, chỉ thấy làn da hồng hào như anh đào, đôi mắt long lanh như nước hồ thu.
Lương Tiêu không ngờ dưới lớp da vàng vọt lại là một giai nhân tuyệt sắc. Hàn Ngưng Tử ngẩn ra một lúc, không nói năng gì, lại đưa ra một đề là Chiêu sai đề, lập nhiều ẩn để tìm ra số tiền lương của binh lính. Lương Tiêu vốn đã tuyệt vọng suy sụp, nhưng không hiểu vì sao vừa chạm vào toán học là tỉnh táo mau chóng, trí óc hoạt động rất nhanh nhẹn, Hàn Ngưng Tử mới đọc được nửa đề, gã đã đưa ra kết quả. Hàn Ngưng Tử càng kinh ngạc, lại đưa ra thêm một đề là Hòa hợp phân sai đề, vẫn nói đầu đề, Lương Tiêu đã báo kết quả, Hàn Ngưng Tử vừa giận vừa ngạc nhiên, bèn truy hỏi xem sư môn của Lương Tiêu. Lương Tiêu im lặng, chỉ khi nào thấy đề toán Hàn Ngưng Tử đưa ra thì mới lên tiếng giải đáp mà thôi.
Hai người ra đề giải toán đến tận chiều tối, Lương Tiêu cứ gặp đề là giải, đến mức Hàn Ngưng Tử không còn đề nào khó nữa, cuối cùng không chịu được hất đổ khay cát, đẩy cửa đi ra, ra ngoài rồi khóa cứng cửa lại.
Lương Tiêu không còn chỗ nào để đi, đành nằm trên giường đá, mấy hạt minh châu trên nóc hang vốn không tự phát sáng, mà chỉ phản chiếu ánh sáng tự nhiên. Khi màn đêm buông xuống, minh châu không sáng được nữa, gian thạch thất tức thì tối mịt. Lương Tiêu cảm thấy nền đá dưới lưng lạnh giá, vừa cô đơn vừa thương thân, ngẩn ngơ một hồi rồi ngủ thiếp đi.
Hôm sau, Lương Tiêu thức dậy rất sớm, có lẽ tại ngủ trên giường đá quá lâu, cổ họng đau rát như bị cảm lạnh. Từ khi luyện nội công, chưa bao giờ có chuyện này xảy ra, cứ thế này mà xét thì tự mình không chỉ đã biến thành một người bình thường, mà có lẽ còn đúng như A Lăng nói, so với người bình thường còn kém hơn.
Đang lúc thất vọng vô cùng ấy thì chợt nghe ngoài hang có tiếng gõ cửa, liền đó là tiếng gõ bên dưới cửa đá, rồi mở ra một cánh cửa sổ nhỏ, nhét vào một mâm đầy thức ăn, giọng A Băng vọng vào:
– Đồ khốn, mau ăn hết đi, đừng bỏ dở đấy!
Từ trưa hôm trước Lương Tiêu chưa có gì bỏ vào bụng, ngửi thấy mùi thức ăn thơm ngon tức thì bụng sôi lên, gã bèn nhảy xuống khỏi giường, bê mâm lên bàn, thấy có đủ thịt cá, còn có một tô canh gà nóng hổi. Lương Tiêu ăn uống ngon lành, cuối cùng no nên, đẩy lại đĩa bát ra cửa, định hỏi chuyện A Băng cô ta đã vội vàng bỏ đi, bốn bề yên tĩnh.
Lương Tiêu no nê, nhìn bốn bức tường thấy đầy sơ đồ hình vẽ bèn lật xem cho đỡ buồn, hóa ra đều là sách toán, hầu hết đều đã từng xem rồi. Lương Tiêu lật giở một hồi chợt cảm thấy không tin vào mắt mình, ở đây lại có một quyển Sương Đàm Kiếm Phổ. Chỉ vì lâu rồi không ai mở xem nên bụi đã phủ dày. Lương Tiêu giở ra xem thì thấy một bức vẽ, trong đó có một nam một nữ múa kiếm đùa với nhau, trông rất duyên dáng tình tứ, khiến người ta chỉ nhìn mà cũng thấy xúc động. Lương Tiêu thấy dung mạo người nữ giống Hàn Ngưng Tử, bất giác nghĩ bụng: “Đây chẳng phải là tuyệt học độc môn của Hàn Ngưng Tử sao? Ta xem xem, có thể nghĩ ra được cách phá giải, đánh cho mụ ta trở tay không kịp. ” Gã lại lật mấy trang, chợt cau rúm mày: “Những chiêu kiếm này múa đẹp quá, theo thế thì lại không có tác dụng gì, vì sao gọi là Sương đàm kiếm pháp, khiến người ta chẳng hiểu gì cả. ” Lại lật mấy chục trang nữa, chợt trông thấy người đàn ông trong sách đâm chéo trường kiếm ra, đâm vào sườn trái của người đàn bà, người đàn bà xoay thế kiếm một vòng, khiến trường kiếm của người đàn ông đâm chệch ra ngoài. Bên cạnh ghi bốn chữ “bạc bẽo phụ tình”.
