Đại Chiến Hacker

Chương 19 - Chương 19

trước
tiếp

Đây là e-mail được gửi đi lúc 7 giờ sáng hôm sau, trong lúc Ange và tôi đang phun sơn dòng chữ VAMPMOB CIVIC CENTER → → tại các điểm chiến lược khắp thành phố.

LUẬT CHƠI VAMPMOB

Bạn là thành viên của bộ tộc ma cà rồng ban ngày. Bạn vừa khám phá ra bí mật làm sao để tồn tại dưới ánh sáng kinh khủng của mặt trời. Bí mật đó chính là ăn thịt đồng loại: máu của một ma cà rồng khác sẽ đem lại cho bạn sức mạnh để đi giữa những người sống.

Bạn cần cắn càng nhiều ma cà rồng càng tốt để có thể tồn tại trong trò chơi. Nếu một phút trôi qua bạn vẫn không cắn được lần nào, bạn bị loại. Một khi bạn bị loại, hãy quay ngược áo bạn ra đằng sau và làm trọng tài – quan sát hai đến ba ma cà rồng xem họ có cắn được ai không.

Để cắn ma cà rồng khác, bạn phải nói “Cắn!” năm lần trước khi họ kịp nói. Do đó, bạn cần chạy đến ma cà rồng, nhìn họ, và hét lên “cắn cắn cắn cắn cắn!” và nếu bạn nói nhanh hơn đối thủ, bạn sống, còn đối thủ bị nghiền thành tro.

Bạn và những ma cà rồng bạn gặp tại điểm tập kết là một đội. Họ là bộ tộc của bạn. Máu của họ không có ích lợi gì cho bạn.

Bạn có thể “tàng hình” bằng cách đứng im và khoanh tay trước ngực. Bạn không thể cắn ma cà rồng tàng hình, và họ cũng không thể cắn bạn.

Trò chơi này được chơi dựa trên hệ thống danh dự. Mục đích chính là vui vẻ và đóng vai ma cà rồng, không phải thắng thua.

Trò chơi sẽ kết thúc và được thông báo bằng cách truyền miệng khi những người chiến thắng bắt đầu hiện diện. Những người quản trò sẽ bắt đầu chiến dịch thì thầm truyền tai nhau giữa những người chơi khi đến giờ kết thúc. Hãy phát tán tin tức này càng nhanh càng tốt và chú ý đến dấu hiệu.

M1k3y

Cắn cắn cắn cắn cắn!

Chúng tôi hy vọng rằng sẽ có một trăm người sẵn sàng tham gia VampMob. Mỗi người chúng tôi đều đã gửi khoảng hai trăm thư mời. Nhưng khi tôi ngồi bật dậy lúc 4 giờ sáng và vồ lấy cái Xbox, tôi thấy bốn trăm thư trả lời. Bốn trăm cơ đấy.

Tôi cung cấp địa chỉ vào các bot tự động và trốn ra khỏi nhà. Tôi đi xuống nhà, nghe ngóng tiếng bố ngáy và mẹ trở mình. Tôi khóa cửa lại.

Lúc 4 giờ 15 sáng, đồi Potrero im lặng như vùng ngoại ô. Cũng có tiếng động cơ xe cộ ở đâu đó, và bất thình lình, một chiếc xe chạy vụt qua tôi. Tôi dừng lại ở một máy rút tiền và rút 320 đô la toàn tờ 20 đô, cuộn tiền thành một cuộn nhỏ, buộc chun quanh cuộn tiền và đút vào một cái túi có khóa trên đùi chiếc quần ma cà rồng tôi đang mặc.

Tôi lại được mặc cái áo choàng của mình, bên trong là một chiếc áo phông nhàu nhĩ và quần âu đã được sửa lại để có đủ túi cho tôi nhét những thứ lung tung. Tôi đi đôi bốt có khóa có hình đầu lâu bằng bạc và vuốt tóc dựng lên. Ange sẽ mang theo phấn trắng, hứa sẽ vẽ mắt và sơn móng tay màu đen cho tôi. Tại sao lại không nhỉ? Biết khi nào tôi mới có thể chơi trò hóa trang này nữa?

Ange gặp tôi ở trước cửa nhà cô. Cô cũng đeo ba lô và đi tất lưới, mặc váy theo kiểu Gothic, bôi mặt trắng xóa, vẽ mắt đậm, trên ngón tay và cổ cô đeo nhiều trang sức bằng bạc.

“Trông em/anh thật tuyệt,” chúng tôi khen nhau gần như cùng một lúc, cố cười thật khẽ và đi xuống đường, trong túi chúng tôi là những bình sơn.

Khi xem xét Civic Center, tôi thử hình dung ra cảnh nơi này trông sẽ thế nào khi bốn trăm thành viên VampMob cùng đổ về đây. Tôi hy vọng họ sẽ tập trung đầy đủ trong vòng mười phút, ngay trước Tòa thị chính. Khu trung tâm thương mại này lúc nào cũng đông người qua kẻ lại, họ luôn cẩn thận né tránh đám ăn xin vô gia cư ở đó.

Tôi ghét khu Civic Center. Đây là tổ hợp các tòa nhà cao tầng được thiết kế như những cái bánh cưới: tòa án, bảo tàng và các tòa nhà dân sự như Tòa thị chính. Vỉa hè rất rộng, trải trước những cao ốc màu trắng. Trong các sách hướng dẫn du lịch về San Francisco, người ta cố tình chụp sao cho nó giống trung tâm Epcot 1 , mang hơi hướng vị lai và giản dị.

Nhưng dưới mặt đất, cảnh tượng thật bẩn thỉu và ghê tởm. Người vô gia cư ngủ la liệt trên bất cứ cái ghế nào còn trống. Đến sáu giờ chiều thì cả quận vắng tanh, trừ đám say xỉn và nghiện ngập, vì đâu đâu cũng chỉ có mỗi một kiểu cao ốc như vậy thì chả có lý do hợp pháp gì để mọi người lảng vảng sau khi mặt trời lặn cả. Nó giống như một khu phố thương mại hơn là một khu nhà ở, và hoạt động kinh doanh duy nhất ở đây là các hãng đòi nợ thuê và các cửa hàng rượu, nơi cung cấp thực phẩm cho những gia đình toàn tội phạm bị truy nã và những kẻ vô công rồi nghề lấy nơi đây làm chỗ nghỉ qua đêm.

