Mà quyền pháp Hải Thiên Cô Yến sử dụng, chính là Hóa Cốt thần quyền.
Từ khi Hải Thiên Cố Yến lặng mất tung tích, trong giang hồ không có quyền pháp nào kỳ dị tuyệt luân như vậy. Mấy mươi năm trở lại đây, người trong võ lâm hễ nhắc đến Hóa Cốt thần quyền đều phải hồn tiêu phách lạc. Bởi vậy Thạch Lân vừa nói đến bốn chữ đó, Mao Băng lập tức kinh sợ tột độ.
Nàng đứng chết lặng người, đôi nhãn châu mở to nhìn hai vị quái khách hành tàng quỷ dị, thầm nghĩ :
– “Lẽ nào họ sử dụng chính là Hóa Cốt thần quyền?”
Bỗng nghe Thạch Lân hừ một tiếng, thân hình mềm nhũn rơi bịch xuống đất như khúc chuối.
Mọi chuyện chỉ xảy ra trong chớp nhoáng, Thạch Lân vì Mao Băng mà lâm nạn, Mao Băng đâu nỡ bỏ đi. Huống gì cái túi nhỏ vô cùng trọng yếu đó đang nằm trong tay người khác.
Nàng không chút chần chừ, nghiến răng quyết liều: Dù ta có chết cũng phái lấy lại chiếc túi đó.
Nhưng nàng cũng biết rằng với sức lực của mình không thể địch nổi đối phương. Trong tình huống này phải hành đông như thế nào?
Hai vị quái khách chẳng cần để mắt đến Thạch Lân đang bất tỉnh nhân sự, chiếc túi trên y vẫn đưa qua đưa lại càng lúc càng nhanh.
Gã to mập dường như cũng biết rằng Mao Băng không hiểu lời mình nói, cứ vò đấu rứt tai liên hồi.
Mao Băng tuy thông minh, nhưng lúc này như bị quẫn trí, không hiểu được ý của đối phương muốn nói gì.
Nàng chợt mỉm cười nhìn gã gầy ốm, gã ta cũng đáp lại một nụ cười. Lợi dụng trong lúc đối phương phân tán tinh thần, nàng thoắt người lao tới như tên bắn giật lấy chiếc túi. Gã ta tợ như không kịp phòng bị, tay cũng không co lại.
Mao Băng chạm tay vào vật đó, trong lòng mừng rỡ, liền vận lực giật mạnh và nhảy lùi về phía sau cả mấy trượng. Ngỡ rằng chiếc túi đã vào tay mình, bởi vậy định chạy trốn, thậm chí quên cả Thạch Lân đang nằm bất tỉnh ở hiện trường.
Nhưng khi chân vừa chạm đất, mắt nàng bỗng hoa lên, đối phương vẫn đứng lù lù trước mắt, trong tay vẫn nắm chiếc túi khi nãy.
Mao Băng rất đỗi kinh ngạc, không ngờ khinh công của đối phương lại đạt đền trình độ như vậy.
Gã to mập lướt đến bên cạnh Mao Băng với thế như hành vân lưu thủy, miệng nói những câu gì nghe không hiểu được. Nàng không biết nên đối phó thế nào, chạy thì không thoát, chẳng lẽ xuôi tay để đối phương làm hại? Nàng thật sự kinh sợ và bi ai.
Gã gầy ốm trầm ngâm khoảnh khắc, nét mặt chợt rạng lên như đang nghĩ ra điều gì. Gã liền chỉ tay vào chiếc túi đang cầm, rồi chỉ sang trên cổ Mao Băng.
Nàng càng mê tâm loạn trí, thầm nghĩ :
– “Họ cuối cùng muốn làm gì?”
Cúi xuống nhìn ở cổ, Mao Băng bất chợt muốn kêu lên thành tiếng. Thì ra trên cổ nàng cũng có đeo một chiếc túi nhỏ bằng da giống y hệt như vậy. Trong lòng nhẹ hẳn đi, thầm nói :
– Hóa ra chiếc túi đó không phải của ta. Nhưng sao lại giống hệt như vậy?
Lẽ nào giữa họ và Cưu huynh có liên quan gì chăng? Thật kỳ quái, thế thì bọn họ từ đâu tới? Họ bức bách ta như vậy để làm gì?
Nàng đứng lặng người, tâm trí như đang chìm trong chín tầng vân vũ.
Trong đầu từ từ khơi dậy hồi ức.
Vào một ngày kia, khi Cưu Độc chia tay với Mao Băng trong tâm trạng đau buồn lưu luyến, nàng cảm thấy ray rứt và hổ thẹn với lương tâm.