Chiêu này rất tinh diệu, Lương Tiêu chấn động tinh thần, lại lật tiếp xuống dưới, thì thấy người đàn bà trường kiếm rất dữ tợn, đâm vào tim người đàn ông, máu tươi bắn tóe ra, đầu trang dùng mực đỏ viết lên một chữ “giết” rất lớn, bên trái cũng ghi bốn chữ “Tim gan ruột nát”. Lương Tiêu giở tiếp, lại thấy người đàn bà trong tranh bay chân phải lên, tránh khỏi trường kiếm của người đàn ông, rồi lại đâm một nhát vào tim ông ta, bên cạnh có ghi chữ nhỏ “Dứt tim dứt ruột ”. Lương Tiêu tiếp tục giở xuống, chỉ thấy người đàn bà đó thoắt trái thoắt phải, nhảy lên bay xuống, mũi kiếm trước sau vẫn xoi vào tim người đàn ông, chiêu thức lần lượt là: “Toàn tâm thực cốt “, “Tâm trường thốn tuyệt “, “Tâm hôi ý lại “, “Tâm tang như tử “, tổng cộng bảy nhát kiếm, giết người đàn ông bảy lần.
Chiêu thức mà nhát nào nhát nấy đều đâm vào tim thế này, Lương Tiêu mới nhìn thấy lần đầu. Rảnh rỗi không có việc gì làm, gã bèn nhặt một thanh gỗ lên, nhảy nhót đâm thử theo động tác của người đàn bà, trong đầu tưởng tượng đâm được những nhát kiếm ấy vào ngực Tiêu Thiên Tuyệt và Vân Thù, kết liễu tính mệnh hai người ấy.
Luyện được một lúc lâu, Lương Tiêu càng hứng chí, hú dài tung mình lên. Nào ngờ quá đà, va vào tường, que tính gãy luôn, hổ khẩu nứt toác, máu chảy đầm đìa, chỉ cảm thấy đau nhói lên tận óc, mới nhớ ra là nội lực đã mất, kiếm pháp dẫu có giỏi gấp mười cũng vô ích, tức thì chán nản không luyện nữa.
Một lát sau, A băng mang cơm nước đến. Lương Tiêu ăn xong thì lên giường nằm, nhìn đăm đăm lên những hạt dạ minh châu trên đỉnh nóc. Nhìn được một lúc lâu thì nhận ra phương vị của hai sao Ngưu Lang Chức Nữ để sai, nhưng những sao khác thì hoàn toàn chính xác, tính ra chính là sơ đồ sao đêm mùng bảy tháng bảy năm Kỷ Mùi.
Lương Tiêu tự nhiên tinh thần phấn chấn, hắn tự nhủ: “Cách làm lịch xưa nay đều không vượt qua được lịch Đại Minh của Tổ Xung Chi, tuy ta không luyện được tuyệt thế võ công nhưng nếu có thể vượt qua thánh hiền mà sáng tạo được một phép làm lịch mới siêu việt hơn Đại Minh lịch thì cũng là một việc đáng kể trong đời. ” Gã không có việc gì làm, bèn lấy ngày mồng bảy tháng bảy làm mốc phát triển lịch để tiêu khiển, từ sơ đồ sao mùng bảy tháng bảy diễn ra đến sơ đồ sao mùng tám tháng bảy, lại từ tháng bảy phát triển đến tháng tám, từ tháng tám phát triển đến tháng chín, mãi cho đến hết năm, tính xong năm Kỷ Mùi thì lại tính đến năm Canh Thân, lặp lại một vòng như thế, mãi cho đến khi tối mịt mới nghỉ tay.
Liên tiếp ba ngày, Hàn Ngưng Tử không xuất hiện. Lương Tiêu tập trung vào thiên văn, cũng quên cả buồn phiền. Đến tối ngày thứ năm, hắn đã phát triển lịch đến năm Tân Mùi, rất mệt trong người, liền ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, vẫn còn đang ngủ, chợt cảm thấy thắt lưng đau nhói, gã mở choàng mắt, trông thấy Hàn Ngưng Tử đang đứng bên giường nhìn mình. Mặt bà ta nhợt nhạt, đôi mắt đỏ ngầu, như thể đã mất ngủ mấy đêm rồi. Thấy gã mở mắt, bà ta nói:
– Dậy!
Rồi ngồi xuống, lấy trong tay áo ra một vật đen đen, lạnh lùng bảo:
– Mở thử đi!
Lương Tiêu nhìn cái hộp dài chừng nửa thước, sực nghĩ ra, bèn hỏi:
– Đây là Thuần Dương thiết hạp bà ăn trộm được đây phải không?
