Miền sơn lâm Tây Côn Lĩnh (Si Công Linh) tiếp giáp miệt Phi Mã Yên Sơn (Pi A Ya) chếch sát biên giới Việt – Trung, vốn là miền núi bất tận. Theo lời Nam Khấp, cả bọn cứ mặc nguyên lốt Cú Mèo đi cho tiện, cốt tránh những cuộc xung đột vô ích. Chỉ khi nào vào tận các bản, động thổ dân, bốn người mới tạm trút lốt cú, nhưng trong vẫn đeo mặt nạ hóa trang.
Đường xuyên sơn hiểm trở, nhiều khúc khó đi, bốn người vòng từ mạn Phàn Siêu Hóa qua ngả Yên Minh, Coc Pan sang miền thượng Phi Mã Yên Sơn.
Chiều kia, tới một cánh rừng phong quang kỳ tú, thấy mặt trời đã xế núi Tây, mấy người bàn nhau kiếm nơi cắm trại nghỉ qua đêm, mai vào miền động thất lãnh chúa họ Bạc cho tiện cung đường. Cả bọn tìm được một cái hang khá rộng, trước hang quãng ngắn có con suối trong veo, ngay cửa hang, tùng bách xum xuê. Buộc ngựa cho gặm cỏ, mọi người đem hành lý vào hang, kiếm lá, cỏ trải làm giường nệm, lấy vải thổ cẩm làm chiếu, lo cơm nước, mỗi người một việc. Giao Long Nữ kiếm củi nứa nhóm bếp nấu pha trà, cà phê cho cả bọn uống, đoạn cô gái lần ra suối vo gạo thổi cơm.
Nàng vẫn chưa trút lốt cú mèo. Suối uốn khúc xế trước hang từ Đông sang Tây, nàng đi ngược phía Đông, kiếm chỗ có thạch bàn, nước trong. Đặt nồi xuống, cô gái đứng, định trút đầu Cú Mèo, rửa mặt, chợt nhìn xuống dòng trong, thấy mình trong đáy nước lù lù hệt như một con cú mèo to bằng người, cô gái bất giác phì cười, lắc lư soi bóng nghịch chơi. Thình lình “phập”, có vật chi cắn vào lưng, cô gái vội xoay mình thấy rõ một mui tên dài còn rung mạnh! Nàng quay phắt lại nhìn quanh. Phập, lại mũi nữa cắm giữa ngực! Cô gái vừa toan mắng, bỗng “vụt” lại một ngọn lao phóng tới, cô gái quạt nhanh, đưa tay chụp nghiến lấy, rồi giận phóng vụt ngược chiều lao vừa bay tới miệng mắng lớn:
– Đứa nào bắn trên đó? Không có tiếng đáp, cô gái chạy vụt vào, quạt cánh bay bổng qua bụi rậm chân núi, nhìn quanh chẳng thấy gì! Bực mình nàng đeo cả tên, lộn ra ngồi bên giòng, vừa toan cầm nồi vo gạo, bỗng giật mình thấy có bóng người dưới đáy suối. Nhưng “huỵch”, một cú nện trúng lưng như trời giáng làm nàng suýt dụi xuống suối vì bất ngờ không tránh kịp.
May thoáng thấy, nàng đã vội lấy gân mình, lại mặc mấy lần áo giáp, nếu không, dám gẫy lưng như chơi! Lảo đảo, chưa kịp hoành thân, đã bị quật nữa, cô gái vội nhảy vọt qua suối, dòm sang thấy một đứa bé hơn mười tuổi tay cầm một khúc gỗ lớn, dòm sang cười khanh khách, kêu líu lo:
– Cú mèo ma! Cú mèo tinh! Tên bắn không chết! Cu khổng lồ. Thấy đứa trẻ ngây thơ, Giao Long Nữ thở phào, đỡ bực chút, quát:
– Con nít! Sao mi đập ta? Đứa trẻ trố mắt dòm sang sửng sốt kêu:
– Cú nói tiếng người! Đúng là giống cái, cú mèo cái! Bữa nay đi bắn chim,gặp ma cú mèo!
Giao Long Nữ nhìn kỹ. Đứa bé mặc quần áo khách xạ phang, mặt mũi sáng sủa tươi tỉnh, hai mắt tinh nhanh coi rất đáng yêu, trên vai có đeo cung tên. Cô gái nhảy vèo sang chỗ cũ, hỏi lại giọng dịu hẳn:
– Sao đập chị? Đứa trẻ ngó sững, lùi hai bước, chực chạy, miệng kêu:
– Cú ma hiện giữa ban ngày! Úy! Cú nói sõi? Giao Long Nữ thấy nó hay hay, cười bảo:
– Chị đâu phải cú mèo ma? Chị là người đấy?
Vẫn lăm lăm khúc cây, đứa nhỏ cười rú:
– Cú mèo tinh dụ bắt trẻ con ăn thịt! Thịt tớ hôi hôi hơn thịt… cú! Ối! Cú vo gạo nấu cơm nếp!
Thấy nó không tin, Giao Long Nữ vội kéo “soạt” đầu cú, để lộ mặt người ra. Chú bé giơ tay đập, nàng nhảy tránh, nó kêu “Dạ Xoa, Dạ Xoa, quỷ cái cú mèo”. Giao Long Nữ sực nhớ, có đeo mặt nạ xấu xí, vội đưa tay lột ra, cười bảo:
– Thấy không? Chị đâu phải ma quỷ hiện hình?
Thấy khuôn mặt đẹp tuyệt trần, đứa nhỏ quăng gậy, lại gần làm quen, cười khanh khách:
– Phải chị là Hấp Tinh Cô? Giao Long Nữ lắc đầu ngạc nhiên hỏi:
– Em cũng biết Cú Cô Phàn Siêu Hóa? Lốt này chị mượn của nó đấy. Đứa nhỏ tò mò bảo “Em nghe người ta đồn cú mèo đó hay thịt người” và lân la đòi coi bộ lốt cú. Giao Long Nữ nhất sinh không có em nhỏ nên thấy đứa bé trai mặt mày sáng sủa, nàng sinh mến bèn lần tay kéo cho nó xem lốt cú. Đứa bé ghé dòm bất thần chọc một cái trúng huyệt cô gái cứng đơ, đứa nhỏ cười thích chí:
– Bắt được cú mèo ma! Ngộ dữ! Đem về xem chơi! Giao Long Nữ bất ly cựa quậy vì quá bất ngờ, cô gái vẫn nói được, kêu:
– Chú em! Chị đâu phải ma cú? Đừng nghịch!
Đứa nhỏ tiến lại ghé vai vác thốc nàng, chạy vù đi. Nó chạy chếch ngả Đông rặng núi đá cao ngất, vùng về phía đầu non cách gần một dặm, nơi đây có hai tòa miếu sơn thần khuất sau bờ bụi cây cối um tùm. Đứa nhỏ vác nàng vào miếu đem luôn vào hậu cung, đặt xuống đứng sững. Giao Long Nữ ngo quanh thấy có bếp lửa, xoong, ấm, hành lý, thịt hươu, nai, gà, công treo lủng lẳng. Đứa nhỏ cười hồn nhiên:
– Nào! Giờ lột cú mèo ma, xem nó có biến được không? Sư thần! Cụ có nhà không? Vào xem cú mèo ma đẹp lắm!
Dứt lời, nó kéo soạt hẳn lớp vỏ giáp cú mèo ra, Giao Long Nữ thúc thủ cố tươi tỉnh bảo:
– Thấy không, chị là người mà! Đứa nhỏ ngắm nghía, khen “tinh cái đẹp dữ à! Không ngờ cú mèo tinh lại đẹp hơn hồ ly tinh” và nó đưa tay lột soạt áo giáp trong Giao Long Nữ. Cô gái thất kinh kêu “đừng làm thế” dòm xuống, áo ngoài đã bị lột hết, chỉ còn mảnh sa tanh kín lót. Dưới ánh nắng hanh vàng chiếu xiên cửa sổ, nửa trên Giao Long Nữ hiện ra đẹp như tượng thần Vệ Nữ. Chẳng biết đứa nhỏ đã hiểu nổi cái đẹp của đàn bà chưa, chỉ thấy nó bỗng ré lên nhảy lên bệ đưa tay mó vào bờ vai cô gái líu lo:
– Múi chầy léng! Múi chầy léng! Cú tinh mặc đồ của người ta! Da cú trắng như ngà! Để lột coi lần da trong màu gì?
Bàn tay nó vuốt từ vai xuống bàn tay búp măng, mắt nó dòm vào lồng ngực “cú mèo” thổn thức, lúc này Giao Long Nữ mới hoàn toàn kinh hoảng thấy đứa nhỏ săn thú coi mình là cú ma hóa ra người.
Ánh mắt nó nhìn nàng đúng ánh mắt của đứa con nít hiếu kỳ dòm con chim lạ. Lại còn pha thêm vẻ “nghịch ác ngây thơ” của đứa trẻ chưa hiểu rõ thế nào là thiện ác đối với loài thú điểu! Cô gái la lên:
– Bé con! Chị đâu phải cú mèo? Nghịch tinh, “ông ù” xoẹt đầu! Đứa nhỏ săn thú cười khanh khách, vỗ tay đôm đốp:
– Ngộ dữ! Ngộ dữ! Cú mèo ma “hót” tiếng người hay quá! Bên Nam có loài quái điểu, bên Tầu không có! Cú đẹp như tiên, cú biết “ông ù”. Hót nữa đi! Hót nghe thích tai!
Nó ngồi vắt vẻo trên bệ thờ, cười nói líu lo, nó nói cả tiếng Quan Hỏa, lẫn Quảng Đông, âm lơ lớ như tiếng khách Trùng Khánh. Nó biết cả tiếng Mèo, thạo là đằng khác. Tứ Xuyên, Quý Châu vốn nhiều người Mèo và Tứ Xuyên cũng là đất gốc của Nga Mi phái. Tổ đình trên ngọn Nga Mi Sơn. Nói thạo tiếng Mèo, lại biết qua tiếng ta có lẽ là chú khách Trùng Khánh theo người lớn sang Nam bán sâm, như kiểu Sơn Đông mãi võ bán thuốc cao chăng! Vì Tứ Xuyên cũng là xứ nổi tiếng có lắm loại sâm quý như sâm Cao Ly!
Giao Long Nữ đang đoán mò, bỗng thất kinh nghe đứa nhỏ cười the thé, kéo nàng lại để đứng sát bệ thờ ngay bên nó và đưa tay nắn thịt nàng ghé mũi ngửi trầm trồ:
– Thịt cú thơm như thịt gái con quan! Cú thành tinh không hôi như cú thường! A! Cú tinh đeo cái gì thế này? Ha ha! Hiểu rồi! Cú biến ra người bắt chước người đeo kính râm, lại đeo trước ngực! Ha ha! Kính đeo ngực!
Nó cười sằng sặc, trỏ vào mảnh vải lót bằng sa tanh, giống hình cặp kính đen. Có lẽ nó chưa biết, và cũng chưa từng thấy “su chiêng”, nên nó càng tin nàng là cú mèo ma biến làm kính đeo ngực!
Giao Long Nữ đang hoảng, thấy nó ngây ngô, cũng buồn cười kêu:
– Không phải kính đeo ngực! Đây là áo lót đàn bà, người dưới chợ vẫn dùng mà! Người lớn mới biết! Em đi với ai? Người lớn đâu? Úy! Đang nói kêu rú vì đứa bé trố mắt hiếu kỳ dòm và nó thò luôn tay giật “phụt” một cái, tuột luôn chiếc “khuyết” sau lưng!
Giao Long Nữ đã bị điểm huyệt đành thúc thủ chỉ còn cử động được từ cổ, chưa bị á khẩu nên chỉ còn nước kêu lên, nhưng không sao giải thích cho đứa bé khách “rừng” này tin nổi. Nó cầm mảnh “kính sa tanh” ngắm nghía, rồi lại dòm “cú mèo ma” như coi một con chim lạ. Nó gật gù nói một mình:
– Dưới biển có “cá bà cá cô” Thần Ngư Nữ nửa người nửa cá, mình mẩy đẹp như tượng. Bên Phụng Hoàng Sơn nước Cao Ly trước có con “Ngao Ly” mình chim đầu người, bên Nam, lại có loài “điểu nữ” cú mèo lột thành đàn bà đẹp như tiên! Hà hà! Đem lột da dồi trấu, được bộ da đẹp như da bà chúa được cả bộ lông cú!
Soạt! Nó rút ra một lưỡi dao găm dài, nhọn quắc, sắc như nước, và áp lưỡi thép vào da thịt Giao Long Nữ. Khí thép lạnh rởn ốc. Đứa nhỏ vừa cười vừa ấn mũi dao nhọn vào cổ gáy, ngực tim, tìm đường rạch hồn nhiên như sắp lột con chim!
Cô gái sợ điếng người, la lớn:
– Bé con! Đừng làm càn! Tao đâu phải cú mèo! Đừng đừng!
Vô ích! Nó cứ đinh ninh bắt được con cú mèo tinh nó vuốt làn da mịn. Bất thần túm tóc, kéo dần ngửa mình gác đầu lên bệ cười thét:
– Cú mèo tinh này mới biến lần đầu, biến lần đầu biến không giống người! Người lại mọc trái cây! Ha ha! Phải cắt hai trái thịt này đi đã mới để lột!
Giao Long Nữ kinh hoảng, nhưng thân thể cứng đờ, lòng khủng khiếp, kêu lớn “đừng bé con” đứa bé đã vung dao sắc như nước, cứa nghiến ngược tơ như tay đồ tể cắt miếng thịt heo ngoài chợ!
Trong lúc Giao Long Nữ ra suối vo gạo ngộ nạn quá bất ngờ sa tay đứa bé khách săn, thì tại chân núi đàng kia, bọn Võ Minh Thần đang chia nhau sửa soạn chỗ ngủ tạm qua đêm.
Đang nướng thịt, tự nhiên Võ Minh Thần thấy dột lòng một cái, ruột bỗng nóng ran như lửa đốt. Chàng trai sực nhớ tới Giao Long Nữ ra suối vo gạo đã quá mười lăm phút chưa về, bèn bảo bạn:
– Quái sao đi lâu thế? Để đệ ra coi! Bèn vớ lấy chiếc dù, lững thững đi ra suối! Tới bên giòng, nhìn quanh, thấy vắng hoe, chàng bèn lên tiếng gọi, vẫn chẳng thấy nàng thưa chàng liền đi ngược dòng, cho là cô gái chạy đâu đấy kiếm trái, hoặc dăn con thịt chi đó. Bỗng thấy ống bương, nồi gạo rớt vung vãi bên giòng, ngay chỗ thạch bàn, Minh Thần đoán ngay có chuyện chẳng lành bèn đưa mắt nhìn quanh tìm dấu vết. Sực thấy con beo đen từ đâu chạy ra kêu “hí hí” chồm lên cắn gấu áo Võ lôi đi. Đoán nó đã đánh hơi thấy gì khác thường, Võ vùng dùng tiếng thú hỏi:
– Beo đen? Phải mi thấy hơi lạ? Cô chủ gặp chuyện chẳng lành? Mi thấy gì? Beo đen nhảy lên kẹt đá, cắn ra một mũi tên khá dài, đốc tên bằng răng báo, cánh tên bằng lông tai mũi tên hình tam giác sắc không thể tả. Xưa từng theo tôn sư đi khắp Mông Mãn Hồi Tạng Tầu, Minh Thần nhận ngay được tên người Tứ Xuyên thường dung! Bèn cắn mũi tên, nhảy lên lưng beo, giục thú lao đi. Con beo vừa chạy vừa dí mũi ngửi mặt cỏ tìm dấu. Loài thú rừng thường có lối ngửi mùi cỏ dập, ngửi hơi người vương ngọn cỏ rất thính. Beo đen đảo một vòng, rồi chay thốc về phía đầu núi đàng kia! Bốn bề hoang sơ. Rừng chiều quạnh quẽ. Bỗng nghe vẳng có tiếng ai kêu mơ hồ trong núi, giọng lê thê, âm thanh quen tai. Minh Thần giục beo vào chân núi, chợt thấy một tòa miếu cổ sau lùm cây, ghềnh đá. Võ xuống beo phóng tới. Tiếng rú vọng ra “đừng đừng” đúng tiếng Giao Long Nữ. Dột lòng, Võ lao thốc vào tòa miếu hoang, và đứng tựa ngay khung cửa trước, trước cảnh tượng gớm ghê trong hậu cung! Giao Long Nữ trần bán thân, đứng thúc thủ, bị dằn ngửa gác đầu lên bệ. Một cánh tay khoa lưỡi dao nhọn đang cắt cổ, mổ ngực nàng, cột miếu che khuất tên cầm dao.
– Trời! Nó cắt tiết nàng? Tên quái nhân, ác quỷ nào lại có thể bắt nàng mau đến thế?
Nhanh như chớp, Võ quát “khoan”, chân vọt vào tay thả “véo” liễu dao, “chát” trúng lưỡi dao găm đang hạ xuống! Đường dao đi phải tuyệt kỹ lắm mới không liếm vào lồng ngực nhấp nhô của Giao Long Nữ, đánh bật dao găm ra. Đứa nhỏ giật mình rúng động tay dao dừng phắt lại ngoảnh nhìn ra.
Minh Thần đứng khựng, cách hơn hai thước. Tay đã giơ lên toan chém bồi nhát thứ hai, chàng lui về khi chợt nhận ra tên cắt tiết chỉ là một đứa con nít hơn mười tuổi.
– Bé con! Sao cắt cổ người ta? Đứa nhỏ phát cười khanh khách:
– Cắt cổ đâu! Cắt trái cây mọc ngực đấy chứ! Cú mèo ma biến ra người! Bắt được bên suối! Lột da dồi trấu chơi!
Võ Minh Thần định kiếm không giải huyệt cho Giao Long Nữ nhưng nhìn đứa nhỏ lạ, thấy no vẫn cầm con dao găm lăm le đâm xuống, chàng trai vội trợn mắt, xua tay bảo:
– Không phải cú mèo tinh đâu! Người nhà anh đó! Chớ hãm hại chị ấy! Đứa nhỏ có vẻ không tin, lắc đầu, trỏ lốt vỏ cú mèo treo vách, líu lo:
– Hầu à! Nãy gặp cú mèo mang lốt này mà? Ngộ mới lột ra, nó hóa thành hình người! Dưới biển có con Thần Ngư Nữ, bên Cao Ly núi Phụng Hoàng có con Ngao Ly quái điểu mình chim đầu người, bên nước Nam có cú mèo tinh hóa thành người được à! Con cú cái này là giống đó!