Tôi đã ngộ ra tất cả những điều này khi đọc được một bài phỏng vấn với một nữ chuyên gia quy hoạch đô thị lớn tuổi và cực kỳ đáng nể tên là Jane Jacobs, người đầu tiên thẳng thắn chỉ ra chính quyền đã sai ở đâu khi chia cắt các thành phố bằng đường cao tốc, gán tất cả những người nghèo vào các dự án nhà ở và sử dụng luật khoanh vùng để kiểm soát chặt chẽ ai có thể làm gì ở đâu.

Jacobs giải thích rằng những thành phố thực sự đều phân khu rõ ràng theo nhiều tiêu chí – giàu sang và nghèo khổ, da trắng và da màu, người Anglo và Mexico, khu bán lẻ và khu nhà ở, thậm chí cả khu công nghiệp. Trong khu vực như vậy, bất kể ban ngày hay ban đêm, lúc nào cũng có tất cả các loại người qua lại, vì vậy bạn sẽ thấy các hoạt động kinh doanh phục vụ không sót một nhu cầu nào, bạn sẽ thấy con người ở khắp nơi vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, đóng vai trò như tai mắt trên đường phố.

Điều này không lạ gì với bạn. Bạn đi bộ quanh một khu lâu đời hơn nào đó của một thành phố nào đó và nhận ra rằng khu này có đủ mọi cửa hàng bắt mắt nhất, những người đàn ông mặc com lê và những người ăn mặc rách rưới, những nhà hàng đắt đỏ và những quán cà phê hiện đại, có thể là một rạp chiếu phim nhỏ nữa, rồi những ngôi nhà được sơn quét bằng tay. Tất nhiên, có thể bạn còn thấy một quầy Starbucks nữa, nhưng cũng có cả một khu chợ hoa quả chật hẹp và một người bán hoa với dáng vẻ như cụ già ba trăm tuổi khi bà tỉ mẩn tỉa từng bông hoa bày trên cửa sổ của mình. Đó là sự đối lập của một không gian được quy hoạch, như một trung tâm mua sắm. Nó mang lại cảm giác một khu vườn hoang hay thậm chí là một khu rừng: như thể nó đang lớn lên.

Bạn không thể không nghĩ ngay đến Civic Center. Tôi đã đọc một bài phỏng vấn với Jacobs, trong đó bà nói về một khu vực rất lâu đời mà họ đã phá đi để xây lại. Trước đây đã từng tồn tại những khu như thế, những nơi xuất hiện mà không cần sự cho phép, sự hòa hợp hay bất cứ lý do gì.

Jacobs nói rằng bà phỏng đoán sau vài năm nữa, Civic Center có thể trở thành một trong những khu tệ hại nhất thành phố, một thị trấn ma vào ban đêm, một nơi vẫn còn rải rác vài quán rượu xập xệ và những nhà nghỉ lổm ngổm toàn rệp. Trong bài phỏng vấn, bà tỏ ra không mấy hào hứng khi làm sáng tỏ sự việc khi miêu tả diện mạo của Civic Center trong tương lai, nghe như thể bà đang nói về một người bạn đã chết.

Bây giờ đang là giờ cao điểm và Civic Center vẫn đông đúc như mọi khi. Ga BART của Civic Center cũng là một trong những ga chính của hệ thống xe điện Muni, và đây là nơi bạn có thể đổi từ tàu điện sang xe buýt nếu cần. Vào tám giờ sáng, có hàng nghìn người lên xuống các bậc thang, taxi và xe buýt. Họ bị kẹt cứng tại các điểm kiểm soát của DHS đặt tại các tòa nhà dân sự và bị vây quanh bởi đám người ăn xin hung hãn. Họ đều thơm nức mùi dầu gội và nước hoa cologne, vừa sạch sẽ tinh tươm bước ra khỏi phòng tắm và chỉn chu trong bộ com lê công sở, vung vẩy máy tính xách tay và cặp táp. Vào tám giờ sáng, Civic Center là trung tâm thương mại.

Và những con ma cà rồng đã xuất hiện. Hai tá đang đi xuống Van Ness, hai tá đang đi lên phố Chợ. Thêm một số đến từ phía kia của phố Chợ. Một số đi lên từ Van Ness. Họ lướt quanh các tòa nhà, mặt mũi quét sơn trắng bệch và mắt kẻ đen sì, quần áo đen, áo khoác da, bốt khủng nặng trịch. Những đôi găng tay lưới hở ngón.

Họ bắt đầu tràn ra khắp trung tâm mua sắm. Vài nhân viên công sở liếc qua họ rồi quay đi, không hề muốn để những kẻ kỳ dị này bước vào thực tế riêng tư của mình khi họ nghĩ đến những chuyện rắc rối mà họ phải vượt qua trong tám giờ đồng hồ tới. Các ma cà rồng đi lòng vòng, không biết lúc nào cuộc chơi bắt đầu. Họ đứng thành từng nhóm lớn, như dòng dầu hội tụ, tất cả toàn màu đen tụ họp tại một nơi. Rất nhiều trong số đó đội mũ cổ, mũ quả dưa và mũ chóp cao. Nhiều cô gái mặc những bộ đồ hầu gái theo phong cách Gothic với những đôi dày đế bằng to tướng.

Tôi cố gắng ước lượng số người tham gia. Hai trăm. Năm phút sau lên ba trăm. Bốn trăm. Họ vẫn tiếp tục tràn đến. Những ma cà rồng mang theo cả bạn bè.

Ai đó vỗ mông tôi. Tôi quay lại và thấy Ange đang cười ngặt nghẽo đến mức cô phải ôm chặt bụng, gập người lại.

“Nhìn họ kìa, trời ơi, nhìn họ kìa!” cô thở dốc. Quảng trường đã đông gấp đôi so với vài phút trước. Tôi không biết có bao nhiêu người sử dụng mạng Xnet, nhưng dễ phải đến một nghìn người đang có mặt tại bữa tiệc nho nhỏ của tôi. Chúa ơi.

Người của Cục An ninh Nội địa và Sở Cảnh sát San Francisco bắt đầu lượn lờ, liên lạc qua bộ đàm và tập trung lại với nhau. Tôi nghe thấy tiếng còi báo động ở xa xa.