Hàn Ngưng Tử nhướng mày:
– TRộm là thế nào? Thuần Dương thiết hạp vốn thuộc sở hữu của phái Đại Tuyết Sơn ta, bây giờ chỉ là quay về cố chủ thôi.
Lương Tiêu nhớ lại lời Sở Tiên Lưu, cãi:
– Cái hộp này rõ ràng là của Sở gia và Lôi gia, bà dựa vào cái gì mà bảo là của Đại Tuyết Sơn?
Hàn Ngưng Tử thản nhiên nói:
– Nói cho ngươi biết cũng không sao, cũng để ngươi tâm phục khẩu phục. Tổ tiên của hai nhà Sở, Lôi đó vốn là đồng môn với Hóa Dương chân nhân, sư tổ Đại Tuyết Sơn, năm đó cùng hợp sức đoạt hộp, nhưng hai lão Lôi, Sở đã đánh sư tổ ta bị thương, rồi không thèm đoái hoài đến sư tổ, cướp lấy cái hộp. Ta đã mất rất nhiều năm truy lùng con cháu hai nhà đó, mới biết tổ tiên họ ngày xưa mai danh ẩn tích, lần lượt lập ra Thiên Hương sơn trang và Lôi Công bảo. Theo ngươi, ta lấy lại hộp sắt có phải là chủ cũ lấy lại vật của mình không?
Lương Tiêu nói:
– Bà đánh cắp hộp sắt cũng được, nhưng tại sao lại giá họa cho… Liễu Oanh Oanh/
Hàn Ngưng Tử nhìn hắn rồi cười khanh khách:
– Ngươi đau lòng lắm hả? Ai bảo con nha đầu đó đến đau cũng ngông cuồng, ăn trộm xong còn để lại danh tính, đã thế ta cứ mượn luôn cái tên của nó.
Bà ta thấy Lương Tiêu có vẻ buồn, cười thầm, không lộ vẻ giận nữa:
– Nếu ngươi mở được hộp này, ta sẽ để ngươi đi gặp Liễu Oanh Oanh, đồng ý không?
Lương Tiêu hiểu ra, chắc Hàn Ngưng Tử không mở được hộp nên muốn bảo hắn thử, tuy gã không muốn, nhưng tính hiếu kỳ nổi lên, bèn nhấc cái hộp lên, cảm thấy nặng tay, bề mặt hộp không bằng phẳng, xem kỹ, chỉ thấy mặt hộp đầy những rãnh nhỏ, ngang dọc có hai mươi sáu đường, chia mặt hộp ra thành bảy trăm hai mươi chín ô vuông nhỏ, mỗi ô đều khắc chìm một chữ nhỏ ngay ngắn. Cái hộp không hiểu được đúc từ kim loại gì mà sau bao nhiêu năm vẫn rất ít bị chà xát.
Hàn Ngưng Tử nói:
– Bí quyết mở hộp nằm ở những chữ này, ta đã nghĩ rất lâu, nghĩ ra hai cách để mở hộp.
Lương Tiêu buột hỏi:
– Cách gì?
Hàn Ngưng Tử nói:
– Thứ nhất, mấy chữ này là một bức Toàn Cơ đồ, những câu thơ trong này sẽ báo cho ta biết cách mở hộp.
Lương Tiêu thắc mắc:
– Toàn Cơ đồ là gì?
Hàn Ngưng Tử liếc gã với vẻ khinh bỉ, cười nhạt:
– Toàn Cơ đồ là tập thơ hồi văn của nàng Tô Huệ thời Bắc triều. Chồng Tô Huệ tên Đậu Thao, là đại tướng trong triều, vì mang tội với hoàng đế nên bị đầy ra sa mạc. Tô Huệ thương chồng, bèn dùng chỉ ngũ sắc thêu một bức gấm gửi cho Đậu Thao, nội dung của bức này là ngang dọc đều hai mươi chín chữ, tổng cộng là tám trăm bốn mươi mốt chữ. Cứ đọc liên tục theo hàng ngang, dọc, chéo, thay thế, đọc ngược, đọc xuôi, đọc lùi là đều thành thơ.
Bà ta gọi A Băng lấy nước đổ vào nghiên, mài mực thật đậm, sau đó vung bút lông viết như gió trên mặt bàn đá, ngang dọc đan nhau tạo thành một hình vuông.
Hàn Ngưng Tử bảo A Băng lui ra, trò từng dòng chữ nói:
– Ngươi nhìn này: Thương tình hoài đức thánh ngu đường, chân chí đốc chung thệ khung thương, khâm sở cảm tưởng vọng dâm hoang, tâm ưu tăng mộ hoài thảm thương, nếu đọc ngược lại thì thành thương thảm hoài mộ tăng ưu tâm, hoang dâm vọng tưởng cảm sở khâm, thương khung thệ chung đốc chí chân, đường ngu thánh đức hoài tình thương, nói chung là rất xuôi tai. Các câu khác cũng tương tự, có thể nói là đảo điên bất tận.
