Trong tiếng binh khí “đinh đinh đang đang”, bạch quang lấp lánh, từng thanh trường kiếm theo nhau bay lên, một thanh rớt vào trong đám người đứng xem, đám tôi tớ hốt hoảng co rúm lại, một thanh rơi trên bàn tiệc. Trong khoảnh khắc bốn thanh trường kiếm trong tay Bốc Viên, Ngô Khảm, Phùng Thản, Thẩm Thành đều bị Địch Vân dùng “khử kiếm thức” đánh bay đi.
Vạn Chấn Sơn đập mạnh hai tay xuống bàn, cười nói:
– Giỏi lắm, giỏi lắm! Thích sư đệ, đệ đã luyện được “Liên thành kiếm pháp” rồi! Chúc mừng, chúc mừng!
Trong tiếng cười đẩy vẻ thê lương
Thích Trường Phát ngẩn người, hỏi:
– Cái gì? “Liên thành kiếm pháp”?
Vạn Chấn Sơn nói:
– Mấy chiêu này của Địch thế huynh, chẳng phải “Liên thành kiếm pháp” thì là gì? Khôn nhi, Kỳ nhi, Khuê nhi, các ngươi lui ra cả đi. Các chiêu của Địch sư huynh là “Liên thành kiếm pháp” do Thích sư thúc truyền thụ, các ngươi làm sao địch nổi?
Rồi lão quay về phía Thích Trường Phát, cười nhạt nói:
– Sư đệ, đệ đóng kịch khá lắm, quả đúng là “đại trí nhược ngu”![1] “Thiết tỏa hoàng giang”, đệ giỏi thật, giỏi thật!
Địch Vân liên tiếp sử ba lộ kiếm chiêu “thích kiên thức”, “nhĩ quang thức”, “khử kiếm thức” trong chốc lát đã đánh bại tám tên đệ tử của họ Vạn, cảm thấy đắc ý, không ngờ lại dễ dàng như thế, cảm thấy bối rối, không biết đặt tay chân vào đâu, nhìn sư phụ rồi lại nhìn sư muội, không biết nói thế nào.
Thích Trường Phát bước tới gần, cầm lấy thanh trường kiếm trong tay Địch Vân, bỗng mũi kiếm rung động chĩa thẳng vào yết hầu Địch Vân, quát:
– Mấy chiêu kiếm ngươi học ai?
Địch Vân giật bắn người, xưa nay cậu ta chưa bao giờ dám lừa dối sư phụ, nhưng lão ăn mày kia đã nói rất rõ ràng, nếu như tiết lộ việc dạy kiếm thì nhất định lão sẽ mất mạng, mình đã thề, quyết không để lộ nửa chữ, bèn nói:
– Sư… sư phụ, là con… con tự nghĩ ra.
Thích Trường Phát thét:
– Ngươi tự nghĩ ra được những kiếm chiêu xảo diệu vậy sao? Ngươi… ngươi dám cả gan nói láo với ta à? Nếu không nói thật, một nhát kiếm của ta sẽ lấy cái mạng nhỏ xíu của ngươi.
Cổ tay lão đẩy tới, mũi kiếm đâm vào yết hầu Địch Vân mấy phân, đầu mũi kiếm đã vấy máu tươi.
Thích Phương chạy tới ôm chặt lấy cánh tay của phụ thân, kêu lên:
– Cha! Sư ca không rời cha con mình nửa bước, còn ai dạy võ công cho nữa? Mấy chiêu kiếm này chẳng phải là đều cha dạy huynh ấy sao?
Vạn Chấn Sơn cười nhạt nói:
– Thích sư đệ, đệ hà tất phải giả vờ như thế? Lệnh ái đã nói rõ cả rồi. Thủ đoạn cao minh của “Thiết tỏa hoành giang” bất tất phải dùng để đối phó với sư ca. Uống đi nào! Lão huynh mừng đệ ba chung!
Nói rồi lão rót đầy chung rượu, ngửa cổ uống cạn một chung trước, nói:
– Làm đại ca phải uống cạn trước! Đệ không thể không nể mặt huynh.
Thích Trường Phát “hừm” một tiếng, ném kiếm xuống đất, quay mình nhận lấy chung rượu, uống liền ba chung, nghiêng đầu trầm tư, mặt đẩy vẻ nghi ngờ, miệng lẩm bẩm: “Lạ thật, lạ thật!”
Vạn Chấn Sơn nói:
– Thích sư đệ, huynh có một việc muốn bàn với đệ, chúng ta đến thư phòng nói chuyện.
Thích Trường Phát gật đầu. Vạn Chấn Sơn cầm tay Thích Trường Phát, hai anh em sánh vai đi đến thư phòng.
Tám đệ tử Vạn môn nhìn nhau, có người mặt xanh lét, có người lầm bầm chửi.
Thẩm Thành nói:
– Đệ đi tiểu! Bị thằng tiểu tử Địch Vân hạ, đệ sợ đến vãi cả ra.
Lỗ Khôn nặng mặt hét:
– Bát sư đệ, đệ làm xấu mặt như thế chưa đủ sao?
Thẩm Thành le lưỡi, vội vàng rời bàn tiệc.
Y chạy ra trước cửa sảnh, chạy vòng qua nhả xí, rồi rón rén đến trước cửa thư phòng nghiêng tai nghe ngóng.
Chỉ nghe thấy tiếng của sư phụ:
– Thích sư đệ, hai mươi năm nay ta không giải được câu đố này, đến hôm nay mới thấy rõ chân tướng.
Lại nghe thấy tiếng Thích Trường Phát:
– Tiểu đệ không hiểu, cái gì gọi là rõ ràng chân tướng.
– Còn phải đợi ta nói ra ư? Sư phụ vì sao mà chết?
– Sư phụ đánh mất một cuốn sách luyện võ công tìm mãi không được, buồn bã mà qua đời, huynh há lại không biết, cần gì phải hỏi đệ?
– Đúng thế, quyến sách luyện võ ấy gọi là gì?
– Đệ làm sao biết được, huynh hỏi làm gì?
– Ta nghe sư phụ nói, sách ấy gọi là “Liên thành quyết”.
– Luyện thành cái gì[2], luyện không thành cái gì? Đệ chẳng hiểu gì cả.
– Người biết không bằng người thích, người thích không bằng cái gì?
– Không bằng người vui vẻ làm theo.
– Hi hi, ha ha, ha ha!
– Có gì đáng cười?
– Đệ rõ ràng là mãn phúc thi thư, lại giả vờ làm người thô lỗ không biết chữ, chúng ta đồng môn học nghệ mười mấy năm, ai mà chẳng biết ai? Đệ không biết ba chữ “Liên thành quyết”, sao lại có thể đọc thuộc lòng “Luận ngữ”, “Mạnh tử”?
– Huynh khảo hạch đệ đấy à?
– Đưa đây!
– Đưa cái gì?
– Đệ tự biết, còn giả vờ làm gì?
– Thích Trường Phát này xưa nay không hề sợ huynh.
Thẩm Thành nghe sư phụ và sư thúc cãi nhau càng lúc càng to tiếng, phát sợ, vội vàng chạy tới đại sảnh, đến bên Lỗ Khôn, nói nhỏ:
– Đại sư huynh, sư phụ và sư thúc cãi nhau, e đánh nhau mất!
Lỗ Khôn ngơ ngác, đứng lên nói:
– Chúng ta đến xem xem!
Bọn Chu Kỳ, Vạn Khuê, Tôn Quân đều vội vàng bước theo.
Thích Phương kéo tay áo Địch Vân, nói:
– Chúng mình cũng đi!
Địch Vân gật đầu, mới đi được hai bước, Thích Phương dúi một thanh trường kiếm vào tay Địch Vân. Địch Vân ngoảnh lại nhìn, thấy trong tay trái Thích Phương có hai thanh trường kiếm. Địch Vân hỏi:
– Hai thanh?
Thích Phương nói:
– Cha không mang theo binh khí!
Tám đệ tử Vạn môn vẻ mặt đầy lo âu, đứng trước cửa thư phòng. Địch Vân và Thích Phương đứng xa hơn một chút. Mười người nín thở nghe hai người cãi nhau trong thư phòng.
– Thích sư đệ, tính mạng của sư phụ, rõ ràng là do ngươi hại chết… – Đó là tiếng của Vạn Chấn Sơn.
– Cái rắm, nói thối lắm, Vạn sư ca, huynh nói rõ một chút đi, vì sao là đệ hại chết sư phụ?
Thích Trường Phát cả giận, giọng nói khác hẳn.
– Bộ “Liên thành quyết” của sư phụ lẽ nào lại không phải là do Thích sư đệ xoáy mất?
– Đệ biết đâu đến liên nhân liên quỷ? Vạn sư ca, huynh muốn vu vạ cho họ Thích này à? Đâu có dễ thế.
– Chiêu kiếm mà học trò của đệ mới sử lẽ nào lại không phải là “Liên thành kiếm pháp”. Vì sao lại khinh linh xảo diệu như thế?
– Học trò của đệ vốn thông minh, nó tự ngộ ra đấy, đến đệ cũng không biết. Chẳng lẽ đó là liên thành kiếm pháp sao? Khi huynh bảo Bốc Viên đến mời đệ, nó nói huynh đã luyện xong “Liên thành kiếm pháp”, huynh có nói vậy không? Chúng ta gọi Bốc Viên đến đối chứng!
Ở bên ngoài, mọi người đều nhìn Bốc Viên, chỉ thấy mặt mũi y rất khó coi, rõ ràng lời Thích Trường Phát không sai. Địch Vân và Thích Phương nhìn nhau đều gật đầu, nghĩ bụng: “Bốc Viên nói vậy ta cũng nghe thấy, chối làm sao được.”
Chỉ nghe thấy Vạn Chấn Sơn ha ha cười lớn:
– Tất nhiên ta đã nói như vậy. Nếu không nói vậy làm sao lừa được đệ đến đây. Thích Trường Phát, ta lại hỏi đệ, đệ nói xưa nay chưa từng nghe mấy chữ “Liên thành kiếm pháp”, vì sao mới nghe Bốc Viên nói ta đã luyện xong Liên thành kiếm pháp đệ đã lật đật đến đây? Đệ còn định chối sao?
– Ha ha, họ Vạn kia, ra là huynh lừa ta đến Kinh Châu?
– Không sai! Đệ giao kiếm quyết đây, rồi đến mộ sư phụ rập đầu tạ tội.
– Vì sao phải giao cho huynh?
– Hừm, ta là đại sư huynh.
Trong phòng im ắng một lúc, chỉ nghe thấy Thích Trường Phát lắp bắp nói:
– Được, đệ giao cho huynh.
Mười người ở ngoài cửa mới nghe thấy năm chữ “được, đệ giao cho huynh” đều bất giác giật mình. Địch Vân và Thích Phương tiếc không có chỗ nẻ mà chui xuống. Bọn tám người Lỗ Khôn thì nhìn hai người khinh bỉ. Thích Phương thì cảm thấy vừa tức giận vừa nhục nhã. Thật không thể tưởng tượng được cha lại làm cái việc mất mặt như thế.
Bỗng dưng từ thư phòng vọng ra tiếng la thảm thiết của Vạn Chấn Sơn, cực kỳ thảm thiết.
Vạn Khuê gào lên:
– Cha!
Rồi phóng chân đá, mở toang cửa thư phòng. Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn ngã trên mặt đất, trước ngực còn cắm một thanh chủy thủ sáng loáng, bên mình đầy máu tươi. Cửa sổ mở toang, còn lay động, Thích Trường Phát không rõ đã đi đâu.
Vạn Khuê khóc gào:
– Cha, cha!
Nhảy ào đến bên mình Vạn Chấn Sơn.
Thích Phương cũng khẽ gọi:
– Cha, cha!
Thân mình cô run bắn, nắm chặt tay Địch Vân.
Lỗ Khôn thét lên:
– Mau, mau truy tìm hung thủ!
Rồi cùng các sư đệ Chu Kỳ, Tôn Quân… ào ào nhảy qua cửa sổ, hét lớn:
– Bắt lấy hung thủ, bắt lấy hung thủ!
Địch Vân thấy tám đệ tử họ Vạn ào ào nhảy qua cửa sổ đuổi bắt sư phụ, biến cố này khiến cho cậu ta hoảng hốt không biết phải làm sao.
Thích Phương lại kêu lên một tiếng:
– Cha!
Rồi lảo đảo, đứng không vững. Địch Vân vội vàng đưa tay đỡ, cúi đầu xuống chỉ thấy Vạn Chấn Sơn hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt dữ tợn đáng sợ, chắc là lúc lâm tử cực kỳ đau khổ.
Địch Vân không dám nhìn nữa, khẽ nói:
– Sư muội, chúng ta có chạy không?
Thích Phương còn chưa trả lời, chỉ nghe thấy đằng sau có tiếng nói:
– Các ngươi là đồng phạm mưu giết sư phụ ta, chạy đi đâu!