“Được rồi,” tôi nói, lắc tay Ange. “Được rồi, đi thôi.”

Chúng tôi cùng lách ra khỏi đám đông và ngay khi gặp con ma cà rồng đầu tiên, chúng tôi đồng thanh hô to, “Cắn cắn cắn cắn cắn!”. Nạn nhân của tôi là một cô bé ngơ ngác như nai, bàn tay vẽ mạng nhện và mascara bị lem đang chảy xuống hai bên má. Cô nói “Ôi khốn thật” và rời đi, thừa nhận rằng đã bị tôi tóm.

Tiếng “cắn cắn cắn cắn cắn” đã khuấy động những ma cà rồng gần đó. Vài người trong số họ bắt đầu tấn công lẫn nhau, những người khác di chuyển để hỗ trợ, hoặc để trốn. Tôi giữ nạn nhân lại một phút, trốn đi chỗ khác và lợi dụng những người bình thường để che chắn. Xung quanh tôi nhốn nháo những tiếng hô “cắn cắn cắn cắn cắn!”, tiếng hét, tiếng cười và tiếng nguyền rủa.

Âm thanh lan tỏa như vi rút trong đám đông. Tất cả các ma cà rồng đều đã biết cuộc chơi chính thức bắt đầu, và những đám người đang túm tụm vào nhau giờ tản ra như ruồi. Họ cười phá lên, chửi rủa và di chuyển, nhắc nhở các ma cà rồng còn đứng yên rằng cuộc chơi đã bắt đầu. Trong lúc đó, các ma cà rồng mới vẫn tiếp tục kéo đến.

8 giờ 16. Đã đến lúc đi săn ma cà rồng khác. Tôi cúi xuống và len lỏi qua chân những người không liên quan khi họ đi xuống các bậc thang của BART. Họ nhảy lùi lại vì bất ngờ rồi né người qua để tránh tôi. Tôi tia thấy một đôi bốt đế bằng có mấy con rồng bằng thép trước ngón cái, bởi vậy tôi không hề nghĩ sẽ phải đối mặt với một ma cà rồng khác, một cậu bé chừng mười lăm, mười sáu tuổi, tóc vuốt keo ngược về đằng sau và mặc áo Marilyn Manson, cổ đeo một chuỗi vòng xâu những cái răng nanh giả được khắc toàn biểu tượng phức tạp.

“Cắn cắn cắn…” thằng bé mới mở miệng thì một người bình thường đã vấp phải nó và cả hai bò lồm cồm dưới đất. Tôi nhảy bổ vào nó và hét lên “cắn cắn cắn cắn cắn!” trước khi nó kịp đứng dậy.

Thêm nhiều ma cà rồng nữa kéo đến. Họ mặc những bộ đồ rất quái dị. Mọi người tràn ngập vỉa hè và di chuyển sang Van Ness, lan cả đến phố Chợ. Những người lái xe bấm còi inh ỏi, xe điện phát ra những tiếng đing đing bực bội. Tôi nghe thấy thêm nhiều tiếng còi báo động nữa, nhưng hiện tại giao thông đã bị tắc nghẽn ở mọi hướng.

Cảnh tượng thú vị đến kỳ cục.

CẮN CẮN CẮN CẮN CẮN!

Âm thanh phát ra từ bốn phía quanh tôi. Có rất nhiều ma cà rồng đang hết sức hung hăng, nghe như họ đang gầm gào vậy. Tôi đánh liều đứng dậy nhìn xung quanh và nhận ra rằng mình đang ở giữa một đám đông khổng lồ toàn những ma cà rồng, đông đến nỗi dù có rướn người lên nhìn mọi hướng thì tôi cũng chỉ thấy ma cà rồng mà thôi.

CẮN CẮN CẮN CẮN CẮN!

Tiếng la hét thậm chí còn to hơn buổi hòa nhạc trong công viên Dolores. Đêm hôm đó, đám đông la hét vì giận dữ và nổi loạn, nhưng hôm nay thì… chà, chỉ đơn thuần là sự vui vẻ. Như thể chúng tôi đang quay lại sân chơi thời thơ ấu, chơi những trò quen thuộc vào giờ nghỉ trưa, dưới ánh nắng mặt trời rực rỡ, hàng trăm đứa trẻ đuổi nhau chạy vòng vòng. Người lớn và xe cộ chỉ khiến trò này thêm vui hơn, buồn cười hơn.

Chính thế đấy: nó rất buồn cười. Giờ thì tất cả chúng tôi đều đang cười ha ha.

Nhưng cảnh sát đang thực sự triển khai lực lượng. Tôi nghe thấy tiếng trực thăng. Trò chơi có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Đã đến lúc hạ màn.

Tôi tóm lấy một ma cà rồng.

“Kết thúc trò chơi: Khi cảnh sát yêu cầu chúng ta giải tán, hãy giả vờ như cậu hít phải hơi cay nhé. Truyền tin đi. Tớ vừa nói gì?”

Ma cà rồng này là một cô bé nhỏ nhắn, thấp đến nỗi tôi đoán cô hãy còn con nít, nhưng nụ cười và khuôn mặt của cô lại cho thấy hẳn cô phải mười bảy, mười tám tuổi rồi. “Ồ, kỳ cục vậy,” cô nói.

“Tớ vừa nói gì?”

“Kết thúc trò chơi: Khi cảnh sát yêu cầu chúng ta giải tán, hãy giả vờ như cậu hít phải hơi cay nhé. Truyền tin đi. Tớ vừa nói gì?”

“Đúng rồi,” tôi nói. “Truyền tin đi.”

Cô biến mất vào đám đông. Tôi tóm một ma cà rồng nữa. Tôi truyền tin. Cậu ta bắt đầu phát tán thông tin.

Đâu đó trong đám đông, tôi biết Ange cũng đang làm điều tương tự. Đâu đó trong đám đông, có thể có người ngoài cuộc, một kẻ sử dụng Xnet mạo danh, nhưng chúng có thể làm được gì với thông tin này? Cảnh sát chẳng còn lựa chọn nào khác. Họ sẽ bắt chúng tôi phải giải tán. Đảm bảo luôn.