Thế nhưng Cưu Độc lại cho rằng nàng bùi ngùi lưu luyến lúc biệt ly. vì thế liền lấy từ trong người ra một chiếc túi bằng da nhỏ trao cho nàng, và nói đây là kỷ vật quý giá nhất trong đời chàng.
Từ đó về sau, Mao Băng luôn đem theo chiếc túi bên người. Mỗi lần nhớ nghĩ đến Cưu Độc nghĩ đến mình đã đối xử thiếu tình cảm và lương tâm đối với chàng, nàng chỉ biết đem chiếc túi ra ngắm nhìn, để đưa mình trở về với dĩ vãng.
Mao Băng ngẩng đâu lên, thấy hai vị quái khách vẫn mỉm cười chăm chú nhìn nàng. Lúc này nàng đã hết lo sợ, nhưng không biết làm thế nào để giải bày ý trong lòng mình cho đối phương hiểu.
Ngôn ngữ bất đồng là lần đầu tiên nàng gặp phải, thầm nghĩ :
– “Đứng trước mặt họ, ta giống như một người câm. Nhưng ta nói họ không hiểu, lẽ nào ta viết họ đọc cũng không ra?”
Mao Băng lộ vẻ vui mừng, vì đã tìm ra cách để biểu lộ ý mình.
Thấy thần sắc thay đổi trên mặt nàng, gã to mập quay sang nói gì với đồng bạn, ngữ khí nghe ra cũng đang cao hứng.
Mao Băng liền ngồi xuống, dùng tay viết trên mặt đất hai chữ Cưu Độc.
Hai vị quái khách ngồi xuống theo, nhìn hai chữ Cưu Độc một hồi, bất chợt cùng vụt đứng dậy gật đầu lia lịa. Họ không những có võ công xuất thần nhập hóa, biểu hiện bên ngoài còn có vẻ kỳ dị thần bí. Tướng mạo hung dữ, thế nhưng họ có tính cánh ngây ngô chân chất như một đứa trẻ.
Mao Băng mỉm cười. Nàng biết rằng họ nhất định có quan hệ với Cưu Độc, vả lại họ không phải là nhân vật trong võ lâm Trung nguyên.
Họ đến Trung nguyên chắc chắn là kiếm tìm Cưu Độc. Nhưng Cưu Độc đâu?
Nàng càng trở nên hoang mang hơn.
Nếu như tinh thần tỉnh táo như thường ngày, Mao Băng sẽ phát hiện ra đối phương không những hiểu lời mình nói, mà kể cả chữ viết cũng khó nhận ra. Đơn giản như hai chữ Cưu Độc, họ nhìn một lúc lâu mới nhận ra. Thế nhưng nàng ta lúc này tâm trí biến loạn, cho nên không chú ý đến điều đó.
Do đó, Mao Băng ngồi đợi đối phương viết ra để giải bày ý nghĩ trong lòng…
Sau một hồi vui mừng nhảy nhót hai vị quái khách ngồi xuống gật đầu mỉm cười làm bộ rất thân thiết, đôi mắt chú nhìn trên tay Mao Băng như đang đợi viết tiếp. Thế là cả ba cùng ngồi mặt đối mặt nhìn nhau.
Mao Băng đương nhiên không biết lai lịch hai vị quái khách này, thậm chí trong võ lâm Trung nguyên cũng ít có người biết đến.
Tuy nhiên, sau khi thấy họ thi triển quyền pháp, ai cũng biết rằng họ nhất đinh có quan hệ với Hải Thiên Cô Yến.
Nhưng bản thân Hải Thiên Cô Yến chính là một câu đố đầy bí ẩn. Không ai biết lai lịch của lão cũng không có ai biết lão không những có quan hệ với hai vị quái khách này, mà còn có liên quan với Cưu tiên sinh. bậc kỳ nhân trong võ lâm hiện thời.
Cuộc đời của Cưu Độc muôn hình muôn dạng. Trong cuộc sống độ ba mươi năm ngắn ngủi của chàng, ngoài những điều người ta đã biết ra, còn rất nhiều điều mà người ta chưa từng hay biết.
Cưu Độc đã từng ra hải ngoại. Trên một hòn đảo lẻ loi ở Hoàng hải, chàng đã quen biết rất nhiều nhân vật mà người trong võ lâm cho rằng đã chết, Hải Thiên Cô Yến cũng là một trong những nhân vật đó.
Những bậc tiền bối võ lâm này, có người trước đây gặp phải những điều nan giải không tháo gỡ được, cũng có người ngán ngẫm thế sự nhân tình, đều được Hải Thiên Cô yến đón nhận lên đảo.
