Thời khắc trôi qua, một lúc sau, trận mưa dứt, bầu trời trở lại quang đãng. Phi Long Tuyền vẫn cuồn cuộn chảy quanh co theo triền Ngọc Trụ Phong, từ trên uốn xuống như một con rồn phô vãy bạc chiếu ngời…
Lão bà áo tía vẫn đưa mắt nhìn tận xa xăm, gương mặt đượm vẻ thất vọng nặng nề.
Ba hôm qua, hôm nào cũng thế, bà chờ đợi nơi đây, đón con người đã hẹn một định kỳ ba tháng!
Người ấy sao lại sai hẹn? Người ấy quyết không thất tín kia mà?
Vừa lúc đó, một bóng xanh đã đến phía sau lưng bà, bà không hay biết gì cả.
Bà vẫn lẩm nhẩm mãi:
– Không thể nào chủ nhân Quỷ Phủ Biệt Cung là Độc Cô Công Tử lại là người thất tín? Ta không tin như thế được! Hừ! Nếu người là kẻ xem thường chữ tín, thì cái công vượt đường dài ngàn dặm tìm người ngày trước, nghĩ cũng uổng thay!
Bà vừa buông dứt tiếng cuối, một giọng nói như hòa từ phía hậu phát ra:
– Ma Nương! Tôi đến chậm, để Ma Nương chờ đợi đến ba hôm! Độc Cô Thanh Tùng nầy xin Ma Nương thứ cho vậy!
Lão bà áo tía, đúng là Ma Nương tại Xích Diệp Cung, nghe tiếng nói, giật mình, nhảy vọt tới phía trước hơn tám trạng, rồi quay người trở lại, vừa đảo mắt tìm vừa cất tiếng:
– Ngươi là…
Bà định tiếp nối bằng tiếng ” quỷ ” nhưng kịp nhìn thấy người xuất hiện có khuôn mặt đẹp tuyệt vời, đôi mắt chiếu ngời một tinh quang, vừa oai nghiêm vừa hòa dịu.
Người đó điểm nụ cười lành nhìn lão bà.
Từ kinh ngạc chuyển sang hoan hỉ. Ma Nương vừa bước tới, vừa reo lên:
– A! Độc Cô Công Tử! Thì ra trước sau gì Công Tử cũng đến. Lão chỉ tưởng Công Tử đã quên hẹn rồi!
Độc Cô Thanh Tùng cười nhẹ, thốt:
– Tôi biết Ma Nương chờ đợi! Ma Nương thứ cho nhé!
Ma Nương nhìn sững chàng :
– Công Tử biết tôi chờ đợi! Biết thế mà sao Công Tử không đến?
Độc Cô Thanh Tùng chỉ mỉm cười, chưa chịu giải thích.
Ma Nương lại nhìn chàng, tìm hiểu. Lâu lắm, bà lắc đầu, hỏi:
– Công Tử có mang bức họa đồ theo mình chứ? Mình bắt đầu tìm Biệt Cung ngay! Trời! Tôi và ca ca tôi cách biệt nhau mấy mươi năm rồi, còn gì? Không rõ hiện giờ người…
Bà dứt câu với những lời thốt lên quá thấp, không nghe rõ được, nhưng đôi mắt của bà đẫm lệ, chứng tỏ bà đang xúc động niềm đau.
Độc Cô Thanh Tùng an ủi:
– Ma Nương không nên quá bi lụy! Chắc chắn vị ca ca của Ma Nương vẫn vô sự như mấy mươi năm về trước, hiện tại những người trong Biệt Cung, kể như thuộc hàng sư huynh của tôi rồi đó. Ma Nương nghĩ, có phải thế không? Tự nhiên là tôi phải quan tâm đến họ chứ! Ma Nương yên trí đi!
Ma Nương lộ vẻ hân hoan, hỏi:
– Công Tử biết là họ bình an vô sự? Công Tử gieo một niềm vui vô tận nơi tôi đấy!
