Mùa xuân năm Bính Tuất, Mộ Dung Vô Phong bệnh lâu vừa khỏi, lần đầu tiên trong ba năm nay cùng phu nhân rời cốc. Hai người cùng nhau tới Thần Nông trấn thăm hỏi phu phụ Tiết Chung Li, ăn một bữa cơm chiều, rồi ở lại trong nhà nói chuyện cho tới khi sắc trời chuyển tối. Thời điểm ấy, tiết đầu xuân còn hơi se lạnh, gió nhẹ vi vút, lầu các lấp lánh dưới ánh trăng. Xe ngựa rời khỏi nhà họ Trạch, đi về phía đông thêm nửa tuần hương rồi từ từ dừng lại trước cửa Đông Li quán. Đại phu chủ đường Điền Chung Việt đã sớm bước lại nghênh đón, đưa Mộ Dung Vô Phong tới khách sảnh, người hầu đem lên một cái lò sưởi đồng cao ba thước trên có hoa văn để giữ ấm, Mộ Dung Vô Phong nhìn một lượt bài trí trong quán, cảm thấy có phần xa lạ, nhẹ giọng cười nói: “Bọn ta tới thăm Tử Hân, lâu lắm rồi nó không về cốc”.
Điền Chung Việt vội đáp: “Năm ngày trước công tử ra ngoài vẫn chưa quay về sao? Học trò còn nghĩ công tử đã về cốc rồi”.
Hà Y nghe thế, sắc mặt hơi đổi: “Không có. Nó đi đâu thế?”.
Nàng thừa biết Tử Hân tính tình ngang ngạch, cho dù có là Mộ Dung Vô Phong cũng không quản thúc nổi, chớ nói tới vị Điền Chung Việt thật thà trung hậu, trầm mặc ít nói này.
Điền Chung Việt nghĩ một chút rồi đáp: “Sáu hôm trước ở đây từng có một bệnh nhân bị người ta đánh trọng thương, bộ dáng rất thê thảm. Học trò và công tử cùng bận rộn hết một ngày mới coi như cứu được hắn. Người nhà của bệnh nhân đó buổi sáng vừa mới đưa hắn về nhà, buổi chiều đã lại đưa đến. Lần này rõ ràng bệnh nhân đó đã bị đánh một trận nữa, tuy học trò và công tử đã tận lực cứu chữa, nhưng người này vẫn qua đời. Người thân của bệnh nhân đó cùng với hai đứa con của hắn quỳ trong phòng chẩn mà khóc lóc kinh thiên động địa. Lúc ấy học trò còn đang có bệnh nhân khác, xử lý xong ở đây thì vội đi tới đó. Lúc học trò ra khỏi cửa, chỉ nghe thấy công tử quát lên rằng ‘Lẽ nào là thế’, cũng không để ý lắm, không ngờ tối ấy công tử đi khỏi. Học trò còn cho rằng công tử đã về cốc rồi”.
Mộ Dung Vô Phong và Hà Y bốn mắt nhìn nhau. Hà Y chưa kịp hỏi kỹ, Điền Chung Việt lại nói: “Trước đây thi thoảng buổi tối công tử cũng ra ngoài, có điều ngày hôm sau đều trở lại. Học trò luôn nghĩ công tử về cốc thăm hỏi phụ mẫu…”.
Mộ Dung Vô Phong lắc đầu nói: “Trước giờ Tử Hân chưa hề tới Trúc Ngô viện lúc nửa đêm”.
Điền Chung Việt nghe thế, vội nói: “Tiên sinh căn dặn học trò quản giáo công tử, học trò thật đã quản giáo không nghiêm… Có điều trước khi đi, công tử có lưu lại lời nhắn, nói tối nay sẽ quay lại. Học trò vẫn đang chờ công tử”.
Nghe thấy vậy, Hà Y vội nói: “Tử Hân đi bằng cách nào? Đi xe hay cưỡi ngựa?”.
Điền Chung Việt nói: “Trước giờ đều là cưỡi ngựa. Con Tử điện câu của cậu ấy không phải do phu nhân tặng đó sao?”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn sang Hà Y, hồi lâu sau mới hỏi: “Hà Y, nàng dạy Tinh Nhi cưỡi ngựa lúc nào thế?”.
