Cổ am trong chùa vắng
Đôi ngựa vẫn chạy nhanh vùn vụt xuyên qua bao cánh đồng mênh mông hiu
quạnh, giữa buổi chiều tà.
Thấy đã xa quân địch, Anh Kiệt ghìm cương ngựa, nhảy vụt xuống đất sụp
lạy:
– Cảm tạ ơn cứu tử của ân nhân. Hà Thiệu này xin ghi lòng tạc dạ.
Anh Kiệt kinh hãi, nhảy xuống ngựa, đỡ chàng thanh niên dậy:
– Kìa nhân huynh, làm chi quá đáng vậy. Gặp nhau giữa đường là bổn phận
của con nhà võ, nhân huynh làm vậy thật đệ xấu hổ vô cùng.
Chàng thanh niên chưa chịu đứng lên, khiến Anh Kiệt phải tiếp lời:
– Vả lại, nếu không có tài thần tiễn của nhân huynh thì chắc gì đệ thoát khỏi
vòng vây.
Hà Thiệu từ từ đứng lên nói:
– Tiểu đệ không ngờ gặp việc rủi hóa may. Nếu không có trận giao đấu vừa rồi
làm sao gặp được bậc kỳ tài… Nhưng ân nhân đi về đâu? Chẳng hay cao danh quý
tánh là gì?
Anh Kiệt đã dự định kết giao với Hà Thiệu từ lúc còn ở trong quán, nên càng
không ngần ngại đáp:
– Tiểu đệ tên thật là Anh Kiệt, từ Phiên Ngung định về Hạnh Hoa thôn.
Chàng chưa kịp dút lời thì Hà Thiệu đã reo lên:
– Hạnh Hoa thôn? Hạnh Hoa thôn? Có phải chăng là nơi ẩn dật của hiệp sĩ Vũ
Anh Tùng.
Anh Kiệt sửng sốt hỏi lại:
– Sao nhân huynh biết người?
Hà Thiệu nói với tất cả lòng hâm mộ:
– Tên tuổi của hiệp sĩ vang lừng khắp bốn phương trời, anh hùng trong thiên
hạ, ai còn không biết. Sư phụ của tiểu đệ khi xưa là bạn cố giao của Vũ hiệp sĩ.
Anh Kiệt lộ vẻ vui mừng:
– Thế à? Hiện tại người đâu? Nhân huynh, có thể cho đệ yết kiến người chăng?
Hà Thiệu nhìn Anh Kiệt lo ngại:
– sư phụ của tiểu đệ đang ẩn dật trong một cổ am gần đây? Bình nhật, người
không tiếp ai cả, nhưng đối với ân nhân đệ xin cố gắng. Hơn nữa, trời sắp tối, thế
nào ân nhân cũng phải nghỉ qua đêm nay.
Anh Kiệt vẫn thường mong mỏi được gặp những người bạn cũ của cha chàng
để được nghe những lời khuyên bảo mà chàng chắc chắn sẽ có ích cho mình trên
đường đời.
Hôm nay bất ngờ được yết kiến một người ở vùng này, thật là một dịp may
hiếm có.
Hà Thiệu bỗng nói:
– Thôi chúng ta lên đường, trời đã tối. Không chừng ân nhân sẽ được gặp anh
Tiểu Lý Bá ở nhà.
Hà Thiệu gục gặc đầu như nói với mình.
– Họa chăng anh Tiểu Lý Bá mới xứng tay đối thủ chứ Hà Minh không sánh
bằng.
Anh Kiệt ngạc nhiên hỏi:
– Nhân huynh bảo sao? Tiểu Lý Bá là ai vậy?
Biết mình lỡ lời, Hà Thiệu vội đáp:
– Dạ không? Anh Tiểu Lý Bá là dưỡng tử của sư phụ tiểu đệ, một tráng sĩ vũ
dũng, đa mưu, tài học quán thống thiên hạ. Vừa rồi tiểu đệ trộm nghĩ chỉ có anh
Tiểu Lý Bá họa chăng mới đủ tài giao đấu với ân nhân.
Anh Kiệt vội chống chế:
– Nhân huynh quá lời? Tài nghệ của đệ có thấm gì với những bậc kỳ tài.