Lương Tiêu nhìn xem, quả nhiên ngang dọc xuôi ngược đều thành câu cú, bất giác buột miệng khen:
– Nàng Tô Huệ tài thật.
Hàn Ngưng Tử cười nhạt:
– Chứ còn gì nữa? Từ xưa tới nay, đời nào mà chẳng có nữ nhân văn võ toàn tài. Lữ Trĩ, Võ Tắc Thiên, Dị An, Hồng Ngọc… có ai không phải là kỳ nữ nổi danh khắp thiên hạ? Nếu không phải bị bọn đàn ông các ngươi dùng quỷ kế áp chế, thì chắc chắn còn nhiều nữa.
Lương Tiêu không thông thuộc văn học lịch sử, không thể nói lại gì được, bèn đưa mắt nhìn kỹ những con chữ trên bề mặt hộp, chỉ cảm thấy kết cấu rất không chặt chẽ, bèn nói:
– Chữ trên cái hộp này khác hẳn Toàn Cơ đồ.
Hàn Ngưng Tử giằng lấy cái hộp sắt, vặn mạnh, chỉ nghe “rắc” một tiếng, ba dãy ô vuông xoay một vòng, cho đến khi bốn góc trùng khít với nhau thì lại phát ra một tiếng động nhỏ. Sau một lần xoay này, những con chữ trên bề mặt hộp đã thay đổi khác hẳn.
Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:
– Cái hộp này xoay được à?
Hàn Ngưng Tử giải thích:
– Thuần Dương thiết hạp chỉ cần ba dãy một nhóm, là có thể xoay ngang vặn dọc được.
Lương Tiêu lắc đầu:
– Đáng tiếc, chữ nghĩa trên hộp chẳng ăn nhập gì với nhau cả.
Hàn Ngưng Tử cau mày:
– Có lẽ xoay đến một lúc nhất định thì sẽ tạo thành Toàn Cơ đồ, sau đó đọc lần lượt các câu thì có lẽ sẽ giải được bí mật của hộp sắt. Có điều, ta đã xoay ba ngày hai đêm rồi mà không tìm ra manh mối gì cả. Nhưng ta đoán, hộp sắt này còn cách khác để mở ra được.
Lương Tiêu tò mò:
– Cách gì?
– Toán thuật.
Thấy Lương Tiêu vẫn chưa hiểu, Hàn Ngưng Tử nói rõ hơn:
– Ta nghe nói, vạn vật trong trời đất đều có mối tương quan với toán học, cái hộp sắt này hẳn không phải là ngoại lệ. Thêm nữa, trên bề mặt nó ngang dọc tổng cộng hai mươi bảy hàng và cột. Ta đoán cơ quan trong cái hộp này nhất định có liên quan đến toán học. Ngươi giỏi toán, hãy suy nghĩ kỹ xem, biết đâu mở được đấy.
Lương Tiêu lắc đầu:
– Tôi không nghĩ ra.
Hàn Ngưng Tử xạm mặt:
– Nghĩ thì chưa nghĩ, làm sao đã ra?
Lương Tiêu nói:
– Toán học là toán học, không có quan hệ gì với lẽ trời đất? Tôi không nghĩ ra là không nghĩ ra, bà giết cũng thế thôi.
Hàn Ngưng Tử tóm lấy cánh tay Lương Tiêu vặn quặt ra sau lưng, ấn sấp gã xuống giường đá, ấn tay lên huyệt đại chùy của Lương Tiêu. Lương Tiêu cảm thấy một luồng hàn khí xuyên vào người của mình rồi tỏa đi tứ chi bách hài, Hàn Ngưng Tử cười bên tai gã:
– Ngươi có nghe lời không?
Lương Tiêu phì một cái, Hàn Ngưng Tử hừ mũi, tức thì, Lương Tiêu chỉ cảm thấy kinh mạch toàn thân như bị hàng trăm hàng ngàn mũi kim lạnh giá nhất tề đâm vào, tức thì mồ hôi đầm đìa, hai tay bám chặt vào cạnh giường, cố sống cố chết bám vào đó khiến các đầu ngón tay ứa máu cả, không thở nổi nữa, lại ngất lịm đi.
Hàn Ngưng Tử đẩy hàn khí sang, đợi Lương Tiêu tỉnh lại hỏi:
– Súc sinh, ngoan ngoãn vâng lời chưa?
Lương Tiêu đáp:
– Không.
Hàn Ngưng Tử cười nhạt, lại đẩy nội lực. Lương Tiêu gồng mình, không hự một tiếng, chừng thời gian cạn nửa tuần trà, hai mắt tối sầm lại ngã ngất đi. Hàn Ngưng Tử thấy gã cứng cỏi như vậy cũng phải ngầm khâm phục: “Băng long hấp tủy đại pháp của ta đến cao thủ nội gia gặp phải nó cũng phải khóc hết nước mắt. Tiểu tử này đã mất nội công mà không kêu một tiếng nào, kể cũng lạ. ” Bà ta thúc Lương Tiêu tỉnh lại, cười nhạt:
– Rốt cục có vâng lời không?