Mặt Hà Y bất giác đỏ bừng, không khỏi líu ríu đáp: “Thiếp… chuyện này…”.
“Ta nói bao nhiêu lần rồi, nó có bệnh suyễn, không thể cưỡi ngựa.”
“Không phải Tiểu Mi đã dạy nó rồi sao? Thấy nó cưỡi ngựa cũng không làm sao cả, thiếp… thiếp có dạy thêm đôi chút, tiện đấy tặng cho nó con ngựa của thiếp luôn.”
Mộ Dung Vô Phong tức giận hỏi: “Hà Y, sao nàng lại muốn giấu ta vậy?”.
Hà Y nói: “Tại chàng lúc nào cũng lo lắng quá mức. Tính khí của Tử Hân toàn do liên lụy từ chàng”.
“Ta liên lụy, ta liên lụy thế nào?”
“Từ lúc nó còn nhỏ, chàng động tí là lo lắng cho sức khỏe của nó. Cái này không cho nó ăn, cái kia nó cũng không được ăn. Bây giờ thì hay rồi, rành rành là một người sống khỏe mạnh, lúc ra khỏi cửa mà còn phải đem theo nguyên một nhà bếp. Đơn giản là khiến cho người khác cười tới rụng răng! Con trai của Sở Hà Y, lẽ nào lại kém cỏi thế?”
“Không nói thì thôi, nhớ lần nàng cho nó ăn hạt dẻ đó, kết quả thế nào? Ốm nguyên một tháng trời! Đấy là ai làm liên lụy nó?”
“Đây chí ít cũng chứng minh con tuy không ăn được hạt dẻ nhưng có thể cưỡi ngựa.”
“Hà Y, Tử Hân là đại phu, không phải là tiêu đầu, không cần phải biết cưỡi ngựa.”
“Nhưng mà cưỡi ngựa vẫn rất thuận tiện chứ! Không phải chàng cũng có thể cưỡi ngựa đó sao?”
Điền Chung Việt ho khan một tiếng.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Điền đại phu, bọn ta tới phòng Tử Hân đợi nó quay về”.
Từ khi Tử Hân lên mười, Mộ Dung Vô Phong không hề tới phòng con lần nào nữa.
Bởi vì gần như ngày nào Tử Hân cũng tới Trúc Ngô viện cùng phụ thân đọc sách học y, rồi thường ở lại thư phòng của phụ thân cùng ăn cơm, cho nên Mộ Dung Vô Phong luôn cho rằng, phòng của con chỉ là nơi để nó ngủ nghỉ mà thôi. Phòng của Tử Duyệt thì lại là nơi Mộ Dung Vô Phong thường theo Hà Y tới. Trong lòng hai người đều hiểu rõ, Tử Duyệt mới là nhân vật khó đối phó nhất trong nhà. Từ nhỏ nàng đã biết bản thân muốn gì, mà bất kể là muốn gì, nàng luôn có cách đạt được.
So ra mà nói, Mộ Dung Vô Phong không thể không thừa nhận, tính khí Tử Hân tuy ngang bướng, tính tình tuy thẳng thắn nhưng thật thà hơn nhiều. Về mặt khiến cho người khác vừa lòng thì còn lâu mới đủ. Phàm khi chàng cho rằng mình đúng, tranh cãi với người khác đều dốc hết sức, hoàn toàn không nhượng bộ, thường khiến cho người ta tức giận phát điên. Đằng trước vừa đi, đằng sau lại đã có người chạy tới Trúc Ngô viện kêu kiện. Đến mức vào lúc căng thẳng nhất, mỗi lần có y hội, chỉ cần Tử Hân vừa mới mở miệng là lập tức có một đám người đưa ánh mắt giận dữ nhìn chàng.
Có một hôm, trên đường trở về, Tử Hân hỏi: “Cha, tại sao có nhường ấy người nhìn con không thuận mắt?”.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: “Con cho rằng bản thân như thế nào?”.
“Rất thuận mắt.”