Địch Vân và Thích Phương ngoảnh lại, chỉ thấy mũi kiếm chĩa vào sau lưng Thích Phương, đốc kiếm trong tay Bốc Viên. Địch Vân cả giận, định mắng, nhưng lời chưa ra khỏi miệng nghĩ đến việc sư phụ ra tay giết chết sư bá, đâu còn dám nói gì? Bất giác cúi đầu im lặng.
Bốc Viên lạnh lùng nói:
– Mời hai vị về phòng mình, đợi chúng tôi bắt được Thích Trường Phát rồi cùng giải lên quan trị tội.
Địch Vân nói:
– Việc này chỉ do một mình tôi gây ra, không liên quan gì đến sư muội. Các người cần giết, muốn vằm, mình tôi chịu hết.
Bốc Viên xô mạnh lưng Địch Vân, hét:
– Cút. Không phải lúc ngươi ra vẻ ta đây hảo hán.
Địch Vân chỉ nghe thấy tiếng “Bắt lấy hung thủ, bắt lấy hung thủ!” cùng với tiếng thanh la inh ỏi, tiếng chân người, tiếng la hét huyên náo, trong lòng cảm thấy đau đớn xấu hổ không sao kể xiết, cắn chặt răng đi về phòng mình.
Thích Phương khóc nói:
– Sư ca, làm sao đây?
Địch Vân nghẹn ngào nói:
– Huynh… huynh không biết. Huynh đi chịu tội cùng sư phụ.
Thích Phương khóc nói:
– Cha… cha… cha đi đâu rồi?
* * *
Địch Vân ngồi trong phòng, lúc này Vạn Chấn Sơn bị giết đã hơn hai canh giờ. Cậu ta ngồi ngơ ngẩn trước bàn, nhìn ngọn đèn tàn, lòng dạ rối bời.
Lúc này những người đuổi bắt Thích Trường Phát đều đã quay lại.
– Hung thủ chạy ra ngoài thành rồi, đuổi không kịp nữa!
– Ngày mai chúng ta đuổi đến Hồ Nam, thế nào cũng phải bắt bằng được hung thủ, báo thù cho sư phụ.
– Chỉ sợ hung thủ vong mạng giang hồ, bắt không được nữa.
– Hừ, dù có phải đuổi đến chân trời góc bể cũng phải bắt được y, băm thây vạn mảnh.
– Ngày mai gửi thiếp đi khắp giang hồ mời anh hùng võ lâm chủ trì công đạo, cùng truy sát tên hung thủ đê tiện này.
– Đúng, đúng! Chúng ta hãy bắt đứa con gái của hung thủ và thằng chó con họ Địch kia ra mổ trước để tế anh linh của sư phụ.
– Không! Đợi ngày mai quan huyện đại nhân khám nghiệm thi thể đã rồi hãy bàn.
Đệ tử Vạn môn bàn luận xôn xao, rồi tất cả lại im lặng.
Địch Vân muốn bảo sư muội chạy trốn một mình, nhưng nghĩ “Cô ấy còn quá trẻ, lưu lạc giang hồ có ai chăm sóc? Hay là mình dẫn cô ấy cùng bỏ trốn? Không, không! Tai họa này là do mình mà ra, nếu không tại mình đứng ra ẩu đả, đánh lộn với đệ tử Vạn môn, thì Vạn sư bá đâu có nghi ngờ sư phụ lấy trộm cái kiếm quyết “Liên thành kiếm” gì đó? Sư phụ mình là người tốt rất thật thà, sao lại có thể lấy trộm kiếm quyết? Ba chiêu kiếm pháp ấy là do lão ăn mày dạy mình. Nhưng sư phụ đã giết người, lúc này mình có nói ra sự thật người ta cũng chẳng tin, mà dù có tin đi nữa thì cũng chẳng ích gì. Tội của mình nặng quá. Tất cả là do mình không phải. Ngày mai mình phải nói rõ với mọi người, để biện bạch cho sư phụ. Nhưng… nhưng Vạn sư bá rõ ràng là bị sư phụ giết, tội danh của sư phụ làm sao có thể rửa sạch được? Không, mình quyết không thể bỏ trốn, mình phải ở lại chịu tội thay sư phụ, để cho họ giết quách mình đi cũng được!”
Chính trong lúc bao ý nghĩ dập dồn như sóng dậy, bỗng nghe thấy trên nóc nhà có tiếng lách cách nhè nhẹ, ngẩng đầu nhìn chỉ thấy một bóng đen từ phía tây vụt qua phía đông, vượt qua nóc nhà. Địch Vân suýt kêu lên “sư phụ”, nhưng chú ý nhìn thì người kia vừa cao vừa gầy quyết không phải là sư phụ. Tiếp đó lại có một bóng người nhảy qua, rõ ràng trong tay cầm đơn đao.
Địch Vân nghĩ: “Họ truy nã sư phụ chăng? Lẽ nào sư phụ còn ở gần đây, chưa chạy đi xa?”
Đang lúc nghi hoặc, bỗng nghe thấy từ phía đông nhà vọng lại tiếng kêu thất thanh của một người con gái.
Địch Vân giật mình, nắm chắc chuôi kiếm nhảy vọt ra, ý nghĩ đầu tiên chợt đến: “Bọn chúng đang bắt nạt sư muội.” Tiếp theo lại nghe tiếng kêu: “Cứu tôi với!”
Tiếng nói hình như không phải của Thích Phương, nhưng Địch Vân hết sức quan tâm, nào kịp phân biệt có phải Thích Phương gặp nạn hay không, vội tung mình nhảy vọt ra ngoài cửa sổ, vừa mới đứng ở bậc thềm, lại nghe thấy tiếng la hoảng “Cứu tôi với, cứu tôi với!”
Địch Vân chạy đến phía tiếng kêu, chỉ thấy ở lầu phía đông có ánh sáng hắt ra, một cánh cửa sổ đang rung động. Cậu ta nhảy đến bên cửa sổ, nhảy vào, chỉ thấy người đàn bà chân tay bị trói nằm trên giường, hai gã đàn ông đang vuốt mặt, còn một gã đang định cởi áo. Địch Vân không biết người đàn bà kia là ai nhưng thấy người đó sợ hãi mặt không còn hột máu đang giãy giụa trên giường, lớn tiếng kêu cứu.
Tuy đang trong lúc nguy hiểm nhưng thấy tình cảnh ấy Địch Vân không thể làm ngơ, liền cầm kiếm nhảy vào, vung kiếm đâm vào gã kia. Gã đàn ông bên phải giơ một chiếc ghế ngăn lại, gã bên trái đã rút đơn đao chém tới. Địch Vân thấy hai gã đều vải đen bịt mặt chỉ lộ đôi mắt, liền hét lên:
– Ác tặc to gan, để mạng lại!
Rồi vút vút vút đâm luôn ba nhát. Hai gã đàn ông không hề lên tiếng, dùng đơn đao gạt đỡ. Một tên kêu:
– Lữ huynh đệ, rút lui thôi!
Tên khác nói:
– Coi như Vạn Chấn Sơn gặp may, lần sau lại đến báo thù!
Hai lưỡi đao cùng vung lên, chém xuống đầu Địch Vân.
Địch Vân thấy thế đao hung dữ, nghiêng mình né tránh. Một gã đá đổ chiếc bàn, đĩa đèn rơi xuống, trong phòng lập tức tối om. Chì nghe thấy tiếng hò hét vang dậy, hai kè kia nhảy qua cửa sổ, những tiếng binh binh liên tiếp vang lên, ngói đổ rào rào. Trong bóng tối, Địch Vân nhìn không rõ mà cậu ta lại không giỏi về khinh công, không dám đuổi theo.
Địch Vân nghĩ bụng: “Trong bọn này có tên họ Lữ, chắc đây là đồng bọn của Lữ Thông đến để báo thù, chúng còn chưa biết Vạn sư bá đã chết.”
Chợt nghe thấy người đàn bà trên giường kêu:
– Ái, đau quá, trên ngực tôi có một lưỡi đao! Mau rút ra giùm tôi!
Địch Vân giật mình hỏi:
– Bọn giặc ấy đâm trúng à?
Người đàn bà rên rỉ:
– Đâm trúng, đâm trúng rồi!
Địch Vân nói:
– Để tôi thắp cây nến lên xem.
Người kia nói:
– Tới đây, mau, mau tới đây!
Địch Vân nghe giọng kinh hoảng, tiến tới gần một bước, hỏi:
– Thế nào?
Đột nhiên người đàn bà ấy giang hai tay ôm chặt lấy ngang hông Địch Vân, kêu lớn:
– Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Địch Vân cũng sợ hãi, rõ ràng thấy tay chân người đàn bà bị trói chặt, sao lại ôm cứng lấy mình thế này? Vội đưa tay đẩy ra, muốn thoát khỏi vòng ôm của người đàn bà, không ngờ người đàn bà cố sống cố chết ôm chắc cứng, đẩy không ra.
Bỗng tháy ánh sáng lóe lên, hai bó đuốc soi vào cửa sổ, chiếu cả phòng sáng như ban ngày, mấy người đồng thanh hỏi:
– Việc gì thế? Việc gì thế?
Người đàn bà kêu lên:
– Thái hoa tặc! Thái hoa tặc! Giết người cướp của, cứu tôi với, cứu tôi với!
Địch Vân nổi nóng:
– Ngươi… ngươi… sao ngươi không biết hay dở gì cả?
Rồi đưa tay đẩy mụ ta ra. Người đàn bà kia vốn ôm ngang hông Địch Vân, lúc này lại ra sức kháng cự, tru tréo lên:
– Đừng đụng vào ta, đừng đụng vào ta!
Địch Vân đang định chạy ra, bỗng cảm thấy sau gáy lạnh toát, một thanh trường kiếm đã chặn ngay cổ. Địch Vân đang định phân giải, bỗng một luồng bạch quang xoẹt qua, cảm thấy bàn tay phải đau nhói, keng một tiếng, thanh kiếm trong tay rơi xuống sàn nhà. Địch Vân cúi xuống nhìn, sợ hãi suýt ngất đi, chỉ thấy năm ngón tay của mình đã bị chặt đứt, máu tươi chảy như suối, hoảng hốt nhìn sang, thấy Ngô Khảm cầm thanh trường kiếm vấy máu đứng ở bên cạnh.
Địch Vân chỉ nói được một tiếng:
– Ngươi!
Tung chân phải đá vào Ngô Khảm, bỗng sau lưng bị đấm mạnh một quyền, lại bị đá một cái, ngã nhào lên người đàn bà kia. Mụ ta lại ré lên:
– Cứu tôi với, thái hoa tặc!
Nghe tiếng Lỗ Khôn nói:
– Trói thằng tiểu tặc này lại!
Địch Vân tuy là một chú nhà quê chưa từng trải lúc này cũng rõ là bị rơi vào cái bẫy hiểm độc mà người ta cài sẵn. Cậu ta vội vàng nhảy lên, quay mình định xông vào Lỗ Khôn, bỗng nhìn thấy một khuôn mặt trắng bệch, chính là Thích Phương.
Địch Vân ngẩn người, chỉ thấy nét mặt của Thích Phương vừa thương tâm vừa tức giận. Địch Vân kêu lên:
– Sư muội!
Thích Phương bỗng đỏ bừng mặt, hỏi:
– Sao huynh… sao lại như thế?
Địch Vân oan ức đầy lòng, lúc này làm sao nói thành lời được.
Thích Phương “a” lên một tiếng, bật khóc, nói:
– Muội, muội chết cho xong.
Thấy năm ngón tay của Địch Vân đã bị chặt đứt, lòng đau đớn, cắn răng, xé vải trên tấm áo mình đang mặc, đến bên băng bó vết thương cho Địch Vân. Lúc này sắc mặt cô trắng nhợt.
Địch Vân đau đớn, mấy lần suýt ngất đi nhưng cố gượng cho khỏi ngã, chỉ cắn môi đến bật máu tươi, không nói một câu nào.
Lỗ Khôn nói:
– Tiểu sư nương, tên tiểu tặc này dám vô lễ với sư nương, chúng tôi nhất định phải mổ nó ra cho sư nương bõ tức.
Thì ra người đàn bà này là tiểu thiếp (vợ lẽ) của Vạn Chấn Sơn. Mụ ta hai tay ôm mặt khóc hu hu, nói:
– Y… y nói huyên thiên. Y nói sư phụ của các ngươi đã chết rồi, rủ ta theo y. Y nói phụ thân của Thích cô nương giết người, tất liên lụy đến y. Y… y lại nói đã được rất nhiều vàng bạc, châu báu, phát đại tài, rủ ta cùng y cao chạy xa bay, ăn cả đời không hết…
Đầu óc Địch Vân rối loạn, chỉ lẩm bẩm nói:
– Bịa… Bịa…
Chu Kỳ lớn tiếng nói:
– Đi! Đi! Đi soát phòng tên tiểu tặc này!