Tôi phải tìm được Ange. Kế hoạch là chúng tôi sẽ gặp nhau tại tượng Những người sáng lập trong Plaza, nhưng để đến được đó thì rất khó khăn. Đám đông không di chuyển nữa mà đang tràn xuống, giống như đám đông tràn xuống ga BART vào ngày xảy ra vụ đánh bom. Tôi vật lộn để len qua đám đông ngay khi loa trên trực thăng bắt đầu nói.

“ĐÂY LÀ CỤC AN NINH NỘI ĐỊA. YÊU CẦU TẤT CẢ GIẢI TÁN NGAY LẬP TỨC.”

Xung quanh tôi, hàng trăm ma cà rồng ngã vật xuống đất, ôm lấy họng, cào vào mắt, thở hổn hển. Thật là dễ khi giả vờ bị trúng hơi cay, tất cả chúng tôi đều có thừa thời gian để nghiên cứu cảnh những người tham gia bữa tiệc ở công viên Dolores Mission ngã xuống dưới làn sương hơi cay.

“GIẢI TÁN NGAY LẬP TỨC.”

Tôi ngã xuống đất, bảo vệ túi đồ của mình, mò mẫm để tìm cái mũ lưỡi trai màu đỏ cất ở trong cạp quần. Tôi đội mũ vào rồi cũng ôm lấy họng, phát ra những tiếng kêu rùng rợn.

Chỉ những người bình thường mới đứng nguyên, những người làm công ăn lương – những người nãy giờ vẫn gắng hết sức để làm công việc của mình. Tôi vừa quan sát họ vừa ho sặc sụa và thở lào khào.

“ĐÂY LÀ CỤC AN NINH NỘI ĐỊA. YÊU CẦU TẤT CẢ GIẢI TÁN NGAY LẬP TỨC.” Tiếng nói của Chúa làm ruột gan tôi lộn tùng phèo. Tôi cảm thấy nó trong răng mình, trong cả xương đùi và xương sống.

Những người bình thường thì sợ hãi. Họ đang giải tán càng nhanh càng tốt, nhưng không theo một hướng nhất định nào. Những chiếc trực thăng xà quần như đang ở ngay trên đầu bạn bất kể bạn đứng ở đâu. Cảnh sát cố len vào đám đông và đội mũ bảo hiểm. Vài cảnh sát có khiên chắn. Một số khác đeo cả mặt nạ chống độc. Tôi thở khó nhọc hơn.

Rồi những người bình thường bắt đầu chạy tán loạn. Có lẽ lúc đó tôi nên chạy theo. Tôi thấy một người đàn ông cởi phăng chiếc áo khoác trị giá năm trăm đô ra và quấn nó quanh mặt trước khi chạy về phía Nam đến khu Mission nhưng bị vấp và phải bò lồm cồm. Tiếng chửi thề của anh ta lẫn vào những âm thanh bị nghẹn lại.

Tôi không dự tính điều này sẽ xảy ra – tiếng thở khò khè chỉ để dọa mọi người và khiến họ bối rối, không phải là để làm họ hoang mang đến mức xô đẩy, chạy trốn như ong vỡ tổ thế này.

Giờ thì có cả tiếng la hét, tiếng la hét mà tôi biết quá rõ kể từ buổi tối trong công viên. Đó là âm thanh của những người sợ hãi tột cùng, va vấp vào nhau khi cố gắng trong tuyệt vọng để thoát khỏi chỗ này.

Và sau đó, những tiếng còi hụ từ trên không trung bắt đầu dội xuống.

Tôi chưa nghe thấy tiếng động nào như thế kể từ sau vụ nổ bom, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được nó. Nó cắt vào da thịt tôi và làm chân tôi mềm nhũn. Nó khiến tôi muốn chạy đi thật xa trong cảm giác hoảng loạn. Tôi đứng dậy, đội mũ lên đầu, chỉ nghĩ về một điều duy nhất: Ange. Ange và tượng Những người sáng lập.

Lúc này tất cả đã đứng dậy, la hét và tỏa ra mọi hướng. Tôi đẩy mọi người khỏi đường đi của mình, giữ chặt túi và mũ, hướng đến tượng Những người sáng lập. Masha đang tìm tôi, tôi đang tìm Ange. Ange đang ở đâu đó.

Tôi xô đẩy và chửi thề. Huých cùi chỏ vào ai đó. Ai đó khụy xuống chân tôi mạnh đến mức tôi cảm thấy cái gì đó vỡ vụn và tôi đẩy anh ta, làm anh ta ngã lăn ra. Anh ta cố gắng để đứng lên nhưng lại bị ai đó dẫm vào. Tôi tiếp tục xô đẩy và tiến về phía trước.

Sau đó tôi đưa tay ra để đẩy một ai đó thì một bàn tay rất khỏe đã nắm lấy cổ tay và khuỷu tay tôi một cách dứt khoát và giật cả cánh tay tôi ra sau lưng. Cảm giác như khớp vai chuẩn bị trệch ra và tôi nhanh chóng co người lại, la hét, một âm thanh gần như là không nghe thấy được trong tiếng hỗn loạn của đám đông, tiếng đều đều của máy bay lên thẳng và tiếng rền rĩ của còi báo động.

Tôi bị kéo giật lên bởi hai bàn tay rất khỏe đằng sau lưng, điều khiển tôi như một con rối. Cú đòn quá hoàn hảo, thậm chí tôi không còn nghĩ đến việc cựa quậy nữa. Tôi không thể nghĩ về tiếng ồn hay những chiếc trực thăng hay Ange. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là di chuyển theo hướng mà người đó muốn tôi đi. Tôi bị kéo vòng lại để đối mặt với người đã tóm tôi.

Đó là một đứa con gái với khuôn mặt sắc cạnh giống loài gặm nhấm, đôi kính râm to đùng che nửa mặt. Phía trên đôi kính là mái tóc màu hồng sáng, được vuốt lỉa chỉa ra tứ phía.

“Chính cô!” tôi nói. Tôi biết cô ta. Cô ta đã chụp ảnh tôi và dọa sẽ đưa nó lên trang theo dõi học sinh trốn học. Đó là năm phút trước khi còi báo động rú lên. Chính là cô ta, một kẻ tàn nhẫn và xảo quyệt. Chúng tôi đã cùng chạy từ một địa điểm ở Tenderloin khi còi ô tô inh ỏi đằng sau và chúng tôi đều bị cảnh sát tóm. Tôi đã tỏ ra rất ngang ngạnh và họ quyết định rằng tôi là kẻ thù.