“Con hẳn biết tất cả các quẻ trong Kinh Dịch, khi các hào biến đổi đều sẽ có điều cát hung. Chỉ có một quẻ, bất luận sáu hào có biến đổi thế nào vẫn chỉ là cát lợi”, Mộ Dung Vô Phong nhẹ giọng nói: “Đấy chính là quẻ Khiêm[1]”.
[1] Ý chỉ khiêm tốn
“Cha, tình hình của con không giống trong Dịch.Nó là giảng đạo làm người, còn con thì đang nói về học vấn. Nó cầu lẽ ‘hài hòa’, con theo đuổi là ‘chân lý’… Đây là hai chuyện khác nhau.”
Mộ Dung Vô Phong xoa đầu con, nói: “Cầu chân lý không có gì sai, nhưng cũng cần cả thái độ. Nếu như không còn ai chịu thảo luận với con, cái chân lý ấy cũng sẽ khó mà cầu cho được”.
“Nhưng mà, truy cầu chân lý nhất định cứ phải thảo luận cùng người khác mới ngộ được sao? Tự mình suy ngẫm, liệu có được không?”
“Ta nghĩ là được”, Mộ Dung Vô Phong đáp lấy lệ một câu. Từ lúc Tử Hân bắt đầu học y, Mộ Dung Vô Phong đã cố ý đưa Tử Hân tới tham gia y hội của các đại phu trong cốc. Cho dù bản thân chàng không thể đi được thì vẫn luôn không quên sai Tử Hân thay mặt, quay về sẽ đem những điểm quan trọng trong buổi thảo luận nói lại với mình. Chàng không muốn Tử Hân giống mình, cũng thích ở một mình tách khỏi cộng đồng, cô tịch thành thói. Nhưng chàng lại không biết bản thân làm thế đúng hay sai. Bởi tính toán này của chàng mà tính tình Tử Hân tựa như đã trượt theo một con đường hoàn toàn khác.
Tới giờ chàng vẫn nhớ khi nghe hết câu nói của mình, khuôn mặt Tử hân có vẻ nghi nghi hoặc hoặc, có vẻ như tất cả đáp án đều không thể khiến con trai hài lòng. Vào thời khắc ấy, bản thân chàng cũng hoang mang như Tử Hân.
Trên đời này có rất nhiều quy tắc vốn ngộ ra hay nắm được trong quá trình trầm tư suy ngẫm: Không ai có thể nói cho anh, giữa người với người rốt cuộc nên ứng xử thế nào. Chàng không biết, may mà Tử Hân không truy hỏi tiếp, chỉ đáp lại chàng bằng một nụ cười như có như không, một ngọn lửa hừng hực vào lúc ấy bỗng lóe lên trong mắt nó. Tử Hân thò tay, sờ sờ gáy phụ thân.
“Không biết lớn nhỏ…”, chàng nghiêm mặt lại.
“Con biết rồi, cha à”, đứa con trai cười hì hì, như không có chuyện gì.
Cho đến lần đầu tiên bước vào phòng của nhi tử bên ngoài cốc, Mộ Dung Vô Phong mới đột nhiên hiểu ra, đứa con trong lòng mình có lẽ không phải là Mộ Dung Tử Hân chân chính.
Trong phòng Tử Hân không có đồ vật gì cầu kỳ. Trừ một cái giường, một chiếc bàn, một hòm sách, một cái ghế thì không còn vật gì khác. Nhưng mà, bên trong màn, ở trên tường, đâu đâu cũng thấy dán đầy những trang giấy. Những trang giấy này rõ ràng là xé từ quyển sách nào đó, rồi lại phỏng theo một quy tắc thần bí nào đó mà kết nối lại, bày thành đồ án, tựa như một xoáy nước cực lớn. So ra, căn phòng trống trải tới thô sơ đơn điệu này lại trở thành nền cho bức đồ án ấy. Mộ Dung phu phụ tiến vào trong phòng, quá đỗi kinh ngạc tới quên cả cãi vã.