Võ Minh Thần nghe giọng đoán ngay đứa nhỏ là người Trùng Khánh Tứ Xuyên, Ba Thục mới sang, mặt mày sáng sủa, hai mắt thông minh đen láy rất ngây thơ, nên tuy thấy nó lột áo Giao Long Nữ, định lột da, chàng cũng chẳng có lòng giận chấp đứa con nít, bèn dịu dàng bảo:
– Không phải thế đâu! Em còn nhỏ chưa biết đấy! Làm gì có chim hóa thành người? Người, điểu, thú giống nào vào giống đó chứ, còn truyện Ngao Ly, Ngư Nữ chẳng qua huyền thoại vậy thôi, anh bằng này tuổi, đi nhiều, đâu có thấy bao giờ!
Đứa nhỏ Tàu phát cười khanh khách, khoa tít lưỡi dao sát cổ Giao Long Nữ làm cô gái thất kinh cứ đưa mắt ra hiệu cho Minh Thần.
– Nị người lớn không biết! Sách có chép mà! Ông Lý Thế Dân sang đánh Cao Ly, tới xem Phụng Hoàng sơn, chọc tổ phụng hay sâu, có con Ngao Ly Chúa đầu người bay lên, Thế Dân giương cung bắn, nó ngậm tên, bay tới tha xuống trại Tô Cáp Văn, Tô Văn xem tên, biết Thế Dân mà! Còn Ngư Nữ cả thế giới đều biết là, dân đánh cá có gặp, sách có ghi người ta gọi “Cá bà”. Tóc nó đen, dài, mặt nó đẹp như mặt cú mèo tinh này, nó hát hay, ngực nó cũng có hai trái cây! Còn cái giống cú mèo tinh này, ở Pan Tseu Hoa có động cú mèo Hấp Tinh Cô, toàn “cú tinh” đẹp như tiên, ngộ biết mà!
Nghe nó nhắc đến cú Phàn Siêu Hóa, Võ Minh Thần mừng rỡ nói luôn:
– À à! Em có biết bọn Hấp Tinh Cô! Ồ! Thì chính bọn anh mới mắc nạn Phàn Siêu Hóa đó! Lốt cú mèo này chính của chúng đó! Mà cú mèo Phàn Siêu Hóa đâu phải cú mèo! Người mang lốt cú mà! Chứ làm gì có quái tinh!
Đứa nhỏ cười ré lên, chích mũi dao vào cổ Giao Long Nữ:
– Hé hé! Người lớn nói dối trẻ con! Tưởng ngộ không biết? Hà hà! Bên Tàu, bên Nam thiếu gỉ quái vật tinh! Như Tây Sắc Ma Vương Hồng Cẩu Quẩy tứ túc tinh Hấp Sát Tinh Quân, như Giao Long Chúa Thủy Thần Hồ Ba Bể… thiếu gì! Noi dối!
Võ Minh Thần nghe nó nhắc tới Tây Sắc, Giao Long Nữ mới sực nhớ ra, biết mình đã hớ, chỉ nói đến cú mèo Phàn Siêu Hóa, quên khuấy hai giống “quái thú” khét tiếng kia. Bèn cố giải thích:
– À! Em cũng nghe nói đến hai loài quái đó ư! Nó thành tinh thật nhưng chỉ là khôn ngoan linh mẫn như người đâu có biến thành người được?
Đứa bé Tàu cười khanh khách:
– Ngộ, ngộ thấy cả Cẩu Quẩy, Giao Long hóa người, cái mặt có râu. Đứa nhỏ Tàu nói một hơi, giọng vẫn ngây thơ nhưng lời nó nói nghe vững vàng hết sức khiến Võ Minh Thần không những phải lấy làm lạ về đứa con nít mà chàng lại còn thấy lúng túng chẳng biết đối đáp sao cho xuôi nữa! Sự kinh ngạc của Minh Thần phải mở to mắt dòm đứa bé Tầu trước mắt không thể ngờ một đứa con nít hơn chừng mười tuổi xem chừng cũng mới bên Tầu sang Nam một, hai chuyến là nhiều, mà lại có vẻ hiểu rõ chuyện bên Nam đến thế! Vì nhưng điều nó viện dẫn ra, chính chàng cũng từng được nghe, nhưng cũng mới được thấy chừng một, hai trường hợp, riêng vụ Tây Sắc, chàng càng lấy làm lạ, vì đêm lần xuống A Phòng, vào Mê Hồn Cung, chính chàng nhìn vào tấm gương treo vách phản chiếu, có thoáng thấy mặt Tây Sắc Tinh Quân Hồng Cẩu
Quẩy rõ mặt người, chừng nhìn kỹ lại, thoáng như mộng ảo, nó lại mặt chó sói! Lúng túng ít khắc, Võ Minh Thần đành cười bảo đứa bé Tầu:
– Chú em còn nhỏ mà biết rành nhỉ! Phải! Kể ra chuyện hóa hình biến thể vẫn có chứ, anh đâu có bảo không. Riêng về Tây Sắc, anh cũng chưa dám chắc, nhưng có điều rõ nhất là cú mèo Hấp Tinh Bà, Hấp Tinh Cô không phải cú meo thành tinh, chỉ mang lốt cú thôi! Chính bọn anh vừa thoát nạn tại núi Cú Mèo Phàn Siêu Hóa, tới đây, anh cũng có một lốt cú mèo để đàng kia! Mấy bộ lốt này là áo giáp mà! Em nhìn kỹ sẽ thấy!
Nhưng đứa nhỏ Tầu không nhìn lốt cú, lại nhìn Minh Thần chòng chọc, mũi dao vẫn dí vào cổ Giao Long Nữ, bỗng nó hỏi:
– Nị có lốt cú như của cú này! À! Cú mèo ma đực! Con cú cái!
Minh Thần phì cười nhăn mặt, lắc đầu định nói nữa, bỗng Giao Long Nữ kêu thánh thót:
– Ôi chao! Nó dằn đau cổ quá! Giằng dai với đứa con nít làm gì cho phí lời!Đại huynh tính việc trễ nải quá!
Minh Thần nghe nàng kêu, sực hiểu, lập tức dùng luôn đòn “khẩu phong” đánh ra một nhát “Mê Hồn Công”, nhắm luôn mặt đứa nhỏ lạ. Nào ngờ đứa bé vẫn ngồi vat vẻo như thường, cười sằng sặc:
– Anh cú mèo đực định mời cú mèo cái thở khí độc mê! Đứng im! Cử động ngộ ấn luôn mũi dao đứt luôn họng cú mèo cái!
Minh Thần thất kinh, biết nó đã bế huyệt hoặc có thuốc vít huyệt đạo chi đây, chàng đành đứng yên, sợ nó làm tới. Vì xem chừng tuy nó thông minh, nhưng vẫn là con nít, nó có thể đâm chết Giao Long Nữ như giết một con cú mèo thực vậy!
Không chậm trễ, chàng ngầm thổi ra một nhát kình phong thay chỉ phong giải huyệt cho Giao Long Nữ. Lúc này nàng bị dằn ngửa đầu lên bệ thờ, đầu ngoẹo quay mặt ra ngoài, bỗng mắt nàng vụt sáng, vung tay gạt cánh tay đứa nhỏ, và lăn tròn vào trong. Đứa nhỏ đâm “phập” sát cổ, mũi dao nhọn ngập bệ gỗ, Võ Minh Thần đánh tay rút vụt cây súng cối, chỉ vào nó quát:
– Ngồi im! Đứa nhỏ liếc ra, Giao Long Nữ vọt vào góc hậu cung, hai tay che chéo trước ngực, mắt phượng long lanh đầy sắc giận, nhìn đứa bé. Nó cười khanh khách. Minh Thần tiến vào, cách hơn thước, cài dao, nhón áo trong áo ngoài ném cho Giao
Long Nữ. Cô gái mặt đỏ vì thẹn giận bước lại bên lốt cú rút phắt khẩu súng nhét trong chỉa luôn vào đứa nhỏ lạ lẩy cò miệng hét:
– Tiểu quỷ! Đoàng! Súng văng rụng. Minh Thần kêu:
– Hiền muội! Đừng giết nó tội nghiệp nó còn nhỏ tưởng cú mèo ma! Giao Long Nữ ngơ ngác, cau mày hiểu, đứa bé Tầu bỗng líu lo:
– Không phải cú mèo tinh! Giao Long Nữ quắc mắt:
– Tầu con! Sao mi biết không phải? Đứa nhỏ cười ré:
– Nếu cú mèo tinh đã giết ngộ rồi! Giao Long Nữ bị nó lột áo, vẫn chưa hết giận mắng:
– Không có đại huynh, tao cho mày một phát! Nhóc con, may đập trộm tao bên suối, tao đã nhịn, trút lốt đầu cú cho coi, mày còn lừa điểm huyệt làm càn! Đứa nhỏ Tầu nhe răng cười:
– Ngộ biết có cú mèo tinh, ngộ tưởng đàn bà đẹp là cú mèo tinh! Ngộ ghét cú mèo, nhà ngộ có một trăm xác cú mèo lột! Tỷ tỷ không phải cú mèo ma, ngộ xin lỗi tỷ tỷ! Đập chết, ngộ chịu mà!
Dứt lời, nó rút lưỡi dao găm, chìa cán cho Giao Long Nữ, cô gái giật lấy ném “phập” sát đùi nó, mắng:
– Tỉu nà! Mày không là con nít, tao chặt đầu mày! Võ Minh Thần cười an ủi:
– Thôi mà hiền muội! Con nít làm càn không nên chấp cứ!
Giao Long Nữ đành vuốt giận, nhặt súng lấy lốt cú mèo, bước ra chỗ Minh Thần. Chàng trai hỏi đứa nhỏ:
– Chú em tới đâu? Tên gì? Đứa nhỏ đáp:
– Em sang Nam bán thuốc bán sâm, săn gấu, cọp, sơn dương, tê giác, lấy mật, sừng xương da thú…
Nó trỏ mớ hành lý. Hai người nhìn kỹ đúng hành lý khách thuốc.
– Nãy em bảo đã thấy Tây Sắc hiện hình người? Chính mắt em thấy? Đứa nhỏ gật đầu:
– Thấy! Nhưng nó rùng mình một cái, lại ra đầu sói! Anh quen “chó tinh”! Minh Thần buộc miệng:
– Quen gì! Tìm giết nó, kẻ thù bất cộng đới thiên! Đứa bé gật gù:
– Em đi bán thuốc nghe đồn muốn giết Ma Vương Sắc, phải có bộ vòng càn khôn! Anh đã kiếm được chưa?
Minh Thần chưa kịp nói chi, Giao Long Nữ vùng nói chặn:
– Vòng càn khôn là cái gì? Con nít nói như thằng loạn óc! Ôi chao! Đại huynh! Mình về thôi! Đứng đây, em chỉ muốn cho thằng ôn này một phát chưa hết giận! Hừ! Cũng may là anh đi kiếm…
Nàng toan nói “thấy em cởi trần, không phải Nam Khấp, Đông Tửu”, nhưng lại thôi và khều nhẹ tay Võ, ra ngoài miếu. Đứa nhỏ Tàu đi theo tạ lỗi. Giao Long Nữ vẫn thủ sẵn khẩu súng trong tay. Minh Thần hỏi đầu đuôi nàng kể lại chuyện vô tình bị bắt, giọng vẫn còn hậm hực:
– Thằng con nít này hơn mười tuổi dám đi bán thuốc một mình, mò mẫm khắp núi xanh rừng thẳm, xem chừng nó ranh mãnh như ma quỷ! Anh không để em cho nó một phát rồi đời!
Minh Thần cười bảo:
– Ờ coi bộ nó thông minh lắm, nói năng đâu ra đấy! Nhưng em không thấy nó vẫn còn tính ngây thơ con nít sao? Nói như khướu, vẫn là con nít chấp nó làm gì! Chắc nó học võ Nga Mi. Phái Nga Mi vẫn có nhiều thủ thuật, chắc nó có thuốc tẩm mình, nên nãy đánh “mê hồn công” không núng!
Con beo đen nhảy ra, mừng hí hửng, hai người rời khu miếu về lều. Giữa đường gặp Đông Tửu, Nam Khấp nghe tiếng súng, bổ đi tìm. Minh Thần bèn kể qua câu chuyện xảy ra, đoạn cùng nhau về lều.
Đêm đó, bốn người chia phiên nhau, canh gác cho nhau ngủ. Minh Thần, Giao Long Nữ gác lúc chập tối. Lợi dụng lúc đảo vòng ngoài, cô gái lấy beo đen phi tới khu miếu hoang, dò xét. Nhưng tới nơi, trong miếu tối om, vắng ngắt, đứa nhỏ Tàu đã bỏ đi từ lúc nào rồi. Cô gái đành quay về. Một đêm vô sự trôi qua. Sáng sớm sau bốn người dậy sửa soạn cơm nước xong cuốn lều dọn hang, lên ngựa tiếp tục lên đường Phi Mã Yên Sơn, Giao Long Nữ cưỡi beo đi trước dò đường.
Khoảng mười một giờ trưa, Giao Long Nữ vừa vượt qua một hang núi đá, vào một cánh rừng cẩm tú, bỗng nghe sơn cẩu hú vang lừng, rồi bóng hồng cẩu quẩy từ đâu phóng ra đông như rươi, xông tới tấp.
Theo lời Minh Thần, lúc này cả bọn đều trút hết cú, chỉ đeo mặt nạ. Giao Long Nữ thấy nguy lập tức dùng tiếng thú quát rạc đàn cẩu quẩy hung tợn và lên beo lại.
Nào dè, bỗng lại một bầy nữa hiện ra chặn đầu, một nữ lang cưỡi một con hồng cầu quẩy vọt ra, nạt lanh lảnh:
– Dạ Xoa! Sao dám phạm cấm địa? Biết điều xuống beo chịu trói! Yêu nữ! Thấy gái xua cẩu quẩy chặn, Giao Long Nữ chẳng cần nói lôi thôi, giục beo tới, xòe luôn giáp pháo “nổ” liền! Đùng đùng! Đạn pháo, tên lửa bắn ra như vãi đậu, nữ lang vội dạt xa tránh đạn, giơ cao một trái tạc đạn hét:
– Dạ Xoa! Nếu còn làm dữ ta cho nổ chết tươi! Giao Long Nữ cứ xông tới, trùm giáp pháo khắp người vật. Nữ lang tung tạc đạn, may sao đúng lúc đó, bọn Minh Thần đã giục ngựa lên, vừa hú hiệu gọi sơn cẩu vừa trương súng bắn tung trái tạc đạn đẩy ra xa phát nổ. Nữ lang ngoảnh lại, Minh Thần vừa thấy mặt, giật nẩy mình, kêu “trời” khi nhận ra khuôn mặt gái họ Bạc đã thấy nằm trong “Hóa Sinh Bảo Tàng Viện” của Ma Vương Sắc dưới cung A Phòng: Bạc Khao Lan!
– Lão thổ kia! Kéo nhau vào cấm địa làm gì? Trời! Ai như chàng!
Nữ lang đang quát, Võ lột luôn mặt nạ, nàng nhận ngay ra Minh Thần, sửng sốt, kêu lên, hai nàng xốc tới, Minh Thần vọt lên, xua tay:
– Chớ nên đánh lộn, cùng chỗ bà con! Nữ lang họ Bạc hú truyền cẩu quẩy dạt xa, Minh Thần vùng kêu kinh ngạc:
– Đêm nọ, ngu mo đã gặp cô nương bị hấp sát đặt trong Bảo Tàng Viện Ma Vương, sao giờ lại gặp đây?
Nữ lang chính Bạc Khao Lan nữ chúa Pi A Ya, nghe Minh Thần hỏi mỉm cười thánh thót:
– Ban đêm công tử nhận lầm là phải! Xác đó chỉ là xác chị Bạc Khao Linh, song sinh với thiếp, nhờ công tử đêm đó, thầy dạy võ chị đã đem được xác về! Minh Thần mừng rỡ:
– À thế mà ngu mỗ đinh ninh cô nương… lòng buồn khôn tả! Ngu mỗ xin có lời chia buồn về cái chết thê thảm của tỷ nương!
Nữ lang cười bảo:
– Công tử khỏi buồn! Chị ấy giờ đã khá mạnh! Minh Thần kinh dị hỏi mới hay nhờ mớ xương da con Mạc, Thánh Y Lãn Ông đã cứu Khao Linh sống lại. Vì tuy bị hấp đã hai, ba tháng miệng vẫn ngậm nhân sâm hồn chưa lìa xác chỉ bị bớt nhiều chất kim, hỏa khi được dùng thuốc có vị xương, da con Mạc vốn thọ kim khí sinh ra, nàng được bồi hoàn sinh lực, nên mới hồi sinh.
Bọn Minh Thần nghe chuyện, thẩy đều ngạc nhiên, cho là lạ, riêng Đông Tửu có dáng trầm tư bảo:
– Xem việc này, rõ ràng Ma Vương Sắc hấp luyện giống bí pháp càn khôn đã tới cao độ hấp sinh, nạn nhân mới có cơ sống lại được!
Đó rồi Minh Thần bèn trỏ từng người giới thiệu, ai nấy chào nhau. Bạc Khao Lan chợt thoáng vẻ buồn rầu, hỏi Võ:
– Phải công tử đã lấy Bắc Yên Thần Nữ? Lần trước, Giao Long Nữ hỏi tới chuyện này, Võ Minh Thần đã khổ sở giải thích. Nay nàng nữ chúa Pi A Ya lại hỏi nữa, chàng trai lại một phen bối rối không ít. Vì giữa chàng với nàng Bạc Khao Lan tuy chưa chính thức tỏ lộ tâm tình gắn bó, nhưng ân tình rất nặng, cả hai đều đã cứu mạng nhau trong cơn thập tử nhất sinh, thời gian lưu lại vùng động thất của giòng chúa tể Mán Thổ Phi Mã Yên, những ngày gần gũi nhau truyền dị thuật luyện Ma Xó, thu phục các loài chó núi mãnh thú, hai người đã tới độ “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”! Chẳng e chi, chỉ e nỗi thù nhà chưa báo, tang phụ mẫu còn nguyên chưa tiện nói chuyện yêu đương, hôn phối nhưng đã thầm hiểu, thầm gắn bó với nhau rồi, nên nghe nàng hỏi, Võ chưa tìm được câu nói nào thật gọn để nàng hiểu rõ chuyện “xảy ra ngoài ý muốn” đã lại nghe Bạc Khao Lan thỏ thẻ:
– Ngày nọ, Thánh Y Lãn Ông Si Công Linh tới đây cứu chị Khao Linh. Thiếp đã được “người” cho biết chuyện công tử xuống Cung A Phòng tử chiến với Tây Sắc chẳng may bị hãm vào “Hồng Thủy Trận” lại bị đòn huyết khí tinh công suýt mạng. Thay dạy chị Linh cho biết nếu không có công tử, chắc ông cùng sư muội, chị Linh cũng bị hấp sát ngay đêm đó. Thánh Y có kể chuyện dị thú đem công tử chạy tới xứ Phù Dung, sau đó, ứng lời nguyền truyền quốc, công tử làm pho mã xứ Yên, lấy giáo chủ Phù Dung Thần Giáo, chính Thánh Y cũng theo lời nguyền của tổ phụ giòng Khan, đứng ra làm… ông tơ bà nguyệt! Vị Thánh Y cũng có cho hay là: lúc đầu công tử vì mắc tang, không thuận. Nhưng sau, vì lệ phép Phù Dung xứ, công tử không nỡ nhìn Thần Nữ Bắc Yên tự sát, nên phải nhận lễ thành hôn!