Mọi người xô đẩy Địch Vân, lôi đến phòng cậu ta. Thích Phương hoảng hốt đi theo.
Vạn Khuê lại nói:
– Mọi người đừng làm khó Địch sư ca, chưa làm rõ sự tình, không được vu oan cho người tốt.
Chu Kỳ tức giận nói:
– Còn cái gì chưa rõ nữa? Thằng tiểu tử này mà tốt cái rắm gì!
Vạn Khuê nói:
– Tôi thấy anh ta không phải là người làm bậy.
Chu Kỳ nói:
– Vừa rồi chẳng phải đệ đã tai nghe mắt thấy sao?
Vạn Khuê nói:
– Tôi thấy anh ta có uống mấy chén, chẳng qua là rượu say loạn tính.
Bao nhiêu việc rối beng, Thích Phương đã không còn tự chủ được, nghe Vạn Khuê biện bạch cho Địch Vân như thế, trong lòng thầm cảm kích, khẽ nói:
– Vạn sư huynh, sư ca của muội chắc chắn không phải là người như thế.
Vạn Khuê nói:
– Phải đấy, tôi nghĩ anh ta chỉ vì rượu say, chuyện lấy trộm tiền nhất định là không có.
Đang chuyện trò, mọi người đã lôi Địch Vân đến phòng. Thẩm Thành hai mắt láo liên nhìn quanh phòng Địch Vân, cúi người xuống, thò tay xuống giường kéo ra một cái bao nặng trịch, chỉ nghe thấy tiếng “đinh đang”, tiếng kim loại rổn rảng vang lên. Địch Vân kinh hãi ngẩn người, thấy Thẩm Thành mở cái bao ra, trước mắt mọi người vàng bạc rơi ra tung tóe, nào là bình rượu, chén rượu bằng vàng bằng bạc, đều là những thứ trên bữa tiệc rượu của nhà họ Vạn.
Thích Phương thét lên kinh hãi, hai tay bấu vào cái bàn.
Vạn Khuê an ủi:
– Thích sư muội, muội đừng sợ, chúng ta sẽ từ từ nghĩ cách.
Phùng Thản giở cái chăn lên, lại thấy hai cái bao. Thẩm Thành và Phùng Thản mở ra một bao là mấy đĩnh bạc nguyên bảo, còn một bao lại là một đống nữ trang, hoa tai vòng xuyến, nhẫn vàng.
Lúc này Thích Phương không còn nghi ngờ gì nữa, oán hận cực điểm, những muốn vung kiếm tự vẫn. Cô từ nhỏ cùng lớn lên với Địch Vân, trong lòng cô sớm đã nghĩ lớn lên sẽ cùng Địch Vân nên duyên chồng vợ, nào ngờ người bạn tình mà mình xưa nay gắn bó thương yêu trong lúc tai họa này lại rủ người đàn bà khác cao chạy xa bay. Lẽ nào người đàn bà kia lại làm anh ta mê đắm ư? Hay là anh ta sợ bị liên lụy, muốn một mình bỏ trốn?
Lỗ Khôn lớn tiếng chửi:
– Thằng giặc thối tha này, tang vật đủ cả, còn chối cãi đằng nào?
Y giáng cho Địch Vân hai bạt tai. Địch Vân hai tay bị Tôn Quân, Ngô Khảm giữ chặt không cách gì đỡ được, hai bên mặt sưng vù lên. Lỗ Khôn nổi khùng lên, đấm liên tiếp vào ngực Địch Vân.
Thích Phương kêu lên:
– Đừng đánh, đừng đánh, có gì cứ nói.
Chu Kỳ nói:
– Đánh chết thằng giặc này, báo quan sau.
Nói rồi cũng đấm một quyền.
Địch Vân há miệng, phun ra một búng máu. Phùng Thản nói:
– Chặt nốt tay trái của hắn đi, xem hắn có làm càn được nữa không?
Tôn Quân cầm tay trái của Địch Vân đưa lên, Phùng Thản vung kiếm định chém. Thích Phương vội “a” lên một tiếng. Vạn Khuê nói:
– Mọi người nể mặt tôi, đừng làm khó anh ta nữa, chúng ta giải lên quan ngay.
Thích Phương thấy Phùng Thản từ từ thu kiếm, hai hàng nước mắt cô ròng ròng chảy, nhìn lại Vạn Khuê, ánh mắt đầy cảm kích.
* * *
“Năm, mười, mười lăm, hai mươi…”
Bọn sai dịch vừa đếm vừa vung roi đánh lên người Địch Vân. Địch Vân bị hai tên sai dịch khác đè cứng, gậy tre tới tấp giáng xuống. So với nỗi thống khổ trong lòng, những chiếc gậy tre này chẳng đáng kể vào đâu, thậm chí cơn đau ở bàn tay phải bị chặt đứt cũng chẳng đáng kể vào đâu.
Trong lòng Địch Vân chỉ nghĩ: “Đến cả Phương muội cũng coi ta là giặc cướp, đến cô ấy cũng coi ta là giặc.”
“Hai mươi lăm, ba mươi, ba lăm, bốn mươi…” gậy tre vẫn tiếp tục giáng xuống da thịt rách tả tơi, máu tươi đầm đìa, bắn tung tóe ra xung quanh.
Khi tỉnh lại trong phòng giam, Địch Vân mơ hồ ngạt thở, không biết mình đang ở đâu, cũng không biết đã bao lâu. Dần dần Địch Vân cảm thấy chỗ năm ngón tay bị chặt đứt đau nhói, lại cảm thấy trên lưng, trên chân, trên vai… chỗ nào cũng đau đớn, muốn trở mình để vết thương không bị đè lên, bỗng cảm thấy hai bên vai đau không chịu nổi, lại ngất đi.
Đến khi tỉnh lại lẩn thứ hai, nghe thấy tiếng mình rên rỉ, rồi lại cảm thấy toàn thân đau đớn không tưởng tượng được. Nhưng vì sao vai lại đau ghê gớm như vậy? Vì sao cơn đau này lại không sao chịu nổi? Cậu sợ hãi không nói thành lời. Rất lâu, rất lâu sau vẫn không dám ngoái đầu xem. “Lẽ nào hai vai mình đều bị người ta chém đứt rồi?” Một lúc sau nghe thấy tiếng sắt nhẹ rít lên, ngoái đầu nhìn một cái, thấy hai sợi dây sắt thòng xuống hai bên vai. Địch Vân kinh hãi nghiêng đầu nhìn, sợ đến nỗi toàn thân run bắn.
Cơn run này khiến hai vai càng đau dữ dội. Thì ra hai sợi dây sắt này đã xuyên qua hai cái xương bả vai, khóa chặt với hai cái còng tay và hai cái cùm chân cũng bằng sắt.
Dây sắt xuyên qua xương bả vai, Địch Vân đã từng nghe sư phụ nói – đó là cách mà quan phủ dùng để đối phó với những tên cường bạo hung ác nhất, dù cho võ công của người có cao cường đến đâu, xương bả vai đã bị dây sắt xâu qua thì một chút công phu cũng không sử dụng được. Trong chốc lát vô số ý nghĩ vụt qua: “Vì sao lại đối xử với mình thế này? Lẽ nào họ coi mình là kẻ cướp thật sao? Mình oan uổng thế này, lẽ nào quan huyện không tra xét cho rõ?”
Ở trên công đường của tri huyện, Địch Vân đã lắp bắp nói ra, nhưng Đào Hồng, tiểu thiếp của Vạn Chấn Sơn một mực vu cáo, ý đồ cưỡng dâm là của Địch Vân chứ không có ai khác.
Tám đệ tử nhà họ Vạn và rất nhiều gia nhân đều chứng thực là tận mắt thấy Địch Vân ôm chặt lấy Đào Hồng, tận mắt nhìn thấy tang vật dưới gầm giường, dưới chăn. Bọn sai dịch ở nha môn đều nói họ Vạn ở Kinh Châu uy danh vang dội, có đạo tặc nào dám vuốt râu hùm.
Địch Vân còn nhớ tri huyện tướng mạo thanh tú, vẻ mặt rất hiền lành. Cậu ta nghĩ tri huyện đại nhân nhất thời tin lời người ta, xử oan cho người tốt, nhưng thể nào cuối cùng cũng điều tra ra sự thật. Nhưng, năm ngón tay bên phải bị chặt đứt, sau này làm sao có thể sử kiếm được nữa?
Địch Vân phẫn nộ đầy lòng, tâm hồn đau khổ, không quản đau đớn, đứng lên, lớn tiếng thét:
– Oan uổng, oan uổng!
Bỗng hai chân bủn rủn, ngã quay xuống đất. Cậu giãy giụa định bò dậy, vừa mới đứng được lên, đầu gối tê dại, lại ngã nhào xuống, bò trên mặt đất vẫn không ngớt kêu “oan uổng, oan uổng!”
Trong góc phòng giam bỗng có một thanh âm lạnh lùng:
– Bị dây sắt xâu qua xương bả vai, võ công bị phế cả rồi, hi hi, hi hi! Cái giá phải trả đắt quá nhỉ!
Địch Vân không thèm để ý ai đang nói, cũng không thèm quan tâm đến ý nghĩa của câu nói, vẫn kêu la:
– Oan uổng, oan uổng!
Một tên ngục tốt đi đến, hét:
– Kêu gào làm gì? Còn không câm mồm đi cho ta!
Địch Vân vẫn kêu:
– Oan uổng quá, oan uổng quá! Tôi cần gặp tri huyện đại nhân, yêu cầu ngài thân oan.
Ngục tốt lại hét:
– Mày có câm mõm đi không?
Địch Vân càng gào to hơn.
Tên ngục tốt kia cười một tiếng, quay người giơ lên một cái thùng gỗ, cách chấn song sắt, tạt hết cả thùng gỗ lên người Địch Vân. Địch Vân cảm thấy hơi thối nồng nặc xộc vào mũi, không kịp né mình, toàn thân lập tức bị ướt đẫm cứt đái. Cứt đái chảy đầm đìa khắp người, tràn vào các vết thương, đau đớn gấp bội, hai mắt tối sầm, lại ngất đi.
Cậu mơ mơ hồ hồ, người sốt hầm hập, khi thì kêu “Sư phụ, sư phụ!” khi thì lại kêu: “Sư muội, sư muội!” Liên tiếp ba ngày như thế, ngục tốt đưa cơm đến, Địch Vân cứ mê man không hề ăn một miếng.
* * *
Đến ngày thứ tư, cơn sốt dần dần giảm đi. Các vết thương đau đớn đến tê dại, không còn đau chói như mấy ngày trước. Nhớ lại nỗi oan ức của mình, lại há miệng kêu: “Oan uổng!” nhưng lúc này thanh âm yếu ớt chỉ rên rỉ lắp bắp.
Địch Vân ngồi dậy hoang mang nhìn phòng giam. Đây là một phòng giam bằng đá khoảng hai trượng vuông, tường được xây bằng những tảng đá to xù xì, dưới cũng là nền đá, góc tường đặt một thùng phân, tắc mũi là mùi xú uế.
Cậu chầm chậm quay đầu lại chỉ thấy ở góc phía tây một đôi mắt dữ tợn trừng trừng nhìn mình. Địch Vân phát run, không ngờ trong phòng giam này còn có người khác. Chỉ thấy người này mặt đầy râu quai nón xồm xoàm, tóc dài rủ xuống cổ áo rách nát tả tơi, giống như dã nhân trong rừng rậm. Tay y mang còng, chân y mang cùm giống như mình, thậm chí xương bả vai cũng bị xâu hai sợi dây sắt.
Ý nghĩ đầu tiên trong đầu Địch Vân là vui mừng, khóe miệng hơi cười, nghĩ bụng: “Hóa ra trên đời còn có người bất hạnh như mình.” Nhưng rồi lại nghĩ: “Người này hung ác như thế, chắc là kẻ giết người đốt nhà, một tay cường đạo tội ác ngập trời. Chắc y phạm tội, còn mình thì oan uổng!” Nghĩ đến đó, bất giác nước mắt như mưa.
Cậu đã bị tra tấn, bị tống giam, nếm bao nhiêu đau khổ nhưng vẫn cắn chặt răng chịu đựng không hề rơi một giọt nước mắt, đến lúc này không kìm nén được cất tiếng khóc vang.
Phạm nhân râu xồm kia cười nhạt nói:
– Giả vờ khéo quá, giỏi đấy, mày là kép hát à?
Địch Vân không thèm để ý đến y, cứ khóc vang.
Nghe tiếng chân, ngục tốt lại xách một thùng cứt đái tới. Địch Vân tính nết có ngang bướng cũng không dám đối chọi với hắn, đành dần dần nín khóc. Tên ngục tốt kia nghiêng đầu dò xét, bỗng nói:
– Tiểu tặc, có người đến thăm ngươi.