Cô ta – Masha – đã trở thành đồng minh của họ.

“Xin chào, M1k3y,” cô ta rít vào tai tôi, áp sát vào tôi như người yêu. Bất giác tôi rùng mình. Cô ta thả tay tôi và tôi giằng ra.

“Chúa ơi,” tôi nói. “Chính cô!”

“Đúng, chính là tôi,” cô ta đáp. “Hơi cay chuẩn bị phun sau hai phút nữa thôi. Phải biến khỏi đây ngay.”

“Ange – bạn gái tôi – đang ở chỗ tượng Những người sáng lập.”

Masha nhìn bao quát đám đông. “Không còn cơ hội đâu,” cô ta nói. “Nếu cố tới đó, chúng ta sẽ chết. Khí ga sẽ phun xuống sau hai phút nữa, nếu cậu đã bỏ qua lời tôi nói khi nãy.”

Tôi không nhúc nhích. “Tôi không đi nếu không có Ange,” tôi nói.

Cô ta nhún vai. “Tùy thôi,” cô ta hét vào tai tôi. “Đám tang của cậu đấy.”

Cô ta bắt đầu xô đẩy đám đông, chạy về phía Bắc, tiến vào trung tâm thành phố. Tôi tiếp tục hướng đến tượng Những người sáng lập. Vài giây sau đó, tay tôi lại bị khóa lại và tôi đang bị kéo quanh, bị đẩy đi về phía trước.

“Cậu biết quá nhiều rồi, đồ khốn,” cô ta nói. “Cậu đã thấy mặt tôi. Cậu phải đi với tôi.”

Tôi hét vào mặt cô ta, chống cự cho đến khi tôi cảm thấy tay mình sắp gãy đến nơi nhưng cô ta vẫn đẩy tôi về phía trước. Chân tôi đau rã rời theo từng bước đi, vai tôi sắp rời ra.

Với việc cô ta dùng tôi như lá chắn, chúng tôi đẩy đám đông ra dễ dàng. Tiếng động cơ trực thăng thay đổi và cô ta đẩy tôi mạnh hơn. “CHẠY!” Cô ta hét lên. “Hơi cay đấy!”

Tiếng ồn ào của đám đông cũng thay đổi. Tiếng ngạt hơi và tiếng la hét mỗi lúc một lớn. Tôi đã nghe thấy tiếng động đó trước đây. Khi chúng tôi ở công viên. Hơi cay phun xuống như mưa. Tôi nín thở và chạy.

Chúng tôi thoát khỏi đám đông và cô ta thả tay tôi ra. Tôi giật mạnh. Tôi đi cà nhắc nhanh hết sức khi đám công càng ngày càng thưa đi. Chúng tôi đang tiến lại gần một nhóm cảnh sát của DHS được trang bị khiên chắn, mũ bảo hiểm và mặt nạ chống độc. Khi chúng tôi đến sát họ, họ tiến đến để chặn chúng tôi lại nhưng Masha giơ một cái phù hiệu lên và họ lại tản ra như thể cô ta là Obi Wan Kenobi và đang nói “Đây không phải những người máy mà các người đang tìm kiếm đâu.”

“Đồ khốn kiếp chết tiệt,” tôi nói trong lúc cả hai tăng tốc đến phố Chợ. “Chúng ta phải quay lại tìm Ange.”

Cô ta cắn môi và lắc đầu. “Tôi hiểu tâm trạng của cậu. Tôi cũng không gặp bạn trai hàng mấy tháng nay rồi. Có lẽ anh ấy nghĩ rằng tôi đã chết. Số phận chiến tranh. Nếu chúng ta quay lại tìm Ange của cậu, chúng ta sẽ chết. Nếu chúng ta cố gắng tiếp, chúng ta có một cơ hội. Nếu chúng ta có một cơ hội, cô ta cũng có một cơ hội. Không phải tất cả những đứa trẻ đó đều sẽ đến Gitmo. Họ sẽ bắt khoảng mấy trăm đứa để tra hỏi và cho lũ còn lại về nhà.”

Chúng tôi đang đi trên phố Chợ, ngang qua dãy quán bar thoát y vũ, nơi cắm rễ của lũ vô công rồi nghề và nghiện ngập, hôi như một cái hố xí. Masha dẫn tôi đến một căn phòng hơi thụt vào một góc nhỏ phía sau cánh cửa của một trong những quán bar thoát y vũ. Cô ta cởi bỏ áo khoác và lộn trái nó – lớp vải lót có sọc kẻ, đường may ngược lại, trông khác hẳn. Cô ta lấy một cái mũ len từ túi áo và trùm qua tóc, để nó thật tự nhiên, không đúng giữa đỉnh đầu. Sau đó, cô ta lấy ra vài miếng bông tẩy trang lau mặt và ngón tay. Sau một phút, cô ta đã biến thành một phụ nữ khác.

“Thay quần áo đi,” cô ta nói. “Giờ tới lượt cậu, bỏ giày ra, áo khoác, mũ.” Tôi hiểu ý cô ta. Cảnh sát sẽ rà soát kỹ bất cứ ai trông giống như thành viên của VampMob. Tôi vứt bỏ cái mũ – chưa bao giờ tôi thích mũ lưỡi trai bóng chày cả. Sau đó tôi nhét áo khoác vào ba lô và lấy ra một cái áo phông tay dài in hình Rosa Luxembourg 2 và trùm qua cái áo phông đen đang mặc. Tôi để Masha lau lớp phấn trang điểm và móng tay mình, một phút sau, tôi đã sạch sẽ.

“Tắt điện thoại đi,” cô ta nói. “Cậu có mang theo cái thẻ RFID nào không?”

Tôi có thẻ học sinh, thẻ ATM, thẻ đi tàu. Tất cả đều được cô ta bỏ vào một cái túi bạc mà tôi biết là túi chống sóng vô tuyến Faraday. Nhưng khi cô ta bỏ chúng vào túi, tôi nhận ra mình đã đưa chứng minh thư của mình cho cô ta. Nếu cô ta vẫn ở phe kia… Tính chất trầm trọng của sự việc vừa xảy ra bắt đầu thấm vào đầu tôi. Tôi hình dung ra cảnh có Ange ở cạnh tôi lúc này. Có Ange thì sẽ là hai chống một. Ange có thể giúp tôi nếu có gì đó bất hợp lý. Nếu Masha không phải là người mà cô ta nói.