Minh Thần được dịp nói luôn:
– Không những nữ chúa Phù Dung phải nhảy xuống hầm giáo nhọn cả khách ứng lời nguyền độc không thuận cũng phải chết, cho họ lấy máu rửa nhục quyền! Nên lúc đó họ kéo vào đền thờ, ngu mỗ phải nhận, cốt lưu thân báo thù và cũng để cứu Thần Nữ đền ơn nàng!
Tuy đã cố giữ thản nhiên, mặt nàng Bạc cũng thoáng tối lại nét sâu mênh mang không tận.
– Ván đã đóng thuyền, Bắc Thần Nữ Khan Mây Linh tài sắc vẹn toàn… cũng do lòng trời đã an bài…
Minh Thần chép miệng, từ tốn bảo:
– Nhưng có nhiều điều sau này Thánh Y cũng chưa biết! Vì chỉ có trong cuộc mới hay là Bắc Yên Thần Nữ tuy là gái nhưng xử sự không kém trượng phu! Khi biết rõ ngu mỗ mắc đại tang phải nhận thành hôn miễn cưỡng, nàng đã bố trí cho ngu mỗ trốn đi để mình nàng quyên sinh. Ngu mỗ chẳng đành lòng, nên cuối cùng cả hai đều thuận với nhau: Chỉ là cuộc giả hôn, đóng vai giả phu giả phụ, giả động phòng, trước ngày ngu mỗ đi! Nên tuy bề ngoài là cuộc hôn nhân chính thức có đủ dân Yên chưng kiến, Thánh Y làm nguyệt lão, nhưng tình trong chẳng khác một cuộc cưới nhau trên sân khấu!
Bạc Khao Lan tươi hẳn mặt, mở to mắt nhìn Võ, hỏi:
– Giả hôn! Bắc Yên Thần Nữ là tay vang danh trong thiên hạ lại chịu để phí ca đời thục nữ làm vợ hờ được ư? Nàng không định lấy chồng nữa sao? Lạ thật!
Giao Long Nữ đứng một bên, thấy nàng nữ chúa Pi A Ya cứ hỏi xoắn mãi về chuyện hôn nhân của Minh Thần, cô gái vội mỉm cười nói xen vào:
– Có chi lạ đâu cô nương? Nay giả, mai thật, có sao? Mai đây đại huynh trả thù nhà đoạn tang ai cấm nàng trở nên vợ thật. Tư thế nàng nhất định sẽ chắc hơn nhiều nàng khác, vì ít nhất nàng đã làm vợ hờ rồi! Ít nhất nàng ta cung có chỗ chắc chân để chờ!
Bạc Khao Lan thoáng đỏ mặt, có ý thẹn. Tuy đã được biết Giao Long Nữ là bạn đồng hành với Võ, nhưng đàn bà thường rất tinh về chuyện ghen tuông, tình ý. Khao Lan có ý ngờ nàng mỉa mình, tuy nàng thấy cô gái Dạ Xoa cũng chẳng có thể là tay tình địch đáng ngại. Con Võ Minh Thần nghe Giao Long Nữ xen vào, chàng trai cũng thừa hiểu đàn bà xưa nay dầu tay kỳ nữ, chúa tể đi nữa, vẫn cứ có máu ghen tuông như thường, để nổ ra, sẽ rắc rối to nên chàng vội khoát tay, nói lớn:
– Thôi! Tương lai còn thuộc về trời, lúc này không phải lúc nên bàn tới chuyện đó! Bạc cô nương! Bọn này trèo đèo lội suối từ Phàn Tây Phàn đến đây, thăm lệnh đường, cô nương có chuyện cần lắm, xin cô nương cho vào cấm địa mau thôi!
Bạc Khao Lan vội nghiêng mình thánh thót:
– Gặp nhau mừng quá quên cả phép lịch sự mong quý vị tha lỗi! Nào xin thỉnh chư vị, đây vào động thất cũng còn khá xa. Đó rồi bọn Minh Thần theo nàng nữ chúa Pi A Ya tiến vào lanh địa thâm sơn, qua nhiều đợt sơn lâm trùng trùng.
Càng vào sâu lãnh địa, càng gặp nhiều cạm bẫy, quân canh, thú binh, các vọng gác công khai, bí mật. Quân canh quân tuần tiễu toàn người Mán Thổ lực lưỡng, ẩn hiện quanh đường mòn, trên núi, cách động thất năm sáu dặm, việc bố phòng càng cẩn mật, tưởng con chuột lọt qua cũng khó, nàng nữ chúa Pi A Ya bảo khách:
– Sau đêm Tây Sắc vào động tìm bắt công tử, thoát khỏi Bát Trận, nó còn vào một lần nữa nên phụ thân thiếp phải cho phòng bị cẩn thận, sợ nó lẻn vào bắt gái! Lại một lần cách đây hai tháng có cả Hấp Huyết Quỷ Nương lén nhập tác quái chẳng hiểu có chuyện chi, nên lãnh địa càng phải cho canh phòng kỹ! Mấy lối ra vào chính đều có dựng cả Ma Xó!
Dứt lời, nàng giật sừng trâu rúc một hồi tù và vang động sơn lâm! Lập tức, từng đại đội quân rừng nam nữ từ đâu nổi tù và, khoa cồng dẫn từng bầy chó núi dư tợn, kéo rốc xuống, bắn súng chào mừng thượng khách, phò mọi người vào thẳng miền động thất trung tâm lãnh địa.
Đến nơi, trời vừa đỏ hoàng hôn. Bạc Khao Lan cho quân gia lui ra, đoạn đưa bọn Võ Minh Thần tới thạch dinh Chúa Pi A Ya.
Khách vừa lên triền núi, đã nghe tù và rúc, cồng khua vang dậy, vệ binh vệ tướng nam nữ, hồng cẩu quẩy xuất hiện dàn hàng dọc hai bên đường lên tận cửa động.
Một phát ống lệnh nổ đùng, cửa động mở toang, vị chúa tể từ trong nội tẩm tiến ra, uy nghi rực rỡ trong bộ quần áo Mán Thổ bằng vóc đại hồng, chòm râu muối tiêu bay phất phơ trong gió.
Nam Khấp, Đông Tửu, Giao Long Nữ trông lên, thấy một tòa thạch động nguy nga đồ sộ, ăn liền vách đá giữa một khu núi biếc kỳ tú san sát đầy nhà đá, nhà sàn lối kiến trúc thật lạ mắt, khiến cả ba phải trầm trồ khen đẹp, tưởng mình lạc đến thế giới thần tiên nào, có tiên ông ra đón khách phàm trần! Nam Khấp xưa nay vẫn ôm nặng mối thù sầu thế tục, tâm hồn thê lương u ám sực thấy cảnh sơn động kỳ tú, phảng phất coi như tiên động, bất giác kêu “Ôi chao! Nam thiên đệ nhất động là đây mới phải!” Thế mới biết giang sơn ta cẩm tú hơn người! Bọn Võ Minh Thần cung Bạc Khao Lan xuống ngựa, trao cương cho hầu thoăn thoắt lên. Vị tù trưởng Chúa Mán Thổ bước xuống, tươi cười hớn hở, chủ khách cùng nhau thi lễ. Họ Bạc cất giọng sang sảng như chuông đồng:
– Sớm nay, lão chợt thấy máy mắt ù tai “đánh” quẻ Lạc Nhân biết có khách đến chơi, nhưng không ngờ lại được gặp công tử cùng mấy quý khách.
Võ Minh Thần vội giới thiệu từng người, thấy chủ nhân lãnh chúa, tướng mạo đường đường, đầy lòng hiếu khach, bọn Nam Khấp vội lột mặt nạ da người làm lễ ra mắt.
Giao Long Nữ lúc đó cũng lột bộ mặt Dạ Xoa. Bạc Khao Lan đi bên nàng, tự nhiên mặt thoáng nét sững sờ, nhìn nhanh Minh Thần một cái. Cô bạn đồng hành của chàng có một tấm nhan sắc thiên kiều bá mị, có thể nói dễ trầm sa lạc nhạn, đẹp bướng bỉnh thông minh khác thường. Còn vị tù trưởng họ Bạc, khi nghe tên hiệu khách, lão càng tỏ vẻ sảng khoái, cao giọng:
– A! Không ngờ bữa nay Pi A Ya lại được đón tiếp toàn bực cao nhân dị khách đứng đầu phương vị võ lâm! Vạn hạnh! Vạn hạnh! Xin thỉnh quý khách quá bộ vào đây!
Cha con vị chúa Pi A Ya mời bọn Minh Thần vào động thất. Trời mới hoàng hôn, nhưng bên trong đã thấy đèn nến sáng chưng. Động thất này ăn sâu vào cả ruột núi, rất rộng, không những là nơi lãnh chúa ở, còn là cả một khu dinh trận cơ quan Bát Quái Trận vô cùng lợi hại, tuy bề ngoài chỉ thấy nguy nga đồ sộ với những cây cột to mây vầng như đền các vua chúa La Mã Hy Lạp xưa. Khi theo vị tù trưởng vào trong, qua mấy gian ngoại điện, chỗ có yểm tàng Bát Trận, Võ Minh Thần đưa mắt trông sang vách hữu không thấy những hình khắc kỳ dị ngày nọ, Võ đã thấy làm lạ, định hỏi nhưng lại nén lòng, đợi dịp khác. Vị chúa Pi A Ya đưa khách vào tít trong nội điện, vào căn phòng trần thiết như lối phòng khách nhà quan to dưới xuôi. Trà nước hàn huyên hỏi thăm mọi chuyện xong, Võ Minh Thần ngỏ ý muốn được vào thăm Bạc Khao Linh. Hai cha con Khao Lan bèn thân dẫn bốn người tới một căn buồng tĩnh mịch phía trong nữa. Khao Lan vào trước, khi bọn Võ vào, đã thấy bọn gái hầu “phò” một cô gái tiến ra đón, mặt mũi giống Khao Lan như đúc.
Chỉ khác chút là Khao Linh này coi còn có vẻ yếu, chưa bình phục hẳn. Nàng mặc xiêm y Thổ, ngoài khoác áo choàng vịn vai nữ tỳ, cúi chào khách. Khao Lan giới thiệu từng người, Khao Linh cảm động bảo Võ:
– Thiếp bị Tây Sắc bắt hấp sát, bỏ Viện Bảo Tàng lạnh lẽo, tưởng trăm phần chết, không ngờ còn được thấy ánh mặt trời, là nhờ công tử! Ân cứu mạng này, thiếp trọn đời ghi dạ!
Minh Thần dịu dàng bảo:
– Cứu cô nương là do lệnh tôn sư cùng sư muội giả cha con Phìa Mèo NamCương xuống A Phòng Cung tìm cô nương. Võ này có dự chi vào! Cô nương còn mệt lắm nên nằm nghỉ cho mau lại sức.
Cả bọn nhìn Khao Linh không thể tưởng tượng cô gái này đã bị hấp cả ba tháng bỏ Viện Bảo Tàng còn sống được. Khao Lan kể qua lời chị thuật lúc bị hấp. Đông Tửu nghe xong bảo:
– Cách nó hấp giống hệt thuật ông Bành Tổ ghi trong vòng càn khôn? Không lẽ nó linh mẫn tới độ tự khám phá ra được bí thuật hóa sinh hóa diệt trong cõi càn khôn?
Cả bọn hỏi thăm, an ủi vài lời, đoạn cáo từ lui ra, lòng còn nặng suy tư luật tử sinh huyền diệu vẫn ngự trị muôn loài. Về tới phòng khách, Minh Thần khẽ bảo Bạc Khao Lan cho gái hầu ra ngoài hết, đoạn trầm giọng bảo vị tù trưởng họ Bạc:
– Chuyến này, kẻ hậu sinh về thăm bực tiền bối cùng cô nương để báo một tin quan trọng. Tây Sắc Ma Vương hiện nay luyện thuật công bí pháp đã tới mức thượng thừa, không có đòn nào hạ nổi, trừ bí pháp trong vòng càn khôn.
Hiện nay, kẻ này và hiền muội Giao Long Nữ đây đã có hai chiếc, chỉ còn thiếu cái thứ ba. Duyên may trời định. Võ này gặp được hiền hữu Đông Tửu, bực thông minh tuyệt thế độc nhất đọc được chữ tượng hình trong ruột vòng. Sực nhớ lại động thất trên vách có chữ tượng hình, Võ này định thỉnh hiền hữu cùng tới Pi A Ya một chuyến muốn được xem lại hàng bí tự kia, chẳng hay có điều chi bất tiện chăng?
Vị chúa họ Bạc mừng rỡ nhìn Đông Tửu, kêu:
– A! Nếu tiên sinh đọc được chữ ruột vòng, thật đáng mừng hết sức! Bạc mỗ chỉ mong Võ công tử sớm trả được thâm cừu, trừ được loài tinh nanh ác, dứt họa cho dân biên thùy, là Bạc mỗ hả lòng! Chư vị có cần xem ngay hay đợi ăn uống xong cho ung dung!
Khao Lan xin để lát nữa. Đó rồi tù trưởng mời khách đi tắm rửa, xong tiệc rượu đã bày sẵn, Khao Lan rót rượu chủ khách quây quần ngồi đối ẩm giao tình mười phần thâm hậu. Bọn Nam Khấp tuy mới sơ kiến hai cha con họ Bạc nhưng xem chừng cũng nòi hào sảng, thanh khí rất dễ thân nhau.
Tiệc tẩy trần bầy trong buồng kín, đêm rừng núi cao lạnh, chủ nhân đã sai nhóm lửa, cuộc rượu thật đầm ấm. Nhân dịp Võ Minh Thần kể qua vụ ngộ nạn tại miếu ma động quỷ Hấp Tinh và đưa cả bộ lốt cú mèo vỏ giáp cho chủ nhân coi. Cả hai cha con vị tù trưởng đều lấy làm lạ.
Lại nhân lò lửa ngụt, Minh Thần bảo Giao Long Nữ lấy vòng ra, đưa Đông Tửu nung, soi trỏ đọc cho họ Bạc nghe từng chữ.
Mãi hơn mười giờ đêm, tiệc rượu mới dứt. Uống cà phê xong, họ Bạc dẫn luôn bọn Minh Thần ra khu Bát trận! Họ Bạc đóng cửa động, sai Khao Lan vặn Bát Trận, tới vách hữu, trỏ vách trơn, bảo:
– Chuyến thứ hai, Tây Sắc đột nhập, bắt vệ binh tra hỏi nơi có chữ hình trên vách. Đêm sau, lại bọn khác, nên lão phu đây đoán có điều chi bí ẩn, phải cho ghép đá che vách khắc chữ lạ kia đi! Nay trong trận, không còn ai, ta xem rất tiện!
Khao Lan vặn trục ngầm, vách ghép chạy vào để lộ vách hang, đầy chữ tượng hình.
Võ Minh Thần, Bạc Khao Lan mỗi người cầm một cây đuốc lớn soi sát vách đá. Cả năm người bỗng thấy hồi hộp lạ thường, cả năm cặp mắt cùng đổ dồn nhìn Đông Tửu, chàng “bác vật học” trẻ tuổi tay vẫn cầm bầu rượu, ngửa cổ tu luôn mấy ngụm, tiến lại, ngước mắt trông lên khoảng vách rộng, chợt tươi hẳn nét mặt nói như reo:
– À! Chữ tượng hình đời hỗn mang pha chữ tượng hình đời tiền hồng thủy! Coi tuồng chữ này là chữ vạch thảo bằng móng tay ngay vào vách đá, không phải đục khắc! Sao trông giống nét chữ ông Bành Tổ quá!
Ai nấy cảm xúc đến nghẹt thở, Đông Tửu lại tu liền hơi nữa khà mạnh khoan khoái, đưa mắt xem lướt bao quát khắp trên dưới dọc ngang xuôi ngược chợt thở phào, ngoảnh lại nhìn mọi người vui giọng:
– Đúng chữ tượng hình của ông Bành Tổ Lĩnh Nam, thứ chữ viết trong ruột vòng! Cơ duyên may mắn, chúng ta bắt được của báu trần gian vô nhị rồi! Bức thạch thư này liên quan tới bộ vòng càn khôn!
Mọi người ngó nhau, sáng hẳn mắt, mừng khôn xiết, nhất Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đang hoài vọng bí pháp để trả thù huyết hận đêm ngày nung nấu, bào xé ruột gan, Võ vội hỏi:
– Hiền huynh! Bí tự… nói gì đó? Đăm đăm nhìn lên vách, Đông Tửu gật gù:
– Đây là bản chúc thư của ông Bành Tổ, đề cập tới bí pháp càn khôn luyện! Để đệ coi hết sẽ đọc giải một hồi cho tiện!
Dứt lời chàng ta đỡ lấy cây đuốc trên tay Võ Minh Thần, soi đọc thầm từ trong ra ngoài. Vách thạch thất vút cao, rất rộng, nguyên khoảng có chữ chiếm hơn chục thước vuông giơ lên, còn hàng sải nữa mới đến hàng đầu.
Nét chữ vạch trũng sâu vào đá nhẵn “ngọt” như vách xuống bãi cát ướt, các tay thợ đá giỏi mấy cũng không thể đục tự nhiên đến thế, chứng tỏ kẻ thảo đã dùng bí thuật kỳ môn chi đó làm mặt đá trở nên mềm như đất sét khi vạch móng tay xuống.
Lối Tầu Á Đông quen viết từ phải sang trái, đây chúc thư của ông Bành Tổ có lẽ thảo từ trái sang phải, vì thấy Đông Tửu đọc theo chiều đó.
Lúc này, Bát Trận đa dựng nên giữa thạch thất, quây lấy khu vách chữ. Trong trận im phăng phắc, tiếng động bên ngoài lọt vào mơ hồ, ánh đuốc hắt lên chữ tượng hình kỳ bí như nhảy nhót trước mặt mọi người. Cả năm toàn tay thông minh hơn người, vậy mà nhìn vào bí tự chẳng sao đoán nổi.