Hai người cùng giục ngựa đi về phía những vườn cây rậm rạp, giữa lúc bóng
đêm cứ lan dần, lan dần…
Bầu trời không có trăng, nhưng ngàn sao le lói, tỏa sáng lờ mờ, đủ cho Anh
Kiệt thấy rõ con đường vào xóm, ngoằn ngoèo dưới những chòm cây dày đặc.
Hà Thiệu cho ngựa chạy đều đều, trên con đường càng lúc càng nhỏ hẹp hơn.
Bốn bề vắng lặng, không nghe một tiếng chó sủa, gà kêu… Vườn cây như nối
tiếp liền nhau, đến nơi vô tận.
Xa xa, có tiếng chuông buồn ngân nga làm tăng thêm vẻ cô tịch của khu vườn.
Hà Thiệu bỗng quay lại bảo bạn:
– “ân nhân” có nghe chăng tiếng chuông từ Cổ Am của sư phụ tôi vọng lại?
Anh Kiệt đột nhiên dừng ngựa và nói với Hà Thiệu với vẻ trách móc:
– Nhân huynh muốn đưa tôi đến gặp sư phụ hay định đuổi tôi về?
Hà Thiệu kinh ngạc nhìn người bạn đường trong bóng tối lờ mờ:
– Kìa ân nhân ? Tôi có làm điều gì không phải đâu?
Anh Kiệt nghiêm nghị đáp:
– Tại sao nhân huynh gọi tôi là “ân nhân” mãi vậy khiến tôi xấu hổ lắm?
Hà Thiệu bật cười:
– Tráng sĩ thật khó tánh? Nếu vậy tôi xin thưa một điều này, không biết tráng
sĩ có đồng ý chăng? Tôi muốn chúng ta kết nghĩa đệ huynh, sống chết có nhau.
Anh Kiệt vui mừng đáp:
– Được vậy còn gì hơn nữa?
Hà Thiệu lại nói:
– Tráng sĩ cao tuổi hơn, tôi xin nhường làm anh và bắt đầu từ giờ phút này hai
ta xem nhau như ruột thịt.
Anh Kiệt nói một cách chân thành:
– Tôi là một kẻ mồ côi, không có anh em, chỉ còn có một mẹ già ở Hạnh Hoa
thôn. Từ bao lâu rồi, lòng vẫn khát khao được kết nghĩa với những bậc anh hùng
trong thiên hạ nhiều tài đức để cùng chung sức giúp đời. Ngày nay được gặp hiền
đệ thật tôi mãn nguyện lắm.
Hà Thiệu cảm động, khẽ đáp:
– Hiền huynh chớ lo. Người trên đường đời, rồi đây chúng ta sẽ còn gặp nhiều
đồng chí hướng. Lát nữa đây, không chừng hiền huynh gặp anh Tiểu Lý Bá và
chúng ta sẽ cùng kết nghĩa với nhau.
Rồi như sực nhớ điều gì. Hà Thiệu dặn dò:
– Anh Tiểu Lý Bá là người cương trực, thẳng thắn. Anh rất ghét những kẻ
không thật lòng. Hiền huynh chớ nên dè dặt điều gì cả, lỡ anh ấy hiểu lầm thì khó
mà kết thân với nhau được.
Hà Thiệu lại nói thêm:
– Người dù tài giỏi đến đâu cũng phải có tật, hoặc ít hoặc nhiều phải không
hiền huynh?
Anh Kiệt mỉm cười trong bóng đêm:
– Hiền đệ chớ lo ? Anh rất ưa thích những người tánh tình khẳng khái như vậy.
Hà Thiệu chợt nhìn lên ngôi sao hôm, rồi thúc ngựa lên đường.
Tiếng chuông từ Cổ Am đã vắng bặt từ bao giờ. Gió đêm rì rào qua muôn kẽ
lá như tiếng thì thầm của vườn cây, nội cỏ.
Hai người rẽ sang tay phải, đến một con rạch nhỏ.
Anh Kiệt nhìn thấy không có cầu ngang chưa biết phải qua sông bằng cách
nào thì Hà Thiệu đã cho ngựa lội xuống nước… Rạch cạn, nuớc chỉ lấp xấp dưới
chân ngựa nên cả hai đi qua rất dễ dàng.
Vừa lên đến bờ, Anh Kiệt đã thấy trước mặt có ánh đèn và trong gió đêm,
chàng ngửi thấy mùi trầm hương thoang thoảng. Hai người cho ngựa qua khỏi
những đống gạch vụn trước sân thì đến cửa.