Địch Vân vừa sợ vừa mừng, vội hỏi:
– Là… là ai vậy?
Tên ngục tốt lại nghiêng đầu dò xét, rồi móc bên người ra một chiếc chìa khóa sắt to tướng mở cánh cửa sắt bên ngoài. Chỉ nghe thấy tiếng bước chân, ngục tốt đi qua một cái thông đạo dài, lại tiếng mở cửa sắt, tiếp theo là tiếng đóng cửa, rồi lại khóa cửa sắt, trong thông đạo vang lên tiếng bước chân của ba người.
Địch Vân cả mừng, nhảy dựng lên, hai chân nhũn ra chực ngã, vội tựa vào bức tường bên cạnh. Cử động này lại khiến xương bả vai đau chói lên. Nhưng lòng cậu tràn ngập niềm vui, quên hết đau đớn, kêu to:
– Sư phụ, sư muội!
Trên đời cậu chỉ còn có hai người thân là sư phụ và sư muội, trong đường hầm, ngoài ngục tốt ra còn có hai người, tất nhiên là sư phụ và sư muội rồi.
Chợt, miệng mới kêu lên được một tiếng “sư”, tiếng “phụ” nghẹn lại trong cổ họng, miệng há ra không ngậm lại được. Người tiến vào cửa sắt, trước hết là ngục tốt, người thứ hai là một chàng trai trẻ ăn mặc bảnh bao, lại là Vạn Khuê, người thứ ba là Thích Phương.
Cô kêu to:
– Sư ca, sư ca!
Rồi nhào tới bên chấn song sắt.
Địch Vân bước tới một bước, thấy cô mặc áo lụa, không phải là tấm áo mới mặc từ quê lên, bước thứ hai bèn không bước lên được nữa.
Chỉ thấy hai mắt cô đỏ hoe, chỉ kêu:
– Sư ca, sư ca, huynh… huynh…
Địch Vân hỏi:
– Sư phụ đâu? Có… có tìm được sư phụ không?
Thích Phương lúc lắc đầu, nước mắt chảy ròng ròng. Địch Vân hỏi:
– Muội… muội khỏe không? Đang ở đâu?
Thích Phương thổn thức:
– Muội chẳng biết đi đâu, tạm ở lại trong nhả Vạn sư ca…
Địch Vân kêu to:
– Đó là chốn hại người, muôn vạn lần không ở được, mau… mau chuyển đi chỗ khác.
Thích Phương cúi đầu khẽ nói:
– Muội… muội lại không có tiền. Vạn sư ca… đối với muội rất tốt, mấy ngày… mấy ngày hôm nay, ngày nào huynh ấy cũng đến nha môn tốn rất nhiều tiền… để… để cứu huynh.
Địch Vân càng tức giận, lớn tiếng:
– Huynh không hề phạm tội, để cho y tốn tiền làm gì? Sau này chúng ta lấy đâu mà trả. Tri huyện đại nhân tra rõ nỗi oan của huynh, tự khắc sẽ thả huynh ra.
Thích Phương “a” lên một tiếng, lại bật khóc, oán hận nói:
– Huynh… huynh… Vì sao huynh lại làm việc ấy? Vì… vì sao lại bỏ muội?
Địch Vân ngẩn ra giây lát, rồi hiểu ra, đến lúc này sư muội vẫn tin lời Đào Hồng là thật, tin rằng mấy bao vàng bạc châu báu kia là mình ăn trộm. Cậu đối với Thích Phương luôn vừa kính vừa yêu, vừa thương vừa sợ, việc gì cũng nghe lời cô, việc gì cũng bàn với cô, nào ngờ gặp đại sự này, cô lại không hề phân biệt mình với người khác, cứ cho rằng mình cưỡng dâm đàn bả, ăn trộm vàng bạc, cho rằng mình có thể làm cái việc xấu xa như thế.
Khoảnh khắc ấy lòng Địch Vân vô cùng đau khổ, đau gấp trăm lần nỗi đau trên cơ thể. Cậu há miệng cứng lưỡi, có muôn vạn lời muốn biện bạch với Thích Phương nhưng cổ họng tắc nghẹn. Cậu gắng hết sức, mặt đỏ bừng lên, nhưng lưỡi vẫn cứng đờ, cổ họng vẫn nghẹn tắc, không thốt được một lời.
Thích Phương thấy vẻ mặt Địch Vân đáng sợ đến thế, kinh hãi ngoảnh mặt đi không dám nhìn.
Địch Vân gắng mãi vẫn không nói được một lời, bỗng thấy Thích Phương ngoảnh mặt né tránh mình, trong lòng chợt hiểu: “Cô ấy hận mình, hận mình bỏ rơi cô ấy tìm người đàn bà khác, hận mình ăn trộm vàng bạc châu báu của người ta, hận mình khi sư môn gặp đại họa lại muốn lén lút một mình cao chạy xa bay. Sư muội, sư muội, em không tin tôi như thế, thì cần gì phải đến thăm tôi?” Cậu không dám nhìn Thích Phương nữa, chầm chậm ngoảnh đầu nhìn lên bức tường câm lặng.
Thích Phương ngoảnh mặt lại, nói:
– Sư ca, việc đã qua rồi, cũng không nói nữa, chỉ mong sớm… sớm biết được tin cha. Vạn sư ca, huynh ấy… huynh ấy muốn tìm cách bảo lãnh cho huynh ra tù…
Trong lòng Địch Vân muốn nói: “Huynh không cần hắn bảo lãnh.” Lại muốn nói: “Muội đừng ở trong nhà hắn nữa”, nhưng càng gắng sức lưỡi càng cứng đơ, nói không ra một tiếng nào. Thân thể Địch Vân run bần bật, cánh cửa sắt kêu lên rin rít.
Tên ngục tốt giục:
– Hết giờ rồi. Đây là nhà giam tử tù, chuyên giam trọng phạm giết người, vốn là không cho thăm. Nếu bề trên biết được, chúng tôi sẽ bị trị tội. Cô nương, người này có sống mà ra được cũng thành phế nhân. Cô hãy ngoan ngoãn quên hắn đi, lấy một anh chàng giàu có đẹp trai quách cho rồi!
Rồi hắn nhìn Vạn Khuê một cái, cười hi hí.
Thích Phương van xin:
– Đại thúc, tôi có mấy lời muốn nói với sư ca.
Rồi chìa tay vào trong song sắt, kéo tay áo Địch Vân, dịu dàng nói:
– Sư ca, huynh cứ yên tâm, muội nhất định xin Vạn sư ca cứu huynh ra, chúng mình cùng đi tìm cha.
Rồi cô đưa vào một cái làn tre nhỏ, nói:
– Đây là một ít thịt kho, cá kho, trứng gà, với có hai lạng bạc. Sư ca, ngày mai muội lại vào thăm huynh.
Ngục tốt bực bội quát:
– Đại cô nương, cô không chịu đi, tôi sẽ không khách khí đâu!
Vạn Khuê lúc ấy mới mở miệng nói:
– Địch sư huynh, huynh yên tâm, việc của huynh cũng là việc của đệ, tiểu đệ sẽ ra sức xin với quan huyện đại nhân, định tội huynh càng nhẹ càng tốt.
Tên lính ngục luôn mồm giục giã, Thích Phương chẳng biết làm sao đành ngậm ngùi lủi thủi đi ra, bước một bước lại ngoái đầu nhìn lại, vẫn thấy Địch Vân đứng sững như bức tượng đá, không hề nhúc nhích, trân trối nhìn bức tường câm lặng.
Trong mắt Địch Vân chỉ thấy bức tường đá lồi lồi lõm lõm, cậu những muốn ngoảnh đầu lại nhìn theo bóng Thích Phương lần nữa, muốn gọi cô một tiếng “sư muội”, nhưng không những chẳng thốt nên lời, mà cái cần cổ cũng cứng ngắc. Cậu nghe thấy tiếng chân bước trên thông đạo dần xa, nghe thấy tiếng mở khóa mở cửa rồi khóa cửa, nghe bước chân ngục tốt vang lên trên đường hầm, nghĩ bụng: “Cô ấy nói ngày mai lại đến thăm mình, ôi, lại phải chờ đợi một ngày dài đằng đẵng mình mới lại được gặp sư muội.”
Cậu thò tay vào trong cái làn tre để lấy thức ăn. Chợt thấy một bản tay to lớn đẩy lông lá thò ra cướp mất cái làn, chính là tên tù hung ác kia. Chỉ thấy y bốc thịt ra đút vào mồm nhai nhồm nhoàm.
Địch Vân tức giận nói:
– Đây là của ta!
Cậu bỗng mở miệng nói được, tự cảm thấy thật kỳ lạ, bước tới một bước định giằng lại. Tên tù kia giơ tay đẩy một cái, Địch Vân đứng không vững ngã ra sau, “bình” một tiếng, gáy đập vào tường đá. Lúc này cậu mới hiểu ý nghĩa thực sự của câu “bị xuyên xương bả vai, tất thành người tàn phế”.
* * *
Ngày hôm sau Thích Phương không đến thăm, ngày sau nữa cũng không đến, ngày sau nữa cũng không đến.
Địch Vân trông đợi một ngày, lại một ngày, lại ngày nữa, thất vọng, đợi đến ngày thứ mười, cậu cơ hồ phát điên. Địch Vân hồ hét kêu gào, đập đầu vào tường binh binh nhưng Thích Phương thủy chung vẫn không đến, chỉ có tên ngục tốt lại tạt cứt đái, tên tù hung ác kia lại đấm đá.
Nửa tháng trôi qua, cậu dần dần bình tĩnh lại, lầm lì không nói một lời.
Một buổi tối, bỗng có bốn tên ngục tốt đi vào phòng giam, tay chúng đều cầm cương đao, áp giải tên hung đồ kia đi.
Địch Vân nghĩ bụng: “Áp giải hắn đi chém đầu ư? Thế cũng hay, mình sẽ không bị y đánh đập khổ sở nữa, cũng không còn bị y khinh rẻ nữa.”
Cậu đang nhìn mông lung, bỗng nghe thấy tiếng xiềng sắt loẻng xoẻng, bốn tên ngục tốt khiêng tên hung đồ kia trở lại. Địch Vân giương mắt nhìn, chỉ thấy tên hung đồ ấy toàn thân đầm đìa máu tươi, rõ ràng lả vừa bị khảo đả hết sức tàn ác.
Tên tù kia mới ngã vật xuống đất đã hôn mê bất tỉnh. Địch Vân đợi bốn tên ngục tốt đi rồi, dưới ánh trăng soi vào phòng giam mới nhìn kỹ, thấy trên mặt, trên tay trên chân y đầy vết máu do đòn roi đánh mạnh. Địch Vân tuy ngày nào cũng bị y bắt nạt, nay thấy thảm trạng như thế không nén được động lòng bất nhẫn, rót một ít nước trong bát ra đổ vào miệng y
Tên tù kia dần dần tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Địch Vân, bỗng giơ hai tay bị xiềng lên chém mạnh xuống đầu Địch Vân. Địch Vân khí lực tuy mất, nhưng linh cơ ứng biến vẫn còn, vội nghiêng mình tránh, không ngờ tên tù kia chưa dùng hết sức hai tay, giữa chừng lật trở lại, “bịch” một tiếng, đánh mạnh vào hông Địch Vân. Địch Vân đứng không vững, ngã sang bên trái. Tay chân cậu đều bị xiềng chặt với xương bả vai, lập tức đau đớn không chịu nổi, không nén được sợ hãi và tức giận, chửi:
– Đồ điên!
Tên tù kia cười như điên, nói:
– Khổ nhục kế của ngươi lừa sao nổi ta, từ bỏ cái ý lấy lòng ta đi.
Địch Vân cảm thấy mấy cái xương sườn như bị gãy, đau đến nỗi không lên tiếng được, một lúc sau mới nói:
– Đồ điên, ngươi không giữ nổi thân mình, có cái gì mà người ta phải lấy lòng?
Tên tù kia nhảy tới một bước, chân trái đá vào lưng Địch Vân, chân phải lại đá liền mấy cú, quát lên:
– Ta thấy tên tiểu tặc nhà ngươi còn quá trẻ, gây tội ác chưa nhiều, chẳng qua là bị người ta sai khiến, nếu không, ta không đá ngươi một cú cho chết rấp đi mới là lạ.
Địch Vân giận đến nỗi quên hết đau đớn trên người, thầm nghĩ mình vô tội bị tù đã là bất hạnh, lại bị giam một lao với thằng tù điên khùng này, thật là họa vô đơn chí.