Vì bí tự này biểu tượng “thần ý” của người viết tận đời hỗn mang, người đọc phải linh cảm được cái ý đó, rồi mới dịch ý kia thành chữ đời nay! Chẳng hạn mấy chữ “chúc thư”, “di chúc”, lại vẽ một hình nhân bán thân đứng nghiêm hướng mặt trước vào trong, lưng ra ngoài, đầu người vẽ bộ óc có tia chớp xẹt lên thành một vòng tròn trong có nhiều hình vẽ, hình tròn chạy xuống trước mặt rồi vòng ra sau lưng, cạnh có một hình tròn nửa chìm nửa nổi.
Đó là: Hình nhân bộ óc, điện xẹt là ý, lời muốn nói, sức hiểu biết, thành hình tròn có hình vẽ là bức vẽ mang ý đó, chạy trước ngực ra sau lưng là của người trước giả, người sau hình tròn cạnh đó nửa chìm nửa nổi là càn khôn nhật nguyệt, đêm ngày, lưỡng nghi (âm dương) là gửi hậu thế, nam nữ, ngàn vạn năm về sau! Rồi kẻ đọc đời nay mới dịch ý đó là “chúc thư”, “di chúc”, “dư ngon”. Lối chữ tượng hình này, xưa bà hoàng Sa Ba có gửi cho vua Solomon miệt Trung Đông! Bức thư cũng tựa kiểu thế, Solomon thông minh đọc được, vì ý tứ dễ đoán hơn nhiều!
Đông Tửu có bộ óc tinh vi sáng láng “thần sầu”, vô cùng nhạy cảm thần ý người xưa, cứ thấy hình là đoán được hiểu ngay, chẳng khác những tay có thiên tài khám phá mật mã vậy! Còn bọn Minh Thần, Nam Khấp chỉ còn nước hồi hộp đứng đợi như học trò đợi thầy giáo cho bài toán khó vậy.
Chừng mười lăm phút, Đông Tửu đã tu sạch bầu rượu, chợt ngoảnh bảo:
– Tìm được nơi để chiếc vòng thứ ba rồi! Có lẽ cho xin mảnh giấy, chép giải tiện hơn đọc từng chữ một thêm mỏi cổ!
Ai nấy tán đồng, “Bac Khao Lan vội đi lấy bút mực”, đem tới một tấm bìa xanh lớn, trao Đông Tửu. Chàng “bác học” vén tay áo vừa nhìn vừa thảo lia lịa, trước Bạc Khao Lan thảo sao chữ một vòng coi đã đẹp, giờ Đông Tửu thảo trông còn đẹp, chính xác hơn, như rồng bay phượng múa.
Lát sau, thảo xong, Bạc Khao Lan bèn van máy trục, che lấy khu vách bí tự, đoạn cả bọn cùng Đông Tửu quay vào phòng khách trong. Chàng bác học ngồi dịch ra chữ kim thời, giây phút đã xong, ai nấy đều lắc đầu sợ thay bộ óc thông minh tuyệt thế của chàng sâu rượu Trai Lưu Linh.
Đông Tửu cất tiếng trầm đọc cho mọi người nghe:
“Chúc thư bí mật của Bành Tổ Linh Nam gửi cháu con hậu thế” Trước chu kỳ thứ hai của nhân loại ngày nay, đã có chu kỳ nhân loại thứ nhất. Loài người đã đạt được một nền văn minh tột đỉnh, văn minh điều dụng ngũ hành nội giới, có người đã luyện mình thành một bộ máy tinh vi có thể giao tiếp với quỷ thần ma quái tiên tinh, liên lạc được với nhiều loài trong cõi u minh! Nhưng bỗng nhiên, trong khoảnh khắc sức ép của không khí, sức hút của trái đất thình lình biến mất, trời nổi phong ba, nước các đại dương đổ vào lục địa ngập lụt tận chín tầng mây, chôn vùi tất cả! Đồng thời, hỏa diệm sơn phun lửa, đất nứt tứ phương, phún thạch phun lên, nước sôi sùng sục, cuộc sống bị xóa nhòa như trong ác mộng! Mây đen vần vũ, địa ám thiên hôn càn khôn mù mịt. Sau bảy mươi hai giờ (ba lần mặt trời mọc, lặn âm u), bỗng may vén trời quang, tám hướng sáng lòa lại một trận mưa dầu nắng lửa, nước rút ra khơi, đất bốc cháy y hệt hồi tiền thân là khối lửa rớt từ khối thái dương do tinh vân tụ kết. Sau cơn nắng lửa, sức ép, sức hút lại như cũ. Ngũ hành ổn định, trái đất thái hòa, cuộc sống lại mọc lên tuần tự. Khoáng sản, núi non, thực vật, động vật sinh sôi nẩy nở, khí quyển thiên vân chuyển, tụ kết âm dương, điện khí giao hòa, nhân loại tái sinh, trong cơn “thiên địa giao cầu” như có bàn tay tối thượng tối linh nhào nặn! Bỗng một sáng, dương quang chói lòa, ta thấy mình nằm trong một đường núi nứt, bên tai còn văng vẳng tiếng sấm sét nổ đùng lưỡng nghi (khí âm khí dương), ket quả và trong tiềm thức còn nặng mang cả kỷ niệm, hình ảnh tiền thân chu kỳ một, mới bị hỏa diệt. Ta vùng dậy, ngơ ngác như kẻ vừa tỉnh cơn mê lạ, nhìn quanh mình sơn lâm hùng vĩ, hoa cỏ tốt tươi, suối khe róc rách đức hieu sinh chợt dậy bừng bừng! Quanh mình ta chỉ có trời mây lồng lộng, núi biếc trùng trùng, rừng cây xanh mướt, hoa nở, chim kêu, thú vật, cây xanh mướt hoa nở, chim kêu, thú vật từng đàn. Ta xuống núi đi về phương mặt trời mọc không gặp ai, trở lại hướng mặt trời lặn không ai. Không cha mẹ, anh em vậy là khí sinh là ta trên dải Lĩnh Nam này, ta chính là thủy tổ giống người trên cõi Lĩnh Nam. Ta sống cô đơn giữa núi non, hoa cỏ, đói tìm ăn, khat tìm uống, chẳng khác loài muông thú. Bỗng một đêm, sau ba lần mặt trời mọc, trời bỗng nổi mưa to gió lớn, sấm sét đì đùng, ta chạy vào hốc đá núp, thình lình một tiếng sét đánh ngang đầu, tự nhiên ta bàng hoàng nhớ lai tiền kiếp! Thì ra cái linh hồn ta nay trong tiềm thức đã nằm sẵn cái giác hồn từ chu kỳ trước.
Trong khoảnh khắc thần giao nhập điện, ta thấy mình sống thời tiền hồng thủy, nhân loại thời đó đã có trí hiểu biết thông thiên quán địa, nhưng hỡi ơi! Dẫu khôn đến mấy, con người vẫn chỉ la cát bụi trước sức nhiệm màu của Tạo Hóa Huyền Vi vô cùng vô tận tối thượng tối linh. Một trận hồng thủy, một cơn mưa nắng lửa mưa dầm tất cả bị xóa nhòe trong chớp mắt.
Trong giây phút nhập thần linh cảm kỳ diệu đó, bỗng ta thấy mình là một nhà đạo sĩ nắm trong tay cái nguyên lý sinh thành, hóa diệt của kiếp nhân sinh qua câu “lão bệnh tử”. Như có một tia sáng thần kỳ soi vào đầu óc u mê tăm tối, tâm trí ta sáng láng hẳn ra, ta nhơ lại bí pháp xưa từng tu luyện, và sau cơn phong ba sấm sét đó, trí khôn ta trưởng thành hẳn lên, ta hấp luyện khí thiên cương ngũ hành, thu khí lưỡng nghi trong loài muôn thú, kéo dài cuộc sống giữa rừng thẳm, khe sâu.
Ngày qua ngày, nhật nguyệt tuần hoàn, nắng mưa hàn nhiệt, bỗng ngày kia ta ngược lên mạn Bắc gặp một người đang ngơ ngác xuôi Nam!
Ta như bị sét đánh, mà người cũng ngẩn ngơ, ta là tụ kết khí dương, người là tụ kết khí âm, tư đó ta cùng người ở với nhau, âm dương hòa hợp! Người đó chính là bà Bành Tổ! Ngày kia, bỗng bà chuyển bụng, đẻ ra một bầy con, đứa giống ta, đứa giống bà.
Chúng đi khắp bốn phương, bỗng một hôm có một đoàn người từ Bắc xuống, tìm nắng ấm, gái trai đủ cả, chúng gặp con cháu ta, cùng nhau kết hợp sinh sôi nẩy nở thành giống tiên tổ đất Lĩnh Nam. Từ đó, người Lĩnh Nam chia hai ngành, mang hai giòng máu. Một ngành do con trai ta lấy gái Lĩnh Bắc sinh ra, một ngành do con gái ta lấy trai Lĩnh Bắc đẻ ra. Ngành “gái Nam trai Bắc” kéo dần về miệt biển Đông Nam lập nghiệp, còn ngành “trai Nam gái Bắc” ở lại trên non. Bọn chúng sau chia thành nhiều bộ tộc, nhiều giong họ, trải xuân thu hưng phế, lại giao hợp với gái, trai từ Lĩnh Bắc “xuống”, giao tiếp với dị tộc phương xa, mà thành giòng giống Việt Nam về sau, đời các ngươi đó!
Vậy tổ tiên các ngươi chung quy có hai nguồn gốc Lĩnh Nam, một gốc trai Nam gái Bắc, một gốc trai Bắc gái Nam. Gốc tổ tiên “trai Bắc gái Nam” là giòng Lạc Việt phương Bắc theo chim Hồng chim Lạc đi xuống Lĩnh Nam, lấy gái Nam đẻ tại Lĩnh Nam. Gốc tổ tiên “trai Nam gái Bắc” tức trai Nam lấy gái Bắc từ Bắc xuống đẻ ra.
Vậy là một cây hai gốc, một gốc Việt, một gốc Nam thành cây Việt Nam. Nam Việt thành giòng giống Việt Nam (không phải tổ tiên) chỉ là chim Hồng Lạc xuống Nam, vì miền Bắc nước Tàu rét mướt khó sống có giống người sinh ra, còn miền Nam là miền ấm áp thuận hòa đến độ người phương Bắc phải tìm xuống tránh rét, mà lại không có sẵn giống người được sao?
Còn ta, ta sống nơi rừng xanh núi biếc cùng bà Bành Tổ, lạ thay từ đó bà không còn sinh nở nữa! Hình như bao nhiêu tụ khí âm dương đã sang bầy con hết. Chúng ta sống cùng nhật nguyệt, nhưng dẫu đã học được thuật trường sinh, bà cũng chỉ ở với ta được ba trăm năm vì không đủ khí lực chống sức Hóa công. Ta lại cô đơn đi lang thang khắp miền rừng thẳm, núi cao, nhưng không còn gặp một bà Bành Tổ khí sinh nào để kết hợp nữa!
Trải bao thế kỷ, có lần ta lần về miền lưu vực sông ngòi thăm con cháu, thì con cháu ta đã chia ra thành bao nhiêu bộ tộc, giòng họ, gia đình sang hèn phân cách, quên nghĩa đồng tông giống, rồi lại người Lĩnh Bắc bên Tàu sang xâm lấn, tranh giành, tương tàn tương sát, ta cúi đầu trước biến thiên hưng phế trở về sơn lâm. Trước ta vui cùng bí thuật trường sinh không lo bị hủy diệt vì bệnh tử, nay ta bắt đầu sợ cô đơn sống mãi, khi quanh mình tất cả đều biến đổi. Tính ra nhật nguyệt tuần hoàn sáng tối, ta sống đã vài ngàn năm! Ta sống nhờ cổ thụ, nên thân không già, mà linh hồn thì cằn cõi dần theo nhật nguyệt.
Một hôm ta muốn ngủ giấc ngàn thu vạn kỷ, không dậy. Nhưng trước khi nằm, ta để bí pháp lại cho hậu thế, kẻ nào có cơ duyên sẽ bắt được, biết đâu sau này, chẳng có kẻ luyện được thuật kia và “hiểu được lòng sầu của Bành Tổ Lĩnh Nam từ bao kỷ trước”!
Ta ghi “bí pháp càn khôn, trường sinh thuật” vào trong vòng ngọc, hai cái cho lưu lạc trong thiên hạ, còn một cái ta để trên ngọn núi cao nhất miền Đông Lĩnh. Chỉ kẻ nào đã thu được hai cái vòng mới lấy được cái thứ ba! Đọc được hàng này, phải là kẻ mẫn tiệp! Hãy tự liệu lấy! Bành Tổ Lĩnh Nam mong ngươi thành công và không dùng thuật ta truyền làm điều tàn khốc!
Bành Tổ Lĩnh Nam
Căn buồng đá vang âm trầm tiếng Đông Tửu đọc giải bản chúc thư của ông Bành Tổ Lĩnh Nam. Khi vừa dứt, Đông Tửu thở phào một hơi dài nhìn mọi người, đưa tay lặng lẽ cầm ly nước trà uống cạn, vẻ nhẹ nhõm như kẻ lữ hành vừa vượt đoạn đường dài vạn dặm! Còn khó hơn đi trong sa mù! Vượt luôn khoảng thời gian hàng ngàn, hàng vạn năm, để giải được hết thứ chữ còn khó hiểu hơn mật mã của người xưa mà mỗi danh từ để gọi một vật, giải bầy một ý đều khác hẳn đời nay.
Bọn Võ Minh Thần nghe đọc sao biết vậy, nhưng nếu có ai hiểu được lối chữ của Bành Tổ mới thấy rõ Đông Tửu có đầu óc thông minh phi thường, không những đã “linh cảm” được những bí tượng hình, vô cùng bí hiểm, mà lại chuyển dịch sang từ ngữ hiện đại rất sáng sủa, lưu loát, lột hết được ý người xưa, tưởng trên đời khó có người thứ hai thông minh đến thế.
Không bảo nhau, cả sáu người cùng giữ im lặng nâng ly trà uống nhắp từng ngụm nhỏ, dáng mơ màng, như hình dung lại đời sống kỳ dị của ông Bành Tổ khi sinh thời hồng hoang hỗn mang chi sơ hậu hồng thủy trận.
Khá lâu, chợt Nam Khấp vùng lên phá tan bầu không khí im lặng thẳm sâu:
– À! Cứ như lời Bành Tổ ghi trong bản chúc thư này, thì nguồn gốc người Việt ta không phải chỉ giòng giống Lạc Việt từ phương Bắc Trung Hoa kéo xuống tạo nên! Tổ nội người Nam chính là người Lĩnh Nam do khí sinh ra ngay tại đất này!
Đất Lĩnh Nam, khí thiêng sông núi tụ kết sinh ra ông Bành Tổ lấy Bà Bành Tổ từ phương Bắc xuống, mà đẻ ra giòng giống ta. Sau này lại có cuộc di cư tránh rét của sắc dân Lạc Việt, mới giao hợp với người thuần túy Lĩnh Nam, sinh sôi nẩy nở thành các giống giòng Việt Nam! Đúng thay! Đúng thay! Giờ chúng ta mới khám phá ra được nguồn gốc tổ tiên xưa!
Vị chúa Pi A Ya cũng cất giọng chuông đồng sang sảng:
– Chính lão phu tử đây cũng thắc mắc từ lâu! Bên Bắc phương hoặc bên Tây phương, hải đảo xa xôi, nhiều chỗ khí hậu còn chưa ôn nhu thuần hậu, từ thời bát tiết điều hòa như cõi Lĩnh Nam này mà còn có ông bà Bành Tổ, lẽ nào đất Lĩnh Nam đầy linh khí phong thổ tiết trời đều tốt lại không tụ kết phát sinh ra vị thủy tổ riêng. Lão phu vẫn cho là “có nhiều ông bà Thủy tổ cùng sinh ra tại nhiều miền”, do khí âm dương giao kết, sách nho vẫn gọi “thiên địa giao cầu” và sinh ra khi trái đất đã có đủ điều kiện để sinh ra giống “động vật” thông minh nhất đó!
Đông Tửu trầm ngâm tiếp lời:
– Nhị vị tiền bối đoán không sai! Theo kẻ hậu sinh này nghĩ: Đất Lĩnh Nam này tuy nhỏ nhưng núi sông hùng vĩ, thời tiết ấm áp luôn cả Lĩnh Bắc đến độ dân Bách Việt Lĩnh Bắc phải theo chim Hồng Hạc xuống tránh rét, tại sao lại không có người như bên Tàu Lĩnh Bắc? Tại sao chỉ có bốn ngàn năm lịch sử?
Đó chỉ vì dân Lĩnh Bắc kéo xuống có lẽ đông hơn dân Lĩnh Nam, rồi suốt bao nhiêu thế kỷ Bắc thuộc, vong quốc, bị tiêu hủy di tích, đốt chữ sách sử, cho đồng nguồn gốc với dân Lĩnh Bắc để vua quan Lĩnh Bắc dễ bề thi hành mưu đồng hóa đó thôi! Vì họ vẫn sợ nhất “tinh thần dân tộc, tinh thần tộc họ” “lòng biết công ân tiên tổ, nhớ gốc nguồn của dân Nam” càng làm cho dân Nam tin mình đồng nguồn gốc Bắc phương càng dễ hạ thấp tinh thần “vị tộc”. Những câu dân ta thường dùng như “Uống nước nhơ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Quê cha đất tổ”, “Tổ quốc”, “Thờ cúng tổ tiên”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”,… Đủ chứng tỏ tinh thần “sùng tổ, kính tiên” đó!
Ai nấy gật gù, có dáng đồng ý, Võ Minh Thần e ngại mọi người đi quá xa việc chính yếu, vội lên tiếng:
– Cứ như bản chúc thư này, ông Bành Tổ chưa nói hết lời! Có lẽ còn điều chi bí mật yểm tàng trên ngọn núi cao nhất Đông Bắc! Núi nào đây?
Chưa ai kịp lên tiếng, Giao Long Nữ đã nói luôn:
– Cao nhất Đông Bắc chỉ có ngọn Pi A Uác: chiếc vòng thứ ba, chắc Bành Tổ để trên ngọn núi đó! Ai nấy gật đầu, Võ Minh Thần mở lời đề nghị sớm mai lên đường đi Pi A Uác.