Tiếng mõ tụng kinh từ bên trong vọng ra đều đều rồi lơi dần và im bặt.
Hà Thiệu đưa tay đẩy cánh cửa am. Hơi ấm lùa ra quấn lấy hai người, xua đi
khí lạnh ở bên ngoài. Anh Kiệt cảm thấy trong lòng khoan khoái dễ chịu vô cùng.
ánh sáng của ngọn đèn treo trên vách tỏa khắp gian phòng trống trải, giống
như một nơi dùng để luyện võ. Những món binh khí để sát góc phòng làm cho
Anh Kiệt chắc chắn ý nghĩ của mình hơn. Một điểm nghi ngờ thoáng hiện ra trong
óc chàng. Sư phụ của Hà Thiệu có quả là một bậc chân tu không? Hay là người
đội lốt nhà sư, mượn cửa thiền để làm việc lớn?
Hà Thiệu bỗng ghé vào tai chàng bảo nhỏ:
– Nơi đây, sư phụ dùng để dạy môn đệ luyện tập võ nghệ ?
Hà Thiệu lại đưa Anh Kiệt qua một cửa nhỏ ăn thông ra phía nhà sau. Cả hai
cùng dừng lại khi thấy trước mặt một nhà sư vạm vỡ đang ngồi tham thiền trước
bàn Phật.
Hà Thiệu lại nói:
– Sư phụ đã nhập định. Giờ tụng kinh sắp dứt, chúng ta vào quỳ để đợi lệnh
người. Anh Kiệt theo bạn vào quỳ trước bàn Phật, lòng vẫn chưa hết phân vân.
Bỗng chàng giật mình kinh ngạc khi nghe nhà sư cất tiếng:
– Hà Thiệu đấy à? Con đến với ai vậy?
Câu hỏi của nhà sư làm cho Anh Kiệt hiểu rằng ông là một bậc kỳ tài: Ngồi
tham thiền mà đoán được bước chân đi…
Hà Thiệu vội đáp:
– Bạch thầy? Con đưa vị ân nhân vào ra mắt. Người vừa cứu con khỏi bọn lính
Tàu.
Nhà sư từ từ quay lại.
Anh Kiệt sụp xuống thi lễ:
– Bạch sư cụ? Tiểu sinh từ phương xa đến đây, đường đột vào làm rộn, xin sư
cụ miễn chấp.
Nhà sư biết gặp người hiền, nên đỡ Anh Kiệt đứng lên:
– Tráng sĩ đừng làm vậy? Tráng sĩ cứu mạng đệ tử của bần tăng thì chính bần
tăng đã mang ơn rất nặng rồi.
Anh Kiệt thưa:
– Xin sư cụ chớ nghĩ đến điều đó.
Nhà sư bỗng hỏi Hà Thiệu:
– Quan Tàu đã làm gì đến đỗi đệ tử phải gây sự. Ta đã cấm đệ tử không được
giao đấu kia mà?
Hà Thiệu cúi đầu nhận lỗi. Một lúc sau chàng đáp:
– Bạch thầy? Chúng hà hiếp người cô thế nên con không chịu được. Vả lại con
tưởng bệnh đã hết, nào ngờ đánh với chúng không đầy mười hiệp đã ngất lịm đi.
Nhà sư chậm rãi nói:
– Cũng thật là may? Nếu không gặp tráng sĩ đây thì con đã bỏ mạng rồi, dù ta
có hay tin cũng trễ. Phải chi ta cho Tiểu Lý Bá cùng đi với con thì mọi việc đều
yên.
Nhà sư nhìn Anh Kiệt với đôi mắt hiền từ cảm mến. ông chỉ tay sang bên
cạnh nói:
– Mời tráng sĩ sang phòng bên. Chúng ta cùng dùng trà để đàm đạo cho vui.
Anh Kiệt nhường bước cho sư cụ rồi cùng Hà Thiệu theo sau.
Gian phòng bày trí rất đơn sơ mộc mạc biểu lộ tâm hồn giản dị của chủ nhân.
Ngoài chiếc gương kê ở góc phòng, bên mặt là một án thư, bên trái là một chiếc
bàn con để uống trà… Trên vách một chiếc đàn tỳ bà treo giữa hai ống tiêu nhẳn
bóng, như gián tiếp giới thiệu chủ nhân là một tay giỏi cầm ca.