Bà tiếp nối:
– Dỉ nhiên họ là hàng sư huynh của Công Tử, dù Công Tử là người thọ nhân y bát chân truyền của Lệ Quỷ Thượng Nhân, Công Tử vẫn là kẻ đến sau kia mà!
Độc Cô Thanh Tùng gật đầu:
– Tôi công nhận điều đó! Nhưng tôi hiểu thêm là ba vị sư huynh của tôi, trong thời gian trước đã làm tất cả mọi điều ác trên đời, không có việc ác nhỏ mà họ từ khước không làm. Nếu không thế thì tại sao lại giam cầm một nơi suốt mấy năm dài sau ngày sư phụ cải tà quy chánh, đổi tước hiệu Đại Mạc Dị Nhân?
Chàng trầm ngâm nét mặt, dừng một chút rồi nói tiếp:
– Tôi chỉ sơ….. Giãi tỏa cho họ được tự do rồi, họ vẫn chứng nào tật ấy, thì tôi không còn cách nào thu phục họ được…
Ma Nương trợn tròn đôi mắt, nhìn sửng Độc Cô Thanh Tùng, hỏi:
– Thì ra Công Tử đã biết quá nhiều về ba vị ấy?
Độc Cô Thanh Tùng gật đầu:
– Chẳng những tôi biết rõ các sự việc về ba vị sư huynh, mà còn hiểu được cuộc ấn chừng vũ công ngày nào giữa sư phụ Lệ Quỷ Thượng Nhân và Đông Hải Kỳ Tẩu.
Cuộc ấn chứng đó xảy ra trên Thiên Sơn ngày trước, sư phụ nghĩ rằng bình sanh mình làm nên tội ác quá nhiều, chung quy cũng nhờ vào công phu Quỷ Phủ, do đó người nhất định không thi triển công phu Quỷ Phủ lúc đấu với Đông Hải Kỳ Tẩu. Nếu chẳng vậy, Đông Hải Kỳ Tẩu đã phải bại trong tay sư phụ rồi.
Ma Nương a lên một tiếng, trố mắt nhìn Độc Cô Thanh Tùng.
Bà hết sức vui mừng nhận thấy nhãn quang của chàng ngời lên một súc tích cao thâm kỳ công thần diệu, luyện đến độ siêu hư nhập hóa. Bà reo lên:
– Công Tử đúng là truyền nhân của Lệ Quỷ tại Biệt Cung. Công Tử không hổ là người nối chí của Thượng Nhân đó! Công Tử rất xứng đáng với ngôi vị Cung Chủ Quỷ Phủ Biệt Cung.
Bà cao hứng đến độ quên hẳn sự chênh lệch tuổi tác giữa đôi bên, vội hụp người cúi lạy Độc Cô Thanh Tùng.
Bà tiếp nối:
– Ma Nương xin tham kiến Quỷ Phủ Chủ Nhân! Xin sư phụ rộng ơn thành toàn cho đệ tử! Từ nay, Ma Nương này sẻ là đệ tử muôn đời của Chủ Nhân!
Một bóng xanh thoáng tạt qua, nhường khoảng trống cho ma nương vập đầu làm lễ.
Độc Cô Thanh Tùng làm sao dám nhận sự cung kính của Ma nương biểu lộ hết sức đột ngột ? Chàng không kịp thời ngăn chận Ma Nương làm đại lễ, vội nhảy sang một bên, quay lại nhìn bà.
Ma Nương vô cùng thất vọng, đứng lên, buồn rầu đưa ánh mắt sang chàng, dò xét. Độc Cô Thanh Tùng điểm một nụ cười, thốt:
– Ma Nương cần gì phải thủ lễ như vậy? Lúc sanh tiền, sư phụ thừa hiểu lệnh ca ca của Ma Nương bí mật đem võ công truyền lại Ma Nương, song sư phụ làm ngơ cho, và còn mặc nhiên chấp nhận cho Ma Nương bái nhận lệnh ca ca làm sư phó. Thời gian đó, lệnh ca ca tuy chưa học được toàn bộ chân truyền của bổn phủ, song người cũng luyện được sáu thành đó, lệnh ca ca thừa sức đối địch với bất cứ cao thủ thượng thặng nào trong vũ lâm hiện tại.