Lương Tiêu chưa bao giờ bị tra tấn đến thế, toàn thân nhức nhối đớn đau, nhưng vẫn kiên cường, nghe vậy đáp luôn:
– Không!
Giọng tuy yếu ớt, nhưng kiên quyết khác thường. Hàn Ngưng Tử định tiếp tục thi triển Băng long hấp tủy đại pháp, lại sợ Lương Tiêu kiệt sức, không giữ được mạng sống. Bà ta tức giận, liền giơ chưởng chặt gãy một góc bàn đá, rồi quay phắt mình hầm hầm đi ra cửa.
Lương Tiêu nghe tiếng cửa đá khóa sập lại, nhưng gân cốt toàn thân đau nhói, hai mắt cũng mờ hết cả đi, không nhìn rõ gì nữa. Một lát sau, cảnh vật trước mắt lại rõ ràng trở lại, hắn thở hổn hển, gắng ngồi dậy, kinh ngạc quá đỗi, Thuần Dương thiết hạp vẫn nằm trên bàn, chắclà Hàn Ngưng Tử trong cơn tức giận đã quên thu về.
Lương Tiêu tính hiếu kỳ trỗi dậy, vớ lấy hộp sắt, xoay ngang một nhóm ba hàng làm một theo chiều ngược lại, xoay được hết một vòng thì nghe thấy bên trong hộp có tiếng động nhỏ, lại xoay theo chiều dọc thì hộp sắt cũng chuyển động. Lương Tiêu vặn cái hộp rất lâu, hết xoay trên lại xoay dưới, xoay dọc lại xoay ngang, xoay thuận chiều lại nghịch chiều, trước sau vẫn không tìm ra mấu chốt, đành quan sát kỹ văn tự trên hộp, khổ nỗi gã vốn không hiểu biết lắm về văn học, càng xem càng khó hiểu, chợt tâm niệm động một cái: “Hàn Ngưng Tử là người rất cẩn thận, khó khăn lắm mới đoạt được Thuần Dương thiết hạp, làm sao lại sơ suất bỏ quên? Mà kể cả sơ suát, tại sao bây giờ vẫn không quay trở lại lấy?”
Hắn nghi ngờ bèn đưa mắt nhìn, chỉ thấy trên nóc thấp thoáng một mảng tối, không sáng bừng như mọi ngày, tức thì tỉnh ngộ: “Bà ta đang nhìn trộm ư?” Bất giác lại toát mồ hôi lạnh, thầm khen may vì vừa rồi chưa mở được hộp, nếu không thì đã trúng phải gian kế của Hàn Ngưng Tử rồi, bèn tự nhủ: “Vậy ta cứ tương kế tựu kế, giỡn mặt mụ một phen. ” Tức thì làm ra vẻ suy nghĩ, cầm hộp sắt xoay trái ngắm phải, thoắt bật cười, thoắt tư lự, ra dáng suy nghĩ lắm.
Kỳ thực Hàn Ngưng Tử cố ý bỏ hộp sắt lại, sau khi ra khỏi cửa thì leo lên chỗ cao, nhìn trộm vào phòng qua lỗ nhỏ trên vách đá. Bà ta tự nhủ Lương Tiêu bắt được cơ hội ngàn năm một thuở này nhất định sẽ không kìm được sự hiếu kỳ, nghĩ cách mở hộp, đợi khi gã tìm ra cách rồi, bà ta sẽ lập tức đoạt về. Thấy Lương Tiêu cầm hộp đăm chiêu suy nghĩ, trong lòng bà ta rất lấy làm đắc ý, thấy Lương Tiêu cứ lúc vui lúc buồn, bà ta cũng đâm hồi hộp theo.
Đến giờ ngọ, Hàn Ngưng Tử thấy Lương Tiêu không mở được hộp, bèn rời đi một lúc, vội vàng đi dùng bữa trưa rồi quay lại nhìn trộm tiếp. Không ngờ trong một khoảnh khắc bà ta đi về đó, Lương Tiêu đều biết cả, ngoài mặt giả vờ, nhưng trong lòng chỉ suýt chút nữa là cười phá lên. Hàn Ngưng Tử cực kỳ kiên nhẫn, trông chừng đến lúc mặt trời xuống núi, đợi mãi cho đến khi trong Thiên Viên Địa Phương không còn ánh sáng mới chịu tạm ngừng, nhưng bà ta vẫn chưa nản lòng, thầm ngủ ngày mai lại tiếp tục tới theo dõi.
Ánh sáng vừa tắt, thạch thất lại chìm vào tối tăm, giơ tay lên cũng không nhìn thấy ngón. Lương Tiêu đoán chừng Hàn Ngưng Tử đã đi, bèn để hộp sắt lên bàn, nằm xuống giường, trong lúc mơ mơ màng màng, chợt thấy trong thạch thất có một tia sáng yếu ớt, chập chà chập chờn.