Nàng Bạc Khao Lan nẫy giờ chỉ đứng nghe, thấy Võ Minh Thần ngỏ ý muốn đi Pi A Uác, cô gái liền thỏ thẻ bảo:
– Trong chúc thư, Bành Tổ Lĩnh Nam cho hay “người” để vòng trên núi cao nhất phía Đông Bắc, thiếp tưởng điều đó cũng cần bàn kỹ lại. Từ chính Bắc sang Đông Bắc có mấy rặng, Gầm Sơn, Ngân Sơn, Cai Kinh la cao hơn cả, trong có ba ngọn Phi Mã, thì Pi A Ya (Phi Mã Yên Sơn) cao 1970 thước, Pi A Uác (Phi Mã Ác Sơn) cao 1930 thước, Pi A Biec (Pi Mã Biệt Sơn) cao 1500 thước! Nếu chỉ tính núi về phía mặt trời mọc, thì Pi A Uác cao nhất rồi Pi A Biec. Nhưng nếu tính cả dãy Gầm Sơn thì Pi A Ya cao hơn Pi A Uác 40 thước, vì dãy Gầm Sơn cũng chưa mọc sang Tây xế như rặng Si Công Linh! Có bản đồ lại ghi Pi A Ya cao 1980 thước. Chúc thư khác tại đâu, biết đâu “người” chang nói bao gồm cả mấy ngọn Phi Mã? Vả chăng, đời nay có nhiều cách đo chiều cao, còn có chỗ sai lệch vậy đời xưa, Bành Tổ có thể chỉ đo bằng bóng núi đổ, bằng mắt hoặc bằng khí hàn nhiệt trong mình, thì hai ngọn cao gần bằng nhau, có thể khác đời nay! Chắc “người” không tính theo mặt biển, mà chỉ tính từ chân núi lên! Nhất từ ngày đó đến nay, cũng lâu rồi, núi có thể mọc cao thêm, thật khó lòng định cho chính xác.
Ai nấy đều cho điều nghi vấn Khao Lan nêu ra là đúng! Nam Khấp cao giọng:
– Lời cô chúa Pi A Ya có lý lắm! Nay người ta cho Phi Mã Yên cao hơn Phi Mã Ác bốn năm chục thước, là tính theo mặt biển. Nếu tính từ chân núi, lại khác, mà Bành Tổ Lĩnh Nam chắc từ chân núi! Định được ngọn cao nhất đúng ý Bành Tổ dạy, xem chừng không dễ mấy đâu!
Sáu người cùng lên tiếng bàn bạc ngược xuôi, Giao Long Nữ bảo:
– Theo lời kẻ này, đó vẫn là ngọn Pi A Úac! Vì nếu chỉ Pi A Ya, “người” chỉ cần ghi “để trên ngọn cao nhất này”, khỏi phải nói dài thêm!
Đông Tửu hỏi Bạc Khao Lan:
– Cô nương ở đây lâu, chẳng hay ngọn Phi Mã Yên này có khác lạ không? Khao Lan thánh thót:
– Phi Mã Yên trùng trùng nhiều ngọn, đỉnh cao nhất thiếp đã lên, chỉ thấy vẻ đẹp hùng vĩ khác thường! Cũng không xa đây?
Đông Tửu trầm ngâm giây phút, bàn:
– Có lẽ ngọn cao nhất của Bành Tổ ghi đúng là ngọn Pi A Úac như cô nương Giao Long Nư vừa bảo tốt hơn hết đây là miền Phi Mã Yên ta cứ thử lên, sau sẽ đi phía Mã Ác cũng được! Vậy chắc hơn!
Mọi người tán đồng ấn định sáng mai sẽ lên ngọn núi Phi Mã Yên ngay! Võ Minh Thần vốn tính trung hậu, nhìn Nam Khap, vị chúa tể các sắc Mán Thổ Pi A Ya, chợt nảy ý hay, từ tốn bảo:
– Cuộc đi tìm vòng càn khôn luyện thấu báo thù của hai kẻ mồ côi này chắcchắn còn nhiều gian lao bất trắc khôn lường! Vậy bí pháp càn khôn đã được hai phần ba không nên để một, hai người giữ, nếu sa tay địch, sẽ uổng bí kíp! Nay chỉ có sáu chúng ta đây, nhân dịp có hiền huynh Đông Tửu, Bạc cô nương đều là tay tháo giỏi, ngu mỗ xin chép ra vài bản, mỗi người giữ một, sẽ khỏi lo mất mát sau này!
Nam Khấp ôm sầu tử biệt từ lâu, thâm tâm chỉ thích nhất thuật trường sinh cho là tối hệ trọng. Nào dè từ buổi gặp Võ Minh Thần, thấy chàng coi bí pháp nhẹ như lông hồng, Nam Khấp rất đỗi ngạc nhiên, cảm phục, lần trước tặng một khúc, lần này lại muốn tặng khúc nữa, tuy lão rất mừng, nhưng nghĩ thẹn mình quá ham, thành lạm dụng, Nam Khấp toan lên tiếng gạt đi, thì vị chúa Pi A Ya đã cười bảo:
– Cám ơn thịnh tình công tử, tiểu thơ, nhưng việc đó, lão phu chưa thể nhận được! Thù lớn chưa trả xong, bí pháp chưa trọn bộ tưởng giờ bàn đến còn quá sớm! Tiên sinh Đông Tửu đây, đầu óc sáng láng nhất đời, đọc qua là nhớ kỹ như chôn, khỏi lo mất bảo vật! Có chăng giữ vật quý như giết beo giữa rừng độc, càng làm mồi cho cọp đói. Theo ý lão phu, giờ cứ tính chuyện nhà công tử tiểu thơ xong rồi sẽ hay?
Cả Nam Khấp, Đông Tửu cùng một ý. Vị chúa thạch thất cầm luôn tờ giấy Đông Tửu dịch chúc thư, châm lửa đốt ra tro. Bí ẩn chúc thư Bành Tổ ra khói và chôn luôn vào bụng sáu người!
Đêm đó, bọn Võ Minh Thần ngủ tại tòa thạch thất. Sáng sau năm giờ, chủ khách đã dậy uống trà, cà phê, ăn sáng đoạn lên ngựa ra đi. Đích thân vị lãnh chúa họ Bạc cùng Bạc Khao Lan dẫn khách tới khu ngọn đỉnh cách khu động thất không xa. Đến chân núi, tất cả bỏ ngựa, dùng thuật khinh thân đăng sơn. Nhưng đúng như lời Bạc Khao Lan, ngọn đỉnh Phi Mã Yên cao 1980m đẹp lồng lộng, hung vĩ, đầy kỳ hoa dị thảo, chim kêu vượn hú véo von, cũng chẳng thấy chi khác lạ! Len lỏi quan sát hồi lâu, Võ Minh Thần cầm cả hai cái vòng điểm huyết giơ cao lên, vẫn không thấy chuyện lạ chi xảy ra, chàng trai bèn bảo mọi người:
– Thế thì ngọn cao nhất đúng là ngọn Phi Mã Ác Sơn rồi! Chúng ta lên Phi Mã Ác!
Cả bọn lại quay về thạch thất, Võ Minh Thần ngỏ lời cáo biệt. Vị chúa Pi A Ya bảo:
– Lão phu vừa độn quẻ Lục Nhâm thấy ứng nhieu chuyện lạ! Công tử cùng quý vị đi chuyến này có khi phải cần dụng lực các miệt sơn lâm, hiệp quái nhân, dị vật sục sạo rất dữ, lão phu tiếc phải ở lại trấn động thất không tiễn chân quý vị được! Nay xin để Bạc Khao Lan đem một toán quân theo phòng có việc dùng tới.
Võ Minh Thần sợ phiền sức Pi A Ya, muốn đi âm thầm nhưng khi cả bọn thấy quẻ lạ nên Minh Thần phải để Bạc Khao Lan đi theo.
Nàng nữ chúa được theo giúp Minh Thần mừng hết sức, vội chọn quân thiện chiến, có thầy mo mụ ké chỉ huy! Lại đem theo một bầy thú binh hồng cẩu quẩy, mấy con ó đưa thư…
Đó rồi, tất cả bái biệt vị chúa Pi A Ya, lên đường đi Pi Mã Ác. Giao Long Nữ cỡi beo đen, Bạc Khao Lan cỡi cọp vằn, dẫn bầy hồng cẩu quẩy đi trước. Thầy mo mụ ké dẫn quân rừng cỡi ngựa đi sau. Bọn Minh Thần đi giữa đoàn người vật dùng thượng đạo xuyên sơn vượt suối băng rừng nhằm phía Đông Nam xế bôn hành.
Đường từ động thất Phi Mã Yên tới Phi Mã Ác nếu dùng lối quốc lộ số bon cũng không sao hết nhưng bọn Võ muốn đi đường kín tới vùng Tĩnh Túc xuyên vút vào sơn lâm Phi Mã Ác, khoảng bốn giờ chiều hôm sau đến vùng thiên hiểm, đứng sau đã thấy ngọn đỉnh Ác Sơn sừng sững.
Bạc Khao Lan, Giao Long Nữ dẫn bầy thú đi trước mở đường, vội dừng lại, đợi bọn Minh Thần lên bảo:
– Miền Phi Mã Ác Sơn này, trước là căn cứ của giặc Cờ Đen kế truyền Lưu Vĩnh Phúc! Sau Chúa soái Cờ Đen là Đông Quân bỏ đi, con gái là nàng Ngân Sơn Long Nữ Võ Thiên Kiều cùng em là Như Kiều đem quân Cờ Đen rút theo chồng là trai Phan An Lê Thái Dũng. Nhưng nghe đồn sào huyệt này vẫn yểm đầy lôi phục, cạm bẫy, nên suốt bao năm, không kẻ cường sơn thảo khấu nao dám tới chiếm cứ! Chẳng rõ nay đã có bọn nào chưa?
Minh Thần gật đầu, vẻ thắc mắc:
– Đúng thế! Nhưng có lẽ quan binh đã triệt hết rồi chăng? Nam Khấp lên tiếng:
– Không có chuyện đó đâu! Bọn tướng Tây trước có chịu ơn Thái Dũng nên có ý để mặc căn cứ bí mật đề phòng sau có ngày họ trở lại! Năm gần đây hình như có một hai toán giặc cỏ nhờ nương náu tại Pi A Uác, nhưng không dám chiếm cứ vùng cứ địa chính khu ngọn đỉnh này!
Bọn Minh Thần hội ý nhau tính cách lên núi, Đông Tửu bảo:
– Tốt hơn hết, ta nên cho dàn tuyến dưới này, còn mấy chúng ta dùng khinh công vượt lên! Nếu có chuyện gì, cứ lấy tuyến phục đây làm đích độ.
Ai nấy tán đồng! Đó roi, Bạc Khao Lan lập tức phất cờ bầy trận dưới chân Pi Mã Ác, án theo thế tam giác liên hành, cho sĩ tốt mai phục, dấu tung tích. Xong bọn Võ xuống ngựa, thú, dùng thuật bôn hành khinh thân vượt qua đồi núi, nhằm ngọn Pi A Uác leo lên. Giao Long Nữ dắt beo đen theo. Bạc Khao Lan dắt cọp vằn và đôi cẩu quẩy tinh khôn nhất, với một cặp chim thư. Vách đá cheo leo, nhờ cả năm đều tay cao thuật đăng sơn, khoảng hơn năm giờ chiều đã lên tới khu ngọn đỉnh.
– Ồ đẹp! Cảnh trí bồng lai! Vừa vọt lên triền đỉnh, cả mấy người cùng bật kêu thích thú, vì trước mặt họ hiện ra một cảnh trí thần tiên như trong những bức tranh thủy mạc Tàu! Trời về thu, nắng hanh vàng lung linh chiếu xuống các ngọn Pi A Uác nhấp nhô trùng trùng như thếp vàng diệp, trên khu đỉnh này vụt mở ra một lòng chảo rộng coi như cái đài sen, mọc đầy kỳ hoa dị thảo. Bọn Võ lúc này đã theo lên triền xế Đông Nam vượt lên, đứng thành triền nhìn vào, thấy một vùng liễu rủ thướt tha, cách đấy khoảng hơn một trăm thước, ngoài vùng liễu mọc, hoa cỏ cây lá xanh um mơn mởn, ngọn đá nhấp nhô đột khởi, trăm hình trăm vẻ. Điểm đặc biệt của các rặng núi thượng du xứ Bắc là đá pha đất. Kể như ngọn Pi A Uác này triền trên có khoảng nhiều đất nên cây cối cỏ hoa tốt lạ. Nhìn mấy phía có thể thấy toàn cảnh Phi Mã hàng trăm ngàn ngọn thấp hơn nhấp nhô tận cuối trời, trông về hướng Bắc Tây Bắc “đài sen” là khu đỉnh cao nhất trong nắng, hình thù sừng sững như quái tượng.
Chợt Giao Long Nữ vụt trỏ vào trong bảo mọi người:
– Coi kìa! Trong rừng liễu có bóng nhà cửa.
Ai nấy chú mục dòm theo, quả thấy giữa nền lá rủ xanh thấp thoáng có một vài khoảng mái tranh hình nhà gỗ coi rất thơ mộng. Nam Khấp trầm lời:
– À đây chính là khu soái đỉnh của hai cha con Đông Quân kế truyền giặc “Cờ Đen” Lưu Vĩnh Phúc xưa! Khấp này nghe nói nàng Ngân Sơn Long Nữ Võ Thiên Kiều trước đây ở “liễu dinh” trên ngọn Phi Mã Ác với đám nữ binh thủ túc, chắc chỗ này đây.
Giao Long Nữ bàn vào xem, Minh Thần gạt đi bảo:
– Dinh liễu tuy bỏ hoang, nhưng chắc có nhiều lôi phục cạm bẫy, chất độc! Ta cứ lên đỉnh ngọn đàng kia thôi! Chàng dứt lời, bỗng thấy từ đâu bay vù lên một bầy diều hâu hơn chục con lượn trốc núi rồi sà qua vùng dinh liễu, bay chếch trước mặt năm người.
Chợt từ trong rặng liễu bay vọt lên một bầy dơi, con nào con nấy mình to như heo giống, cánh xòe dài hơn thước, lao xé vào vây cắn bầy diều hâu. Diều hâu thấy dơi dữ bỏ chạy xé xé về nẻo ngọn đỉnh xế Tây Bắc, lũ dơi, dơi ngô đuổi vút lên tận thinh không, bỗng lại thấy một bầy hang trăm con chim rao cắt, chèo bẻo, ó từ sau núi bay vút lên đánh nhau lộn bậy, lẫn vào mây chiều.
– Dơi dơi thấy nhà hoang tới làm tổ… hay dơi dơi có chủ?
Giao Long Nữ bảo:
– Chim quái, dơi dơi có Hấp Huyết Quỷ Nương? Hay ta vào thám thính?
Võ Minh Thần lại gạt đi:
– Mình không có nhiều thì giờ! Ta cứ việc ta, chừng gặp kẻ nào gây sự sẽ đối phó.
Ai nấy cho là phải. Bèn nương ghềnh đá, cỏ cây, theo thành triền men vòng từ mạn Đông Nam lên Tây Bắc. Lát sau đã tới khu ngọn đỉnh. Đỉnh Phi Mã ngửi trời, cao lớn sừng sững hướng Đông có một cửa hang hình đầu sọ người nhe nanh, coi hết sức quái gở.
Ngoài cửa có một tấm lưới thép trùm kín treo tấm bảng đen và hình sọ người ống xương chéo kèm hàng chữ “Cửa khẩu Khô Lâu sọ dinh kỷ niệm của Đông Quân Phi Mã! Nguy hiểm! Không nên lại gần!”
Nam Khấp bảo mọi người:
– Bảng kia không phải của Cờ Đen treo! Chính tướng Tây quỷ De Monstre và Tây thấp De la Tour treo đó! Trước đây mấy viên tướng Nhà nước này không diệt nổi giặc Cờ Đen sau lại thành ân tình. Cờ Đen rút đi, Tây De Monstre sai đề biển, để kỷ niệm ngày “bất chiến tự nhiên thành”, vừa có ý bảo tồn cứ địa! De Monstre vốn tay túc trí, bao giờ cũng tính chiếm long người trước khi chiếm đất! Tây Gầm nay cũng theo lối đó!
Minh Thần bàn với mọi người, không vào khu “cửa khẩu” Khô Lâu, theo ghềnh đá vượt lên ngọn đỉnh. Gọi là đỉnh nhưng lên trên rất lớn, có nhiều ngọn đá, mây chăng, nắng nhiều, tít mù cao, gió lộng vù vù, như đứng trên mây bạc.
Bốn bề hoang vắng, vài tiếng chim kêu, bọn Minh Thần trèo tận đỉnh ngửi trời nhìn bốn phía chẳng biết ông Bành Tổ để vòng càn khôn đâu cả!
Ngọn đỉnh nui Phi Mã Ác này vươn cao, chạy chếch về phía Bắc, trải rộng về Tây, sừng sững nhiều mỏm ngút mây, hùng vĩ câm nín như ngậm kỹ cả bí ẩn càn khôn.
Vách đá nhiều chỗ dựng đứng, năm người phải men tứ phía kiếm thế vượt lên. Tới đỉnh chót vót, đã năm giờ chiều. Trên cao gió lộng vi vu, cả bọn sục quanh, chỉ thấy đá, rêu hoa cỏ, vài giống chim lạ chỉ bằng ngón tay cái, lông đỏ chót như gấc chín, hoặc xanh biếc như gấm lan. Thấy người, chúng bay rào rào kêu rất vui tai. Chẳng thấy chi khác!
Đang bàn bạc, bỗng nghe vẳng đâu đây có tiếng rú dị kỳ, lẫn nhiều tiếng lạ không hiểu tiếng gì. Ai nấy lắng tai, nhưng tiếng dị lại tắt, cao sơn chỉ còn tiếng gió vù vù.
Đông Tửu đứng nhìn quanh, ngẫm nghĩ:
– Ông Bành Tổ chỉ bảo để trên ngọn núi cao nhất phía mặt trời mọc… lại bảo phải có hai vòng trong tay đã… Có nghĩa gì? Hai cái vòng trong tay, chuyện này tất phải hàm ý chi đây?
Bèn bảo Võ Minh Thần, Giao Long Nữ lấy vòng ra. Đông Tửu cầm chập cả hai cái vào tay trái, giơ cao trốc đầu, cũng chưa biết tính sao, chàng ta toan lên tiếng gọi “vong linh Bành Tổ” xem có gì lạ không, nào dè thình lình từ trên mây, từ dưới triền um tùm bỗng có hai ba con dơi, chèo bẻo nhỏ nhat tề xẹt bắn lại, mổ người! Chúng lao như tên bắn, chớp giật, giữa lúc Đông Tửu đang mải ngó đâu đâu, may sao Bạc Khao Lan lúc đó đứng phía sau, cặp chim thư đậu trên vai nàng nhác thấy cùng lao vụt lên chặn mấy con quái kia. Bạc Khao Lan giật mình hô “coi chừng nó đoạt vòng”, Đông Tửu phản ứng nhanh như điện, đảo vụt tay rùng xuống! Vừa đúng khi mấy con quái xẹt sát ngón tay, chim thư vút qua mổ trúng một con dơi táp bên tai Đông Tửu!