Đến rằm tháng sau, tên tù kia lại bị bốn ngục tốt cầm cương đao đến giải đi, khảo đả một trận, rồi lại tống về lao. Lần này Địch Vân đã có kinh nghiệm, dù cho y thê thảm đến không thể nhịn nổi cậu vẫn không thèm để ý. Không ngờ không để ý cũng không được, tên tù kia không biết trút giận vào đâu, dù thân thể đầy vết thương, vẫn không ngớt xả xui lên đầu Địch Vân, y chửi mắng:
– Con mẹ mày, mày có nằm tù đây tám năm mười năm bố mày đây cũng không thèm nhẹ tay.
– Chúng nó đánh bố mày, bố mày lại đánh mày!
– Chúng ta thử thi gan, xem ai chịu tội nhiều hơn…
Cứ như là y bị khảo đả toàn do Địch Vân. Y vừa đánh vừa đá cả nửa ngày.
Từ đó về sau cứ mỗi khi sắp đến ngày rằm Địch Vân lại buồn bã biết rằng sắp đến ngày phải chịu đòn thê thảm. Quả nhiên cứ mỗi đêm rằm tên tù kia lại bị dẫn đi khảo đả, trở về lại đánh đập Địch Vân. Cũng nhờ Địch Vân còn quá trẻ, thân thể cường tráng mỗi tháng chịu một trận đòn cũng còn chịu nổi, có lúc không khỏi lấy làm lạ: “Xương bả vai của mình bị dây sắt xuyên qua, sức lực mất hết, thằng điên này cũng bị xuyên dây sắt qua xương bả vai, sao vẫn mạnh đến như thế?” Mấy lần lấy hết can đảm định hỏi thử nhưng chỉ mới mở miệng thằng điên kia lại đấm đá túi bụi, từ đó về sau đành không nói với y nửa lời.
Thấm thoắt đã mấy tháng trời, đông hết xuân sang, bấm đốt ngón tay đã gần một năm. Địch Vân quen dần, oán hận trong lòng, đau đớn trên thân cũng dần dần tê dại đi. Trong những ngày tháng ấy, để tránh sự đánh đập sỉ nhục của gã điên kia, Địch Vân chẳng hề nhìn đến y. Chỉ cần không nói chuyện với y, mắt không nhìn y thì ngoài những đêm trăng tròn, gã điên kia cũng không gây sự.
Một buổi sớm, Địch Vân còn chưa mở mắt, nghe thấy tiếng chim yến ríu rít bên ngoài phòng giam, chợt nhớ lại trước kia thường cùng Thích Phương xem chim yến làm tổ, trong lòng chua xót, nhìn về phía tiếng chim thấy một đôi yến đang dần bay xa, tới đậu bên khung cửa sổ một lầu cao cách phòng giam mấy chục trượng. Địch Vân cả ngày không biết làm gì thường nhìn lên cửa sổ ấy, đoán xem có ai đang ở trong lầu ấy nhưng cửa sổ vẫn đóng hoải. Bên bậu cửa suốt năm luôn có một chậu hoa tươi. Lúc này mùa xuân đến, đặt trên bậu cửa là một chậu hoa nhài.
Trong lúc đang suy nghĩ mông lung bỗng nghe gã điên khẽ thở dài. Một năm nay gã điên kia không cười sằng sặc thì chửi ỏm tỏi, chưa hề thấy y thở dài bao giờ, huống chi trong tiếng thở dài ấy lại đầy nỗi buồn thương, dịu dàng. Địch Vân không nén được ngoảnh đầu lại, chỉ thấy bên khóe miệng gã điên kia thoáng một nét cười, vẻ mặt chân thành tha thiết, không hề có một nét gì hung hãn ác độc, đôi mắt y đang ngắm chậu hoa nhài. Địch Vân chỉ sợ y phát hiện ra mình đang nhìn trộm, bèn ngoảnh đầu không dám nhìn tiếp nữa.
Từ khi phát hiện ra bí mật ấy, mỗi buổi sớm Địch Vân đều nhìn trộm thần sắc gã điên kia, chỉ thấy y chăm chú ngắm bồn hoa tươi, nét mặt dịu dàng vô hạn. Từ ngắm hoa nhải, hoa hồng mùa xuân, đến ngắm hoa đinh hương, phượng tiên mùa hạ. Trong nửa năm ấy, hai người cơ hồ chỉ nói với nhau hơn mười câu. Những trận đánh đập sau đêm trăng tròn cũng nhẹ hơn. Địch Vân đã phát hiện ra, chỉ cần mình không nói một lời thì cơn giận của gã điên kia cũng giảm đi nhiều, đấm đá cũng nhẹ đi nhiều. Cậu nghĩ bụng: “Qua mấy năm nữa e rằng mình cũng quên mất tiếng nói.”
Gã điên tuy ngang ngược vô lý nhưng cũng có cái hay là khiến bọn ngục tốt sợ hãi không dám đến phòng giam la lối. Có khi ngục tốt chửi y thậm tệ, không đưa cơm cho y, y cướp cơm của Địch Vân mà ăn. Nếu không đưa cơm đến cho cả hai người, gã điên nhịn đói mấy hôm cũng không để ý.
Ngày rằm tháng mười một năm nọ, gã điên kia sau khi bị một trận khảo đả dã man bỗng lên cơn sốt, trong hôn mê toàn nói lảm nhảm, Địch Vân nghe thấy y thường gọi hai tiếng, giống như là “song hoa” lại giống như là “thương hoài” (đau lòng).
Địch Vân mới đầu không dám để ý, nhưng đến trưa hôm sau, thấy y không ngừng rên rỉ kêu “nước, nước, cho tôi uống nước!”, không nhịn được lại đến bên cái bát sành rót một ít nước, thấm vào bên miệng y, cẩn thận dè chừng, đề phòng hai tay y lại xuất đòn đánh ra. May sao lẩn này y ngoan ngoãn uống nước, rồi ngủ thiếp đi.
Buổi tối hôm ấy, bốn tên ngục tốt lại đến, khiêng y đi khảo đả một trận nữa. Lần này trở lại, tiếng rên rỉ của gã điên đứt đứt nối nối. Một tên ngục tốt cộc cằn nói:
– Hắn quật cường không chịu nói, ngày mai lại đánh tiếp.
Một tên khác nói:
– Nhân lúc hắn thần trí hôn mê chúng mình bức bách hắn nói ra, biết đâu lần này hắn đi chầu diêm vương thì hỏng việc.
Địch Vân ở cùng phòng giam với y đã lâu tuy bị y ăn hiếp đánh đập nhưng cũng không muốn y phải chết dưới tay ngục tốt. Ngày mười bảy, Địch Vân chăm sóc hắn uống nước bốn năm lần. Lần cuối cùng gã điên gật đầu tỏ ý cảm ơn. Từ ngày cùng ở chung nhà lao đến nay, Địch Vân lẩn đầu tiên thấy y có chút thiện ý, bỗng lòng cảm thấy vui mừng vô hạn.
Sau canh hai hôm ấy, bốn tên ngục tốt kia quả nhiên lại đến, mở cửa phòng giam. Địch Vân thầm nghĩ nếu gã điên bị khảo đả lần nữa thì chắc là chết mất, ý nghĩ vừa lóe lên, liền nhảy tới chặn ngang trước cửa, hét lên:
– Không được vào!
Một tên ngục tốt cao lớn sải chân bước vào, chửi:
– Thằng tù này, cút ra.
Hai tay Địch Vân vô lực, vội cúi xuống cắn một miếng, cắn cho ngón tay trỏ và ngón tay giữa của hắn chảy máu ròng ròng, răng cắn sâu vào xương, hai ngón tay cơ hồ bị cắn đứt. Tên ngục tốt hét lên một tiếng kinh hãi, quay mình chạy ra khỏi phòng giam, “keng” một tiếng một thanh đơn đao rơi xuống đất.
Địch Vân cúi mình nhặt lấy, vù vù vù chém liền ba đao. Tay cậu ta tuy không còn kình lực, nhưng dùng đao thay kiếm, chiêu số vẫn rất tinh diệu. Một tên ngục tốt to béo giơ đao tiến tới, Địch Vân lạng người, một chiêu “Đại mẫu ca lâm thất, trường nga hàm dực viên” (Thực ra là “Đại hán cô yên trực, trường hà lạc nhật viên). Đơn đao vẽ một vòng tròn, “soạt” một tiếng chém vào chân hắn. Tên ngục tốt sợ quá lăn mấy vòng bò lê bò càng ra khỏi phòng giam.
Máu bắn tung tóe trước cửa lao. Bốn tên ngục tốt thấy cậu ta như con cọp điên, có vẻ liều mạng, không dám tiến vào nữa, đứng ngoài cửa lao réo mười tám đời tổ tông Địch Vân lên mà chửi đủ lời thô tục. Địch Vân không nói một lời, chỉ giữ chặt cửa ngục. Bốn tên ngục tốt vẫn không đi cầu viện quân, mắt nhìn dữ tợn, không dám tiến vào, chửi một chặp rồi cũng bỏ đi.
Bốn ngày tiếp theo, ngục tốt không đưa cơm, cũng không đưa nước. Đến ngày thứ năm, Địch Vân khát không chịu nổi nữa. Gã điên kia cũng khô nứt cả miệng, bỗng nói:
– Ngươi giả vờ định chém chết ta, bọn chó đẻ này không thể không đem nước tới.
Địch Vân không rõ lý do vì sao, nhưng nghĩ: “Dù chẳng có tác dụng gì cũng cứ thử xem!” Bèn lớn tiếng hét: “Còn không đem nước tới, tao chặt thằng điên này làm mấy khúc rồi hãy nói chuyện.” Rồi trở sống đao chém vào song sắt mấy nhát “chát chát chát.”
Chỉ thấy tên ngục tốt kia vội vàng chạy tới, hét to:
– Mi làm đứt một sợi lông của hắn, lão tử sẽ dùng dao nhọn khoét ngàn vạn lỗ trên người mi.
Rồi đem nước lã và cơm nguội tới.
Địch Vân đút cho gã điên ăn uống xong, hỏi:
– Hắn dày vò ngươi nhưng lại sợ ta giết chết ngươi, vì sao thế?
Gã điên kia trợn tròn hai mắt, giơ cái bát sành trong tay lên giáng vào đầu Địch Vân, mắng:
– Lần này ngươi lại giả đò làm tốt, ta há bị mắc lừa sao?
“Binh” một tiếng, cái bát sành vỡ vụn, trán Địch Vân máu chảy ròng ròng. Cậu hốt hoảng lùi ra, nghĩ bụng: “Cơn điên của người này lại phát tác rồi!”
Từ đó, sau mỗi đêm rằm tuy bọn ngục tốt vẫn đem gã điên kia đi tra khảo nhưng mỗi lẩn trở về y lại không đánh Địch Vân nữa. Hai người vẫn không hề nói chuyện với nhau, nếu Địch Vân nhìn y mấy cái thì nắm đấm to như cái bát lại vung lên vù vù. Chỉ lúc ngắm chậu hoa tươi trên bậu cửa sổ lầu cao, nét mặt gã điên kia mới lộ ra nét dịu dàng.
* * *
Đến mùa xuân năm thứ tư, Địch Vân đã không còn ý nghĩ ra tù nữa, tuy trong mơ vẫn nghĩ đến sư phụ và sư muội, nhưng hình ảnh sư phụ cũng dần dần mờ đi. Còn hình ảnh nhanh nhẹn tươi vui, khuôn mặt hồng hào, đôi mắt to đen láy của sư muội thì vẫn in rõ trong lòng như hơn ba năm về trước.
Cậu đã không còn dám mong được ra tù gặp lại sư muội, ngày ngày vẫn không quên khấn thầm Quan Thế Âm Bồ Tát, chỉ xin Bồ Tát cho sư muội đến thăm một lần thì ngày ngày có bị gã điên kia đánh đập cũng cam lòng.
Thích Phương không hề đến.
Một hôm, lại có một người đến thăm. Đó là một chàng trai trẻ anh tuấn mặc áo da láng, cười hi hi, nói:
– Địch sư huynh, huynh còn nhận ra đệ không? Đệ là Thẩm Thành.
Cách đã hơn ba năm, y đã cao lớn hơn, Địch Vân cơ hồ không nhận ra.
Trái tim Địch Vân đập thình thịch, chỉ mong nghe được một chút tin tức của sư muội, bèn hỏi:
– Sư muội của tôi đâu?
Thẩm Thành chuồi một cái làn qua chấn song, cười nói:
– Đây là của Vạn sư tẩu gửi cho huynh. Người ta vẫn không quên tình cũ nghĩa xưa, ngày đại hỉ bảo đệ đem hai con gà, bốn cái giò lợn, mười sáu chiếc bánh cưới đến cho huynh.
Địch Vân hoang mang hỏi:
– Vạn sư tẩu nào? Ngày đại hỉ cái gì?
Thẩm thành cười ha hả, mặt đẩy vẻ giảo quyệt, nói:
– Vạn sư tẩu ấy à, tức là Thích Phương cô nương, sư muội của huynh đó, hôm nay là ngày tốt, chị ấy và Vạn sư ca của đệ bái đường thành thân. Chị ấy bảo đệ đưa gà và bánh cưới đến cho anh, thế chẳng phải lả vẫn nhớ tình xưa nghĩa cũ sao?