Lương Tiêu tưởng mình hoa mắt, bèn dụi mắt rồi nhìn lại xem, vẫn thấy ánh sáng đó lập lòe như cũ. Lại nhìn kỹ lần nữa, phát hiện ra ánh sáng mờ nhạt đó phát ra từ Thuần Dương thiết hạp. Lương Tiêu cầm lấy cái hộp, quả nhiên thấy ánh sáng lọt ra từ trong hộp, nếu không phải vì nơi đây quá tối thì cực kỳ khó phát hiện.
Lương Tiêu xem xét hồi lâu, chỉ thấy ánh sáng yếu ớt đó hoàn toàn không phải bắt nguồn từ cùng một chỗ, mà lúc chỗ này lúc chỗ kia, chỉ sáng lên một thoáng lại tắt ngấm. Lương Tiêu vần một lúc lâu, chợt thấy một nét ngang ngắn trong một chữ khải giống như vệt sáng mặt trời, lại một nét ngang dài ở một chữ khải trước, dài mảnh và ánh sáng rất mạnh, Lương Tiêu nghĩ ra: “Nếu ta xoay hộp sắt mấy vòng cho hai nét ngang đó lại gần thì có khi thành chữ ‘nhị ’. ” Lương Tiêu tuổi còn trẻ, nảy tính tinh nghịch, bèn xoay hộp sắt dọc ngang. Một lúc sau, hệt như ma xui quỷ khiến, hai vệt sáng đó tạo thành chữ “nhị” thật. Lương Tiêu tình cờ thành công thì vô cùng kinh ngạc, giơ hộp sắt lên xem xét thêm một hồi, lại thấy một nét bên trái của một chữ khải sang sáng, rồi một nét thẳng trong một trong một chữ khác cũng, bèn nghĩ bụng: “Nếu ghép luôn hai nét này vào chữ ‘nhị’ thì thành chữ ‘nguyên ’ phải không?”
Hắn lần mò một lúc nữa, quả thực xoay ra chữ “nguyên”. Chữ “nguyên” thành hình rồi thì năm mặt còn lại của cái hộp cũng sáng lên. Lương Tiêu phát hiện ra ánh sáng của một trong các mặt đó hợp lại thì sẽ thành chữ “phủ ”, chỉ có điều thiếu mất một nét bên trái, thiếu một nét bên trên, nhưng khi nhìn kỹ lại thì tìm thấy nó ở hai mặt khác của hộp, bèn xoay vặn một hồi đã ghép được chữ “phủ”. Chữ “phủ” thành hình rồi thì chữ “tông ” ở mặt ngay cạnh cũng thấp thoáng hiện ra, chỉ thiếu chữ “tiểu ” bên dưới, Lương Tiêu xoay vặn một hồi cũng ghép xong chữ “tông”.
Lại thấy những ánh sáng còn lại hợp thành chữ “tử ”, lúc này Lương Tiêu đã quen tay, ghép ngay thành chữ “tử”. Chữ “tử” vừa ghép xong, trong hộp chợt có âm thanh phát ra, rồi ánh sáng bên trong bừng lên, hắt qua khe nứt ra ngoài.
Câu đố suốt trăm năm đã được phá giải. Lương Tiêu cảm thấy dễ dàng quá, không dám tin là sự thực. Hắn vặn một cái, hộp sắt rời ra thành hai mươi bảy khối sắt lập phương, một quả cầu tròn nhẵn và phát sáng lăn ra lông lốc. Lương Tiêu nhặt quả cầu, đường kính của nó chừng hai phân, chất liệu như thủy tinh, nửa trắng nửa đen. Hai màu trắng đen này như vật sống, màu trắng yếu đi thì màu đen lại mạnh lên, màu đen nhạt đi thì màu trắng lại rực lên.
Lương Tiêu mở được hộp sắt xong thì lại quan sát kỹ càng quả cầu đen trắng, nhưng không hiểu được chỗ sâu xa thần kỳ của nó, bèn tận dụng ánh sáng trắng của quả cầu, xem xét kỹ những khối sắt rời, chỉ thấy các khối sắt đều vuông vức, bốn mặt đều có chữ. Lương Tiêu gắng sức xoay, nhưng cảm thấy các khối sắt không phải là liền một khối, lại mau chóng lỏng ra thành vô số mảnh sắt nhỏ, mỗi khối đều có một chữ, có những móc cong móc vào nhau.