“Bỏ những viên sỏi này vào giày trước khi đi vào…”

“Không sao. Tôi trẹo chân rồi. Không chương trình nhận dạng dáng đi nào có thể nhận ra tôi đâu.”

Cô ta gật đầu, kẻ tám lạng người nửa cân, và ném mạnh túi. Tôi đeo túi của mình và cả hai tiếp tục đi. Tổng thời gian để thay quần áo chỉ chưa đầy một phút. Bề ngoài và dáng đi của chúng tôi giống như hai người khác hoàn toàn.

Cô ta nhìn đồng hồ và lắc đầu. “Đi nào. Chúng ta phải tới được điểm hẹn. Cũng đừng nghĩ đến việc chạy trốn. Giờ cậu có hai lựa chọn. Tôi, hoặc nhà tù. Họ sẽ phân tích đoạn phim về đám đông trong nhiều ngày, nhưng một khi họ đã xong, mọi khuôn mặt sẽ được đưa vào kho dữ liệu. Cuộc đào tẩu của chúng ta sẽ bị lưu ý. Giờ cả hai chúng ta đã là những tội phạm bị truy nã rồi.”

Cô ta đưa chúng tôi đi qua khu nhà tiếp theo, ra khỏi phố Chợ, vòng ngược lại Tenderloin. Tôi biết khu vực này. Đây là nơi chúng tôi đã tìm kiếm địa điểm truy cập WiFi vào ngày chúng tôi chơi Harajuku Fun Madness.

“Chúng ta đi đâu đây?” tôi hỏi.

“Chúng ta sắp bắt xe,” cô ta đáp. “Im đi và để tôi tập trung.”

Chúng tôi đi thật nhanh, mồ hôi từ da đầu tôi chảy xuống mặt, xuống lưng, kẽ mông và đùi. Bàn chân tôi đau đớn và tôi nhìn thấy những con phố của San Francisco trôi qua trước mắt, có thể đây là lần cuối cùng.

Tình hình không khá hơn khi chúng tôi khó nhọc lê xác lên đồi, đi đến nơi mà Tenderloin xơ xác nhường chỗ cho những ngôi nhà đắt sặc máu của khu Nob Hill. Hơi thở của tôi trở nên đứt quãng. Chủ yếu cô ta dẫn tôi vào những con hẻm chật hẹp, chỉ khi nào cần chuyển từ con hẻm này sang con hẻm khác thì mới đi qua phố lớn.

Chúng tôi đang đi vào một con hẻm như thế, Sabin Place, thì có ai đó xông ra từ phía sau chúng tôi và ra lệnh, “Đứng im đó.” Có vẻ như là một trò đùa ác ý. Chúng tôi đứng im và quay lại.

Ở đầu hẻm là thằng Charles, đang mặc bộ đồ VampMob một cách miễn cưỡng với cái áo phông đen và quần jean, bộ mặt bôi trắng xóa. “Xin chào, Marcus,” nó nói. “Mày đang đi đâu à?” Nó nhe miệng cười nhăn nhở. “Bạn gái mày là đứa nào đấy?”

“Mày muốn gì, Charles?”

“Chà chà, tao vẫn luôn để mắt đến cái mạng Xnet phản bội kể từ khi tao thấy mày phân phát đĩa DVD ở trường. Khi tao nghe đồn về hội VampMob của mày, tao nghĩ mình nên tham gia, chỉ để xem mày có lộ diện không và mày định làm gì. Mày biết tao đã thấy gì không?”

Tôi không nói gì. Nó đang cầm điện thoại trên tay, chĩa về phía chúng tôi. Ghi âm. Có thể chuẩn bị gọi 911. Bên cạnh tôi, Masha đứng im như tượng.

“Tao thấy mày đầu têu cái trò đó. Và tao đã ghi lại, Marcus ạ. Bây giờ, tao sẽ gọi cảnh sát rồi chúng ta sẽ ngồi chờ họ ngay tại đây. Và sau đó mông mày sẽ dính chặt vào nhà tù một thời gian rất, rất dài.”

Masha bước lên.

“Đứng im đó, con bé kia,” nó nói. “Tao đã thấy mày giải thoát cho nó. Tao đã nhìn thấy tất cả…”

Cô ta tiến lên một bước nữa và giật điện thoại khỏi tay nó, với ra đằng sau bằng tay kia và cầm một chiếc ví mở.

“DHS, đồ óc lợn,” cô ta nói. “Tao là người của DHS. Tao đang đi theo thằng này đến chỗ chủ nhân của nó để xem nó đi đâu. Tao đang làm thế. Giờ thì mày phá hoại hết rồi. Chúng tao có một cái tên cho việc này. Chúng tao gọi nó là ‘Cản trở an ninh quốc gia’. Mày sắp sửa được nghe cụm từ này thường xuyên hơn nhiều đấy.”

Charles lùi lại một bước, giơ tay lên trước: ngay cả dưới lớp trang điểm, trông nó vẫn có vẻ tái nhợt hơn. “Sao? Không! Ý tôi là… tôi không biết điều đó! Tôi chỉ cố gắng giúp thôi mà!”

“Điều cuối cùng trên đời mà chúng tao cần là một lũ học sinh cấp hai khoái làm siêu nhân ‘giúp đỡ’. Mày có thể nói thế với tòa.”

Nó bước lùi lại lần nữa nhưng Masha rất nhanh. Cô ta chộp lấy cổ tay nó và vặn người nó bằng những ngón judo mà cô ta đã sử dụng với tôi ở Civic Center. Tay cô ta lại cho vào túi và lôi ra một dụng cụ bằng nhựa dẻo, một cái còng tay, rồi nhanh chóng phập quanh cổ tay nó.

Đó là điều cuối cùng mà tôi nhìn thấy trước khi tôi chuồn đi.