Chàng dừng lại, dò phản ứng trên gương mặt Ma Nương, xem bà có cảm nghĩ gì khi chàng đề cập đến vị ca ca mà bà luôn luôn nhắc nhở, đoạn tiếp nối:
– Huống chi, trong mấy mươi năm, giam mình trong cô tịch, giữa bốn bức tường, lệnh ca ca đã khổ luyện ngày đêm, công lực đó không biết tiến triển đến mức độ cao diện nào mà lường được.
Ma Nương đột nhiên hỏi:
– Nếu đem ca ca tôi sánh với Cửu Long Thần Ma, thì sao?
Độc Cô Thanh Tùng đáp:
– Ma Nương còn ngang ngữa với Cửu Long Thần Ma, như vậy cần gì phải hỏi.
Nếu đem lệnh ca ca so sánh với lão ma đầu?
Ma Nương lắc đầu:
– Không! Không phải vậy đâu! Cửu Long Thần Ma thừa hiểu tôi là thân tính của Xích Diệp Phu Nhân là con gái lớn của Thần Ma, nên người nhượng tôi đấy thôi, chứ lấy thực lực mà cân thì tôi còn kém xa lắm!
Độc Cô Thanh Tùng nhớ đến ba trượng đồng tại tòa thạch lâu, trong Tàng Long trang, một tượng trưng Kim Xoa Giáo Chủ, một tượng trưng cho Lục Vũ Lệnh Chủ, còn người vận áo hồng, chàng chưa biết tượng trưng cho ai.
Giờ, nghe Ma Nương nói như thế, chàng mới rõ là Xích Diệp Phu Nhân, trưởng nữ của Cửu Long Thần Ma.
Chàng miên man nghĩ ngợi, trong ba người chỉ có Kim Xoa Giáo Chủ là không có con trai hoặc con gái bên cạnh, nếu đúng chàng là con của Thánh Kiếm Vũ Sĩ Độc Cô Phong, mà vợ chánh thức của Thánh Kiếm Vũ Sĩ là Ngọc Kiếm Tiên Cơ không sản dục thì chắc chắn chàng là con của Kim Xoa Giáo Chủ vậy.
Nghĩ đến đó ánh mắt Độc Cô Thanh Tùng chớp ngời lên, tinh quang chiếu hung tợn vô cùng.
Ma Nương kinh hãi, thấp giọng thốt:
– Công Tử! Mình đi gặp ca ca tôi đi! Quỷ Phủ Biệt Cung ở nơi nào, chắc Công Tử có tìm đến rồi chứ!
Độc Cô Thanh Tùng đáp:
– Tôi có đến thạch thất, chỗ sư phụ luyện đơn, và lưu lại đấy bảy mươi hai ngày, còn Biệt Cung ở đâu, tôi chưa được biết. Ma Nương chờ đây một chốc nhé! Tôi đi đây, và sẻ trở lại ngay.
Ma Nương gật đầu:
– Công Tử đừng để tôi chờ lâu!
Bóng xanh khẻ chớp, trong thoáng mắt Độc Cô Thanh Tùng đã khuất dạng.
Ma Nương kinh hãi, thầm nghĩ:
– Quỷ Ảnh Vô Hình Khinh Công! Chỉ trong vòng bảy mươi hai hôm Độc Cô Công Tử sẻ lãnh hội toàn bộ chân truyền của Quỷ Phủ?
Bà đang tự thốt với mình, bỗng thất sắc thấy giòng nước Phi Long Tuyền đột nhiên rung tóe lên.
Một tiếng nổ long trời tiếp theo, giòng suối khô kiệt không còn một giọt nước.
Ngọc Trụ Phong êm lặng phi thường.
Ma Nương kinh hãi kêu lên:
– Quái Sự! Trong thiên hạ lại có việc quái lạ như thế được sao?
Một bóng xanh từ trên không bay vút xuống. Độc Cô Thanh Tùng đã xuất hiện trước mặt bà.