Thấy Anh Kiệt cứ chăm chú nhìn chiếc đàn tỳ bà, nhà sư mỉm cười:
– Đàn ấy không phải của bần tăng đâu? Nó là của một người bạn đã qua đời…
Nhà sư im lặng một phút, mơ màng nhớ thời xa xưa, tiếp lời:
– Buổi thiếu thời bần tăng là một kẻ giang hồ, lưu lạc khắp bốn phương trời.
Gặp người bạn kia trong lúc giao tranh với bọn cường đạo ở núi Nghiêm Trang,
huyện Vụ Bản rồi mến nhau kết nghĩa đệ huynh. Người ấy, thường hay ngồi trên
mình ngựa, khảy đàn tỳ trong những chiều xa xứ… Khi chia tay nhau người trao
tặng chiếc đàn này nên bần tăng giữ mãi bên mình, thấy nó như thấy bạn hiền…
Bây giờ thì người ấy đã về chầu đức Phật.
Hà Thiệu rụt rè nói:
– Bạch thầy? Tráng sĩ đây là người ở Hạnh Hoa thôn.
Đôi mắt nhà sư vụt sáng lên biểu lộ sự ngạc nhiên:
– Tráng sĩ ở Hạnh Hoa thôn chắc biết rõ hiệp sĩ Vũ Anh Tùng? Đàn tỳ bà kia là
người đó .
Anh Kiệt bỗng quỳ xuống lạy nhà sư giữa sự ngạc nhiên của người và Hà
Thiệu.
– Cháu kính chào thúc phụ? Cha cháu chính thật là Vũ Anh Tùng.
Nhà sư vụt đứng lên nắm chặt lấy vai chàng:
– O kìa? Vũ Anh Kiệt đây ư?
Rồi người nghẹn ngào không nói lên lời, trong lúc Hà Thiệu bước tới, bước
lui, bồn chồn, vui thích.
Một lúc chừng như bớt cảm xúc, nhà sư nói:
– Khi hay tin cha cháu mất ta tìm đến Hạnh Hoa thôn thì đã quá trễ rồi. Mẹ
cháu có bảo rằng quan Đề đốc hộ thành Hoàng Quốc Kính mang cháu về Phiên
Ngung học tập đúng như lời trăn trối của Vũ huynh. Ta rất yên lòng vì Quốc Kính
là người bạn tốt đầy đủ tài đức dìu dắt cháu trên đường đời. Ta về ẩn dật nơi đây,
nhưng vẫn hằng nhớ đến cháu. Hôm nay sao cháu lạc bước đến chốn này?
Anh Kiệt khẽ đáp:
– Thưa thúc phụ? Hoàng Đề đốc vừa cho phép cháu về Hạnh Hoa thôn thăm
mẹ, vì đã hơn sáu năm rồi, mẹ con không được gặp nhau.
Nhà sư mỉm cười:
– Quốc Kính tệ thi thôi? Chắc là Vũ hiền tẩu buồn phiền lắm?
Hà Thiệu bỗng bước đến nắm chặt tay Anh Kiệt:
– Trời? Vũ huynh? Từ lúc chiều đến giờ sao không nói rõ tung tích cho tiểu đệ
kịp mừng?
Nhà sư trách khéo Hà Thiệu như để khuyên răn:
– Nếu ở vào địa vị của đệ tử, chắc đệ tử đã thú nhận mình là con của hiệp sĩ
Vũ Anh Tùng để mọi người khiếp sợ chứ gì?
Hà Thiệu cụt hứng, lấm lét nhìn sư phụ.
Nhà sư bảo thêm:
– Đi đường xa, luôn luôn ta cần phải dè dặt cho lắm? Không mỗi một chút, mỗi
xưng danh tánh. Bọn gian biết ta là con giòng, cháu giống thì chúng càng để ý và
tìm cách hãm hại ngay. Đệ tử chưa cứu giúp được người đời thì đã mang họa vào
thân Thái độ của Vũ hiền điệt vừa qua đáng là một bài học cho đệ tử ghi nhớ.
Hà Thiệu cung kính đáp:
– Bạch thầy, con đã hiểu.