Coong… coo… oong! Mấy con quái liều lĩnh đảo xẹt quanh tay Đông Tửu làm chàng trai vội đảo lia, tay kia chụp véo trúng một con dơi quật xuống, bọn Minh Thần kịp thời xuất thủ, chém lìa, cả mấy con đứt đôi rớt xuống vực muôn trượng. Thuận tay, cả bọn chém vớt loằng ngoằng một vùng đất rộng, đứt bay mỏm đá, cành cây. Đông Tửu hô “dừng lại”, vùng hỏi:
– Có ai nghe tiếng “coong coong”, không phải chim dơi kêu?
– Không phải! Tiếng phát ra lúc người bạn trẻ đảo tay vòng! Nam Khấp vừa dứt, Đông Tửu thử cầm gõ nhẹ vào mỏm đá, phát ra tiếng cạch bình thường. Bèn cầm hai cái vòng gõ vào nhau, ai nấy sửng sốt thấy vòng phát ra những tiếng “coong coong” như cồng khua lenh giọng, vang tứ phía, vọng âm chuyển. Gõ luôn trận nữa, ai nấy thêm ngạc nhiên, nghe rõ một tràng coong coong, tít ngọn đàng kia, cách ngót trăm thước âm vang như có ai khua cồng đồng! Ai cũng lấy làm lạ. Đông Tửu bảo:
– Xưa nay, rặng núi nào có hang hốc mới có vọng thanh! Ngọn đàng kia có tiếng vang chắc phải có hang hốc. Xưa nay chưa từng thấy ngọc thạch chạm nhau mà lại phát âm thanh to kỳ đến thế, tất trong phải có tác dụng! Có khi đo là đầu mối dẫn đến chỗ để vòng, nên Bành Tổ mới bảo phải có hai cái mới lấy được cái thứ ba! Ta cứ lần tới xem sao!
Ai nấy khen phải. Cả năm tiến về hướng vòng thanh, cọp vằn beo đen, cẩu quẩy vẫy đuôi chạy trước. Mấy con thú này leo núi rất giỏi nhưng thỉnh thoảng gặp chỗ dựng đứng quá cao, bọn Võ vẫn phải đỡ chúng. Mấy con thú đi trước được một quãng, bỗng nhất loạt quay lại kêu “hi hí”. Cả bọn ngạc nhiên vượt lên coi, mới hay ngọn đỉnh chỗ bị cắt ngang bởi cái vực sâu hút, dài ôm cả ngọn, chiều rộng miệng vực hơn chục thước.
Bạc Khao Lan, Giao Long Nữ bảo thú đứng lại đoạn cả năm rút chân nhảy vọt qua ngọn bên kia coi rất lạ vươn dưới vực lên như con quái ngóc đầu nắng chiều soi lấp lánh xanh biếc màu rêu.
Đông Tửu lại cầm hai cái vòng gõ vào nhau kêu “coong coong” lập tức ngọn núi vọng thanh “coong coong” xế bên hữu, chỗ phát tiếng vang cao khoảng ba bốn thước. Nhưng trông lên chẳng thấy hang hốc chi cả. Đông Tửu nhảy lên, vừa khua vòng vừa quan sát nghiêng tai, chợt nói vọng xuống:
– Lạ lắm! Chỗ này không có hang hốc, sao vọng thanh lớn đến thế. Nghe như… sâu lắm!
Võ Minh Thần nhảy lên xem, rút cây súng cối thổi một tràng âm “thiết pháo khẩu”, Nam Khấp cũng lấy kèn thổi, âm thanh dập nát nổi ầm ầm, tiếng vang càng lớn, sâu hút.
Ai nấy còn đang lấy làm lạ, bỗng Giao Long Nữ chợt thấy mấy khóm cây nhỏ kẹt đá tự nhiên lay động nghiêng ngả, cô gái vùng kêu:
– Coi chừng… núi lở!Hai chàng giật mình ngược nhìn, nhảy vèo xuống. Cả một khoảng núi bằng cái chiếu lay động dữ, cây cỏ khua rào rào, cả bọn vội nhảy sang bên tránh, nhưng kỳ dị thay! Núi không lở mà lại lắc lư, cây cỏ bỗng quay tít như chong chóng. Kịch kịch! Đá chạm đá âm vang nặng chịch, đá vụn rớt tung tóc, năm người trố mắt dòm cảnh quái gở, bất thần cả một khoảng đá biếc cây cỏ vừa quay vừa lừ đừ chui tọt vào ruột núi! Gừ… ừ… ừ! Gừ… ừ! Có tiếng gầm hú cực kỳ dữ tợn phát ra, kịch rào! Một tảng đá cây biến mất, sịch hiện ra một khung cửa tò vò lởm chởm. Ai nấy cùng kêu “ồ lạ chưa”. Giao Long Nữ vừa nhảy vọt lên ghềnh đá, bỗng giật thót mình nhảy vội xuống. Từ trong khung tò vò vụt ló ra một cái đầu thúng cái rồi cả hình thù nhô ra đứng sừng sững giữa cửa tò vò! Hai con mắt hình quái sáng tựa đèn pha, trán dô, mồm ngoác, nanh chìa, cao độ một thước sáu, tay chân như cột nhà, lông lá xồm xoàm màu bồ hóng, mình to như cánh phản coi mười phần quái gở nhưng nhác qua au cĩng nhận ra quái thú giống loài đười ươi, chỉ khác coi nó có hình vuông hơn, “cổ” hơn nhiều! Trong bọn năm người có Đông Tửu là kẻ uyên bác nhất, thạo về vạn vật học khảo cổ, vừa nhác bóng quái thú đã kêu khẽ sửng sốt:
– Chà! Đười ươi thời tiền sử còn sót lại! Đười ươi hiện nay đã biến qua nhiều thế kỷ? Đây chính giống đười ươi thời khuyết sử, đúng hình bộ xương người ta đào được!
Lời vừa dứt, bỗng thấy con đười ươi gầm rống lên, quơ giật rắc một tảng đá lớn, ném thốc xuống! Mọi người nhảy xé ra xa, sức ném mạnh quật xuống đất đến “ình” một cái như sấm nổ, cả tảng đá tan như cám bắn tóe mấy phía như đạn vãi! Ai nấy lè lưỡi, trước sức khỏe của đười ươi khuyết sử, nó quơ luôn tảng nữa toan quăng, Giao Long Nữ định rút sung bắn, Đông Tửu gạt đi, miệng hô “chớ vận động”, tay rút vòng giơ cao gõ “coong coong”.
Coong coong! Âm dị nổi lên, con đười ươi quái dị kia tự nhiên đứng im, trố mắt dòm tay vẫn ôm một tảng đá lớn. Đông Tửu giơ cao vòng, gõ nữa. Võ Minh Thần thấy thế, chợt nghĩ đến dị thuật đã học được của Pi A Ya, Thanh Âm động, bèn tiến lại, đứng cạnh Đông Tửu, ngửa mặt thử dùng tiếng đười ươi nói vọng lên:
– Vòng Bành Tổ! Vòng Bành Tổ Lĩnh Nam đây! Bọn tôi theo lời dặn của Tổ tìm đến đây! Phải đười ươi giữ vòng của Tổ.
Con quái vật bỗng nhe răng cười như nghiêng tai cố hiểu nhưng có lẽ thứ tiếng đười ươi của Minh Thần học được chỉ là tiếng đười ươi ngày nay còn con đười ươi kia là giống còn sót lại từ thời cựu thạch khí, hỗn mang chi sơ, nên nó không hiểu hết. Tuy vậy, coi mặt nó cũng bớt dữ hơn trước. Giao Long Nữ cũng vọt tới dùng tiếng đười ươi gọi, tự nhiên con đười ươi vừa thấy mặt nàng, nó nhe răng cười rú lên một tràng, buông rơi luôn tảng đá! Thì ra cô gái mang mặt Dạ Xoa có cả nanh chìa coi lại giống nanh đười ươi tiền sử, nên nó thích chí, và nó vụt luôn vào trong, bỗng lại thấy hai ba cái đầu đười ươi ló ra, rồi lại thụt vào.
Bọn Minh Thần nghe tiếng hú rú ầm ầm trong ruột núi, rõ ràng trong đó có hang sâu. Đông Tửu đứng mươi khắc không thấy gì lạ bèn hô lên
– Cửa mở, trong tất có sự lạ, bọn ta cứ vào thôi! Sửa soạn đuốc cho đủ! Bạc Khao Lan cho hay đã dự bị đâu đấy, rún mình nhảy vọt lên cửa tò vò, dòm vào. Hang thước thợ, chỉ độ hai sải, không thấy đười ươi đâu cả. Đông Tửu trao cặp vòng cho Võ Minh Thần, bảo Giao Long Nữ tiến lên, cả bọn đốt hai ba cây đuốc chui luôn vào cửa tò vò. Vừa vào khỏi đoạn thước thợ, bỗng cả bọn hoa mắt vì màu xanh xanh đỏ đỏ lập lòe sáng rực dưới đuốc. Nhìn kỹ mới hay phía trước là một hang loe rộng ăn chúc xuống, một khu hang toàn đá xanh điểm huyết đẹp như trong cac chuyện thần kỳ thủơ xưa.
– Ồ! Hang ngọc thạch! Ôi chao! Cả một hang ngọc điểm huyết! Kho tàng vô giá! Chắc ngọc làm vòng Bành Tổ lấy tại đây?
Đông Tửu kêu khẽ, cả bọn tiến vào từng bước dè dặt. Đúng là hang ngọc thạch trong suốt núi, ánh đuốc bập bùng, càng vào, hang càng loe rộng ăn xuống mãi. Nhưng có điều lạ là hang ngọc thạch tuy sâu mà không lạnh giá, càng xuống càng ấm, đường thoai thoải ghềnh nhấp nhô.
Được khoảng năm mươi thước, bỗng “phì phì” có tiếng thở do nước quậy, vách tả, vách hữu vụt nhô lên năm sáu cái đầu rắn to lớn có mào, mắt như đèn pha dòm mọi người, coi thấy ghê!
Mình rắn trầm dưới vũng nước, chỉ nhô vài gang cổ như có cột, tưởng chỉ đớp một cái đã nuốt chửng cả người như không.
– Mãng xà tiền sử! Giống rắn lớn có mào này đã bị tiêu diệt đây chắc giòng giống sót từ thời Bành Tổ! Cứ đi! Đông Tửu giục cả bọn cứ thẳng vào, mấy con mãng xà khổng lồ chỉ le lưỡi thở phì phì, không làm dữ. Vừa qua chỗ vụng rắn, bỗng thấy một bầy sáu bảy con đười ươi lớn, nhỏ, lừ lừ đi ra.
Mọi người đứng lại, thủ thế ngầm. Minh Thần giơ cặp vòng, bầy quái vật cũng nhe răng như cười, đứng dạt sang hai bên, một con quay mặt đi vào. Coi chúng không tỏ vẻ hung tợn chi cả, ai nấy yên lòng đi theo.
Vào sâu chừng năm mươi thước nữa bỗng gặp một lòng hang loe rộng, rải rác có nhiều ngách thạch bàn mọc đầy, thạch nhũ dị hình. Đười ươi tiến lại một ngách.
Ai nấy dòm vào thấy một hình thù cổ quái nằm trong, vẻ tự nhiên người ta nằm ngủ. Chợt hình này bò nhổm dậy, quay mặt ra, đứng cửa ngách dòm mọi người.
Khủng khiếp lạ! Vì đó là một người cao hơn hai thước năm tấc như người khổng lồ, tay chân, mặt mày đều có lông, người cổ quái này chỉ quấ quanh ngang bụng một mảnh vỏ cây mềm thay quần áo, hình người coi vuông vuông, mặt thật dữ, có nanh, tay có vuốt nhưng đến ánh mắt cử động lại hết sức hiền lành.
Cử chỉ người cổ quái này có vẻ chậm chạp, nhưng dưới ánh mắt tinh đời sẽ nhận ra đó là sự khoan thai súc tích của một kẻ có sức mạnh kinh hồn.
Đười ươi tránh sang bên cửa ngách. Người cổ quái đứng nhìn bọn Võ Minh Thần. Tia mắt thoáng chiếu tia hung tợn lạ thường, nhưng chỉ mấy khắc, nhìn vào đã thấy dịu hẳn, tuy sáng như điện, nhưng toát ra ánh nhu hòa thân thiện hết sức.
Cả bọn đứng nhìn người cổ quái khoác “khố vỏ cây” đi ra, chưa ai biết cử động sao cho tiện nên tất cả cùng đứng yên. Trong thoáng giây thông cảm gốc nguồn cách biệt thời gian xa lắc, chàng bác học Đông Tửu vùng bảo mọi người:
– Đây chính giống người tiền sử Lĩnh Nam còn lại sống trong hang đá! Đây là con cháu Bành Tổ tức Thủy tôn Bành Tổ dầu đã truyền giống qua bao thế kỷ nhưng thủy tôn này sống lâu hơn kiếp sống ngoài đời, đối với loài người hiện nay, người van thuộc hàng tổ tiên thúc bá, mau làm lễ ra mắt thủy tôn!
Lời vừa dứt, cả bọn Minh Thần lập tức cùng Đông Tửu phủ phục luôn xuống nói lớn:
– Con cháu ngoài đời xin ra mắt Thủy tôn! Cơ duyên màu nhiệm, con cháu không ngơ còn gặp được Thủy tôn Lĩnh Nam trong hang sâu, xin chúc Thủy tôn mạnh giỏi!
Người cổ quái đứng dòm bọn Võ và lừ đừ đi ra, cái đầu cao đội trần hang, người cổ quái thò tay nắm vai áo cả bọn kéo lên dòm chòng chọc.
Người cổ quái bỗng phát ra một tràng tiếng ồm ồm cộc ngắn, nghe như tiếng voi gầm, cọp rống vang trong hang sâu, chẳng khác tiếng chày vồ đóng lỗ tai, làm cả bọn đều ngạc nhiên. Nhưng chẳng ai hiểu người tiền sử nói gì, kể cả Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Bạc Khao Lan. Ba người vẫn hiểu được ám âm loài vật. Cả năm theo đà kéo của người tiền sử cùng đứng dậy, đúng năm người “chim chích” đứng trước “ông khổng lồ”.
Võ Minh Thần giơ cao hai chiếc vòng, vận dụng công lực nói đại:
– Phải “người” là Thủy tôn Bành Tổ nối đời sống trong hang đá xanh, giữ bảo vật của Bành Tổ? Bọn chúng cháu đây cũng là cháu chắt Bành Tổ ngoài đời, theo lời Bành Tổ khắc trên vách Pi A Ya, lần tới tìm chiếc vòng thứ ba! Xin “người” chỉ cho chỗ để vòng!
Hình như người cổ quái cũng không hiểu tiếng nói của người hiện đại, nhưng xem chừng người tiền sử cũng hiểu ý bọn “người chim chích”, ông ta nhìn hai cái vòng trên tay Minh Thần, rồi lại nhìn đám người chòng chọc vẻ tò mò lại.
Bỗng ông ta thò luôn tay giật phắt cái răng nanh chìa ra ngoài mép Giao Long Nữ!
Răng này vốn là răng giả nên ông ta vừa giật đã tụt ra. Giao Long Nữ giật thót mình, chợt cả bọn thất kinh thấy người tiền sử rống lên mấy tiếng, thò tay chụp lấy vai áo cô gái. Phản ứng tự nhiên, cô gái vội xoay người tránh, xẹt lùi lại, người tiền sử thò tay vồ người khác! Đoán ông ta nổi giận, cả bọn vội nhảy lùi. Đông Tửu nhanh trí hô:
– Bọn ta đeo mặt nạ làm Thủy tôn ngờ ma quái đó! Phải gỡ hết mặt nạ ra! Cả bọn lật đật theo lời, lột mặt lốt hóa hình để lộ ra năm khuôn mặt thực, gồm một già, bốn trẻ, mặt đẹp hơn người, đứng ngó người tiền sử. Ông ta gầm gừ, trố mắt thau dòm năm bộ mặt khác, vẻ nghi ngờ gia tăng, ông ta rống lên một tràng, lập tức từ mấy ngách hang có ba bốn người tiền sử và một bầy đười ươi to lớn lừ đừ đi ra vây lấy năm người. Gừ gừ phì! Bỗng lại nghe tiếng vật kéo lê quật nền hang, ai nấy trông quanh sịch thấy bốn năm con mãng xà khổng lồ nữa từ ngách vụng khe sâu trườn mình lên to như khúc gỗ, đầu cổ giương mắt đèn pha xanh biếc vắt khúc lai gần. Thất kinh, cả bọn dạt quanh chưa biết tính sao trước chuyện đột biến nguy hiểm. Giao Long Nữ hô “đánh tháo”, Minh Thần hô “chớ vọng động”, Nam Khấp thấy nguy, rút luôn kèn ra, thổi một tràng. Giọng kèn Nam Khấp xưa nay vốn khét tiếng thê lương, có sức lôi cuốn như ma, thú điểu nghe còn bị đảo lộn tâm thần, vật mình cấu cổ, âm thanh lại vốn là “tiếng nói” cầm có thể “đi” vào tâm hồn đủ loài động vật nên quả nhiên, khi tiếng kèn Nam Khấp trỗi lên, cả đám người tiền sử cũng ngẩn mặt ra, không dám gam rú nữa, cả đám đứng ngây như bị âm điệu thê lương chìm nổi thôi miên, chẳng ai buồn làm dữ nữa!
Đông Tửu thấy tiếng kèn có hiệu quả tốt không ngờ, bèn sực nhớ ra, vội ra hiệu cho Nam Khấp hạ nhỏ âm thanh, đoạn hướng vào người tiền sử Chúa hang sâu, vừa làm điệu bộ, vừa từ tốn bảo:
-Thủy tôn thấy con cháu hai mặt, thủy tôn ngờ ma quái, phải không? Hai cái vòng kia, cả thiên hạ tranh nhau, giết nhau, cướp đoạt, bọn cháu đây phải đeo mặt giả để cường địch khó nhận ra đó thôi!
Chẳng biết người tiền sử có hiểu không, chỉ nghe ông ta lại rống lên mấy tiếng chói tai, mắt nẩy lửa. Đông Tửu lại sực nghĩ:
-Thủy tôn sống nối đời trong hang sâu một núi, rất khó hiểu tiếng nói, bộ tịch người hiện đại! Tại sao ta không thử diễn ý theo lối chữ tượng hình của ông Bành Tổ? May ra Thủy tôn hiểu được.
Thật không ngờ, vừa nhìn xuống những hàng chữ lối tượng hình này, người tiền sử vùng gật đầu, nhe răng cười, đưa tay vẫy đám kia lại gần, trỏ chữ, nói ồm ồm một tràng, tất cả dòm, cũng gật đầu lia lịa! Thì ra đám người tiền sử này hiểu được lối chữ tượng hình của Bành Tổ Lĩnh Nam.