Tôi chạy đến cuối con hẻm thì cô ta đuổi kịp tôi, vật tôi từ phía sau và làm tôi ngã dúi dụi. Tôi không thể chạy nhanh được, không phải với bàn chân bị đau và đống đồ nặng trịch ở trên lưng thế này. Tôi ngã đập mặt xuống đất, sóng soài và mài má xuống mặt đường bẩn thỉu.

“Chúa ơi,” cô ta nói. “Cậu đúng là một thằng ngu. Cậu không tin lời tôi nói đấy chứ?”

Tim tôi đập thình thịch. Cô ta đang ngồi trên lưng tôi và từ từ để tôi đứng dậy.

“Tôi có cần phải còng cậu lại không, Marcus?”

Tôi đứng dậy. Tôi đau nhức toàn thân. Tôi muốn chết.

“Đi thôi,” cô ta nói. “Nó không còn xa nữa đâu.”

Hóa ra “nó” là một chiếc xe tải đỗ trên một con phố ở Nob Hill, một chiếc xe tải 16 bánh cùng kích cỡ với những chiếc xe tải không huy hiệu, cắm đầy ăng ten của DHS vẫn đỗ trên các góc phố ở San Francisco.

Tuy nhiên, trên thân của chiếc xe này có dòng chữ “Ba gã đàn ông và một chiếc xe đang chạy” và ngay gần đó, người ta có thể thấy rõ ba người đàn ông đang đi ra đi vào một tòa nhà chung cư có mái hiên xanh. Họ đang khiêng các thùng đồ đạc, những cái thùng được dán nhãn cẩn thận, đưa từng thùng một lên chiếc xe tải và cẩn thận sắp xếp chúng trên xe.

Masha đưa tôi đi quanh khu nhà một lần, có điều gì đó khiến cô ta rõ ràng là không hài lòng, sau đó, lần đi ngang qua thứ hai, cô ta ra hiệu bằng ánh mắt cho một người đàn ông đang trông xe tải, đó là một người da đen lớn tuổi hơn chúng tôi, mang thắt lưng đấu sĩ và găng tay dày. Anh ta có khuôn mặt hiền hậu và nở nụ cười với chúng tôi khi cô ta dẫn tôi lên ba bậc thang của chiếc xe tải thật nhanh. “Dưới cái bàn to,” anh ta nói. “Chúng tôi để dành cho hai người một chỗ ở đó.”

Chiếc xe tải gần đầy đồ đạc nhưng có một chiếc cửa nhỏ đằng sau một chiếc bàn to bị che phủ bằng một chiếc chăn chần bông và bọc ni lông quanh chân bàn.

Masha kéo tôi xuống dưới cái bàn. Ở đó ngột ngạt, tĩnh lặng và đầy bụi bặm, tôi cố kìm mình lại để không hắt hơi khi chúng tôi chui vào giữa đống thùng. Không gian quá chật chội và chúng tôi gần như ngồi lên nhau. Tôi không nghĩ Ange có thể ngồi vừa chỗ này.

“Khốn nạn,” tôi nói, nhìn vào Masha.

“Câm mồm. Đáng lẽ cậu đang phải liếm giày tôi để cảm ơn mới phải. Cậu có thể đã bị tống vào tù một tuần, cùng lắm là hai tuần. Không phải nhà tù Gitmo- bên-bờ-Vịnh đâu. Có thể là Syria. Tôi nghĩ đó là nơi họ đưa những đứa họ thực sự muốn làm cho biến mất hoàn toàn.”

Tôi gục đầu lên đầu gối và cố hít thở thật sâu.

“Tại sao cậu lại có thể làm một việc quá sức ngu xuẩn là tuyên chiến với DHS nhỉ?”

Tôi kể cho cô ta. Tôi kể cho cô ta về việc bị bắt và về Darryl.

Cô ta sờ túi và lấy ra một chiếc điện thoại. Đó là điện thoại của Charles. “Nhầm điện thoại rồi.” Cô ta lôi ra một chiếc điện thoại khác. Cô ta bật nó lên và ánh sáng phát ra từ màn hình lan tỏa khắp chỗ chúng tôi ẩn náu. Xoay xở với cái điện thoại một lúc, cô ta cho tôi xem.

Đó là bức ảnh cô ta chụp được chúng tôi, ngay trước khi bom phát nổ. Đó là bức ảnh chụp Jolu và Van và tôi và…

Darryl.

Tôi đang cầm trong tay bằng chứng rằng Darryl đã ở cùng chúng tôi chỉ vài phút trước khi tất cả chúng tôi bị DHS bắt giữ. Bằng chứng cho thấy thằng bạn tôi vẫn còn sống và khỏe mạnh và đi cùng chúng tôi.

“Cô cần phải cho tôi bản sao của cái ảnh này,” tôi nói. “Tôi cần nó.”

“Khi đến được LA,” cô ta nói, giật điện thoại lại.

“Sau khi cậu đã hiểu rõ làm sao để chúng ta có thể chạy trốn mà không bị tóm cổ và đưa tới Syria. Tôi không muốn cậu có ý nghĩ sẽ giải thoát cậu ta. Cậu ta đủ an toàn ở nơi cậu ta đang ở… ít nhất là lúc này.”

Tôi đã nghĩ đến việc giành lấy nó bằng vũ lực, nhưng cô ta đã chứng tỏ kỹ thuật siêu đẳng của mình. Hẳn cô ta phải đạt cỡ đai đen hoặc đại loại thế.

Chúng tôi ngồi trong bóng tối, lắng nghe tiếng ba người đàn ông di chuyển các thùng giấy, buộc các thứ lại với nhau, càu nhàu về việc đó. Tôi cố gắng ngủ nhưng không thể. Masha thì không có vấn đề gì. Cô ta ngáy ngon lành.

Qua một khe hở hẹp và bị bịt, vẫn có chút ánh sáng xuyên vào, đem theo không khí trong lành từ bên ngoài. Tôi nhìn chằm chằm vào khe hở qua luồng ánh sáng mờ ảo đó, và nghĩ đến Ange.

Ange của tôi. Tóc của cô quét qua vai khi cô quay đầu từ bên này sang bên kia, bật cười vì một việc gì đó mà tôi làm. Khi tôi nhìn thấy cô lần cuối, mặt cô đang áp trên mặt đường, lẫn trong đám đông ở VampMob. Tất cả những người ở VampMob, giống như những người trong công viên, ngã xuống và quằn quại, DHS xông vào cùng dùi cui. Những người đã biến mất.