Cưu Độc ngao du tứ hải, vô tình đặt chân đến tiểu đảo này. Đây quả là một cơ duyên hiếm có để học võ nghệ, chàng vô cùng hoan hỉ.
Chàng cũng rất muốn ẩn thân trên đảo, muốn học những môn võ công mà từ lâu đã được nghe nhưng chưa hề thấy.
Nhưng Hải Thiên Cô Yến, một người sống đã hơn trăm tuổi mà tinh thần rất thông tuệ, đã nói với chàng :
– Người ở lại trên đảo này đều phát thệ vĩnh viễn không rời khỏi đảo, người có thực hiện được không?
Cưu Độc rất khó trả lời. Và lúc đó chàng mới có hai mươi tuổi, chính là giai đoạn trai trẻ sung sức và đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Nếu hy sinh cả thời trai trẻ để đổi lấy võ công, quả là điều không nên. Cho dù phải học thành võ công cái thế nhưng suốt đời ở trên cô đảo thì làm được gì?
Hải Thiên Cô Yến quá hiểu điều đó, vì thế lão ôn tồn bảo :
– Ngươi chớ băn khoăn, nếu ta vào độ niên kỳ như ngươi cũng không chịu thực hiện theo như vậy.
Tình cảm đáng quý nhất là giữa hai người có sự đồng tình và thấu hiểu nhau.
Cưu Độc chưa bao giờ nể phục ai, thế nhưng đối với bậc tiền bối này chàng nghiêng lòng ngưỡng mộ. Hải Thiên Cô Yến cũng rất quý mến chàng. Giữa hai người tuổi tác chênh lệch quá nhiều, nhưng họ kết thân và xem nhau như bằng hữu. Cưu Độc nán lại trên đảo một tháng, là một điều ngoại lệ.
Trong tháng đó, Hải Thiên Cô Yến tuy không đàm đạo về võ công, nhưng không biết hữu ý hay vô tình, đã nói ra những bí quyết bất truyền trong võ công.
Cưu Độc là người thông minh xuất chúng, từ đó đã lãnh hội được tất cả.
Tâm pháp Vạn Lưu Quy Tông mà chàng đã làm kinh động võ lâm, cũng từ đó mà ra.
Trên tiểu đảo mỗi người đều cất giữ một chiếc túi bằng da rất nhỏ, bên trong là gì, không có ai mở ra xem cả. Trước khi ra đi, Hải Thiên Cô Yến cũng trao cho chàng một chiếc túi, còn nói rằng chiếc túi sẽ giúp chàng rất nhiều, như một chiếc bùa hộ mạng. Nhưng khi nào chưa lâm nguy đến thập tử nhất sinh, thì tuyệt đối không được mở nó ra.
Khi lên thuyền, lão còn căn dặn :
– Nếu như ngươi ngán kiếp sinh nhai ơ võ lâm thì hãy trở lại đây bất cứ lúc nào.
Giọng Hải Thiên Cô Yến trở nên bùi ngùi :
– Cho dù ta còn có tại thế hay không, nơi này luôn hân hoan đón tiếp ngươi.
Ý nói rằng lão sắp lìa đời, phân ly tại thử, tái kiến vô kỳ, Cưu Độc vô cùng cảm động.
* * * * *
Hải Thiên Cô Yến dùng kiếm pháp kỳ bí quỷ dị làm chính, tuy có khác với kiếp pháp lưu truyền trong võ lâm, nhưng từ xưa đến nay vốn vẫn cùng một gốc, có điều mỗi phái đi theo một con đường riêng mà thôi.
Hai vị quái khách vốn là cao thủ của Hải Nam kiếm pháp, tuy đãng tích giang hồ chưa nhiều, nhưng kiếm pháp quả thật phi phàm.
Trước đây ở Hải Nam, uy danh của họ vang khắp.
Rồi tự nhiên họ đột ngột biến mất, nhân sĩ giang hồ trên Hải Nam đều lấy làm ngạc nhiên, vì hai người này tuyệt đối không ẩn cư trong núi, mà trong võ lâm Trung nguyên cũng không biết đến hành tung của họ.
Không ngờ họ lại được Hải Thiên Cô Yến tiếp nhận lên cô đảo và truyền đạt võ nghệ.
Cưu Độc trước đây một mình thâm nhập lên cô đảo, thấy hai vị quái khách hình tướng dị dạng, chàng ít tiếp xúc. Nhưng sau đó không biết sao, họ lại kết thân với nhau.