Nhà sư bỗng nói với Hà Thiệu:
– Chắc Anh Kiệt chưa dùng cơm, đệ tử hãy vào nhà trai lo lắng thay cho thầy.
Tiểu Lý Bá đi vào núi chưa về kịp.
Hà Thiệu vâng dạ lui ra cánh cửa bên trái ăn thông qua phía sau vườn.
Nhà sư quay nhìn Anh Kiệt rồi từ từ cất tiếng:
– Ta cũng biết cháu nóng lòng về thăm mẫu thân cháu. Nhưng không biết nhau
thì thôi, nay đã gặp nhau rồi, ta muốn cháu ở lại Cổ Am vài ngày để ta biết qua
nghề văn, nghiệp võ. Biết đâu ta sẽ giúp ích cho cháu phần nào để khỏi phụ lòng
Vũ huynh. Nếu rủi mai kia trên đường đời, cháu thất bại vì những cái mà bọn ta đã
trải qua, thì đáng trách biết chừng nào !
Anh Kiệt nín lặng, lòng chàng hết sức phân vân.
Thật ra, chàng rất nôn nao về thăm mẹ, nhưng trước những lời nói chân thành
và hữu lý của nhà sư, chàng thấy mình khó cưỡng lại được.
Tất cả những hiệp sĩ bạn thân của cha chàng đều cùng chung một ý nghĩ Họ
muốn truyền dạy cho Anh Kiệt đầy đủ kiếm pháp, võ nghệ cũng như cách đối
nhân xử thế, để cho chàng thành công trên đường đời. Chẳng riêng gì Hoàng Đề
đốc hay nhà sư mà Anh Kiệt dư biết rằng những người bạn của cha mà chàng sẽ
gặp sau này, đều muốn giúp chàng nên người hữu dụng.
Lúc nhỏ, mẹ chàng thường kể lại khi hạ sinh chàng, các tay hiệp sĩ có tụ họp ở
Hạnh Hoa thôn để chúc mừng cha chàng. Người nào cũng dành được quyền dạy
dỗ Anh Kiệt nên sau cùng cha chàng đã nói:
– “Tôi xin trao quyền dạy dỗ đứa trẻ này cho tất cả mọi người có mặt nơi đây,
trong bất cứ trường hợp nào, gặp lại nó trên đường đời”.
Do câu nói ấy mà ngày nay Anh Kiệt đành nén lòng nhớ mẹ ở lại thôn Cao
Đồng. Chàng chưa kịp đáp thì nhà sư đã hỏi:
– Thế nào ? Cháu có nghe lời ta nói không?
Anh Kiệt vội vã đáp:
– Kính thưa thúc phụ, cháu xin vâng ạ?
Nhà sư vui mừng đứng dậy bảo:
– Các con đừng khách sáo nữa. Anh hùng trong bốn bể đồng thanh, đồng chí là
anh em, huống chi các con cùng môn phái. Nay may mắn hội ngộ với nhau thì
phải có chén rượn mừng nhau gọi là lễ ra mắt mới đúng phép.
Anh Kiệt nói:
– Thúc phụ dạy chí phải ?
Tiểu Lý Bá cũng mỉm cười nói:
– Chúng con cũng ra mắt Anh Kiệt hiền huynh.
Anh Kiệt khiêm nhượng nói:
– Ngự đệ được hầu thúc phụ và nhị vị đại huynh đã là may mắn lắm rồi, có đâu
dám nhận mình vào hàng môn khách.
Một lúc sau bàn tiệc được bày ra dưới ánh trăng khuya.
Nhà sư và ba đồ đệ cùng Anh Kiệt ngồi quanh vừa uống rượn vừa bàn thế sự.
Hà Thiệu thuật lại chuyện vừa qua của mình và Anh Kiệt cho Hà Minh, Tiểu
Lý Bá nghe khiến hai người đều bực tức không có mặt để cho lũ khốn kiếp đó một
trận
Riêng Anh Kiệt lòng nghĩ miên man không dút. Chàng bước ra đời đã gặp
những tay tài giỏi, thế mới biết trong thiên hạ thiếu gì kẻ anh hùng hào kiệt.
Hà Thiệu đã giỏi kiếm cung mà Hà Minh còn giỏi hơn em gấp bội, đến Tiểu
Lý Bá thì là bậc phi thường, tài ba xuất chúng. Mọi người đều ca tụng tài năng của
chàng thật không quá đáng.