Địch Vân lảo đảo, hai tay nắm chặt chấn song, tức giận đến run cả giọng:
– Ngươi… ngươi nói láo! Sư muội ta sao lại có thể… sao lại có thể lấy tên họ Vạn kia?
Thẩm Thành cười, nói:
– Ân sư của đệ bị sư phụ của huynh đâm cho một đao, may mà không chết, về sau điều trị lành vết thương, việc đã qua, không nhắc điều ác cũ. Sư muội của huynh ở trong nhà Vạn sư ca, ba năm nay khanh khanh ngã ngã, biết đâu… e rằng… ha ha, bảo đảm sang năm sinh một đứa nhóc mũm mĩm…
Thẩm Thành đã lớn hơn dạo ấy, ăn nói trơn tru lưu loát như có dầu bôi mép.
Hai tai Địch Vân ù đi, tựa hồ nghe thấy miệng mình có hỏi:
– Sư phụ của tôi đâu?
Tựa hồ nghe Thẩm Thành cười nói:
– Ai mà biết được, ông ấy cho rằng mình đã giết người, còn không cao chạy xa bay ư? Sao còn dám quay về?
Lại hình như nghe thấy Thẩm Thành cười nói:
– Vạn sư tẩu nói rằng: huynh hãy yên tâm ở trong tù, đợi chị ấy sinh được ba trai bốn gái, biết đâu rồi sẽ vào thăm huynh.
Địch Vân bỗng gầm lên:
– Ngươi nói láo, nói láo! Mồm thối như rắm chó…
Rồi giơ cái làn ném mạnh ra.
Chỉ thấy trên từng chiếc bánh cưới màu phấn hồng đều in tám chữ “Vạn Thích liên nhân, bách niên hảo hợp” đỏ thắm.
Địch Vân cố không tin lời Thẩm Thành, nhưng làm sao thể không tin? Trong cơn choáng váng chỉ nghe thấy Thẩm Thành cười, nói:
– Vạn sư tẩu bảo đáng tiếc là huynh không thể đến uống rượu mừng…
Hai tay Địch Vân đang bị còng, đột nhiên đập vút qua chấn song nắm chặt lấy cổ Thẩm Thành. Thẩm Thành hoảng hốt muốn chạy trốn. Địch Vân không biết từ đâu bỗng xuất hiện một luồng kình lực, càng nắm càng chặt. Mặt Thẩm Thành từ đỏ biến thành tím, hai tay múa loạn xạ, cứ giãy giụa mãi không thoát ra được.
Tên ngục tốt vội vàng chạy đến, ôm lấy người Thẩm Thành kéo mạnh, dùng hết sức mới cứu được tính mạng y.
Địch Vân ngồi xuống đất, không nói một lời, cũng không động đậy. Tên ngục tốt hi hi ha ha lấy hết thịt gà và bánh cưới. Địch Vân mắt trợn trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì.
Canh ba hôm ấy, Địch Vân xé áo bện thành một sợi dây, thắt một cái thòng lọng, hai đầu buộc lên thanh đà trên chấn song, chui đầu qua cái thòng lọng.
Cậu không cảm thấy buồn cũng không cảm thấy căm hận. Đời người đã đến thế, thì đây là cách giải thoát sảng khoái nhất. Chỉ cảm thấy sợi dây thít vào cổ càng lúc càng chặt, không còn một tia hơi thở nào nữa, khoảnh khắc, không biết gì nữa.
* * *
Nhưng Địch Vân lại dần dần có tri giác, hình như có một bàn tay to lớn đang áp mạnh lên ngực. Cánh tay ấy cứ ấn xuống rồi lại nhấc lên, trên mũi hình như có một luồng hơi mát lạnh. Cũng không biết đã qua bao lâu, cậu mới dần dần mở mắt ra.
Trước mắt là một bộ mặt râu ria xồm xoàm, bộ mặt ấy nở ra một nụ cười.
Địch Vân buồn khổ nghĩ bụng: “Ngươi cái gì cũng cản trở ta, ta muốn chết ngươi cũng không chịu để cho ta chết.” Cậu có ý dậy liều mạng với y, nhưng quả thực là quá suy nhược, lực bất tòng tâm. Gã điên kia cười nói:
– Ngươi đã đứt hơi được nửa canh giờ, nêu không có độc môn công phu của ta cứu thì thiên hạ không còn ai cứu được nữa.
Địch Vân tức giận nói:
– Ai cần ngươi cứu? Ta không muốn sống nữa rồi.
Gã điên kia dương dương đắc ý nói:
– Ta không cho ngươi chết thì ngươi chết sao được.
Gã điên cứ nhìn Địch Vân mà cười, một lúc sau, một lúc sau bỗng đến bên cậu, hạ giọng, nói:
– Môn công phu này của ta gọi là “Thần chiếu kinh”, ngươi đã nghe thấy bao giờ chưa?
Địch Vân tức giận nói:
– Ta chỉ biết ngươi bị bệnh thần kinh, cái gì mà Thần chiếu kinh với chả Thần chiếu kinh, xưa nay chưa hề nghe.
Kể cũng lạ, gã điên lần này không hề tức giận, lại còn khe khẽ hát, duỗi tay ấn trên ngực Địch Vân, ấn xuống lại nhấc lên, giống như là quay cái quạt hòm, đưa không khí vào phổi Địch Vân, lại hạ giọng nói:
– Cũng nhờ cái mạng ngươi lớn, môn “Thần chiếu kinh” này ta luyện đã mười hai năm, mãi đến cách đây hai tháng mới luyện thành. Nếu như ngươi tìm cái chết cách đây hai tháng thì ta cũng không cứu được đâu.
Ngực Địch Vân ngột không chịu nổi, nghĩ đến việc Thích Phương đã lấy Vạn Khuê thì mình thà chết đi cho rảnh, bèn trợn mắt nhìn gã điên kia, oán hận nói:
– Kiếp trước không biết ta đã gây nên tội nghiệt gì mà kiếp này lại gặp phải tên ác tặc nhà ngươi.
Gã điên cười nói:
– Ta rất vui, tiểu huynh đệ, chú em, ba năm nay ta thật không phải với đệ. Đinh Điển ta thành thật xin lỗi đệ!
Nói rồi rập đầu xuống đất “đùng đùng đùng” ba tiếng.
Địch Vân thở dải, hạ giọng nói:
– Đồ điên!
Rồi cũng không thèm để ý đến y, từ từ trở mình nằm nghiêng, chợt nghĩ: “Y tự xưng là Đinh Điển, đó là họ Đinh tên Điển chăng? Ta ở chung phòng giam này với y đã ba năm vẫn không hề biết tên họ y.” Lòng hiếu kỳ nổi lên, Địch Vân hỏi:
– Tên ngươi là gì?
Gã điên nói:
– Ta họ Đinh, chữ đinh trong “mục bất thức đinh” ấy, còn Điển là chữ trong “tam phần ngũ điển”. Ta có bệnh đa nghi, cứ nghĩ đệ là người xấu, ba năm nay làm khổ đệ quá nhiều, thật là có lỗi với đệ.
Địch Vân cảm thấy y nói có lý, lại hoàn toàn không có vẻ điên, bèn hỏi:
– Rốt cuộc là ngươi có điên không?
Đinh Điển buồn bã lặng im, mãi lâu sau mới thở dài một tiếng, nói:
– Rốt cuộc điên hay không cũng thật là khó nói. Ta muốn cho lòng được yên, người khác nhìn vào cứ cho rằng ta ngốc không thể tưởng tượng được.
Một lúc sau lại an ủi Địch Vân:
– Chú em họ Địch, nỗi oan khuất trong lòng đệ, huynh đã đoán được tám chín phần. Người ta đã đối với đệ vô tình vô nghĩa, đệ hà tất phải khổ sở vì một người con gái như thế. Đại trượng phu lo gì không có vợ? Tương lai lấy được cô gái gấp mười sư muội, cũng có khó gì?
Địch Vân nghe một hồi, những uất hận buồn thương tích tụ trong suốt ba năm qua như chợt vỡ òa ra, nước mắt trào ra như suối, rồi gục vào lòng Đinh Điển khóc vang lên.
Đinh Điển ôm chặt lấy Địch Vân, nhẹ nhàng vuốt mái tóc dài.
Ba ngày sau, Địch Vân đã lấy lại tinh thần. Đinh Điển nhẹ nhàng cười nói với cậu ta, kể cho nghe một số chuyện thú vị trên chốn giang hồ. Nhưng khi bọn ngục tốt đưa cơm đến, Đinh Điển lại lớn tiếng quát mắng Địch Vân, trông dáng vẻ lại hoàn toàn khác.
Một kẻ đã giày vò hành hạ mình bấy lâu, bỗng trở thành người bạn chân thành thân thiết, nếu như không có nỗi đau khổ vì Thích Phương lấy người khác, thì cuộc sống ở trong lao ngục này đối với Địch Vân có thể nói là thiên đường.
Địch Vân đã hỏi Đinh Điển vì sao trước kia lại cho mình là người xấu, vì sao lại bỗng dưng nhận ra sự thật. Đinh Điển nói:
– Nếu đệ thật sự là người xấu quyết không treo cổ tự tử. Huynh đợi đến lúc đệ đứt hơi khá lâu, chết thật rồi, thân thể đã sắp cứng lại rồi mới ra tay cứu. Dưới gầm trời này, ngoài huynh ra không có ai biết là huynh đã luyện được công phu thượng thừa “Thần chiếu kinh”. Nếu không phải là huynh đã biết môn công phu này thì không thể nào cứu sống đệ được nữa. Đệ tự sát là thật, chứ không phải là kẻ xấu dùng khổ nhục kế trước mặt huynh.
Địch Vân lại hỏi:
– Huynh nghi ngờ đệ dùng khổ nhục kế ư? Vì sao lại thế?
Đinh Điển mỉm cười không đáp.
Khi Địch Vân hỏi chuyện này lẩn thứ hai, Đinh Điển vẫn không đáp, Địch Vân bèn không hỏi nữa.
Một buổi tối Đinh Điển ghé vào tai Địch Vân nói khẽ:
– Công phu “Thần chiếu kinh” này của huynh là pháp môn nội công uy lực mạnh nhất, ảo diệu nhất trong thiên hạ. Từ hôm nay huynh sẽ truyền thụ cho đệ, đệ hãy chú ý ghi nhớ.
Địch Vân lắc đầu nói:
– Đệ không học.
Đinh Điển lấy làm lạ, hỏi:
– Một cơ duyên khó gặp trên đời, sao đệ lại không muốn học?
Địch Vân nói:
– Sống thế này thì không bằng chết, hai chúng ta kiếp này xem ra cũng không thể ra tù được, võ công có cao cường đến đâu học cũng vô dụng.
Đinh Điển cười nói:
– Muốn ra khỏi nhà lao, có gì là khó? Huynh sơ bộ truyền khẩu quyết cho đệ, đệ hãy ghi nhớ.
Địch Vân rất cố chấp, chưa từ bỏ ý muốn chết, nói gì cũng không chịu học. Đinh Điển vừa tức giận vừa buồn cười nhưng cũng đành bó tay, hận là không thể đánh cho chú em ương bướng này một trận như trước đây.
Lại qua mấy ngày, trăng lại sắp tròn. Địch Vân không thể không thầm lo cho Đinh Điển. Đinh Điển đoán được tâm ý, nói:
– Nếu tụi nó nghĩ anh em ta đã trở nên thân thiết thì chúng sẽ sử dụng cực hình đối với đệ, ép đệ phải hỏi huynh một chuyện. Huynh đánh chửi đệ thì tránh cho đệ khỏi phải chịu cực hình thảm khốc.
Địch Vân gật đầu nói:
– Đúng! Việc này đã quan trọng đến thế thì huynh ngàn vạn lẩn không được nói cho đệ biết, kẻo lỡ đệ không cẩn thận lại làm lộ bí mật của huynh mất. Đinh đại ca, đệ là một thằng bé nhà quê không biết gì nếu như hồ đồ mà làm hỏng mất đại sự của huynh thì làm sao chuộc lỗi được?
Đinh Điển nói:
– Chúng nó giam hai ta một chỗ, lúc đầu huynh cho rằng chúng sai đệ đến nằm vùng, giả vờ lấy lòng huynh, từ đó mà nghĩ cách dò hỏi bí mật của huynh, vì thế huynh rất căm thù đệ, hành hạ đệ đủ điều. Bây giờ huynh đã biết đệ không phải là gian tế, nhưng chúng giam anh em ta một chỗ ba bốn năm không thả ra, dụng ý là vẫn muốn đệ làm gian tế. Chúng chỉ mong đệ được huynh thích, huynh sẽ thổ lộ việc cơ mật với đệ, chúng sẽ khảo đả đệ để moi lấy bí mật. Chúng biết là đối phó với huynh rất khó còn đối phó với một thằng bé nhà quê như đệ thì quá dễ. Đệ là phạm nhân ở huyện mà lại giam ở nhà lao phủ, tất nhiên là vì lý do ấy.