Hai vị quái khách vốn là anh em thúc bá, người mập trên Trình Câu, người gầy là Trình Thiêm. Họ ẩn thân trên đảo mười năm, cuối cùng cũng không chịu được những năm tháng tịch mịch trên cô đảo, bèn lặng lẽ ra đi. Hơn nữa bọn họ từng nghe Cưu Độc nói về phong cảnh Giang Nam, võ lâm Trung nguyên, trong lòng cứ thấp thỏm không yên.
Họ nghĩ là làm, cùng rủ nhau đến Giang Nam. Nhưng ở đây cảnh vật lạ lùng, nhất là với tướng mạo và trang phục quỷ dị như vậy, càng bất tiện. Vì vậy họ muốn tìm đến vị bằng hữu duy nhất trong võ lâm Trung nguyên, đó là Cưu Độc Bởi vậy khi thấy Mao Băng đeo chiếc túi nhỏ trên cổ, hai vị quái khách mừng đến phát cuồng, vì đã mất nhiều ngày đi tìm kiếm Cưu Độc không có kết quả.
Cũng do họ cớ hành tung quỷ dị, đối tượng cần tìm lại là Cưu Độc, nên không cớ ai muốn chỉ dẫn rõ ràng.
Họ phát âm theo phương ngôn vừng Bách Việt, Mao Băng lại sinh trưởng ở Giang Nam, nghe làm sao hiểu được.
Ngôn ngữ bất đồng tạo nên sự hiểu lầm giữa song phương. Hai vị quái khách phải khó khăn lắm mới khiến cho Mao Băng hiểu được mối quan hệ giữa họ và Cưu Độc. Mao Băng đau buồn viết thêm hai chữ “chết rồi” sau hai chữ Cưu Độc. Trình Câu và Trình Thiêm vừa nhận ra, ánh mắt bỗng rực lên những tia nhìn ghê rợn.
Cả hai cùng rống lên một tiếng, bổ đến ôm chầm cánh tay Mao Băng, miệng hỏi đầy vẻ cấp thiết.
Hai tay Mao Băng bị nắm chặt làm đau buốt đến tận xương, trên đồi bờ mi dòng lệ ngấn dài. Dòng lệ đó không phải vì đau đớn mà chảy, mà vì nàng quá vui mừng và xúc động.
Lâu nay không có người nào tỏ vẻ thương tiếc bi ai đối với cái chết của Cưu Độc. Chính ngay cả Mao Băng, cho dù rất thương nhớ Cưu Độc nhưng chỉ biết khóc thầm trong lòng, che giấu đi những tình cảm chân thật. Nhưng nàng ta không thể làm như vậy, vì xung quanh nàng đều là địch nhân đối với Cưu Độc.
Lúc này gặp được bằng hữu chân chính của Cưu Độc, Mao Băng xúc động đến rơi lệ.
Trình Câu và Trình Thiêm hay tin Cưu Độc chết tợ như sét đánh bên tai, hỏi giọng cấp hoảng :
– Cưu Độc vì sao chết? Bị ai giết? Cừu nhân của chàng là ai?
Mao Băng như người bị điếc không hiểu được câu nào. Dù có hiểu đi chăng nữa nàng đâu thể nói ra cừu nhân của Cưu Độc, vì người đó chính là ca ca của nàng – Mao Cao.
Trình Câu và Trình Thiêm không thể biểu đạt ý mình ra được, cả hai càng lúc càng cấp hoảng, cứ nắm hai tay Mao Băng day mạnh.
Bỗng có ánh kiếm vụt sáng nhằm đâm vào huyệt Huyền Châu ở vùng tai của Trình Câu.
Lúc này huynh đệ họ Trình hoàn toàn để tâm đến chuyện Cưu Độc, không hề có sự phòng bị. Đường kiếm đó lại phóng tới cực nhanh, xem ra họ hết đường né tránh.
Kiếm khí phát ra đến lạnh người, trong nháy mắt đã bạt tới sát vành tai phải của Trình Câu.
Trong giây phút nguy ngập này, Trình Câu đột nhiên nghiêng cổ sang bên trái, mũi kiếm đâm xước qua sát vành tai. Tay kiếm thủ quát lớn :
– Khi hiếp nữ nhân, là loại người gì? Thạch Lân này phải quyết một trận sống chết với các người mới được.
Mũi kiếm lách nhẹ, tiếp tục chằm bổ vào đầu đối phương.
Trình Câu không muốn làm thương hại người khác liền quay ngược cánh tay đánh bạt mũi kiếm ra ngoài năm thốn, nhưng không làm cho đối phương phải kinh hoảng.