Nghĩ làm liền, Đông Tửu lấy trong sắc ra một cục son đỏ chót bảo đồng bọn căng mảnh bìa cứng, thảo luôn một hàng chữ theo lối tượng hình diễn ý của Bành Tổ, đoạn cầm tờ bìa đến trước mặt người tiền sử, trải rộng ra cho ông ta dòm.
Bọn Võ Minh Thần mừng hết sức, bỗng thấy đười ươi, rắn lảng đi hết. Chợt người tiền sử Chúa hang thò tay nhón cục son của Đông Tửu và giật luôn tấm bìa, vạch lia lịa liền mấy hàng. Nét thảo đẹp lạ thường, chứng tỏ ông ta vẫn thường viết hàng ngày.
Đoạn trao bìa cho Đông Tửu, Đông Tửu coi, cũng hiểu ngay ý ông ta định nói. Trong hang sâu ruột núi cách biệt cuộc đời, bỗng diễn ra một cuộc bút đàm hết sức kỳ thú. Cứ mỗi câu, chàng bác học lại giảng cho bọn Minh Thần nghe:
– Bọn ngươi ở đâu? Sao tìm được tới chỗ này?
– Thưa, chúng cháu năm người đều dân Lĩnh Nam, tìm được đến đây là nhờ lời lưu truyền của Bành Tổ khắc trên vách hang Pi A Ya, Bành Tổ có dạy: muốn lấy cái vòng thứ ba, phải có hai cái trước! Thưa! “người” là cháu chắt chính ngành của Bành Tổ?
– Đúng! Ngành ta là ngành nội, theo lệnh Bành Tổ, sống trong hang sâu, để giữ lại giòng nguyên thủy khỏi biến đổi vì nếp sống ngoài đời, và để giữ di vật của Tổ lưu lại cho hậu thế!
– Thưa ngành chính thống của Thủy tôn sống được bao lâu?
– Chừng hai trăm năm trở lên, ai khỏe nhất sống hơn ba trăm năm! Như ta đã hơn ba trăm tuổi!
– Người theo phép trường sinh của Bành Tổ? Đông Tửu quay sang bảo mọi người:
– Thủy tổ sống hơn hai trăm năm rồi, mãng xà kia ít nhất cũng năm sáu thế kỷ, nhưng không phải theo thuật trường sinh của Bành Tổ.
Thủy tổ có ý bảo: trí khôn giết mòn cơ thể vì không sinh hoạt nhiều, các cơ năng phát triển yếu kém dần, do đó cơ quan trong mình, cái nào ít dùng tới sẽ biến đổi dần, có khi mất hẳn! Cứ theo đà sống này, tuổi thọ của loài người sau này sẽ vào độ trung bình hai mươi tuổi!
Nam Khấp kêu lên:
– Ôi chao! Đời người trăm tuổi đã gọi phù du, hai mươi tuổi thì đúng là gió thoảng!
– Phải rồi! Người, vật thời hồng hoang khuyết sử, cực thạch khí đều “khổng lồ”; người, vật nay đều nhỏ bé cả. Qua mỗi thời đại, động vật lại biến đổi hình thù tùy theo cách sống! Có lần người ta đào được bộ xương người thuộc hình thù vuông, giờ lại bầu dục! Người ta đào được xác người Tiền Hán cao tới hai thước ba gần bằng ông Thủy tôn này. Lần khác được xác con ngựa vằn dài như con sào, xác con ma mút (voi khổng lồ thượng cổ) nằm dưới lớp băng Bắc cực, to bằng tòa nhà! Đủ biết, càng ngày các giống càng nhỏ đi, khi cơ thể kém vận động dần! Như giống hươu cao cổ miền rừng núi già Châu Phi vì phải ăn lá trên cao, cái cổ hóa dài. Xưa con người có vuốt, có nanh chìa, để nhai thịt sống chống thú dữ, nay vuốt mềm xèo, nanh co rút mất đi, vì đời đời ăn thịt chín mềm, đã có giáo mác cung nỏ, súng ống thay cho vuốt, vuốt nanh biến đổi dần. Cứ nhìn ông Thủy tôn đủ rõ! Mình thấy hình thù ông trông cổ quái lạ đời vì có nanh vuốt, thân xác khổng lồ, ông thấy mình chắc tưởng… ma quỷ vì bé nhỏ không nanh vuốt!
Giao Long Nữ cũng phát cười rộ:
– A! Nếu vậy cứ cái đà này, con cháu ta về sau chắc đầu bằng cái thúng mà thân hình gầy guộc như cái ống sậy mất thôi! Vì càng khôn, óc càng nở lớn, thân thể khẳng khiu! Nhưng sao con đười ươi kia chẳng khôn gì hơn người, mà đầu to thể?
Võ Minh Thần đứng nghe đồng bọn bàn tán. Sợ câu chuyện kéo dài mất nhiều thì giờ, bèn khoát tay cao giọng:
– A cái to đầu, hiền muội vừa nói, lại là cái to đầu… khác, bàn cả năm chưa hết! Nay trời đã xế chiều, được gặp Thủy tôn là may lắm rồi, hiền huynh Đông Tửu nên hỏi “người” vào ngay chuyện cái vòng là hơn!
Đông Tửu gật đầu, lại viết lia mấy hàng chữ tượng hình, diễn đạt ý bằng hình đã mất thời giờ, lại diễn ý theo cách quen dùng của Bành Tổ càng khó hơn, với kẻ khác sẽ lao tâm khổ trí vô cùng. Nhưng Đông Tửu vốn có bộ óc thông minh phi thường, chỉ loáng mắt, chàng ta đã thảo gạch xong, Thủy tôn Bành Tổ dòm hieu ngay, bèn cầm son vạch lại.
– Thưa Thủy tôn, hai người bạn cháu đây sống theo duyên nghiệp, đã kiếmđược hai cái vòng càn khôn của Bành Tổ lưu truyền lại cho hậu thế! Theo bản chúc thơ, Tổ khắc trên vách Pi A Ya, Tổ có dặn để cái vòng thứ ba trên ngọn núi này! Nay bọn cháu đã có phúc lớn được đến hang sâu này gặp Thủy tôn mở lượng cho biết về món đó!
– Trước khi Thủy tôn nằm xuống, Tổ có dặn một ngành phải giữ lấy lối sống hang sâu và nói với nhau giữ vòng cho Tổ, đợi bao giờ có người đem hai cái tới, sẽ trao cho! Cái vòng đó hiện để trên ngọn núi này! Nay các ngươi đã lấy được hai cái, vậy theo đúng lời Tổ dặn, ta sẽ trao cho bọn ngươi! Lấy xong, các ngươi hãy mau mau rời khỏi chốn này, và không được cho kẻ khác biết có ngành Tôn tổ Lĩnh Nam sống trong ruột núi này!
Đông Tửu diễn đạt lại, ai nấy mừng khôn xiết, Võ Minh Thần đưa mắt nhìn lòng hang ngọc thạch chói lòa bảo:
– Thủy tôn dạy đúng đó! Nếu lộ ra, thiên hạ sẽ kéo tới làm ồn, nguyên hang này toàn ngọc thạch đá là một kho tàng vô giá, sẽ gợi lòng tham vô đáy của thiên hạ! Đông Tửu hiền huynh hãy nói cho Thủy tôn yên lòng, bọn mình sẽ theo đúng lời dạy! Nhưng chỉ sợ bên ngọn kia, thấy có dơi dơi chèo bẻo cướp vòng, e có bọn nào bén mảng tới vùng cao sơn này! Mình cũng phải thưa trước là hơn!
Đông Tửu lập lại, vị Thủy tôn cổ quái dòm và rồi cầm lên vạch:
– Cửa đóng lại, chúng không vào được, nếu không biết rõ chỗ nào! Giờ theo ta!
Người tiền sử quay mình đi về phía sau, dáng điệu coi chậm chạp, lừ đừ, ung dung lạ, khác hẳn dáng người đời lúc nào cũng vội vàng hấp tấp như đi… ăn cướp! Trong cái hình dáng thô sơ của người nguyên sử và còn sót lại của người nguyên thủy, Võ Minh Thần như cảm thấy toát ra một chất thanh cao chất phác, thánh thiện… cái hay đẹp tuyệt vời của tổ tiên, giờ càng mất dần vì mải mưu sinh tranh sống! Bỗng sinh lòng hoài cổ. Bọn Minh Thần nhẹ gót bước theo vị Thủy tôn. Hang sâu bỗng mất dần vẻ cổ quái, đám người tiền sử, đười ươi đứng ngó theo, vẻ tò mò hết sức, nhưng lúc này trông hiền lành đặc biệt, khiến bọn Võ Minh Thần có cảm tưởng mình đang sống lùi về thời khuyết sử chi sơ vào chơi một hang đá với người giống người thời đó.
Thủy tôn lừ đừ đi về cuối hang, tới một cái ngách. Đường ngách ăn lên cao. Cả bọn theo Thủy tôn lên mãi. Như thế, quanh co khá lâu, bỗng ngách hang mở rộng bằng hai cái nong, dưới ánh đuốc có hai con đười ươi đứng lù lù.
Thủy tôn ngành Bành Tổ lừ lừ tiến lại gần đười ươi đã to, nhưng người tiền sử Lĩnh Nam coi còn to lớn hơn, cao hơn cả thước tây.
Cử động vẫn chậm chạp ung dung, Thủy tôn giơ một cánh tay lên, phát một tràng tiếng kỳ dị, lạ tai, đến nỗi Bạc Khao Lan, Giao Long Nữ, Võ Minh Thần ba người đều biết ám ngữ loài thú sơn dã giờ lắng nghe cũng chẳng hiểu gì cả. Nhưng hai con đười ươi xem chừng nghe hiểu, cả hai cùng gật đầu to, nhe răng trắng nhởn như cười, và cùng phát tràng tiếng lạ đáp lại.
Đoạn hai con đười ươi khật khưỡng bước lại sát vách đá một hang. Nơi đây có nhiều tia sáng vàng vọt chiếu chênh chếch từ trên xuống làm khoảng cuối hang này trăng trắng đục lờ màu nước hến. Bọn Võ Minh Thần giơ cao đuốc, tiến lại. Đứng sau lưng vị Thủy tôn Bành Tổ, trong lúc hai con đười ươi đưa hai bàn tay lông lá chụp lấy mỏm đá vách. Kịch kịch! Cả một phiến đá nặng hơn ngàn tấn nâng bổng lên, đá dăm đất cát rào rào như núi lở. Bọn Minh Thần trông ra thấy phiến đá rời vách núi, bị lôi dạt sang bên, để lộ ra một khung trời vàng úa thấp thoáng bóng mây vờn cành lá, kỳ hoa. Ánh thái dương ùa vào, mang theo mùi hoa cỏ và tiếng vượn chiều hát véo von. Hai con đười ươi vẫn nâng phiến đá khổng lồ đứng đợi, coi nhẹ tênh. Nam Khấp khẽ bảo mọi người:
– Coi kia đủ biết nhân vật thời thượng cổ có sức mạnh tự nhiên phi thường, không cần lấy gân, vẫn nâng cả tấn đá lên như không! Dù “Lực năng cử đỉnh” của Hạng Tịch xưa xem chừng còn thua xa sức bạt sơn dời núi của đười ươi này!
Bỗng vị Thủy tôn ra hiệu Đông Tửu đưa son, vạch lia lịa.
Đông Tửu đọc giải cho mọi người nghe:
– Vòng Tổ để chỏm núi, có vượn trắng canh giữ! Ta bảo vượn trắng trao cho người thừa hưởng theo chúc ngôn của Tổ! Ai trong các ngươi? Võ Minh Thần vội kéo Giao Long Nữ bước lại. Đông Tửu lại “thông dịch” ra chữ tượng hình!
Vị Thủy tôn vạch lia “Ta cũng không biết Tổ ghi gì trong một vòng, nhưng trao cho người thừa hưởng xong, chúng ta hết sứ mạng Tổ trao! Hai người có duyên lớn mới được “gia tài” của Tổ, ta chúc lành! Hãy theo vượn trắng đi nhận di vật Tổ, từ nay ta với cac ngươi vĩnh biệt ra khỏi đây, hãy coi như gặp nhau trong chiêm bao!”
Đoạn Thủy tôn đặt hai bàn tay hộ pháp lên vai Võ Minh Thần, Giao Long Nữ! Mặt mũi, hình thù người tiền sử coi dễ sợ, nhưng ánh mắt, cử chỉ ông thật khoan hòa biểu lộ tấm lòng “hồn hậu thánh thiện nhân tri sơ” không còn tìm thấy trên cõi đời hiện nay.
Tự nhiên trong một thoáng giây nhanh như tia chớp, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ bỗng sinh hoài cổ mang mang, ngẩn ngơ như đánh rớt vật chi quý báu nhất. Vốn nặng tinh thần huyết thống dân tộc, Minh Thần nghĩ tới biển dâu, hưng phế và nhất là vô cùng băn khoăn về cội nguồn, nay sắp chia tay vị tộc trưởng Lĩnh Nam cổ, chàng trai muốn nói cả ngàn lời, nhưng chẳng biết nói chi trước, bèn kính cẩn sụp lạy, tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng:
– Cây có gốc, nước có nguồn, bấy lâu người cõi Lĩnh Nam vẫn mù mịt gốc nguồn, tưởng ngành gốc chỉ là Lạc Việt! Nay được gặp Thủy tôn, mới hay mình có gốc Tổ Lĩnh Nam, con cháu mừng khôn xiet! Trải vạn năm, dân Lĩnh Nam con cháu đã chịu lắm phù trầm dâu biển, Thủy tôn nối đời sống trong ruột núi chẳng hay Thủy tôn có biết con cháu ngoài đời giờ đã đổi thay tới đâu chăng?
Đông Tửu “thông dịch lại”, ánh mat vị Thủy tôn chợt sâu thăm thẳm, phảng phất như tấm ảnh trời chiều ảm vào ánh mắt sầu kỳ lạ chưa khi nào thấy trên mắt người hiện đại.
– Sau này, các ngươi sẽ hiểu tại sao Tổ khám phá được bí mật càn khôn. Tổ lại nằm xuống, không cưỡng lại luật lửa diệt biển dâu? Giờ hãy đi lấy vòng, trở về đời và coi đây là giấc chiêm bao! Rất tiếc ta sống trong suốt núi hang sâu không có vật gì tặng các ngươi thêm! Vậy trước khi vĩnh biệt, ta tặng các ngươi hậu sinh cái này!
Dứt lời, Thủy tôn dẫn bọn “khách ngoài đời” vào một ngách hang kỳ lạ. Vừa tới đã nghe hàng muôn ngàn tiếng “bùng bùng” như tiếng thiên binh vạn mã di chuyển.
Hang này khét như mùi vôi tỏa, nóng lạ thường như chui vào lò gạch nung! Hang rộng loe như đài sen, giữa có một tảng đá khổng lồ hình thù quái gở hết sức! Nhác trông qua, cũng lượng sơ phải nặng vài tấn. Thủy tôn ra hiệu cho mọi người đứng dạt sang bên, đoạn tay xô mạnh tảng đá khổng lồ dị hình.
Bọn Minh Thần đang đứng ngơ ngác chưa hiểu chuyện chi, bỗng giật thót mình nghe “bùng bùng” rung chuyển lòng hang, tảng đá khổng lồ bị đẩy văng sang bên, để lộ ra một cái huyệt sâu hút, đỏ rực, ngũ giác không đầu coi như hình ngôi sao cắt lệch, và từ dưới “hồng huyệt” có một luồng nhiệt khí xông lên “bùng bùng” như tiếng sấm nguồn. Vẫn dùng lối “bút đàm” pha điệu bộ, Thủy tôn bảo:
– Đây là “khẩu địa môn” trung tâm huyệt tinh cầu này! Khi ngũ hành uyển nhiên tận trong ruột đất kết tụ, vận hành, xông lên, đem mầm sống cho muôn vật, nên gọi là “Khí ngũ hành trường sinh”. Người tắm gội khí này sẽ tăng phần sinh lực, điện lực, khỏe bền sống dai, đỡ bệnh tật… Nếu mỗi con trăng tắm một lần, kể như uống triệu thang thần dược, vì khí này tụ kết tinh hoa ngũ hành, gốc của vạn vật, bản thể tinh cầu! Dưới đó có đá bật, xuống tắm gội đi!
Bọn Võ Minh Than đưa mắt nhìn nhau và cùng bước lại gần miệng huyệt. Luồng nhiệt khí xông lên bùng bùng, ngùn ngụt, tưởng chỉ chạm vào chút có thể… thành than!
Cả năm đều thấy ghê, lòng thoáng ngờ vực, nhưng không ai để lộ ra ngoài, mắt ghé dòm xuống càng ghê, vì lỗ huyệt phía trên đường kính chỉ hơn thước tây nhưng càng xuống dưới càng loe rộng, vách đỏ như hồng ngọc, ánh muôn màu, tầm mắt có thể nhìn xuống sâu hút, không cần ánh đuốc! Đúng một cái “lò lửa”! Nam Khấp kêu:
– Ôi chao! Đúng “hỏa diệm sơn”, “khẩu địa môn” gì mà cái “miệng núi lửa” thế này? Coi không khác cửa huyệt thiêu xác người ta?
Cả năm đứng im, cách lỗ huyệt nửa thước, còn thấy nóng xém mặt mày. Ai nấy đều chờn chợn quay ngó Thủy tôn. Thản nhiên ông ta đưa tay làm hiệu. Võ Minh Thần vùng xắn tay áo, cao giọng:
– Để Võ này xuống trước! Thủy tôn có ghét bỏ gì con cháu mà lại… luộc chín như cám xưa!
Dứt lơi, toan sấn tới, nhưng Nam Khấp đã túm lại, cười lớn:
– Khoan! Để lão mỗ xuống tắm gội trước cho! Nói đoạn, làm liền, Nam Khấp mạnh bạo sấn đến miệng huyệt đỏ lửa. Mọi người nín thở bỗng nghe Nam Khấp la to “Ôi chao! Nóng chết mất thôi!” Ai nấy giật mình, trông vào đã thấy bóng lão chui vụt xuống khuất mất dạng giữa tiếng “bùng bùng” đánh tung cả vạt áo lên cao! Chừng nửa phút, chỉ nghe tiếng “bùng bùng” liên miên, mọi người muốn tắt thở, bỗng thấy Thủy tôn ra dấu cho Đông Tửu gọi lên. Chàng vừa hô “lão tiên sinh” bỗng nghe tiếng Nam Khấp vọng lên xa xăm “Mát dữ! Mát dữ! Ôi chao! Muốn tắm cả đời!” rồi bóng ông già từ dưới bắn vọt lên, quay vòng. Đứng sững mép huyệt, mặt mũi đỏ như chu sa, khí thế ra phần suy mãnh, vẫy tay ra hiệu cho mọi người xuống. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Bạc Khao Lan, Đông Tửu thay phiên nhau nhảy xuống, không bảo nhau, cả mấy người đều cởi phăng áo dưới huyệt. Giao Long Nữ, Bạc Khao Lan chạm hồng nhiệt khí tưởng cháy thịt da. Nhưng chỉ mấy giây đã thấy ấm áp lạ thường, bách huyệt có những tảng đá chìa ra, càng xuống càng mát lạnh nhìn tám hướng năm góc muôn màu lấp lánh, thần kỳ, khoảng ra hố sau, góc cạnh có chỗ ăn sâu vào, ngồi rất tiện. Giữa những tiếng vù vù lùng bùng, càng nghe rõ từ dưới thẳm có nhiều vọng âm kỳ dị siêu phàm. Càng tắm gội càng thấy khoan khoái dễ chịu, nàng cởi luôn xiêm y vận dụng hơi hấp thụ, luồng khí ngũ hành chạm vào da thịt như có chất thần sầu làm da thịt nở nang, tươi mát lạ.