Hà Y nhặt một cuốn sách dưới đất lên, mở ra xem, ngoài cái bìa da ra, còn đâu trống rỗng. Lại mở mấy hộp giấy trên bàn, họ mới phát hiện bên trong toàn những trang giấy được xé ra, bút tích lớn nhỏ khác nhau, cũ mới bất đồng, rõ ràng là được xé từ những cuốn sách khác nhau nhưng rồi lại được quy loại sắp xếp chỉnh tề vào một chỗ, bên trên còn được đánh ký hiệu.
Đương nhiên, sách bị xé toàn là sách y.
Tùy tiện cầm lấy một trang, Hà Y đọc: “Mầm bệnh từ dưới lên mà mạnh mẽ ở bên trên thì dùng phụ tử, nhân sâm…”.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ ngắt lời nàng: “Đấy làVân Mộng y án loại biên”.
Lại cầm một trang khác: “Họ Sái chẩn mạch thấy mạch lúc căng lúc trệ mà yếu ớt, nói: tì và vị bị cơn đau làm tổn thương…”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đấy là lời trong Y án tục biên”.
“Sách tốt như thế, tạo sao phải xé thành thế này?”
“Không biết.”
“Trên tường dán cái gì thế?”
“Vân Mộng cứu kinh.”
“Trong màn thì sao?”, nàng lấy một tờ trong đó, đưa cho chàng.
“Cũng là Vân Mộng cứu kinh.”
“Đây chứng tỏ con trai chúng ta hằng đêm đều nghiên cứu y thư”, Hà Y nửa kinh ngạc nửa vui mừng: “Tuy cách của nó có chút cổ quái”.
“Hà Y, những trang sách này không theo thứ tự vốn có.”
Trên tường trừ chỗ dán trang sách hãy còn mấy bức tiểu họa nhưng toàn là vẽ phác thảo. Láng máng nhận ra từ đường nét của bức họa hình như đều là một vị hòa thượng thân hình cao gầy, khuôn mặt ốm yếu.
Hà Y nói: “Bức họa này thì thiếp nhận ra”.
Trong phòng ngủ của bọn họ luôn treo một bức “Văn Thù vấn tật” nét mực liên miên, cổ sơ do Tử Hân vẽ, Mộ Dung Vô Phong rất thích bèn mời người bồi rồi treo lên tường. Còn nhớ hôm ấy, Mộ Dung Vô Phong ngồi ngắm nhìn bức họa rất lâu, cuối cùng thổ lộ với Hà Y, nói rằng sự học của Tử Hân tuy chỉ khiến chàng miễn cưỡng vừa ý nhưng công phu về thư họa thì không tầm thường. Nói xong còn không quên khen Hà Y một câu, bảo rằng bút pháp của con trai cứng cáp phiêu dật toàn là do tiếp thu ảnh hưởng từ mẫu thân… Câu này khiến Hà Y có chút đắc ý.
Nghĩ tới đây, nàng bất tri bất giác nắm lấy tay Mộ Dung Vô Phong, nói: “Vô Phong, tại sao bỗng nhiên thiếp lại có một cảm giác đáng sợ, dường như… dường như chúng ta không hề hiểu Tử Hân”.
Mộ Dung Vô Phong thở dài một tiếng: “Đâu chỉ riêng Tử Hân, cả Tử Duyệt chúng ta cũng không hiểu lắm. Hai đứa chúng nó, hình như không đợi chúng ta hiểu rõ đã trong thoáng chốc lớn cả rồi”.
Bỗng dưng, trong lòng hai người có một niềm thương cảm khó diễn đạt thành lời.
“Mấy năm nay, nàng luôn túc trực bên ta, gần như không ra khỏi cửa một bước. Chúng ta… chúng ta không xứng làm bậc cha mẹ, một năm trời cũng chẳng có mấy thời gian bầu bạn với hai con cho tốt. Nếu không phải vì ta…”
Hà Y chặn môi chàng, nhẹ nhàng nói: “Chàng cứ tự trách. Chàng… nếu có thể sống bình yên thì đã là phúc của hai con rồi. Ở đây lạnh quá, chúng ta quay về thôi. Tử Hân về rồi, nếu biết chúng ta qua đây sẽ về cốc gặp chúng ta”.
“Không”, Mộ Dung Vô Phong nhíu mày nói: “Ta phải ở đây đợi nó. Nó… năm ngày rồi chưa về, cũng không biết liệu có xảy ra chuyện gì không?”.