Ánh kiếm phong trú càng dày đặc hơn, hai ngọn kiếm xuất hiện một lúc, kiếm thức xảo diệu. Chính là chiêu “Thất thập nhị lộ liên hoàn kiếm” nổi tiếng võ lâm.
Mao Băng thấy Thạch Lân múa kiếm như gió, lên giọng mắng nhiếc, biết rằng anh ta quyết ra tay đối phó hai vị quái khách này, vội kêu lên :
– Thạch Lân, chớ động thủ.
Thạch Lân bất chợt ngạc nhiên, kiếm trong tay bị chùn thế. Nhưng với Võ Đương kiếm pháp, kiếm thức vẫn múa liên hoàn, không bị lơi lỏng bởi bất cứ một cản lực nào. Có điều, khi nghe Mao Băng kêu lên, Thạch Lân không thi triển được chiêu “Giang Hà Nhật Hạ” vốn đang phát ra.
Thạch Lân đang bàng hoàng ngơ ngác định hỏi, Mao Băng nói tiếp :
– Họ đều là người của mình…
Nàng chợt đỏ mặt, sửa lại câu nói :
– Họ đối với muội hoàn toàn không có ác ý.
Thạch Lân ngạc nhiên hỏi :
– Như vậy lại nói không có ác ý hả?
Thạch Lân vừa rồi tuy bị điểm trúng huyệt đạo, nhưng đối phương không có ác tâm, bởi vậy hạ thủ lưu tình, dùng thủ pháp cũng không độc hiểm. Thạch Lân tự vận khí hành công giải khai huyệt đạo. Anh ta và Mao Băng vốn là bạn thanh mai trúc mã từ nhỏ, do đó rất quan tâm đến sự an nguy của Mao Băng.
Vừa tỉnh dậy chạy lại hiện trường, cảnh tượng đập vào mát Thạch Lân là Mao Băng nước mắt chạy dài hai bên má, hai vị quái khách nắm xách hai bên sườn. Anh ta bất chấp hiểm nguy của “Hóa Cốt thần quyền” liều mạng xông vào cứu giúp. Nhưng võ công còn kém xa so với đối phương, dù có liều mạng cũng vô dụng.
Mao Băng bảo ngừng tay, Thạch Lân bất giác đứng sững người, đoạn cúi đầu xuồng, chợt nhìn thấy hai chữ Cưu Độc viết trên đất, trong lòng lắm đắng cay, thanh trường kiếm tuột khỏi tay rơi xuống đất.
Thạch Lân dành tình cảm rất sâu đậm đối với Mao Băng. Sau đó khi Mao Băng hy sinh đời con gái để giúp ca ca đạt được âm mưu, lại gặp lúc Thạch Lân không có mặt ở Giang Nam. Khi trở về thì Mao Băng tuy dung nhan vẫn như cũ nhưng cảnh lòng đã đổi thay.
Thạch Lân biết rất rõ mối quan hệ giữa Cưu Độc và Mao Băng. Lúc này nhìn thấy hai chữ Cưu Độc, chợt hiểu ra, cõi lòng quặn thất :
– Chẳng trách nàng ta nói là người của mình.
Lòng càng xót xa cay đắng, ở cổ như có vật gì chặn ngang nói không ra lời.
– Vậy đáng trách ta nhiều chuyện.
Giọng Thạch Lân pha chút giận hờn. Mao Băng cũng khó nói nên lời, bao nỗi day dứt dằn xé trong lòng.
Huynh đệ họ Trình trừng nhìn Thạch Lân.
Họ bằng hữu tuy ít, nhưng đối với bằng hữu lại rất nhiệt thành. Họ biết rằng Mao Băng nhất định có quan hệ rất sâu đậm với Cưu Độc, cũng đoán ra cái thai trong bụng nàng chính là giọt máu của Cưu Độc. Lúc này thấy Thạch Lân và Mao Băng bốn mắt nhìn nhau, trong lòng cảm thấy khó chịu. Hai người cùng nói gì mấy câu mà Mao Băng và Thạch Lân nghe không hiểu.
Trình Câu và Trình Thiêm chợt lắc nhẹ người lướt đi, Mao Băng bỗng cảm thấy kỳ quái.
Thoáng chốc đã thấy họ vụt quay trở lại, trên tay nâng bổng con tuấn mã.
Thạch Lân thấy vậy thật sự kinh ngạc bởi võ công siêu cường và hành sự quỷ dị của họ.
Anh ta xuất đạo tuy chưa lâu, nhưng từ nhỏ đã nghe truyền đạt rất nhiều điều trong võ lâm. Nhưng hôm nay lại nghĩ không ra bọn họ có lai lịch thế nào.