Lương Tiêu bày các mảnh sắt ra, phát giác rằng văn tự trên các bản sắt có thể tạo thành câu, nghĩ đến Toàn Cơ đồ đã nhìn thấy lúc ban ngày, bèn nhờ ánh sáng của quả cầu, cứ theo mạch văn mà ghép từng miếng một với nhau. Lần này ghép quả thực so với nó chiết giải hộp sắt càng tốn nhiều tâm sức hơn, nhưng Lương Tiêu không ngại gì phiền toái, chăm chú vào nó thời gian cũng trôi qua rất mau, đến lúc canh năm trời sáng, Lương Tiêu mới ghép được hai mươi sáu miếng sắt nhỏ thành một tấm sắt lớn, trải trên đầu giường, chỉ thấy trên đó viết: “Thường có câu, trời tạo ra người, bề ngoài là hộp, thần thái bên trong là ngọc, mất thần thì thân chết, mất hình thì thần tan, là dùng cái ý hình và thần đều phải có của đạo gia, mới là tự nhiên. Ta làm cái hộp này, ngươi lại giải được nó, ngươi hiểu lòng ta như thế, ta mừng vui khôn xiết, nay ta xin biếu ngươi quả Âm Dương cầu này và mười hai thiên Tử phủ tông nguyên, gọi là bày tỏ tấc lòng này. ”
Lương Tiêu xem tiếp xuống dưới, bên dưới lại viết: “Âm Dương xâm chiếm lẫn nhau, sinh ra tinh khí, vào tuy không đủ, ra lại có thừa, tổn hại có thừa mà bổ sung không đủ, đó là lẽ trời vậy. ” Câu này quá đột ngột, Lương Tiêu không hiểu, lại xem tiếp xuống dưới, thì chính là bốn chữ “Tử Phủ Tông Nguyên”, sau đó đều là những câu thơ khẩu quyết. Lương Tiêu tự nhủ trời sáng ra thì Hàn Ngưng Tử sẽ đến đây ngay, mình đã vất vả suốt một đêm mà lại thành ra sửa soạn lễ vật cho mụ ma đầu ấy thì thật không đáng. Hàn Ngưng Tử viết xong nội dung Toàn Cơ đồ vẫn chưa vứt bút mực đi, Lương Tiêu bèn chấm mực bôi lên mặt miếng sắt, xét vạt áo trong rập lại những văn tự đó, sau đó lau các miếng sắt cho sạch, ghép lại thành hộp như cũ, lại sợ Hàn Ngưng Tử phát hiện ra trọng lượng có thay đổi, liền gõ lấy một mẩu bàn đá nhét vào trong hộp, đến khi công việc xong xuôi thì trời cũng sáng. Lương Tiêu mệt lử người, đem tấm vải và Âm Dương cầu nhét cả vào ngực áo, nằm lại giường, nhưng không muốn ngủ tí nào, mắt mở trừng trừng nhìn chằm chằm lên nóc hang. Không bao lâu sau, trên đó dần dần sáng lên, rồi thình lình tối lại bởi một khối sẫm. Lương Tiêu biết Hàn Ngưng Tử đã đến, liền làm ra vẻ ngủ say sưa, đến tận giờ ngọ mới dậy, cầm lấy một cuốn toán kinh lật xem, nhưng trước sau không ngó ngàng tới cái hộp sắt.
Thời gian trôi qua rất nhanh, một ngày trôi đi trong nháy mắt, vào lúc trời tối, cửa đá bỗng mở toang, Hàn Ngưng Tử bước vào, lạnh lùng quan sát Lương Tiêu. Lương Tiêu cố gắng trấn tĩnh, cứ lật giở cuốn toán kinh. Hàn Ngưng Tử biết mưu kế của mình đã bị gã nhận ra, liền tát hắn mấy cái cho đỡ tức rồi mới vớ lấy cái hộp nhét vào tay áo, đóng sầm cửa lại bỏ đi.
Tuy hai má đau sưng nhưng trong bụng Lương Tiêu vô cùng mừng rỡ, nhưng sợ mụ đàn bà ấy bất thình lình quay lại, nên đợi đến khuya khoắt mới dám lấy Âm Dương cầu ra, nghĩ ngợi: “Cái câu Âm Dương xâm chiếm lẫn nhau, sinh ra tinh khí, vào tuy không đủ, ra lại có thừa, chắc là nói đến quả Âm Dương cầu này đây. Tinh khí tức là nội lực. Đã nói, vào thì không đủ, chẳng phải là đem nội lực đổ vào quả cầu ư?” Tức thì gã nắm lấy quả cầu, thu hết nội lực còn lại dồn vào quả cầu. Một lát sau, tốc độ biến đổi của hai màu trắng đen tăng nhanh hẳn lên, Lương Tiêu chưa kịp nghĩ ngợi gì, đã thấy lòng bàn tay tê dại, một luồng khí nóng ấm dào dạt từ Âm Dương cầu tràn vào Lao cung huyệt, lần lên theo Thủ thiếu dương tam tiêu kinh, hòa vào khí hải Đản trung.