“Chàng xem, càng nói chàng lại càng lo lắng rồi. Hay là thế này, bây giờ thiếp đi tìm nó, tránh cho chàng khỏi thấp thỏm sốt ruột”, nàng đưa một tách trà nóng vào tay chàng, nhấc kiếm lên.
“Chớ có đi!”, Mộ Dung Vô Phong lập tức giữ nàng lại, trầm giọng nói: “Trời tối thế này, nàng đi sẽ chỉ càng làm cho ta thêm lo lắng. Chúng ta nên ở đây đợi nó một đêm, nếu ngày mai nó vẫn chưa quay về, ta sẽ lập tức phái người đi tìm khắp nơi”.
Không biết lấy đâu ra sức lực, chàng nắm chặt lấy tay nàng, kéo nàng tới bên cạnh, đưa tách trà sang cho nàng: “Ngồi yên một chút, uống trà đi”.
Hà Y ngồi xuống, tựa đầu vào vai phu quân, đưa má khẽ dụi dụi vào cánh tay chàng. Trong lòng hai người đều ngổn ngang tâm sự, ngẩn ngơ nhìn lò lửa. Được một lúc, Hà Y nhỏ giọng nói: “Vô Phong, chàng nói xem, con chúng ta tương lai sẽ thành người thế nào?”.
“Đương nhiên là một vị đại phu… cũng không nhất thiết phải là người giỏi nhất, xứng danh đại phu là được rồi”, chàng không nghĩ ngợi gì, buột miệng nói.
Hà Y than: “Thiếp không có ý kiến gì, chỉ cảm thấy làm đại phu quá mệt mỏi. Lẽ nào chàng không cảm thấy… đây kỳ thực là một nghề rất khô khan sao? Thiếp vẫn luôn hoài nghi sao lại có những người trẻ tuổi thích nghề ấy?”.
“Ha, tới tận bây giờ nàng mới nói ra. Ta lại cảm thấy chẳng khô khan chút nào”, Mộ Dung Vô Phong lập tức tranh biện cho bản thân.
“Không phải chính chàng cũng nói, nếu không phải thân thể không tốt, chàng cũng sẽ không học y là gì?”
“Ban đầu quả thật là không thích lắm… đại khái cũng hơi ấm ức. Về sau học sâu rồi cũng không cảm thấy chán ghét”, Mộ Dung Vô Phong đành thừa nhận. Không nhịn được, chàng lại hỏi: “Vậy thì nàng nói nghe xem, thanh niên thích cái gì?”.
“Thiếp không nói, tránh cho chàng khỏi bực mình”, Hà Y bịt mồm cười khẽ, tiện tay kéo lại tấm chăn trên người chồng: “Ngồi lâu thế rồi, chàng có mệt không?”.
Chàng đã ngồi ở chỗ Tiết Chung Li cả một buổi chiều, ngồi tới mức thân thể cứng đờ ra, lại tới căn phòng của nhi tử đã năm ngày chưa đốt đèn, chỉ cảm thấy bốn bức tường đều lạnh giá. Hà Y đành gọi Điền Chung Việt mang tới một chậu sưởi, lại sợ hơi lửa quá nồng nên chỉ đặt xa xa gần cửa. Điền Chung Việt nhân đó hỏi hai người có dùng cơm không, hai người đều vội vàng xua tay. Cứ ngồi yên lặng như thế, bọn họ không khỏi nghĩ ngợi linh tinh, càng nghĩ càng sợ, càng nghĩ càng lo, còn lòng dạ nào mà ăn nữa.
Lại đợi thêm gần nửa canh giờ, Mộ Dung Vô Phong đã mệt mỏi quá mức, dần dần không chịu nổi. Hà Y khổ sở khuyên chàng về cốc, chàng vẫn kiên quyết không chịu. Với tính khí thường ngày của chàng, cho dù là ở ngay trong phòng mình, khi các con tới, chàng nhất định muốn ngồi dậy, nên chuyện khuyên chàng lên giường của Tử Hân nghỉ tạm là tuyệt đối không có khả năng. Đang lúc sốt ruột, ngoài cửa bỗng nhiên có tiếng vó ngựa.