Huynh đệ họ Trình đặt ngựa xuống trước mặt Mao Băng, miệng mỉm cười, hai tay bỗng vụt ra nhanh như điện thọc vào nách Mao Băng đưa lên ngồi ngay trên yên ngựa. Thạch Lân kinh hoảng quát :
– Làm gì vậy?
Chưa dứt lời, đã thấy huynh đệ họ Trình đem cả người lẫn ngựa vụt biến đi mất.
Thạch Lân đứng sững sờ một hồi lâu, biết rằng với sức mình tuyệt đối không đuổi kịp, cũng biết rằng cử chỉ của họ tuy hết sức quỷ dị nhưng không có ác ý.
Nhưng tại sao họ lại bắt Mao Băng đi? Bắt đi đâu?
Mao Băng thể chất non yếu, cộng thêm cái thai trong bụng, không biết như vậy có thương hại đến nàng không?
Thạch Lân nghiến răng, thầm quyết :
– Bất kể như thế nào ta cũng phải tìm cho ra nàng lưu lạc nơi nào. Nếu không ta sẽ mãi mãi không yên tâm.
Thạch Lân từ nhỏ đã được thâu nhận vào Võ Đương sơn, cùng chung sống với những đạo sĩ thanh tâm quả dục. Nhưng thiên tính đa tình, chuyện gì có liên quan đến tình cảm, anh ta không nỡ rời bỏ.
Vì thế Thạch Lân lấy lại tinh thần, nhặt thanh trường kiếm vào lưng, bắt đầu một cuộc kiếm tìm.
* * * * *
Bất cứ ai nếu từng hành tẩu khấp giang hồ, thế thì cho dù người đó đi trên con đường mòn hoang vắng vùng Trung nguyên, hay trên đất Giang Nam như bức họa đồ, thậm chí ngay cả những vùng xa xôi hẻo lánh, hay giữa thành thị đông đúc, đều có thể thấy đến một nam tử trung niên người dong dỏng cao, nát mặt đầy về đa tình cứ lủi thủi đi một mình. Dáng bộ anh ta như đang tìm kiếm gì.
Nhưng dường như vì thất vọng quá lâu ngày, đối với việc tìm kiếm của mình anh ta không còn có chút hy vọng nào nữa.
Bởi vậy nhìn người anh ta đầy vẻ mệt mỏi chán chường. Thanh trường kiếm ở thắt lưng xệch xuống cũng chẳng buồn đeo lại, thậm chí mũi kiếm kéo lê lết trên đường phát ra những tiếng kêu chói tai.
Nếu người nào không những từng hành tẩu giang hồ, mà còn quen biết nhiều nhân vật trong võ lâm, thì sẽ biết ngay nam tử trung niên phong độ và mệt mỏi đó lại là nhân vật mà mười bảy năm trước đây đã nổi danh, cũng là đệ tử chân truyền của Linh Không kiếm khách lừng danh võ lâm – Thạch Lân.
Nếu người nào càng hiểu rõ nội tình, thì từ anh ta có thể biết được cố sự thê lương và đau buồn. Nhưng hễ ai biết đến cố sự này cũng chỉ chôn giấu trong lòng chứ không đám nói ra.
Nhân vì sự cố này ngoài Thạch Lân ra, còn có liên quan đến nhân vật đệ nhất võ lâm hiện thời – Linh Xà Mao Cao.
Mao Cao rất sợ người khác đề cập đến sự cố đó, vả lại trong võ lâm hiện thời cũng không có ai dám đắc tội với Mao đại gia, sợ phải chuốc lấy họa vào thân.
Thời gian thoắt tựa thoi đưa, từ khi Cưu Độc chết đến nay đã mười bảy năm trời. Trong mười bảy năm nay, chốn võ lâm phát sinh rất nhiều chuyện, nhưng tất cả đều lãng quên theo năm tháng, giống như bong bóng giữa trời mưa. Không ai nhắc lại làm gì.
Nhưng…
Chỉ có Cưu Độc vẫn luôn tồn tại trong lòng mọi người. Nhân vì chàng tuy chết rồi, nhưng tàn cốt của chàng vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong võ lâm. Suốt mấy trăm năm nay, trong võ lâm chưa từng có chuyện như vậy.
Linh Xà Mao Cao lợi dụng tàn cốt của Cưu Độc, đã giành lấy bá nghiệp trong võ lâm. Gã tuy không tự lập môn phái, nhưng Tàn Cốt lệnh của gã được trong giới võ lâm coi là chí bảo. Nhân vậy bất cứ một người nào nếu dấn thân vào giang hồ, đều phải nghe theo mệnh lệnh Tàn Cốt lệnh.