Trông Tiểu Lý Bá có vẻ là một văn nhân tao nhã nhưng sức chàng khỏe lạ
lùng, khiến Anh Kiệt khiếp phục và nhận người ấy còn hơn mình một bậc.
Lúc chiều, Anh Kiệt đã nghe Hà Thiệu nói Tiểu Lý Bá là tay mưu trí, thần quỷ
khôn lường, tài năng xuất chúng, đúng là người tế thế an nhân bang, nhưng chàng
muốn chính mình gợi chuyện để dò xét xem thực hư.
Anh Kiệt khởi bàn qua nghề văn, nghiệp võ, đến đâu Tiểu Lý Bá cũng đều
thông suốt làu làu như nằm trong trí.
Nhà sư bỗng đứng dậy, lui về phòng riêng, để cho các tráng sĩ được tự do bàn
bạc.
ông đã già rồi, thuộc vào lớp cũ nên chỉ giúp đỡ con, cháu khi nào chúng hỏi
đến mình.
Đợi cho nhà sư đi khuất, cả bọn lại quây quần bên tiệc rượn tiếp tục câu
chuyện.
Anh Kiệt lại hỏi Tiểu Lý Bá về chuyện trong nước:
– Lý huynh nghĩ sao về vận nước ta ngày nay?
– Nước ta rồi sẽ có ngày loạn lạc. Hiện nay, ngoại bang đang dòm ngó, mình
có khác chi “Trứng để đầu miệng rắn” ? Nếu không chuyển được tình thế này,
chúng ta đành làm tôi mọi cho Hán triều.
Anh Kiệt sửng sốt:
– Tình thế ra sao mà Lý huynh nói vậy?
Hà Thiệu nhanh nhẩu đáp thay cho Tiểu Lý Bá:
– vũ huynh không thấy bọn bộ tướng sứ giả Hán triều hống hách khắp cùng
nơi, xem mạng dân lành như cỏ rác. Chúng giết người mà không bị làm tội, dân
mình không có loạn lên ư?
Tiểu Lý Bá nhìn Hà Thiệu mỉm cười:
– Cuộc diện không như em tưởng mà còn nhiều nguyên do sâu xa khác. Chúng
ta là những kẻ đã thề liều chết vì dân vì nước thì trước bất cứ việc gì cũng phải nêu
ra câu hỏi: “Tại sao? Tại sao?” để tìm ra sự thật?
Chàng ngừng lại một chút rồi nói:
– Bây giờ anh hỏi em tại sao bộ tướng Tàu hống hách với dân lành?
– Vì dân yếu hèn không khí giới ?
– Đúng? Nhưng tại sao quân triều đình lại dung dưỡng cho chúng làm vậy?
– Đó là lệnh của Ai Vương ?
– Đúng nữa? Nhưng vì lẽ gì Ai Vương ra lệnh ấy?
Hà Thiệu lúng túng không đáp được:
Tiểu Lý Bá cả cười:
– Em thấy chưa? Hiểu cuộc diện nước nhà không thấu đáo thì làm sao giúp đời
để tế thế an bang? Ai Vương ra lệnh vì nhà vua còn nhỏ dại, không biết gì, nên Cù
Thái Hậu mới chuyên quyền. . .
Giọng nói của chàng càng buồn bã hơn trước:
– Cứ phăng lần theo đầu mối, chúng ta mới thấy điều điếm nhục cho đất nước,
tổ tiên vì một tay Cù thị. Tất cả sự chuyên quyền của người đàn bà ấy đều nằm
trong kế hoạch cướp nước của tên sứ giả Hán triều An Quốc Thiếu Quý mà ta đã
dò biết chắc chắn ngày xưa hắn là tình nhân của Cù Thái Hậu.
Hà Thiệu buột miệng kêu lên:
– Trời? Có thật vậy sao đại huynh?
Anh Kiệt thầm phục tài Tiểu Lý Bá. Chàng ẩn mình nơi chốn Cổ Am này,
không bao giờ đặt chân đến Phiên Ngung mà có thể hiểu được tất cả lulung
chuyện trong nội điện.
Chàng tìm cách nói khích để khích tài bạn:
– Đại huynh có thể lầm lẫn chăng?