Mộ Dung Vô Phong mừng thốt: “Là Tử Hân !”.
Hà Y lắc đầu: “Không phải. Đang đến không phải chỉ có một con ngựa mà là mấy chục con”. Đang nghi hoặc, tiếng bầy ngựa đã vang lên náo loạn, hai người chỉ nghe thấy tiếng thét như sấm dội vào từ bên ngoài: “Quý Đông Bưu! Tiểu tử nhà ngươi lăn ra đây cho ta!”.
Còn chưa đợi người kia đáp tiếng, lại đã nghe thấy có kẻ huýt sáo, đám người như nhận được lệnh, mỗi người tay cầm một bó đuốc lập tức tản ra vây kín lấy y quán, tới một giọt nước cũng không lọt.
Hà Y thấp giọng nói: “Phiền phức tới rồi. Vô Phong, chàng lên giường nằm một lúc”, nói rồi dìu Mộ Dung Vô Phong nằm lên giường, đắp chăn, rồi lại đem một tấm bình phong hoa sen từ cửa đến chắn trước giường, bản thân thì cầm kiếm ngồi bên chàng.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Hà Y, nàng ra ngoài xem xem, Quý Đông Bưu là ai? Chúng ta đều không quen biết hắn, chỉ sợ có hiểu lầm”.
Hà Y nói: “Bọn này là giặc cướp ở sông Tương, cực kỳ hung hãn. Thiếp nghe được khẩu âm của chúng”.
Mộ Dung Vô Phong đang định hỏi kỹ, lại nghe có tiếng người hắng giọng, sang sảng nói: “Đinh đà chủ, ngưỡng mộ đã lâu. Tại hạ Tạ Đình Vân, không biết đà chủ đang đêm kéo bao nhiêu người tới y quán nhỏ này là có ý gì?”.
“Tạ lão đầu cũng ở đây, hiếm thấy, hiếm thấy! Phi Long đà của bọn ta trước giờ không oán không thù gì với Vân Mộng cốc, cũng không muốn đem chuyện này xé ra to. Chỉ cần các người giao đầu của Quý Đông Bưu ra đây, bọn ta lập tức rời đi!”
“Đà chủ đích xác tìm đúng nơi rồi chứ? Vị Quý Đông Bưu ấy, trước giờ ta chưa từng nghe qua.”
“Lão Tạ, tám chục phi kị bọn ta vượt núi băng sông chạy tới đây, ông cho là tới chơi chắc? Các huynh đệ, mẹ kiếp, đầu tiên cứ đốt rụi cái nhà này, ta xem Quý Đông Bưu còn trốn được không!”
Tiếp đến là một trận hỗn loạn, hiển nhiên, song phương đã động thủ. Chỉ nghe “viu viu viu” một tràng, mấy trăm mũi “một vũ trường tiễn[2]” từ bên ngoài cửa sổ bắn vào như mưa rào, ghim đầy lên tường, may mà Mộ Dung Vô Phong nằm ở chỗ ba mặt đều là tường, một mặt là bình phong, mặc dù như thế, vẫn có mấy mũi tên bắn trúng màn trướng, trong đó có một mũi bắt lửa. Bên trên tấm rèm lụa màu nguyệt sắc ấy vốn dán đầy những giấy, một đốm lửa nhỏ lập tức “phừng” một tiếng cháy bùng lên, Hà Y vội đỡ Mộ Dung Vô Phong dậy, đặt lên xe lăn, tiện tay nhấc ấm đồng hắt nước lên rèm rồi xé rèm xuống phủ lên bình phong. Điền Chung Việt chạy tới, giẫm lấy giẫm để tàn lửa trên rèm. Hà Y kéo hắn vào sau bình phong, nói: “Cẩn thận! Bốn phía có tên bắn! Ngươi ở đây chăm sóc cốc chủ”.
[2] Một vũ trường tiễn: Là một loại tên thân dài, không có lông đuôi ở phía sau.