Tàn Cốt lệnh chính là lấy từ tàn cốt của Cưu Độc làm thành. Thất kiếm Tam tiên đương thời, giờ đã đi hết hai người. Uông Nhất Bằng sau khi cánh tay bi gãy, uy danh lớn không như trước, nhưng nhờ vào Tàn Cốt lệnh, lão cũng xưng hùng xưng bá một phương.
Những chuyện này Thạch Lân đều không để tâm đến. Anh ta lãng tích thiên nhai cốt yếu muốn tìm Mao Băng. Nhưng mười bảy năm nay, anh ta dẫm chân đi khắp hai vùng Lương Hà, Đại Giang Nam Bắc, thậm chí cả vùng Quan ngoại ải bắc đều đi qua. Nhưng chẳng khác gì tìm kim đáy bể, không tìm thấy bóng dáng nàng đâu cả.
Từ đó Thạch Lân cũng biến đổi, anh ta biến thành một trung niên lẻ loi lập dị, lang thang bất định, hoàn loàn khác hẳn với tính cách vốn có trước đây. Linh Không kiếm khách, vị ân sư của anh ta do vậy cũng rất đau lòng.
Mọi người cũng tỏ lòng luyến tiếc và thương hại cho anh ta.
Vào tiết mùa xuân, trên đường cái Giang Nam, y phục trên người tuy không hoa lệ, nhưng rất trang nhã. Với một người lãng tích thiên nhai mà được như vậy thì quả thật là khó.
Thạch Lân cưỡi con ngựa gầy, dây cương buộc ở yên, mặc cho ngựa đi đâu thì đi. Ánh mắt nhìn theo dòng người qua lại, rồi ngước nhìn hoa cỏ ven đường, miệng ngâm nga :
– Giang Nam hảo, phong cảnh cũ càng nên thơ…
Giang Nam là nơi ma trước đây Thạch Lân đã từng đi qua.
Bỗng nhiên, một đám bụi trần cuộn tung…
Thạch Lân ngẩng đầu nhìn, từ xa có một toán ngựa phi nhanh tới. Xem ra nếu không phải quan phủ công sai, thì cũng là thuộc hạ của Mao Cao. Thạch Lân thầm nghĩ :
– “Phát sinh chuyện gì sao?”
Toán ngựa phi qua nhanh, để lại sau lưng đám bụi mịt mù, cũng không nhận ra họ là những nhân vật nào. Thạch Lân bực bội đưa tay xua bụi trước mặt, chợt phát giác có hai người đang cưỡi ngựa đi sau lưng. Anh ta cũng chẳng quay đầu lại vì lâu nay anh ta không có ân oán gì với người trong võ lâm, cho nên không sợ ai ngầm theo dõi để ám toán.
Nhưng cuộc nói chuyện của họ từ sau lưng theo gió truyền vào tai rất rõ :
– Linh Xà Mao Cao lần này thật sự gặp rắc rối rồi. Mười đại đệ tử của ồng ta đều được huy động cả, phải biết nguy cấp biết dường nào. Tại hạ khi đến Bảo Định phủ có nghe tin tức thế này: Nghe nói Mao Cao đã phi truyền Tàn Cốt lệnh, muốn huy động toàn bộ lực lượng hiện có để đối phó với chàng thiếu niên đó.
Giọng người khác à lên một tiếng, tiếp lời :
– Chuyện này ta không rõ lắm, tuy nhiên có người tìm đến Mao đại gia để gây rối thì chẳng khác gì tự tìm lấy cái chết.
– Đúng vậy, ban đầu tại hạ cũng cho rằng chàng thiếu niên đó làm càn.
Sau đó lại nghe chàng ta tuy mới xuất đạo, chưa có tiếng tăm, có hai tay thuộc hạ tùy tùng, nhưng các tiêu cục của Mao đại gia, bất kể là minh tiêu hay ám tiêu chàng ta đều có biện pháp cướp phá.
Ngừng lại giây lát, gã ta nói tiếp :
– Có điều rất kỳ lạ là chàng ta cướp tiêu nhưng không lấy đi, đem vàng bạc châu báu vung vãi đầy khắp không cần lấy một xu.
Thạch Lân tự nhiên liên tưởng đến Mao Băng, vì thế anh ta càng lưu ý lắng nghe.
– Chàng ta quả là một kỳ nhân. Ồ, theo ý ngươi, chàng ta có liên quan đến chuyện mười bảy năm về trước không?