Đang tắm gội sực nghe tiếng gọi, nàng xoa vội lồng ngực cũng đầy sinh lực mặc vội xiêm y nhảy vọt lên.
Cuộc tắm khí ngũ hành dưới “Khẩu địa môn” rất chóng, mỗi người không hơn nửa phút, khi lên, mặt mày da thịt đỏ hỏn như trẻ sơ sinh, nhưng chỉ thoáng qua, lại trở về màu cũ, coi tươi nhuận khác thường không khác Chung Ly Xuân Vô Diệm sau khi được tắm giếng tiên trong thần thoại.
Cả bọn nhìn nhau đều thấy thần thái phiêu phiêu uy mãnh khác hẳn trước và cũng cảm thấy trong mình tràn trề sinh lực, tinh thần cũng minh mẫn lạ thường.
Vị Thủy tôn xô “kịch” phiến đá khổng lồ đậy “Khẩu địa môn” lại, dẫn “khách hậu sinh” ra cửa động đá mở sẵn. Hai con đười ươi vẫn chực hai bên. Thủy tôn bỗng hú lên một tràn véo von nghe hệt tiếng vượn hú. Lập tức có tiếng vượn đáp lại, chừng giây phut bỗng nghe rào cành lá, từ ngoài triền đu vút vào một bóng trắng như tuyết, lớn bằng đứa nhỏ mười bốn, tay dài gần chấm bàn chân.
Bóng trắng tay dài đứng sững giữa cửa động tò vò, giương mắt đen láy dòm mọi người.
Bọn Võ Minh Thần nhìn ra biết ngay là một con vượn lạ đời giống bạch viên vô cùng linh mẫn, hình dạng hao hao giống người và đã bị kể như giống vật thời hỗn mang khuyết sử đã tuyệt diệt chỉ còn lưu lại trong truyền thuyết, thần thoại! Vị Thủy tôn trỏ bọn Minh Thần, nói một tràng tiếng dị, cộc, âm nặng như tiếng thú dữ, bạch viên đưa mắt nhìn từng người, vẻ tò mò hết sức, bỗng nó cúi đầu gật lia lịa như người, trỏ một ngón tay ra ngoài triền, rồi lại trỏ vào hai cái vòng trên tay Võ.
Thủy tôn lại vạch mấy hàng và lần thử mấy vòng, bọn Võ lại có lời từ biệt “nên thơ”: “Theo vượn đi lấy vòng tổ và hãy coi đây như là giấc chiêm bao”! Cả bọn sụp lạy. Đứng lên, lại vái chào mọi “nhân vật” trong động đá xanh, đoạn khom mình chui qua cửa tò vò.
Kịch một tiếng sau hông, mọi người ngoái nhìn lại cửa động đã biến mất như trong ảo giác, chỉ thấy một khu vách dựng cheo leo nắng chiều, mây vờn, đầy kỳ hoa dị thảo!
Ngửa mặt trông lên, mặt trời đã gục sát ngọn núi Tây. Chiều muộn đang đổ xuống mấy vùng Phi Mã Ác Sơn trùng trùng hoang dã như cách biệt cõi đời đến vạn mùa hoa!
Vượn bắn mình lên như hai cái pháo thăng thiên, Võ làm theo. Hạ chân xuống đã đứng trên chỏm núi. Một vùng kỳ thú có năm, sáu cây đào lớn mọc giữa có hoa, tuy đang độ thu trọng, mỗi cây có ba bốn trái mùa, to bằng nắm tay, đỏ tía mong chín coi đẹp lạ. Dưới gốc đào lại có hai, ba con vượn trắng nhỏ nữa ngồi chồm hổm, thấy người, vượn con kêu chí chóe, chạy ùa lại nắm tay áo Minh Thần dòm thao láo có vẻ tò mò hết sức. Bạch viên hú mấy tiếng, vượn con len lén dạt ra, Minh Thần lại bên gốc đào, ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, bất giác nghĩ thầm:
– A! Thiên hạ vẫn đồn nội các ngọn Phi Mã trùng trùng có ngọn đỉnh có đào quý do chim tha từ miền nào mọc lên, hệt giống “Vạn thọ kim đào” miệt cực Bắc Đông Hải xưa mới có, đào này có khi hàng nửa thế kỷ mới kết trái, thật là giống đào quý chẳng khác đào tiên. Ôi chao! Mấy dải Lĩnh Nam không ngờ có lắm quý vật đến thế!
Bạch viên thấy “khách” nhìn đào tấm tắc bèn nhảy vèo lên hái luôn hai trái dúi vào tay Võ. Chàng trai cười tỏ dấu cám ơn bỏ vào bọc.
Cả bọn đứng ngẩn ngơ nhìn ngọn đỉnh có động ngầm của ngành Thủy Tôn Lĩnh Nam chừng mươi khắc đoạn bước theo con vượn trắng dài tay. Vút vút! Bạch viên bám mỏm đá, cành cây đu mình như tên bắn! Bọn Võ vội vận nội công, quăng người theo, như năm cái bóng.
Ngọn đỉnh này triền chạy chếch về hướng mặt trời lặn. Gập ghềnh nhấp nhô chừng trăm bộ, bỗng gặp một miệng vực dài cắt ngang, chiều rộng hàng chín mười thước tây, bên kia vực muôn trượng đứng sừng sững một ngọn núi khác thật dị hình, to lớn um tùm u tịch lạ.
Bạch viên đu trèo qua, bọn Võ vọt theo. Giây phút đã đứng dưới chân ngọn núi dị hình, trông lên, cao chừng ba mươi thước! Bạch viên ra dấu cho riêng Minh Thần đi theo, còn tất cả đứng dưới đợi.
Vách ngọn này dựng đứng, vượn quăng mình lên đỉnh như nhựa. Minh Thần phải dùng thuật “xà hình” bám dán vách mới lên được. Cách ngọn chừng năm thước, chợt gặp một cái hang kín, một con vượn trắng khác vén cành lá, chuyển ra, dòm Võ. Vút vút! Cặp bạch viên dẫn Võ băng qua khu đào lạ, tới một mỏm đá chìa như con ngựa há mõm, nhả nước, vì trong hốc có một nguồn nước chảy róc rách ướt từng phía dưới.
Bạch viên chỉ dẫn Võ tới đây rồi nó ra dấu cho “khách” đứng lại. Cách vài bộ, đoạn nhảy lên “bờm ngựa đá” thọc cánh tay dài như con sào trong mỏm ngựa. Minh Thần hồi hộp đợi, tự nhiên trống ngực đập dồn. Vòng thứ ba, bí ẩn càn khôn, hoàn toàn đủ bộ hy vọng độc nhất để báo thù cho phụ mẫu… Bỗng nghe tiếng khoắng, Bạch viên lôi vụt từ trong mõm ngựa ra một “ánh hào quang” chói lòa xanh xanh đỏ đỏ.
Luồng sáng đứng yên, trên tay bạch viên đã cầm hai cái vòng điểm huyết phát hào quang, còn rỏ nước tong tong! Vòng này gấp rưỡi vòng kia, màu chói lòa nắng quái chiều hôm làm Võ cảm động không cùng đứng nhìn, không chớp mắt.
Chàng vừa kêu “ôi chao, ôi chao, cha mẹ ôi, con tìm được bí pháp báo thù rồi!” lời kêu vừa dứt, bỗng thấy một bóng đen sầm vụt qua mỏm đá. Vẳng nghe dưới chân có tiếng đàn bà quát lanh lảnh rõ giọng Bạc Khao Lan! Con diều hâu lớn từ phía Tây lao tới mổ chiếc vòng trên tay Bạch viên lẹ như chớp! Vận công không kịp, Võ đánh thốc tay rút súng vẩy “đoàng” một phát. Phát súng thần tốc trúng con diều hâu. Cái vòng trong vuốt diều hâu tung bay trước mặt, Bạch vien dòm lên,một con chèo bẻo, một con dơi lớn từ đâu phóng tới cướp vòng. Bạch viên lẹ vô cùng, nó quài luôn tay kia vồ ngay được con dơi quật xuống nát thây, tay cầm vòng đảo vụt, chèo bẻo phóng trượt, đảo lên bị Minh Thần sả luôn một phát vỡ đầu.
– Xuống mau! Bạch Viên! Chàng vừa gọi, lại thấy hai, ba con quái điểu đâm sầm bóng tới vây quanh vượn trắng, may sao lại có đôi ó bay đến tấn công ngăn chặn. Thấy có mòi rối lọan, Võ đứng dưới vừa định nhảy lên, bỗng nghe “vút” gió, nháng hào quang, trông lên, chiếc vòng quý trên tay bạch viên đã bị giật mất! Bạch viên nổi giận xoay mình ngó theo còn thấy ánh vòng sáng vút hình cầu vồng lao vào sâu mỏm đá xế Tây sau “đầu ngựa đá”. Nó đứng xổ dậy quăng vèo mình lại khuất dạng. Võ Minh Thần thất kinh vội cầm súng, nhảy vọt lên chỗ Bạch viên vừa đứng, dòm theo. Cách ba thước, con Bạch viên đứng dòm sững, đàng kia. Cách bảy, tám thước, có một con khỉ đột đứng bên ghềnh đá, tay cầm vòng, nhe răng cười rú, hình thù to bằng người ta.
Dưới ánh nắng chiều hôm, Minh Thần vừa nhìn thấy mặt khỉ đột bỗng giật thót mình sực nhớ lại đêm nọ trên ngọn Tây Phàm miệt Chapa, chàng trai bật kêu:
– Khỉ độc… Độc Ma Hầu trên núi Pon Nam Sao! Nhanh như chớp, chàng đánh vụt tay rút súng. Nhưng lại sợ rớt tan vòng quý, vội buông tay vận điện công đánh vút một cái, Bạch viên đã quăng vèo mình tới chỗ khỉ độc. Bùng một luồng kình khí từ sau ghềnh đá tung ra quật trúng ngực
Bạch viên làm nó sa vụt xuống lảo đảo. Minh Thần vọt lại đỡ vượn trắng, có tiếng cười the thé cất lên:
– Cám ơn! Cám ơn! Hầu về Pon Nam Sao! Bóng khỉ đột khuất sau ghềnh. Bạch viên rống lên, đu vút tới, Minh Thần vọt theo, ba bốn con diều hâu, chèo bẻo, dơi dơi đum xẹt xuống phía sau ghềnh, bỗng nghe tiếng gầm dữ dội, một bóng trắng vọt bong sau ghềnh. Võ Minh Thần đoán có chuyện xảy ra bèn theo Bạch viên nhảy vọt. Tới đầu ghềnh trông về phía tây xế, thấy Độc Ma Hầu đang nhảy trên ngọn đá, cách năm, sáu thước con Bạch viên cái đứng nhấp nhô tay cầm chiec vòng lớn hào quang sáng chói!
– A! Vượn trắng đã giật lại được vòng càn khôn! Coi chừng!
Minh Thần vừa reo. Độc Ma Hầu đã xốc tới chỗ vượn cái, “véo” ánh thép từ tay nó chém xả xuống đầu vượn trắng, vượn trắng lăn vèo mình tránh, chát một tiếng chém đứt mỏm đá nhỏ bắn tung. Bạch viên đực lao tới đánh Độc Ma Hầu. Võ Minh Thần thả vụt liền đao, chém trúng lưỡi thép của Độc Ma Hầu, nhưng nó đã theo đà lao thốc tới vồ. Vượn cái túng thế quăng vút mình ra xa.
Độc Ma Hầu rượt theo, Bạch viên, Minh Thần cũng xốc gấp. Ngọn núi này khá lớn, chạy chếch Tây, vượn trắng cầm vòng, dáo dác muốn kiếm thế chạy lộn lại, nhưng bị Ma Hầu chặn cứng, muốn quăng lại sợ cách xa, bị vồ mất, vượn trắng túng thế phóng thang xuống sườn núi. Loài vượn đu cành chuyền núi vốn giỏi nhất không loài nào sánh kịp. Ma Hầu rượt theo bén gót, còn Minh Thần tuy đã vận khinh công, chuyển cành, đá phóng theo, vẫn không kịp. Chàng chỉ ngại Ma Hầu đánh chết vượn, đoạt vòng, nên mấy phen định bắn, nhưng Ma Hầu đu không thua khỉ, cứ ẩn hiện như chớp không sao nổ kịp. Nhất lại bị ghềnh đá cây cối che khuất. Thoắt khỉ vượn đã xuống chân đỉnh, cứ thế đuổi nhau về phía Tây. Bọn Đông Tửu bây giờ vẫn đứng dưới chân đỉnh phía Nam, ngửa mặt xem lại con ó của Bạc Khao Lan quần trảo với lũ quái điểu, bỗng thấy Minh Thần xuất hiện nẻo triền Tây, hô “chính Độc Ma Hầu”. Cả bọn lập tức vọt đi như mấy cơn lốc. Nhưng khỉ vượn đã chuyển vút hướng Tây, cả bọn sùng sùng đuổi theo.
Được mươi phút, hoàng hôn đổ ụp xuống miền Phi Mã Ác, khí núi giăng mờ cây cỏ ghềnh đá xóa cả bóng người vật. May Bạc Khao Lan đã kịp lúc hiện cho hai con ó bay xà triền núi theo dõi, nên cả bọn cứ đuổi theo hướng chim bay. Nắng lui nhanh, núi Phi Mã chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng.
Phía trước, Minh Thần cố rượt theo, chặn Ma Hầu gặp Bạch Viên lấy vòng nhưng không sao rượt nổi.
Bỗng nghe từng tràng hú lê thê, rồi từng đàn dơi dơi lớn nhỏ bay ra hướng khác, lại trông bầy chèo bẻo, diều hâu, quạ, chim cắt,v.v… đông như ruồi nhặng, toàn loài chim dữ, ào ào xông vào mổ, cấu xé lẫn nhau, vừa đánh, vừa nhào xuống tấn công khỉ vượn.
Minh Thần càng lo cho vượn trắng. Chàng cố vận kinh công lướt đi. Xác quái điểu rớt xuống triền lộp bộp như sung, máu me vung vãi! Chạy được quãng nữa, trời sập tối! Triền Phi Mã càng khó chạy. Cũng may, thỉnh thoảng lại nghe tiếng vượn hú phía trước nên Võ không bị lạc hướng vượn đi.
Bỗng nghe tiếng hú lê thê, tiếng cười rú như ma nhái chạy ngang triền. Hình như có kẻ xông tới chặn khỉ vượn thì phải! Vì tiếng vượn hú nghe “lan rộng” hết sức, chứng tỏ chúng phải bỏ chạy lung tung đâm ngang, xiên ngược khó khăn.
Chừng một giờ sau, Minh Thần xuống tới chân núi bỗng thấy bốn bề vắng lặng đến rợn người, quái điểu biến đâu hết, tiếng vượn hú, khỉ kêu, cũng vụt tắt ngam, rừng Phi Mã im lìm. Tuyệt không tiếng động của sinh vật. Võ lắng nghe lòng tràn kinh ngạc lo cho cặp vượn trắng. Nhìn lên không trung tít mờ, vẫn thấy hai con ó của Khao Lan liệng xè xè, rõ ràng chúng cũng mất mục tiêu!
Đang ngơ ngác, băn khoăn, sịch thấy bọn Đông Tửu phóng xuống. Nghe Võ kể lại chuyện lấy vòng, ai nấy dậm chân tiếc ngẩn, hết lời mắng chửi Độc Ma Hầu!
Cả năm người đều lấy làm lạ, không hiểu cặp vượn trắng biến đâu mất? Hoặc ẩn nấp đâu? Chạy thoát vào động bí mật của Thủy Tôn? Hay đã bị Độc Ma Hầu, kẻ bí ẩn nào hạ thủ? Mà kẻ bí ẩn là ai? Chủ bầy dơi dơi, ác điểu phải chăng là Hấp Huyết Quỷ Nương? Hay còn bọn nào nữa ẩn kín trong bóng tối rừng già? Hàng chục nghi vấn đặt ra, bàn bạc một hồi, cả năm vẫn không sao đoán nổi cát hung, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy một miền sơn lâm Phi Mã Ác trùng trùng hoang vắng không người! Nhưng nhờ sẵn kinh nghiem cả hai đều linh cảm thấy trong cảnh im ắng như ẩn chứa một cái gì bất trắc, đầy vẻ rình rập, chết chóc. Không khác bị đẩy vào một căn buồng tối thui, với một đám địch thủ vô hình cầm dao rình nghe từng hơi thở để đâm nhau!
Nam Khấp khẽ bảo:
– Theo lão đoán, vợ chồng Bạch viên tuy không có võ, nhưng có sức mạnh và nhanh nhẹn phi thường không dễ gì bị bắt. Rất có thể là bạch viên ẩn náu đâu đây và bọn quái điểu nào đó cũng đang rình rập tìm kiếm trong bóng tối rừng già. Không khí im lặng này đầy khả nghi chứng tỏ hiện đang có một rình rập lạ lùng! Giờ tốt hơn chúng ta chia nhau, lao vào bóng tối kiếm Bạch viên và hạ bất cứ kẻ nào ở trong bóng tối!
Giao Long Nữ bàn:
– Liệu Bạch viên có thể lộn lên núi không?
Có lẽ! Vì dơi dơi quái điểu xà lượn rất kỹ. Bạch viên lại bị bám sát xuống tận chân núi. Nhưng có thể giờ mới là lúc thuận tiện để lộn lên!
– Vậy ta cứ chia nhau lục soát khắp dưới trên, dùng tiếng hú liên lạc! Võ huynh cùng nhị cô nương lên núi vì cũng cần đón beo đen cọp vằn nữa! Còn Đông Tửu này cùng Nam Khấp lão tiên sinh trợ lực phía dưới.
Ai nấy tán đồng, lập tức chia tay phóng mình vào bóng tối im đến rợn người.