Tối hôm rằm, bốn tên ngục tốt mang cương đao đến giải Đinh Điển đi. Địch Vân trong lòng bất an đợi Đinh Điển trở về. Đến canh bốn, Đinh Điển lại được khiêng về, mặt mũi sưng vù bầm tím, toàn thân đầm đìa máu tươi.
Đợi bốn tên ngục tốt đi rồi, Đinh Điển nét mặt trịnh trọng, hạ giọng nói:
– Địch huynh đệ, hôm nay tệ quá, thật là không hay, kẻ thù đã nhận ra huynh.
Địch Vân vội hỏi:
– Thế nào?
Đinh Điển nói:
– Ngày rằm mỗi tháng, tri phủ khảo đả huynh một trận, đó là lệ thường rồi. Nhưng hôm nay có người đến hành thích tri phủ, thấy hắn tính mạng lâm nguy, huynh liền ra tay cứu. Vì hai tay huynh bị còng nên chỉ giết được ba trong bốn tên thích khách, tên thứ tư chạy trốn được, hậu họa khó lường.
Địch Vân càng nghe càng lấy làm lạ, liên tiếp hỏi:
– Rốt cuộc tri phủ khảo đả huynh như thế nào? Lão tri phủ này tàn bạo thế, có người hành thích y sao huynh lại cứu y? Tên thích khách chạy trốn ấy là ai?
Đinh Điển lắc lắc đầu than thở:
– Một lúc cũng không thế nói rõ bao nhiêu là chuyện. Địch huynh đệ, võ công của đệ quá xoàng, lại bị mất kình lực, từ nay bất kỳ thấy việc gì, muôn vạn lần không được ra tay giúp huynh.
Địch Vân không đáp, thầm nghĩ: “Họ Địch này há lại là đồ tham sống sợ chết sao? Huynh đã coi đệ là bạn, nếu huynh có nguy hiểm gì sao đệ lại có thể không ra tay giúp đỡ?”
Mấy ngày sau đó, Đinh Điển cứ lặng lẽ trầm tư, ngoài những lúc ngắm nhìn những đóa hoa bên cửa sổ lầu cao trên mặt thoáng hiện nét cười ra, suốt ngày cứ thẫn thờ suy nghĩ.
Đến một đêm khuya ngày mười chín, Địch Vân đang ngủ say bỗng nghe thấy hai tiếng lách cách, mở mắt nhìn, chỉ thấy hai đại hán lực lưỡng dùng lợi khí chặt đứt chấn song nhà lao, trong tay mỗi tên cầm một thanh đơn đao, nhảy vọt vào. Địch Vân kinh hãi ngẩn ra không biết làm sao, chỉ thấy Đinh Điển đứng tựa bên tường, hi hi cười nhạt.
Tên đại hán người hơi thấp nói:
– Họ Đinh kia, hai anh em ta đi khắp chân trời góc biển, tìm ngươi khắp nơi, nào ngờ ngươi lại trốn trong nhà lao phủ Kinh Châu, làm con rùa rụt cồ. Cũng là ông trời có mắt, giúp chúng ta tìm được ngươi.
Tên kia nói:
– Chúng ta không nói sai lời, ngươi lấy cuốn sách ấy ra, chia làm ba phần, anh em ta không những không làm khó ngươi mà còn lập tức cứu ngươi ra khỏi ngục.
Đinh Điển lắc đầu nói:
– Không có ở đây. Mười ba năm trước Ngôn Đạt Bình đã lấy trộm mất rồi.
Địch Vân nghe đến ba chữ “Ngôn Đạt Bình”, nghĩ bụng: “Đó là nhị sư bá của mình, sao lại có liên quan đến vụ này?”
Tên đại hán lùn thét:
– Ngươi lại bày trận giả, đừng tưởng lừa được ta, này thì đi đời!
Y múa đao xông lên, mũi đao hướng vào yết hầu Đinh Điển. Đinh Điển không hề né tránh, để cho mũi đao sắp đâm vào yết hầu, đột nhiên rùn mình xuống, gạt mũi nhọn sang phía tên đại hán cao, trúng ngay bụng y. Tên này không rên được một tiếng, ngã nhào.
Tên đại hán lùn vừa sợ vừa tức, vù vù hai nhát chém vào Đinh Điển. Đinh Điển hai tay giơ lên, còng sắt trong tay chặn ngay lưỡi đao lại, đồng thời đầu gối thúc lên trúng vào y. Tên kia hộc máu, ngã chết dưới đất.
Trong khoảnh khắc Đinh Điển tay không đánh chết hai người, Địch Vân xem đến ngẩn người. Võ công của Địch Vân tuy mất nhưng mắt thì vẫn nhìn rõ, biết rằng giá như mình vẫn còn công lực như trước, trường kiếm trong tay cũng chưa chắc bằng nổi tên lùn kia. Còn tên cao kia chưa ra tay đã chết nhưng xem ra chắc cũng không xoàng. Xương bả vai Đinh Điển cũng đã bị xâu dây sắt mà chỉ trong nháy mắt đã giết liền hai tên hảo thủ, thật đáng kinh sợ khâm phục vô cùng.
Đinh Điển ném hai xác chết qua chấn song, tựa vào tường mà ngủ. Lúc này chấn song đã bị đứt, nếu hai người vượt ngục thì đây thật là một cơ hội tốt, nhưng Đinh Điển không nói một lời, Địch Vân cũng không thấy thế giới bên ngoài tốt hơn trong ngục.
Sáng sớm hôm sau, lính ngục vào thấy hai xác chết lập tức sợ hãi la lối ầm lên. Đinh Điển trừng mắt nhìn ra, Địch Vân không nghe thấy gì. Bọn ngục tốt khiêng hai xác chết kia đi, không hỏi được một chút duyên cớ nào.
Lại hai ngày sau, đang lúc nửa đêm Địch Vân giật mình tỉnh giấc vì âm thanh quái lạ. Trong tâm tối mông lung, chỉ thấy Đinh Điển hai tay giơ ngang đang giao thủ với một tên đạo sĩ. Hai người đứng bất động. Đạo sĩ kia đến lúc nào, đấu nội lực với Đinh Điển ra sao, Địch Vân hoàn toàn không biết một chút gì. Cậu ta từng nghe sư phụ nói, trong lúc đấu võ, tỉ thí nội lực là nguy hiếm nhất, chẳng những không có cách gì thoái lui hay né tránh, mà sống chết chỉ là trong đường tơ kẽ tóc, không thể dừng tay lại được.
Dưới ánh trăng sao lờ mờ, chỉ thấy đạo nhân kia từ từ bước lên một bước, Đinh Điển cũng từ từ lùi lại một bước, một lúc sau, đạo nhân kia bước lên một bước dài, Đinh Điển lại lùi một bước.
Địch Vân thấy đạo nhân kia từng bước tiến tới, rõ ràng là đang chiếm thượng phong, cảm thấy sốt ruột, bỗng vọt tới, đưa chiếc còng sắt trong tay lên giáng mạnh vào đầu đạo nhân, cảm thấy không hiểu từ đâu xuất hiện một luồng sức mạnh dậy lên trong mình. Địch Vân đứng không vững ngã xuống, “bịch” một tiếng, đập mạnh vào tường, chống tay định đứng lên, trong bóng mờ chạm vào cái bát sành bên cạnh, “cách” một tiếng bát sành bị đè vỡ một góc, cảm thấy còn nước. Cậu không nghĩ ngợi gì, cầm lấy, tạt nửa bát nước lạnh vào gáy đạo nhân.
Thực ra nội lực của Đinh Điển lúc này đã vượt xa đạo nhân kia nhưng muốn thử xem thần công mà mình mới luyện được có uy lực đến mức nào nên mới lấy tay đạo sĩ này làm vật thí nghiệm. Đạo nhân kia vốn đã kiệt sức, dầu cạn đèn khô, bị nửa bát nước lạnh tạt vào gáy, trong lúc kinh hoàng chỉ cảm thấy kình lực của đối phương cuồn cuộn ập tới, những tiếng “cách cách cách cách” liên tiếp vang lên, xương sườn, xương tay, xương chân gãy ra từng đoạn. Y nhìn Đinh Điển, lắp bắp:
– Ngươi… ngươi… ngươi đã luyện… luyện được đại… đại pháp Thần chiếu kinh… thiên… thiên hạ không… không còn địch thủ…
Rồi từ từ co quắp thành một khối thịt, đứt hơi chết tốt.
Địch Vân tim đập thình thình, nói:
– Đinh đại ca, thì… thì ra “Thần chiếu kinh” đại pháp của huynh… lợi hại đến thế, có đúng là thiên hạ vô địch không?
Đinh Điển nghiêm trang nói:
– Đơn đả độc đấu thì đủ để xưng hùng trên giang hồ, nhưng nếu kẻ địch nhiều tên cùng tấn công thì e quả bất địch chúng. Lão đạo sĩ này sau khi bị nội lực của huynh ép vụn, mà còn mở miệng nói được, hẳn là công lực của huynh chưa đạt tới mức lô hỏa thần thanh. Trong ba ngày nữa tất có kẻ đại địch đến. Địch huynh đệ, đệ có thể giúp huynh một tay không?
Địch Vân hăng hái nói:
– Xin nghe lời đại ca, có điều… võ công của đệ đã mất hết, mà nếu có còn thì cũng quá thấp kém.
Đinh Điển khẽ cười, từ trong đống cỏ rút ra một thanh đơn đao, chính là của tên đại hán hôm trước bỏ lại. Đinh Điển nói:
– Đệ cạo hết râu của huynh đi, chúng ta dùng mưu một chút.
Địch Vân nhận lấy thanh đao, cạo hết bộ râu quai nón xòm xoàm của Đinh Điển. Thanh đao này cực sắc bén, râu của Đinh Điển rơi xuống từng mảng. Đinh Điển nhặt lấy, đặt từng sợi vào giữa lòng bàn tay.
Địch Vân cười:
– Huynh không xa nổi bộ râu đã theo mình bao năm ư?
Đinh Điển nói:
– Đâu phải thế, huynh muốn đệ đóng vai huynh.
Địch Vân lấy làm lạ, hỏi:
– Đệ đóng vai huynh?
Đinh Điển nói:
– Không sai! Trong ba ngày tới, sẽ có kình địch đến. Năm tên này nếu đơn đả độc đấu thì đều không phải là đối thủ của huynh. Nhưng nếu chúng nhất tề ra tay thì hết sức ghê gớm. Huynh muốn chúng nhận lầm đệ là huynh. Trong khi chúng chỉ chú ý đối phó với đệ, huynh sẽ tập kích bát ngờ, đánh cho chúng trở tay không kịp.
Địch Vân ngập ngừng nói:
– Như vậy… như vậy e rằng có vẻ… có vẻ không được quang minh chính đại.
Đinh Điển ha ha cười lớn:
– Quang minh chính đại, quang minh chính đại! Chốn giang hồ lòng người hiểm độc, kẻ nào cũng đối xử nanh ác với đệ, đệ lại đối xử một cách quang minh chính đại, thế chẳng phải là tự tìm chỗ chết sao?
Địch Vân nói:
– Tuy nói vậy, nhưng mà… nhưng mà…
Đinh Điển nói:
– Huynh hỏi đệ: Khi mới vào tù, đệ cứ kêu oan. Huynh tin rằng đúng là đệ trong sạch vô tội. Nhưng tại sao bị giam trong tù ba năm ròng rốt cuộc vẫn không sao minh oan được?
Địch Vân nói:
– Ôi, điều này, đệ không sao hiểu nổi.
Đinh Điển mỉm cười, nói:
– Ai đưa đệ vào tù, tất nhiên là kẻ đó dùng thủ đoạn khiến cho đệ mãi mãi không ra tù được.
Địch Vân nói:
– Đệ nghĩ mãi không ra, cái mụ Đào Hồng nàng hầu của Vạn Chấn Sơn với đệ không hề quen biết, không thù không oán, sao lại hãm hại đệ, khiến cho đệ thân bại danh liệt, chịu hết bao nhiêu khổ sở?
Đinh Điển hỏi:
– Tụi nó đã hại đệ như thế nào, nói huynh nghe thử coi.
Địch Vân vừa cạo râu cho Đinh Điển vừa đem những chuyện kia nhất nhất kể cho Đinh Điển nghe nào là đến Kinh Châu chúc thọ thế nào; đánh lui tên cường đạo Lữ Thông thế nào; đấu kiếm với tám tên đệ tử Vạn môn như thế nào; rồi lại chuyện sư phụ đâm sư bá bị thương và bỏ trốn; lại có kẻ nào đó xúc phạm tiểu thiếp của Vạn Chấn Sơn, mình ra tay cứu giúp lại bị đổ thừa vu oan như thế nào… Chỉ có chuyện lão ăn mày dạy kiếm trong đêm thì không hề nhắc đến, vì cậu đã thề với lão quyết không tiết lộ chuyện ấy, lại nữa cảm thấy chi tiết ấy chả có liên quan gì, chẳng có gì quan trọng.