Chàng cười , thốt:
– Ma Nương có thấy việc lạ chăng? Không có gì lạ cả. Phi Long Tuyền là cửa chánh của Quỷ Phủ Biệt Cung. Ma Nương hãy nhìn lên kia, xem thì biết.
Ma Nương nhìn theo tay chàng chỉ, lại kêu lên, to tiếng hơn.
Nơi lưng chừng Ngọc Trụ Phong, một khung cửa độ hai trượng cao, cũng ngần ấy trượng rộng, hiện ra lồ lộ.
Nơi ngạch trên khung cửa, bốn chữ to lớn hiện ra:
Quỷ Phủ Biệt Cung.
Ma Nương buông tiếng thở dài, thốt:
– Không thể tưởng tượng được, muốn vào Quỷ Phủ Biệt Cung, phải làm cho kiệt giòng Phi Long Tuyền trước. Khung cửa ẩn mình trong suối, còn bảo ai kiếm tìm cho ra chứ?
Bà day qua hỏi Độc Cô Thanh Tùng:
– Công Tử làm cách nào ngăn trở giòng nước?
Chàng đáp:
– Trên đỉnh Ngọc Trụ Phong , có một nơi bí ẩn, nơi đó có một con đường nước, muốn làm cạn lòng suối Phi Long, phải chuyển hướng cho lòng nước chảy theo con đường mình vừa phát giác đó.
Ma Nương tung mình vọt tới độ bảy tám trượng, rồi từ đó thẳng đường lên đỉnh Ngọc Trụ Phong.
Đường lên dốc đứng như cái tên của tòa núi sừng sững như chiếc cột trồng, nếu không là tay có vũ công thượng thặng đừng hòng tiến được mấy trượng.
Lên đến chánh môn của Quỷ Phủ Biệt Cung, Ma Nương đẫm ướt mồ hôi, bà dừng lại thở dốc. Nhưng, bà trố mắt kinh ngạc:
Độc Cô Thanh Tùng đã có mặt tại đây rồi.
Chàng đứng tại khung cửa, bình tĩnh điểm một nụ cười.
Chàng lên lúc nào, theo lối nào?
Hơi thở vẫn điều hoà, thần thái vẫn điềm nhiên, không có một thay đổi nào chứng tỏ chàng có phí sức.
Ma Nương hết sức thán phục. Đưa mắt nhìn vào bên trong. Ma Nương cảm thấy rợn người. Một luồng gió lạnh âm chưởng từ bên trong Quỷ Phủ thổi ra, Ma Nương nghe giá buốt xám nhập tận tạng phủ.
Độc Cô Thanh Tùng trông tình hình Ma Nương, chàng nghiêm giọng thốt:
– Ma Nương dù sao cũng là môn đệ của Quỷ Phủ, đến nơi đây rồi phải tỏ hùng tâm dũng chí, cớ sao lại khiêp hãi như vậy? Phấn khởi lên đi!
Ma Nương ấp úng:
– Tôi…tôi…phải, sư thúc nói phải.
Độc Cô Thanh Tùng gật đầu:
– Phải đấy, từ nay trở đi, Ma Nương nên gọi tôi là Chưởng Môn sư thúc.
Ma Nương lập lại:
– Chưởng Môn sư thúc!
Độc Cô Thanh Tùng lại gật đầu lượt nữa, đoạn tiến thẳng vào trong.
Chàng đi như kẻ rất quen thuộc nơi đây từ lâu, không do dự, không ngập ngừng nhìn qua ngó lại tìm tòi.
Cách kiến trúc của tòa Quỷ Phủ Biệt Cung nầy hết sức tân kỳ ngụy dị, chứa đựng vô cùng huyền diệu, nơi nào cũng biểu lộ một môn công siêu việt nói lên mức độ lĩnh hội vũ học của chủ nhân. Thời gian hoàn thành công tác kiến trúc hẳn không phải ngắn.
Không gian trong Quỷ Phủ Biệt Cung sáng xanh mờ ảo trầm trầm lạnh lạnh, một không gian không dành cho những người sống, tử khí như lúc nào cũng đè nặng khắp nơi.