Hà Y xách kiếm xông ra cửa, gặp đúng hai đứa con của Tạ Đình Vân là Tạ Tòng Long, Tạ Tòng Hổ đang chạy tới kêu: “Phu nhân, chúng ta bị bao vây rồi! Người đưa cốc chủ và Điền đại phu, chúng ta xông ra từ cửa sau!”.
Hà Y rút kiếm như gió, đạp bay một cái bàn, chắn lên cửa sổ, chỉ nghe thấy một trận “lập phập”, hiển nhiên loạn tiễn đã ghim đầy lên đó. Chính đang định đạp cái ghế lớn bằng gỗ hồng sang, trên nóc nhà bỗng có tiếng ngói vỡ “oang”, một kẻ từ trên nóc nhảy xuống, tay cầm nỏ cứng, còn chưa đứng vững đã bắn liên tục về phía Hà Y mười mũi tên!
Mộ Dung Vô Phong ở bên cạnh nhìn thấy, sợ hãi kêu: “Hà Y, cẩn thận!”.
Hà Y người như ánh chớp đã phi thân lên không, nhảy ra sau lưng kẻ kia, trường kiếm vung lên, cánh tay kẻ kia văng lên không trung, máu tươi phun ra bắn lên giường cứ như té nước.
Tạ Tòng Long đá ghế gỗ, chắn lên một cửa sổ khác, lớn tiếng kêu: “Phu nhân, mau đi thôi, e rằng căn phòng này sắp bị thiêu tới nơi rồi!”.
Hà Y gật đầu, chạy tới bên giường, lại thấy Điền Chung Việt run giọng nói: “Không được! Tiên sinh… tiên sinh hiện không thể cử động. Xem ra người không được khỏe lắm”.
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong trắng bệch, tay ôm ngực, gắng sức nói: “Mọi người… đi trước, không cần để ý tới ta”.
Bệnh tim của chàng rất nặng, trước giờ không chịu được âm thanh đột ngột. Sống với Hà Y bao nhiêu năm nay, nhân vì cuộc sống bình lặng, số lần phát tác đã càng ngày càng giảm. Lần này đột nhiên nghe thấy tiếng vỡ trên nóc nhà, lại thêm một kiếm vừa rồi của Hà Y nhất thời khiến tim chàng đập như trống dồn, không sao thở bình thường được, môi cũng dần dần tím tái.
Hà Y lăn lộn giang hồ đã lâu, đối với mấy chuyện kinh hãi kiểu này chỉ xem như cơm bữa, trông thấy sắc mặt Mộ Dung Vô Phong đột nhiên biến đổi, liền biết bệnh tim đang tái phát, không kìm được hoảng sợ biến sắc: “A Long, ngươi đưa Điền đại phu đi trước. Ta ở đây với cốc chủ… đợi chàng khỏe hơn rồi hẵng hay”.
Tạ Tòng Long vội nói: “Phu nhân đã không yên tâm về cốc chủ, chúng ta vẫn nên cùng ở đây tử thủ. Con đã phái người xông ra ngoài tìm Ông tổng quản cầu cứu”.
Tuy là nói thế, trong lòng mọi người vẫn ngầm kêu khổ, ngoài cửa là tiếng đánh giết, cũng không rõ ai thắng ai thua. Khi Mộ Dung Vô Phong ra ngoài, chỉ đem theo hai chục tùy tùng. Tuy ai nấy đều là cao thủ nhưng đám thổ phỉ Tương Tây kia quá đông, mà cũng không phải hạng tầm thường. Nghĩ là biết bên ngoài ắt đang là một trường ác đấu. Trận này xảy ra là vì Quý Đông Bưu nhưng chẳng một ai biết Quý Đông Bưu hết, người của Phi Long đà chắc là điên hết rồi, cũng chẳng chịu hỏi trắng đen rõ ràng, cứ thế mà bạt đao rút kiếm, chém giết bừa bãi. Một đám người đánh giết đến rối tung cả lên. Nếu cứ thế này mà chết thì đúng là nực cười.
Bốn người còn đang bàn bạc, đột nhiên bên ngoài lại có tiếng huýt sáo, loạn tiễn chợt dừng nhưng có tiếng ngựa hý vang, trong không trung vang lên tiếng roi.