Địch Vân kể hết từ đầu đến cuối, râu ria trên mặt Đinh Điển cũng cạo sạch. Địch Vân thở dài nói:
– Đinh đại ca, đệ chịu nỗi oan ức ngập trời như thế là bởi lý do nào? Chắc là bọn kia hận sư phụ của đệ giết Vạn sư bá. Nhưng Vạn sư bá chỉ bị thương một chút, không chết, thế mà lại giam đệ bấy nhiêu năm, cũng đáng phải thả đệ ra rồi chứ. Nếu nói quên mất đệ thì cũng không đúng. Cái thằng tiểu sư đệ Thẩm Thành chẳng phải mới đến đây thăm đệ sao?
Đinh Điển ngoẹo đầu nhìn Địch Vân bên này mấy cái, lại nhìn bên kia mấy cái, hề hề cười nhạt.
Địch Vân vò đầu, hỏi:
– Đinh đại ca, đệ nói có gì không đúng ả?
Đinh Điển cười nhạt nói:
– Đúng, đúng, hoàn toàn đúng, có chỗ nào là không đúng đâu? Nếu không đúng vậy thì thế nào mới đúng?
Địch Vân lấy làm lạ hỏi:
– Cái… cái gì?
Đinh Điển nói:
– Ầy, đệ thử nghĩ xem, có một thằng ngốc dẫn một cô em xinh đẹp đến nhà mình. Mình thấy cô em kia thật là dễ thương, nhưng cô em lại cứ quấn quýt với thằng ngố kia. Mình muốn chiếm cô em ấy, thì không trừ khử thằng ngố kia đi sao được.
Địch Vân cảm thấy thầm ớn lạnh trong lòng, buột miệng hỏi:
– Làm cách nào cho được?
Đinh Điển nói:
– Nếu như dùng thuốc độc hoặc dùng dao giết thằng ngố kia đi thì tự mình mang tội giết người, nguy hiểm lắm, huống chi cô em xinh đẹp biết đâu lại có tiết tháo, e rằng lại tìm cái chết, thậm chí biết đâu lại tìm cách báo thù cho thằng ngố kia, thế chẳng phải là hỏng bét sao? Theo ý huynh, chi bằng tìm cách tống thằng kia vào tù, giam càng lâu càng tốt. Muốn cho cô em một lòng theo mình thì phải làm cho nàng hận thằng ngố kia chứ sao. Thứ nhất là khiến nàng cho rằng thằng ngố kia đã thay lòng đổi dạ, thứ hai là khiến nàng cho rằng đã bị chú ngố kia bỏ rơi, thế thì phải làm sao? Thứ ba là để cho thằng ngố kia làm một việc xấu xa gì đó để cho cô em không thể thương được nữa.
Địch Vân toàn thân run bẩn bật, nói:
– Huynh… huynh bảo tất cả… tất cả những điều ấy, đều là do thằng họ Vạn kia sắp xếp cả sao?
Đinh Điển mỉm cười nói:
– Huynh không tận mắt chứng kiến những điều ấy, làm sao biết được? Sư muội của đệ rất xinh đẹp, phải không?
Địch Vân sửng sốt, gật gật đầu.
Đinh Điển nói:
– Ầy, để lấy lòng cô nương xinh đẹp, mình tất nhiên phải có vẻ vất vả, vung tiền bạc ra đút lót nha môn, nói là để cứu tiểu tử khờ khạo kia. Tốt nhất là cùng đi với cô em đến hối lộ quan phủ, cô em thấy thế tất nhiên sẽ đem lòng cảm kích. Vàng bạc kia rõ ràng là đã vào tay quan phủ đại nhân, tri huyện đại nhân, và cả đám nha lại, thật là tuyệt!
Địch Vân hỏi:
– Y tốn nhiều tiền bạc như thế, có tác dụng gì không?
Đinh Điển nói:
– Tất nhiên là có. Có tiền thì có thế sai khiến được cả ma quỷ, sao lại không có tác dụng?
Địch Vân hỏi:
– Thế sao… Thế sao cứ giam đệ mãi, không thả đệ ra?
Đinh Điển lại cười:
– Đệ phạm tội gì? Tội danh mà chúng nó vu cho đệ chẳng qua cũng chỉ là cưỡng dâm chưa được, ăn trộm một số tiền bạc. Đã chẳng phải là phạm thượng làm giặc, cũng không phải là giết người đốt nhà, thế thì đâu phải lả trọng tội? Như thế cũng không cần phải xuyên dây sắt qua xương tỳ bà (xương bả vai) của đệ, giam vào ngục tử tù suốt đời. Đó chính là nhờ công hiệu của việc tiêu tiền đấy. Thật là xảo diệu, kế sách này quả đúng là “thiên y vô phùng”[3]. Cô em ở trong nhà của mình, trái tim cô em vẫn nhớ thằng tiểu tử ngố kia, nhưng đợi năm này sang năm khác, lẽ nào suốt đời không lấy ai?
Địch Vân vung đơn đao lên, chặt đánh chát xuống nền đá, nói:
– Đinh đại ca, té ra đệ mãi không được thả là do Vạn Khuê đút lót quan phủ.
Đinh Điển không đáp, ngẩng đầu trầm ngâm, bỗng nhíu mày, nói:
– Không đúng, trong mưu mô ấy có một chỗ sơ hở, không đúng.
Địch Vân tức giận nói:
– Còn có chỗ sơ hở nào? Sư muội của đệ rốt cuộc đã lấy hắn rồi. Nếu không nhờ huynh cứu, đệ tự tử, thế chẳng phải là mọi sự đều trót lọt, tất cả đều trúng ý hắn sao?
Đinh Điển đi đi lại lại trong phòng giam, không ngớt lắc đầu, nói:
– Trong này có một chỗ sơ hở lớn, chúng bày mưu tính kế công phu như thế, sao không nhận ra chỗ sơ hở này nhỉ?
Địch Vân hỏi:
– Huynh bảo sơ hở ở chỗ nào?
Đinh Điển nói:
– Sư phụ của đệ ấy. Sư phụ của đệ sau khi đâm sư bá đã chạy trốn. “Ngũ Vân Thủ” Vạn Chấn Sơn ở Kinh Châu rất nổi tiếng trong võ lâm, tin lão bị thương không chết chẳng mấy ngày sẽ lan truyền, sư phụ của đệ có thể không còn mặt mũi nào đến gặp sư huynh, lẽ nào lại không nhờ người đến đón sư muội của đệ về nhà? Sư muội của đệ về nhà, thì mưu sâu kế độc của Vạn Khuê chẳng hóa ra xôi hỏng bỏng không sao?
Địch Vân vỗ đùi đen đét nói:
– Đúng! Đúng!
Tay của cậu ta mang còng, tiếng còng kêu loẻng xoẻng. Địch Vân thấy Đinh Điển dáng hình thô khoáng mà suy nghĩ lại tinh tế đến như thế, bất giác hết sức khâm phục.
Đinh Điển lại nghiêng đầu, hạ giọng nói:
– Sư phụ của đệ vì sao không đón con gái về, chắc có điều gì rắc rối đây. Bọn Vạn Khuê chắc phải liệu trước chuyện này, nếu không thì sẽ không xếp đặt như thế. Điều kỳ lạ ở đây, nhất thời huynh không đoán ra được.
Địch Vân mãi đến lúc này mới hiểu rõ nguyên do việc mình phải ở tù, không ngớt đấm vào đầu, chửi mình là ngu xuẩn. Người ta thì hiểu ra ngay còn mình thì hơn ba năm vẫn chẳng biết gì.
Cứ tự oán trách mình một chặp như thế, thấy Đinh Điển cứ băn khoăn suy nghĩ, bèn nói:
– Đinh đại ca, huynh không cần phải suy nghĩ nữa, sư phụ của đệ là một ông lão nhà quê thật thà, cứ nghĩ là đã đâm Vạn sư bá, sợ quá nên đã cao chạy xa bay, chẳng biết đến tận vùng xa xôi hẻo lánh nào rồi, chắc là không nghe được tin tức đồn đại trên chốn giang hồ.
Đinh Điển mở to đôi mắt nhìn Địch Vân đầy vẻ hiếu kỳ:
– Cái gì? Sư… sư phụ của đệ là một lão giả nhà quê thật thà ấy à? Ông ta giết người rồi sợ quá mà bỏ trốn à?
Địch Vân nói:
– Đúng thế, sư phụ của đệ thật thà trung hậu, Vạn sư bá đổ thừa cho sư phụ lấy trộm kiếm quyết gì đó của thái sư phụ, ông ấy trong lúc tức giận không nhịn được nên mới ra tay, kỳ thực tâm địa của sư phụ rất tốt.
Đinh Điển cười nhạt một tiếng, tới ngồi ở một góc phòng giam khe khẽ huýt gió.
Địch Vân lấy làm lạ hỏi:
– Sao huynh lại cười chế giễu?
Đinh Điển nói:
– Chẳng vì sao cả.
Địch Vân nói:
– Nhất định là phải có nguyên nhân. Đinh đại ca, huynh nói rõ xem nào.
Đinh Điển nói:
– Được! Sư phụ của đệ ngoại hiệu là gì?
Địch Vân nói:
– Là “Thiết Tỏa Hoành Giang”.
Đinh Điển nói:
– Như vậy có ý nghĩa gì?
Địch Vân ngập ngừng một lúc, nói:
– Tên hiệu ấy, đệ vốn cũng không hiểu lắm, đoán là nói võ công của sư phụ giỏi lắm, rành về phòng thủ, kẻ địch không dám đến cửa.
Đinh Điển ha ha cười lớn:
– Tiểu huynh đệ, chú em bé nhỏ, chính đệ mới là người thật thà trung hậu. Thiết tỏa hoảnh giang tức là khiến cho người ta muốn đi lên cũng không lên được, muốn đi xuống cũng không xuống được. Những nhân vật già đời trong võ lâm ai mà chẳng biết hàm nghĩa của ngoại hiệu đó? Sư phụ của đệ thông minh cơ biến, lợi hại cực kỳ, chỉ cần gây sự với lão, lão nhất định tìm mọi cách trả thù, khiến cho người ta loay hoay giữa dòng sông, muốn lên không lên được, muốn xuống không xuống được. Đệ không tin thì sau này ra tù có thể tìm hiểu xem.
Địch Vân vẫn có vẻ không tin, nói:
– Sư phụ của đệ dạy đệ kiếm pháp, giải thích chiêu pháp đều sai cả. Nào là “Cô hồng hải thượng lai, Trì hoàng bất cảm cố” lại giải thích thành “Ca ông hám thượng lai, Thị hành bất cảm quá” nào là “Lạc nhật chiếu đại kỳ, Mã minh phong tiêu tiêu” thì lại giải là “Lạc nê chiêu đại thư, Mã mệnh phong tiểu tiểu”. Sư phụ biết chữ chẳng được bao nhiêu, sao lại bảo là thông minh cơ biến?
Đinh Điển thở dài:
– Sư phụ của đệ bác học đa tài, sao lại giải thích sai các câu thơ? Lòng dạ lão cực kỳ sâu sắc, nhất định là có ý gì khác, vì sao cả đối với học trò của mình cũng phải giấu giếm, người ngoài không sao đoán nổi. Hi hi, nếu đệ không… không thật thà trung hậu đến mức dại dột thế này lão chưa chắc đã chịu nhận đệ làm đệ tử. Chúng mình không nói chuyện này nữa. Nào, để huynh dán râu vào cho đệ.
Đinh Điển vung đơn đao chém một nhát vào cánh tay đạo nhân. Đạo nhân mới chết chưa lâu máu chảy ra từ vết chém. Đinh Điển nhúng từng sợi râu vừa thô vừa cứng, dán vào hai bên má, mang tai và cằm Địch Vân.
Địch Vân ngửi thấy mùi máu tanh có ý sợ, nhưng nghĩ đến mưu kế hiểm độc của Vạn Khuê, ngoại hiệu của sư phụ, cho đến bao nhiêu việc mà mình không sao hiểu nỗi, cảm thấy thế giới thật bất an, tất cả đều giống như một nhà tù.
——————————————————
[1] Đại trí nhược ngu: (lời Lão Tử), có nghĩa là kẻ đại trí thì giống như ngu dốt
[2] “Liên thành” và “luyện thành” âm đọc gần giống nhau.
[3] “Thiên y vô phùng”: (thành ngữ) nghĩa là “áo trời không có đường may”, tức không có chỗ nào sơ hở