Theo sau Độc Cô Thanh Tùng, Ma Nương đã đi qua ba gian thạch thất, đặt chân đến một con đường hoành, đụng phải một ao đầy nước, nước trong veo, nhìn không thấy đáy, không rõ cái ao sâu đến bao nhiêu trượng.
Tuy là ao, song nước trong ao lại kêu ầm ầm, một hiện tượng hết sức kỳ quái, khiến Ma Nương kinh sợ thất thần.
Độc Cô Thanh Tùng hạ thấp giọng , thốt:
– Đây là ao dùng trừng phạt môn đồ phạm pháp, nên có cái tên gọi là Hình Trì, bị vứt xuống đấy rồi, thì kể như vĩnh viễn không được siêu sanh.
Cả hai dọc quanh ao, đi tận đến đầu đối diện.
Đột nhiên, Ma Nương thấy hoa mắt lên, trong chớp nhoáng, Độc Cô Thanh Tùng biến đâu mất. Bà hết sức kinh hãi, ngẩng đầu lên, nhìn thấy một lổ hỏng hình tròn hiện ra trên đỉnh đầu.
Không chậm trễ, Ma Nương liền vọt lên, chui lọt qua lỗ hổng, trên ấy là tòa đại sảnh. Bà nhìn thấy Độc Cô Thanh Tùng đã có mặt tại trung tâm sảnh đường.
Chàng đưa tay vẫy Ma Nương , cao giọng thốt:
– Nơi đây là bổn điện trong Quỷ Phủ, đến đây rồi, không một ai có thể vi phạm giới luật của bổn phủ, kẻ phạm vào giới luật lập tức bị giết chết, chẳng cần phải truy cứu ân giảm.
Chàng thốt xong, chuyển mình sang phía tả, theo một cánh cửa ngách, chui qua bên kia. Ma Nương bám sát theo chàng.
Độc Cô Thanh Tùng day lại, bảo nhỏ:
– Ma Nương! Mình đã đến đài điện của bổn phủ Tổ Sư Quỷ Vương rồi.
Bên hữu đại diện, có một hành lang kéo dài đến một chỗ tối tăm, gió lạnh lại thổi vi vu trong hành lang đó. Cả hai từ từ cất bước.
Độc Cô Thanh Tùng hạ thấp giọng, tiếp nối:
– Ma Nương bước tới hai bước, về phía tả của tôi đây mà đi!
Ma Nương tuy đi trong gió lạnh, mà mồ hôi xuất ra dầm dề, bà nghĩ:
– Tôi đã đi sau Công Tử , sát bên đây mà, chẳng lẻ như thế lại lạc đường à?
Nhưng bà không dám cãi, vội làm y theo lời chàng.
Đột nhiên, một tiếng động vang lên như tiếng kim khí rít trong không gian bên trên đỉnh đầu Độc Cô Thanh Tùng và Ma Nương. Một thanh đao nặng ít lắm cũng trăm cân, bổ xuống.
Ma Nương hoảng sợ, không còn né tránh được nữa, rú lên:
– Chết rồi!
Độc Cô Thanh Tùng nhanh như chớp, đưa ngón tay ra điểm vào vách đá bên hữu kêu bốp một tiếng.
Thanh đao đang lao vút xuống với cái đà của vật nặng trăm cân, bỗng nhiên dừng lại, lơ lửng trên không, cách đầu cả hai độ nữa tấc.
Ma Nương lè lưỡi, thốt:
– Nguy hiểm vô cùng!
Độc Cô Thanh Tùng liếc nhanh mắt sang bà một thoáng không đáp, cứ từ từ tiến tới. Đi được bảy bước, chàng bỗng thét lên:
– Nhanh!
Ma Nương không hiểu gì cả , nhưng đã đoán được là có gì lạ sắp xảy ra.
Độc Cô Thanh Tùng vừa thét, vừa nắm cánh tay hữu của bà, nhảy vọt tới trước ba trượng. Thân pháp của chàng nhanh không thể tưởng, nếu so với làn điện chớp, kể ra còn nhanh hơn nữa.