Tiểu Lý Bá mặt vẫn điềm nhiên, không đổi sắc, nhìn Anh Kiệt rồi nói:
– Vũ huynh ở tại kinh thành há không rõ sự thế xảy ra thế nào sao? Vũ huynh
chắc biết ngày nay Cù thị và An Quốc Thiếu Quý vẫn tư thông với nhau như chỗ
không người, làm những chuyện dâm bôn để lăng nhục triều thần, tôn miếu.
Quyền vua sụp đổ, làm thế nào để trăm họ khỏi lầm than.
Hà Minh và Hà Thiệu đều tức giận thét lên:
– Thật là điếm nhục ? Điếm nhục ?
Cả hai cùng hỏi Tiểu Lý Bá:
– Chúng ta đành bó tay nhìn đất nước rơi lần vào tay nhà Hán ư?
Tiểu Lý Bá chậm rãi đáp:
– Việc gì cũng phải có thời cơ? Vả lại không chỉ mình bọn ta là biết đau lòng
trước cơn quốc biến mà còn biết bao anh hùng ẩn nhẫn đợi thời. Trong triều còn
bao vị trung thần mưu toan việc lớn thì lo gì không diệt được lũ gian. Nhưng mà…
Tiểu Lý Bá ngập ngừng không nói hết câu làm cho mọi người tò mò, chú ý…
Hà Thiệu hỏi:
– Nhưng… Làm sao đại huynh?
Tiểu Lý Bá thở dài:
– Nhưng thời cơ có lẽ đến rồi? Nếu các vị lão quan không hành động, ta sợ sẽ
không còn kịp nữa ?
Anh Kiệt khiếp phục tài quán thông của Lý Bá, nhưng cũng sửng sốt trước lời
nói ây.
– Đại huynh, nói thế có ý gì?
– Quân nhà Hán sắp chiếm nước ta phải không? Hà Minh hỏi tiếp theo.
Tiểu Lý Bá từ từ đáp:
– Cũng gần như thế ? Quân nhà Hán dưới quyền Cù Lạc vừa vượt biên giới
nước ta? Vì Cù Lạc là em Cù Thái Hậu nên quân triều chịu lép cho vào!
Anh Kiệt cùng hai tráng sĩ họ Hà kinh ngạc thét lên:
– Trời ơi ? Thế thì . . .
Tiểu Lý Bá trấn an lòng các bạn:
– Tuy vậy không sao ? Chúng chưa dám đương nhiên cướp lấy nước ta, mà chỉ
muốn đe dọa triều thần sợ hãi đó thôi !
Anh Kiệt lẩm bẩm:
– Đe dọa triều thần? Các quan còn ai giám chống lại sự có mặt của sứ giả Tàu
nữa mà đe dọa? Lệnh vua truyền ra họ thi hành tức khắc.
Tiểu Lý Bá nói:
– Vũ huynh đừng lấy làm lạ. Chúng đã bắt đầu nhận thấy sự uất ức ngấm ngầm
trong triều nội, nên vội phòng xa đó.
Hà Thiệu bỗng hỏi:
– Đại huynh được tin từ bao giờ? Hiện tại chúng đã đến Phiên Ngung chưa?
– Anh em Hiệp và Hoài, từ biên giới trở về lúc chiều. Chắc chúng chưa đến
kịp kinh thành.
Tiểu Lý Bá ngừng lại một phút rồi tiếp:
– Nhưng chuyện đó không đáng lo ngại vì chắc chắn chúng không dám dùng
binh lính để đánh cướp nước ta. Chúng muốn tránh đổ máu và thôn tính nước ta
một c ách êm thắm, không phải tốn hao một tên lính nào ?
An Quốc Thiếu Quý và Cù thị đã dùng lời ngon ngọt, dùng quyền lực để bắt
ép các quan trong triều theo chúng. Hiện nay, hầu hết bọn nội giám là dư đảng của
Thái Hậu. Ngày đêm chúng làm sáo trộn nội cung, bắt người này, giết kẻ kia, gây
sự khiếp đảm trong lòng người, để theo chúng dễ dàng. Tuy nhiên, còn một số
đông các lão quan và các vị công tử ngấm ngầm chống lại. Thái Hậu sợ địa vị
mình lung lay mới nhờ Hán triều cho Cù Lạc kéo quân sang làm áp lực. Nếu các
quan khiếp sợ, bè đãng rã tan thì chúng mặc tình làm mưa, làm gió ở kinh thành.