Thoắt một cái, bên ngoài yên tĩnh tới đáng sợ.
Chỉ nghe một người lạnh lùng nói: “Đinh Mãnh đã bị thương, các vị còn chưa chịu đi?”.
Kế đến, lại nghe có kẻ khàn khàn giọng nói: “Được! Quý Đông Bưu, Phi Long đà bọn ta đã nhận món nợ này rồi!”.
Lại có tiếng roi.
Quý Đông Bưu lạnh lẽo hỏi: “Còn vị nào muốn nhận món nợ này không?”.
Hồi lâu chẳng có ai đáp tiếng. Lại nghe tiếng vó ngựa ồn ào, đám người kia đã mất tăm mất tích.
Hà Y ngầm thở phào một tiếng, gạt bình phong ra. Hơi thở của Mộ Dung Vô Phong dần dần ổn định, cũng gắng gượng ngồi dậy. Chỉ thấy ngoài cửa có tiếng trượng chống bước nhanh, một thiếu niên áo xám vội vàng tiến vào, chạy tới bên giường: “Cha, mẹ, hai người không sao chứ?”.
Mộ Dung Vô Phong túm lấy thiếu niên, sắc giọng hỏi: “Tử Hân, mấy ngày nay con đi đâu?”.
“Con… con ra ngoài làm chút chuyện.”
“Con… lẽ nào con chính là cái người Quý Đông Bưu ấy?”, Hà Y vội hỏi.
“Con chỉ tiện miệng nói một cái tên thôi. Cha, sức khỏe người không sao rồi chứ?”
“Ta… ta không sao.”
Mộ Dung Vô Phong níu lấy áo Tử Hân, kéo chàng tới trước mặt mình, hỏi: “Tử Hân… con nói cho ta, con… con vừa rồi đã giết người sao?”.
“Đâu có. Con chỉ phế đôi chiêu tử của hắn mà thôi.”
Mộ Dung Vô Phong quay sang nhìn Hà Y.
Hà Y nói: “Chiêu tử tức là mắt”.
Phu phụ hai người lo âu ra mặt, đang định mắng mỏ Tử Hân một trận thì chợt nghe thấy trong bọc đồ sau lưng chàng có tiếng trẻ con khóc “oa oa”, không khỏi thất kinh, hỏi ngay: “Tử Hân, trong bọc hành lý của con là gì thế?”.
“A! Chút nữa thì quên. Đây là…”, chàng mở bọc đồ, ôm một đứa bé trắng trẻo bụ bẫm bên trong ra, cười khì khì nói: “Cháu của hai người. Cha nhìn xem, nó giống con không?”.
Mộ Dung Vô Phong nghe thế, thiếu chút nữa thì tức đến phát ngất, trông đứa bé trai ấy đang mút lấy mút để ngón tay, đúng thật giống hệt Tử Hân hồi còn bé. Nhất thời, dở khóc dở cười, hỏi: “Nói linh tinh, đứa bé này từ đâu ra?”.
“Nhặt được, cha mẹ nó đều chết cả rồi.”
Hà Y vuốt khuôn mặt con trai dịu dàng nói: “Tử Hân trở về là tốt rồi. Cha mẹ cố ý tới thăm con. Con bình an trở về, chúng ta yên tâm rồi”.
Tử Hân cúi đầu, nói: “Cha, mẹ, con đã chuốc lấy chút phiền phức, định ra ngoài tránh vài hôm”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Con không đi đâu hết, cứ ở lại bên cạnh chúng ta. Bất luận con có phiền phức gì, chúng ta đều có thể nghĩ cách chống đỡ cho con”.
Tử Hân cười: “Cha, con muốn vào giang hồ lăn lộn”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Tử Hân, con quên rồi sao, con là đại phu”.
Tử Hân nói: “Con không quên. Với lại, con đã nghĩ ra một nghề tuyệt hảo cho mình, vừa có thể lăn lộn trong giang hồ, lại có thể hành nghề đại phu, nếu mà nói ra, cha nhất định sẽ vui”.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: “Lại có nghề như thế ư, sao ta chưa từng nghe qua?”.
Tử Hân nói: “Giang hồ lang trung”.