Bà vội quay người nhìn lại, thấy lối đi đã bị bít mất rồi.
Lúc đó, cả hai đều đến trước một tòa nhà đá, cách vách độ ba phân.
Nếu Độc Cô Thanh Tùng trong cái nhảy, chồm tới một chút cả hai đều ập mình vào vách đá rồi, chàng toàn định thế nào vọt tới rất vừa vặn, hơn nữa, phía sau bững đá rơi xuống bít lối chàng thông cũng không cách xa gì lắm, nếu trể một chút thì họ không qua lọt bững đá, hoặc giả họ rơi sát bững đá qua, sẻ bị thương tích ngay.
Ma Nương sợ đến tái người. Bà ấp úng hỏi:
– Thế nầy là sao? Tình hình ở đây nguy hiểm quá!
Độc Cô Thanh Tùng thở phào, đáp:
– Đây là nơi giam cầm ba vị sư huynh, nếu không nhờ luyện được khinh công của bổn phủ, thì quyết không thể nào qua lọt kịp thời, vì bững đá buông xuống nhanh không tưởng tượng nổi. Chẳng những thế, mình còn bị nó đè nhẹp, chết mất xác.
Ma Nương càng sợ tái mặt, thốt:
– Nếu vậy, dù tôi có biết Quỷ Phủ ở nơi nào trước đây, cũng không thể cứu thoát ca ca tôi ra khỏi nơi giam cầm.
Độc Cô Thanh Tùng gật đầu:
– Đúng vậy. Mà biết đâu, Ma Nương lại phải bỏ xác tại đây.
Cả hai lại theo vách đá, đi tới, độ hai trượng nữa, đến một khung cửa hông.
Cánh cửa bằng đá, đóng kín im lìm.
Độc Cô Thanh Tùng đưa chân đạp mạnh một phát. Cánh cửa từ từ mở ra. Cả hai cùng trố mắt nhìn vào bên trong khung cửa vừa mở rộng. Ma Nương không dằn được cơn kinh hãi , ạ lên một tiếng.
Bên trong, là một tòa đại điện, khảm ngọc, lát vàng, huy hoàng rực rỡ vô cùng.
Nơi trung tâm điện, một lão nhân râu ngắn mặc áo tía ngồi ngay dưới nền, mắt ngắm nghiền, dáng dấp trang nghiêm uy mãnh, hai tay cầm ngang một chiếc Quỷ Đầu Hàn Thiết Trượng, đặt nằm trước mặt.
Độc Cô Thanh Tùng dẫn Ma Nương bước tới, còn cách lão nhân độ ba thước, dừng lại, sửa dáng trang nghiêm, cung kính quỳ xuống, thốt:
– Bổn phủ Đệ Tam Đại Chưởng Môn, đệ tử Độc Cô Thanh Tùng bái kiến Tổ sư!
Chàng cúi lạy y, lạy bốn lạy. Ma Nương cũng làm y theo chàng.
Xong, Độc Cô Thanh Tùng đứng lên, bước tới một bước, đưa tay toan chụp lấy chiếc Quỷ Đầu Hàn Thiết Trượng.
Vừa lúc đó, một luồng âm phong từ bên hông cuốn đến kích chàng.
Đồng thời có tiếng quát vang lên:
– Tiểu tử từ nơi nào đến đây, dám ngang nhiên hành động như thế tại Quỷ Phủ?
Độc Cô Thanh Tùng rút tay về, không nhìn người buông tiếng quát, chàng quay sang Ma Nương thốt nhanh:
– Ma Nương lui lại ba trượng, nhanh lên!
Ma Nương không dám chậm trễ, vội đảo bộ lùi lại, vận dụng nhãn quang nhìn xem sự thể diễn tiến thế nào.
Chợt, bà bỗng kêu lên:
– Đại ca!
Bà nhún chân, nhảy vọt trở lại chỗ cũ.