Điều nguy cơ thấy rõ là các quan trong triều chưa đồng tâm hiệp lực lắm, không
thúc đẩy các ông thì sớm muộn gì cũng theo chúng hay bị giết hết mà thôi.
Anh Kiệt bất giác nghĩ đến Đề đốc Hoàng Quốc Kính? Chàng chắc chắn rằng
thúc phụ của mình thà chết chứ không bao giờ chịu nhục? Rồi Lệ Hồng sẽ ra sao?
Bỗng dưng, chàng nghĩ rằng mình không nên rời bỏ Phiên Ngung trong lúc
này. Giữa khi nguy cấp, cần có mặt chàng để giúp đỡ Hoàng Đề đốc một tay,
chống kẻ thù.
Chàng đứng lên nói với Tiểu Lý Bá:
– Thưa đại huynh? Tiểu đệ xin tình nguyện trở lại Phiên Ngung để báo tin này,
và thúc giục các lão quan lo kế chống giặc.
Tiểu Lý Bá nhìn Anh Kiệt có vẻ ái ngại:
– Đệ đã nghĩ đến việc đó ? Nhưng xét kỹ Vũ huynh nên về Hạnh Hoa thôn
thăm thúc mẫu, để người trông ngóng ngày đêm, Vũ huynh không xót dạ ư?
Anh Kiệt thừ người ra buồn bã, nhưng mạnh dạn đáp:
– Vận nước đang gặp hồi nguy hiểm? Chắc mẹ tôi hiểu mà tha thứ cho…
Hà Minh và Hà Thiệu đều nhìn Anh Kiệt với đôi mắt cảm phục.
Tiểu Lý Bá suy nghĩ giây lâu rồi nói:
– Vũ huynh khỏi bận tâm, cứ yên lòng về Hạnh Hoa thôn. Đệ và Hà Minh sẽ
thay Vũ huynh đến Phiên Ngung liền ngay bây giờ để báo tin chẳng lành. Đệ cũng
cần đến Phiên Ngung liền bây giờ để thấu đáo tình hình hơn.
Anh Kiệt cúi đầu nói:
– Đệ xin cảm tạ ơn đại huynh. Đệ về Hạnh Hoa thôn trong vài hôm, sẽ trở ra
ngay.
Tiểu Lý Bá khoát tay:
– Không cần hấp tấp như vậy? Vũ huynh cứ thư thả, vì rồi đây chúng ta sẽ còn
bận rộn nhiều biết đâu không còn có dịp về thăm. Vũ huynh cứ ở Hạnh Hoa thôn,
bao giờ cần đến, đệ sẽ cho người báo tin. Bây giờ Vũ huynh nên cho đệ một là thư
làm bằng, để ra mắt Hoàng thúc phụ.
Hà Thiệu bỗng đứng lên xin với Tiểu Lý Bá:
– Đại huynh nên cho đệ theo với ?
Tiểu Lý Bá lắc đầu:
– Không nên? Việc này cần kíp và vô cùng nguy hiểm. Phải đủ mưu mô qua
mắt kẻ thù, để khỏi liên lụy đến các lão quan. Nếu sơ hở một chút, họ sẽ bị hại
ngay. Hiền đệ còn đang bệnh, ta không dám phiền…
Hà Thiệu ngồi xuống ghế vẻ mặt dàu dàu, khiến Tiểu Lý Bá phải nói tiếp:
– Hiền đệ ở lại Cổ Am chăm sóc thúc phụ thay ta và ráng uống thuốc cho mau
lành bệnh. Rồi đây chắc chắn hiền đệ phải dùng cái tài “Thần tiễn” của mình để
đánh đuổi quân cướp nước. Ta cùng Hà Minh chỉ đi trong vòng vài hôm sẽ trở về
ngay.
Hà Thiệu nhìn lên khẽ nói:
– Đại huynh yên lòng ra đi. Việc nhà đã có đệ chăm lo.
Anh Kiệt cũng bước vội vào phòng lấy giấy mực thảo một lá thơ dài cho
Hoàng Đề đốc nói rõ tình hình và giới thiệu Tiểu Lý Bá.
Giữa lúc ấy cả hai người đang chuẩn bị hành trang để lên đường kịp khi trời
vừa sáng.