Lương Tiêu cảm thấy khó mà tin nổi, lại đẩy chân khí vào Âm Dương cầu, vần chuyển một hồi, lại có một luồng chân khí ồ ạt đưa ngược trở về thân thể gã. Lương Tiêu kinh ngạc và mừng rỡ khôn xiết, tức thì hiểu ra hàm ý của câu “vào tuy không đủ, ra lại có thừa, lấy cái có thừa mà bổ sung cho cái không đủ”, bất giác hoa chân múa tay, cười ha ha. Mừng rỡ một lúc lâu mới nắm quả cầu vào tay trái, lần này đưa chân khí vào Thủ thiếu dương tam tiêu kinh, luồng chân khí trở nên mạnh lại đưa về Đan điền, tỏa ra toàn thân, sau đó tụ lại, chảy vào quả cầu, cứ như thế không ngừng, Lương Tiêu cảm thấy nội lực mỗi lúc một đầy lên, không còn hiện tượng yếu ớt như trước nữa. Trước tiên gã luyện Thủ thiếu dương tam tiêu kinh, Tam tiêu đủ rồi thì lại cầm cầu sang tay phải, luyện Thủ thiếu âm tâm kinh, sau đó luyện Thủ thái âm phế kinh, Thủ dương minh đại trường kinh, Thủ quyết âm tâm bao kinh. Kế đó lại đến huyệt Dũng tuyền ở hai chân, luyện Túc dương minh vị kinh, Túc thái âm tì kinh, Túc thái dương bàng quang kinh, Túc thiếu dương đảm kinh, Túc quyết âm can kinh, mãi cho đến khi chân khí dâng lên, mới ngậm Âu Dương cầu vào cuống lưỡi, lưỡi là chiếc cầu nối trong cơ thể nối sang bát mạch kỳ kinh, chân khí đi qua lưỡi vào trong Âm Dương cầu, chuyển vận một hồi rồi trở ra
Lương Tiêu luyện tập đến quên hết mọi thứ trên đời, hoàn toàn quên thời gian trôi đi, lúc ngừng tay thì trời đã nhập nhoạng tối, lại một buổi chiều tà nữa đã qua. Cơm nước đặt trước cửa đã nguội cả, chắc A Băng gọi không được đành cứ để đấy.
Mười mấy ngày sau đó, Hàn Ngưng Tử không hề đến, Lương Tiêu càng mừng, vì thế thì chẳng ai làm rối loạn quá trình luyện tập của hắn. Chỉ có điều, khi nội lực Lương Tiêu tăng tiến lên thì chân khí mà Âm Dương cầu sinh ra lại yếu đi nhiều, lúc đầu một vào phải ra được mười, năm ngày sau vào một chỉ ra được chín, mỗi ngày một sút kém đi hơn, đến ngày thứ hai mươi, chỉ còn một sinh bốn. Lương Tiêu tuy kinh ngạc, nhưng cũng không hiểu nguyên do tại sao.
Hôm ấy, Lương Tiêu xong một lần luyện tập thì bắt đầu nghĩ cách thoát thân. Hắn nghĩ bụng mấy hôm nay nội lực tuy đã hồi phục nhiều, nhưng vẫn không phải là đối thủ của Hàn Ngưng Tử,. Nghĩ đi nghĩ lại, gã nghĩ tới bảy chiêu kiếm đâm tim trong Đàm Sương kiếm phổ, lập tức lấy một thanh gỗ bắt chước đâm thử, luyện đến lúc nhanh nhất, que tính phát ra tiếng rít. Lương Tiêu càng múa càng hứng khởi, đâm vào tường hang, que tính kêu phụp một tiếng, đâm lún vào đá chừng nửa phân. Lương Tiêu vui mừng vô cùng, đêm ngày luyện tập không ngưng nghỉ.
Hôm ấy, gã đang luyện kiếm thì chợt nghe ngoài cửa có tiếng lộp cộp, hình như có ai đến, mà không chỉ một người. Lương Tiêu ngậm Âm Dương cầu vào miệng, định bụng hễ cửa thạch thất mở ra là sẽ bất thình lình đâm ngã A Băng, rồi đánh lui Hàn Ngưng Tử, chạy tuốt vào rừng trúc.
Chỉ nghe tiếng lọp cộp càng lúc càng mau, chợt dừng lại trước cửa. Tim Lương Tiêu đập dữ dội, hai tay run run, chợt nghe kẹt một tiếng, cửa đá mở ra. Lương Tiêu bật lên như tên buông dây cung, định lao ra ngoài, nhưng đã có ba người ập vào, xô về phía gã. Điều này khác hẳn dự liệu của Lương Tiêu. Chưa rõ họ là địch hay bạn, Lương Tiêu không dám ra tay trước, đành lắc mình né tránh. Chỉ nghe Hàn Ngưng Tử cười vang bên ngoài:
– Tiểu tử, ngươi ương bướng không nghe lời, nên ta mang đến cho ngươi một ít bầu bạn, ha ha, hãy từ từ mà tiêu hóa đi.
Nói rồi cười lớn bỏ đi.