Độc Cô Thanh Tùng thấy vậy hét lên:
– Ma Nương! Không được đâu! Đại ca của Ma Nương bị giam cầm mấy mươi năm rồi, oán hận đầy lòng, tâm trí lại bất định, không thể trong nhất thời nhận ra Ma Nương đâu!
Ma Nương không tin là sự trạng sẽ đúng như lời Độc Cô Thanh Tùng, bà trố mặt nhìn người vừa xuất hiện phóng đạo âm phong kích chàng.
Người đó tóc rối, đầu bù, đã biến sang màu bạc, phủ bên trên như một ổ cỏ trắng khô. Đôi mắt người đó sáng quắc như hai điểm sao, sáng đến độ bật tia nhìn như bắn lửa rực lên. Mặt người đó tím hẳn, niềm phẫn hận bừng lộ thấy rõ.
Ma Nương bất giác kinh sợ thất thần, vội lùi lại ba bước.
Vừa lúc đó hai người nữa lại xuất hiện, cũng với khí thế vô cùng hung hãn như người trước.
M ẤT TRANG….. Chương BBííícchh NNhhaãõõnn TThhaầàànn TTaăêênngg gười trung niên đưa tay mời Thần Phủ Khai Sơn.
Vào trong rồi, Thần Phủ Khai Sơn bắt chuyện liền:
– Tại hạ vì chiếc Kim Đảnh Võ Lâm nên đến đây.
Ngươn Nhi nghe thế, soạt chân xuống nền, tay rút vội nhanh kiếm ra khỏi võ, gằn giọng hỏi:
– Ngươi định chiếm báu vật của tổ tiên ta? Ngươi sẻ chết không hay hồn đấy!
Thần Phủ Khai Sơn khẻ liếc nhìn hắn, thấy hắn thanh kỷ tuấn dật, nhưng đôi mày có ẩn sát khí, lão thầm tiếc khuyết điểm đó.
Lão điểm nụ cười, đáp lời hắn:
– Lão phu có tài có đức gì mà mong vọng chiếm hữu chiếc Kim Đảnh của võ lâm! Trái lại lão còn lo ngại cha con ngươi thế cô người ít, khó thể bão trì được vật báu là khác.
Người trung niên kinh hãi, hỏi:
– Cao huynh thấy sao mà nói như thế?
Thần Phủ Khai Sơn đáp nhanh:
– Sớm muộn gì Huyết Ma Bang cũng mưu đồ việc nầy, và chúng sẽ chiếm mất vật báu !
Ngươn Nhi nhớ lại hai đêm rồi, hắn đã giết gần mươi tên, hắn tự đắc, thốt:
– Cái bọn bị thịt đó…
Hắn chưa dứt lời, bỗng thấy người trung niên biến sắc.
Hắn toan hỏi, người trung niên nhanh như chớp, bay vọt ra cửa, nhảy lên nóc nhà, rồi phóng mình sang hướng Tây.
Trong phòng, Ngươn Nhi đứng trước mặt Thần Phủ Khai Sơn, thanh kiếm lăm lăm trong tay, như chực chờ nếu Thần Phủ Khai Sơn nhích động là hắn xuất thủ liền.
Thần Phủ Khai Sơn nhìn hắn, mỉm cười.
Một lúc sau, người trung niên trở vào, mặt còn lộ vẻ giận.
Ngươn nhi hỏi liền:
– Kẻ nào thế hở phụ thân? Để con đi một vòng xem có gặp ai không nhé?
Người trung niên lắc đầu:
– Vô ích! Đến ta mà còn không tìm được kẻ đó, con có ra đấy cũng chẳng gặp gì được đâu.
Đoạn, người trung niên day qua Thần Phủ Khai Sơn, đưa mắt nhìn lão như ngầm hỏi về việc đã bỏ dở.
Thần Phủ Khai Sơn cười nhẹ, hỏi lại:
– Huynh đài có thể cho tại hạ biết cao tánh đại danh?
Người trung niên lắc đầu đáp:
– Đã là giòng dõi của Vô Danh Kiếm Khách thì làm gì có tên họ?
Thần Phủ Khai Sơn mỉm cười, tiếp nối:
– Vậy thì tại hạ xưng huynh đài là Vô Danh huynh, có được chăng?