Gã kia làm ra vẻ hiểu biết :
– Khi tại hạ đến Thiểm tây, từng kết giữa bằng hữu với đồ đệ của Uyên Ương song kiếm. Họ nói rằng không chỉ có như vậy, lại còn có liên quan đến câu mười năm sau, lấy máu trả máu gì đó, xem ra…
Gã ta chợt dừng lại. Người kia cười ha ha lên tiếng :
– Ngươi nghe gió là mưa. Cưu Độc đã chết rồi, vả lại hắn không có nhi tử đồ đệ, cũng có chí thân bằng hữu. Khi chết chẳng có một người thân thích, có ai báo thù cho hắn chứ?
Hừ một tiếng, gã ta nói tiếp :
– Mười năm sau lấy máu trả máu, giờ đã gần đến hai mươi năm rồi còn gì.
Nói rõ cho ngươi biết, kẻ cướp phá tiêu cục của Mao lão gia nghe nói là một hán tử ba mươi mấy tuổi, lâu nay độc lai độc vãng. Gặp đến chuyện bất bình anh ta đều xông vào can thiệp, can thiệp xong lưu lại một kim nhỏ để làm tín vật. Mọi người không biết danh tánh anh ta, chỉ gọi anh ta là Kim Kiếm Hiệp. Thời gian gần đây ngươi không ra khỏi nhà nên không biết đó thôi.
– Ai lại như ngươi quanh nam lủi thủi khắp như ngựa không cương. Thú thật mà nói, ngươi nên cưới một lão bà để yên phận cho rồi.
Thấy câu chuyện giữa hai người chuyển sang vấn đề khác, Thạch Lân cho ngựa chậm lại để họ đi trước. Anh ta cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ :
– “Kim Kiếm Hiệp là ai? Ta ban đầu cho rằng chàng thiếu niên đó có thể chính là nhi tử của Mao Băng, nhưng người đó đã hơn ba mươi tuổi rồi, xem ra không phải…”
Thạch Lân đi đến nhận định :
– Người hơn ba mươi tuổi mới bước chân vào giang hồ, chỉ có hai dạng: một là hắn học võ muộn nên thành đạt muộn, hai là hắn bước chân vào giang hồ đã lâu, giờ lại cái dạng đổi hình để tái xuất giang hồ. Kim Kiếm Hiệp khả năng thuộc một trong hai loại đó.
Thạch Lân thở ra một cái, thay đổi dòng suy nghĩ :
– “Ta nghĩ những điều đó làm gì, dù sao nó hoàn toàn không liên quan đến chuyện của ta”.
Ngẩng đầu nhìn, thấy mặt trời đã lặn non tây, Thạch Lân thúc ngựa đi nhanh.
* * * * *
Vào trấn Giang phủ, Thạch Lân xuống ngựa tiến vào một khách điếm giao ngựa cho một gã cảnh vệ, ngước lên nhìn thấy tấm biển treo trên cửa, anh ta nhíu mày thầm nghĩ rằng mình đã chọn nhầm chỗ, nhưng đã vào đây không lẽ lại quay trở ra, đành phải vào nghỉ lại vậy.
Sau buổi lên đèn, Thạch Lân đoán quả không sai, trong khách điếm ồn ào hổn tạp, những cuộc rượu, những sòng bạc la ó ầm ĩ.
Thạch Lân bực bội đẩy cửa đi ra ngoài, đứng ở hành lang nhìn xuống con đường êm ả chạy dài phía trước khách điếm, trong lòng cảm thấy nhẹ nhàng và thanh tịnh đi nhiều.
Anh ta nhìn khách vãng lai trên đường, lại thấy một chiếc kiệu vừa dừng ở trước cổng khách điếm, khiến anh ta không khỏi chú ý đến. Vì khách giang hồ hành tẩu rất ít khi ngồi kiệu, đã không những chậm chạp bất tiện, lại còn phí tiền vô ích.
Từ trong kiệu bước ra một chàng thiếu niên, Thạch Lân nhíu mày ngạc nhiên. Anh ta vẫn cho rằng người ngồi trong kiệu nếu không phải là kẻ bệnh hoạn, cũng là một người già cả hay đàn bà, không ngờ lại là một thiếu niên trai tráng.
Thạch Lân chăm nhìn chàng thiếu niên, chàng ta quả là một thiếu niên anh phong tuấn tú, đôi mắt to sáng và đậm, mũi cao thẳng, thêm bộ y phục trên người rất tương xứng với hình dáng, tạo nên một vẻ đẹp hoàn mỹ.