Darryl. Bị kẹt ở đảo Kho Báu, một bên sườn bị khâu, bị lôi ra khỏi xà lim vì những vòng tra hỏi không dứt về bọn khủng bố.

Bố Darryl, suy nhược và say xỉn, không cạo râu. Tắm rửa sạch sẽ và chỉnh tề trong bộ quân phục, “để chụp ảnh”. Khóc như một đứa trẻ.

Bố tôi, và cái cách mà ông đã thay đổi vì sự mất tích của tôi trên đảo Kho Báu. Ông cũng đau đớn như bố của Darryl, nhưng theo cách của riêng ông. Và nét mặt của ông, khi tôi nói với ông nơi tôi đã ở.

Đó là lúc tôi biết tôi không thể bỏ chạy.

Đó là lúc tôi biết tôi phải ở lại và chiến đấu.

Hơi thở của Masha sâu và đều, nhưng khi tôi nhẹ nhàng lần tìm điện thoại trong túi cô ta, cô ta khịt mũi và cựa mình một chút. Tôi ngồi yên và nín thở trong đúng hai phút và bắt đầu đếm một con hà mã, hai con hà mã…

Dần dần, cô ta lại thở đều trở lại. Tôi lôi cái điện thoại của cô ta khỏi túi áo, nhích nhích từng milimet, ngón tay và cả cánh tay tôi run lên vì phải cố rút thật chậm.

Và rồi tôi lấy được nó, cái đồ vật có hình dáng một thanh kẹo nhỏ đó.

Tôi quay người lại để có ánh sáng thì chợt nhớ ra: thằng Charles, cầm điện thoại của nó, dứ dứ về phía chúng tôi, khiêu khích chúng tôi. Đó là một cái điện thoại có hình thanh kẹo, màu bạc, dán đầy logo của cả tá công ty đã trợ giá cho cái điện thoại này thông qua một công ty điện thoại. Đó là loại điện thoại mà bạn phải nghe quảng cáo mỗi lần bạn muốn gọi điện.

Quá tối để nhìn rõ cái điện thoại trong xe tải nhưng tôi có thể cảm nhận được nó. Bên sườn điện thoại có dán đề can của các công ty không nhỉ? Có không? Có. Tôi vừa mới lấy trộm điện thoại của Charles từ túi Masha.

Tôi quay lưng lại thật chậm, thật chậm, thật chậm, và thật chậm, thật chậm, thật chậm, tôi mò được vào túi cô ta. Điện thoại của cô ta to hơn và kềnh càng hơn, với máy ảnh tốt hơn và ai mà biết được còn gì nữa?

Tôi đã làm điều này một lần – và lần này dễ hơn rất nhiều. Lại từng milimet một, tôi kéo nó ra khỏi túi áo của cô ta, dừng lại hai lần khi cô ta thở hắt ra và giật mình.

Tôi lấy được điện thoại ra khỏi túi và bắt đầu rút lui thì tay cô ta với ra, nhanh như một con rắn vồ lấy cổ tay tôi, móng tay bấm vào khớp xương nhỏ và mảnh khảnh dưới tay tôi.

Tôi há hốc miệng và nhìn chằm chằm vào đôi mắt đang mở trừng trừng của Masha.

“Cậu đúng là thằng ngu,” cô ta nói, giật lấy cái điện thoại khỏi tay tôi, bấm gì đó vào bàn phím điện thoại bằng tay kia. “Thế cậu định mở khóa nó như thế nào đây?”

Tôi nuốt nước bọt. Tôi cảm thấy xương cốt đang chà xát vào nhau trong cổ tay. Tôi cắn môi để không khóc thét lên.

Cô ta vẫn tiếp tục ấn gì đó với bàn tay kia. “Đây là thứ mà cậu muốn lấy phải không?” Cô ta cho tôi xem ảnh của tất cả chúng tôi, Darryl và Jolu, Van và tôi. “Tấm ảnh này phải không?”

Tôi không nói gì. Cổ tay tôi như đang vỡ ra từng mảnh.

“Có lẽ tôi nên xóa nó luôn, loại bỏ mọi cám dỗ khỏi đầu cậu.” Bàn tay còn rảnh của cô ta di chuyển một chút. Chiếc điện thoại hỏi xem cô ta có chắc chắn muốn xóa không và cô ta phải nhìn vào bàn phím để tìm phím xóa.

Đó là lúc tôi di chuyển. Tay kia của tôi vẫn đang cầm điện thoại của Charles, và tôi lấy hết sức đập nó vào bàn tay cô ta, đấm khớp tay vào cái bàn trên đầu. Tôi đập tay cô ta mạnh đến nỗi cái điện thoạt nứt toác còn cô ta thét lên và nới lỏng bàn tay ra. Tôi vẫn di chuyển, với tới tay kia của cô ta để lấy cái điện thoại đã được mở khóa, ngón trỏ của cô ta đang lơ lửng trên nút OK. Những ngón tay của cô ta co giật trong không khí khi tôi giật chiếc điện thoại ra khỏi tay cô ta.

Tôi bò đến cái khe hẹp, hướng đến phía phát ra ánh sáng. Tôi cảm thấy tay cô ta với lấy bàn chân và cổ chân tôi hai lần, tôi phải dẹp mấy cái hộp đang chất quanh chúng tôi như ngôi mộ của Pharaoh. Vài cái hộp rơi xuống sau lưng tôi và tôi nghe thấy tiếng Masha hét lên một lần nữa.

Cánh cửa của chiếc xe tải có một khe hở và tôi trườn qua đó. Bậc thang đã được gỡ ra và tôi thấy mình đang treo lơ lửng trên đường, đầu chúi xuống rồi đập một phát thật mạnh xuống mặt đường rải nhựa khiến tai tôi cứ ong ong như ai gõ chiêng bên cạnh. Tôi lồm cồm bò dậy, nắm lấy cái hãm và tuyệt vọng kéo tay nắm cửa xuống, giập mạnh. Masha hét lên bên trong – chắc tôi đã kẹp phải tay cô ta. Tôi cảm thấy buồn nôn nhưng không nôn.

Thay vào đó, tôi kéo chốt xe tải lại.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.