– Tùy Cao huynh, muốn gọi sao cũng được, chẳng quan hệ gì.
– Vô Danh huynh biết Huyết Ma Bang Chủ là ai chăng?
– Tại hạ chẳng nghe nói đến ba vị Đàn Chủ trong Huyết Ma Bang, còn Bang Chủ là ai thì chưa được rõ.
Thần Phủ Khai Sơn lộ vẻ nghiêm trọng hơn, thốt:
– Tại hạ cố gắng truy nguyên điều đó suốt ba năm, may ra vừa được biết.
Bang Chủ Huyết Ma Bang là một trong số các Thiên Tôn Lệ Quỷ từng giao tang tác trên giang hồ năm mươi năm về trước.
Người trung niên kêu lên:
– Vạn Cực Thiên Tôn là Lệ Quỷ Thượng Nhân?
Thần Phủ Khai Sơn đáp nhanh:
– Đúng vậy !
Người trung niên biến sắc, trầm lặng một lúc, rồi buông tiếng thở dài:
– Nếu Kim Long Kiếm Pháp gia truyền của tại hạ đừng thất lạc hai chiêu cuối là Đằng Kiếm và Tường Kiếm, thì tại hạ có sợ gì lão ấy? Tiếc thaỵ..
Y hằn hộc như tiếc hận sự đó lắm, đoạn tiếp nối:
– Cao huynh có biết không? Hai chiêu đó là tuyệt chiêu của thuật Ngự Kiếm tối cao đấy?
Y lại trầm ngâm một lúc nữa sau cũng cao giọng thốt:
– Võ Lâm Kim Đảnh là vật chí báu gia truyền của giòng họ Vô Danh Kiếm Khách, tại hạ nguyện bảo vệ nó đến giọt máu cuối cùng, quyết không bao giờ để rơi vào tay kẻ vô lương vậy. À, Cao huynh có biết chừng nào Vạn Cực Thiên Tôn đến đây không?
Thần Phủ Khai Sơn đáp:
– Vợ chồng Vạn Cực Thiên Tôn có thể đến bất cứ lúc nào. Ngay từ bây giờ, Vô Danh huynh nên phòng bị hết sức chu đáo mới được.
Thốt xong, Thần Phủ Khai Sơn đứng lên, y muốn cáo từ. Người trung niên muốn nói gì đó lại thôi, nhưng Thần Phủ Khai Sơn đã đoán được người trung niên muốn gì rồi. Lão thốt:
– Đêm nay, hân hạnh được gặp Vô Danh huynh, chắc mình còn có dịp gặp nhau nữa vậy. Tại hạ cư ngụ tại Long Thuận khách điếm gần đây, nếu Vô Danh huynh có việc cần sai khiến, cứ treo trước cửa phòng nầy một vuông khăn trắng trong khoảnh khắc tại hạ sẻ đến ngay.
Người trung niên không còn nghi ngờ Thần Phủ Khai Sơn nữa, bước tới nắm tay lão, tỏ ý cảm kích vô cùng, thốt:
– Cao huynh có thạnh tình như thế, tại hạ xin ghi nhớ suốt đời.
Y dừng lại, trầm ngâm một lúc, đôi mắt bật tia sáng kỳ dị, chăm chú nhìn Thần Phủ Khai Sơn, miệng lẩm nhẩm những gì nghe không rõ, đột nhiên y hạ thấp giọng thốt:
– Nếu đêm mai, Cao huynh có thư thả, xin đến đây, cùng tại hạ quan sát một chỗ trong khu Tề phủ nầy, tại hạ nghi là nơi đó xưa kia Tề Vương chôn dấu chiếc Kim Đảnh Võ Lâm.
Y tỏ vẻ thất vọng:
– Ba tháng nay, cha con tại hạ đã ra công tìm khắp chốn quanh khu Tề phủ nầy, nhưng chẳng thấy gì đáng chú ý, chỉ có nơi ấy là tại hạ nhận ra có nhiều điểm khác la…..