Lưu Kim Đính thâu binh vào thành, các tướng lấy làm lạ hỏi:
– Dư Hồng không dám đánh nên lui binh, sao chẳng đuổi theo mà bắt nó? Lưu Kim Đính nói:
– Dư Hồng có phép biến hóa vô cùng, làm sao bắt được nó? Chi bằng lập kế gạt nó, ngày mai bắt cũng chẳng muộn.
Các tướng không hiểu Lưu Kim Đính sẽ lập kế cách nào, nhưng không dám tìm hiểu. Tối hôm đó, Lưu Kim Đính vẽ một lá bùa giao cho tỳ nữ Xuân Đào cất giữ, đợi bắt được Dư Hồng sẽ giắt lên đầu nó, để nó không biến hóa được. Lại làm phép cho Xuân Đào hóa hình Xích Mi lão tổ. Còn Hạ Liên, Thu Cúc, Đông Mai thì hóa làm ba tiên đồng và dặn phải làm y kế thì bắt Dư Hồng mới được. Hôm sau, Xích Mi giả lãnh dây khổn tiên đi với ba tiên đồng giả đến ải Thanh Lưu. Xích Mi giả đứng ngoài cửa ải, còn ba tiên đồng giả thì tới trước kêu lớn:
– Đệ tử của Xích Mi lão tổ xin vào đàm đạo với Dư Hồng. Quân vào báo lại, Dư Hồng truyền mở cửa mời vào. Tiên đồng giả nói:
– Hôm trước Huỳnh Thạch Công, Trần Đoàn lão tổ, Lê Sơn Thánh mẫu đồng đến động thầy mà trách rằng: Dư Hồng khi trước mới xuống núi còn giữ lời thầy, bắt mười ba tướng Tống chẳng hề làm hại. Sau lại ngả mặt mà sát sánh hại mạng rất nhiều, ấy là làm nhục cho thầy đó. Bởi vậy thầy sai chúng tôi vào trước kêu sư huynh ra trình diện bây giờ, vì có thầy ở ngoài cửa ải mà đợi. Dư Hồng nghĩ thầm:
– Hèn chi hôm qua Kim Đính nói chẳng sai. Nếu ta không ra mắt chào thầy thì tội kia gia bội, thà ra đó mà kêu nài một đôi tiếng, tình thầy trò không lẽ chẳng dung. Nếu cãi lây tại đây thì hổ thẹn cùng quân sĩ.
Nghĩ rồi riu ríu theo tiên đồng đi ra. Xích Mi lão tổ giả thấy mặt Dư Hồng thì làm bộ giận và quở vang. Dư Hồng sợ quá nên cúi mặt xuống đánh chữ làm thinh. Giây lâu Dư Hồng chậm rãi thưa nhỏ:
– Đệ tử vâng lệnh thầy sai nên cùng chẳng đã phải xuống đây, chẳng phải lòng tôi tham muốn công danh phú quí. Xin thầy từ bi xét lại nếu đệ tử tham mê trần tục, thì còn tu luyện làm chi. Nói rồi cúi đầu chịu lỗi. Xích Mi giả quở rằng:
– Ta sai người xuống vây Tống mà thôi, chớ cấm việc sát sanh tửu nhục. Nay ngươi bỏ phép tu hành, ăn thịt uống rượu, sát nhơn hại mạng rất nhiều, chẳng vâng lời ta dặn, làm cho phạm tội ngũ nghịch, ta không lẽ vị tình dung ngươi cho đặng? Dư Hồng thưa:
– Bạch quá sư phụ, đệ tử cũng vâng lệnh thầy, nên bắt mười ba tướng mà không giết. Chẳng ngờ sau có Lưu Kim Đính, Trịnh Ấn và Phùng Mậu, đồng trợ Tống đánh Đường, đệ tử cự không lại, bị chúng nó phá báu pháp của thầy cho nên phải trổ tài với chúng nó. Vua Nam Đường rất trách tôi sao không giết mười ba tướng để làm chi, dưỡng hổ di họa mà nay sánh sự rất nhiều, bởi cớ ấy nên tôi phạm tội sát sanh, xin thầy xét lại. Còn việc tửu nhục là tại vua Nam Đường ép nhiều lần, tôi không lẽ từ chối, trong lòng nóng nảy trông thành công đặng về núi mà tu. Song bởi bị mất bửu phép nên khó nổi tới lui. Xích Mi giả quở rằng:
– Nếu ngươi cự không lại chúng nó, thì về thưa lại cho ta hay sao lại có ý sát sánh cho mất hết bửu bối? Ấy là người chẳng nhìn ta là thầy nữa, thì lẽ nào ta nhìn ngươi là đệ tử! Nói rồi liền sai tiên đồng:
– Ba ngươi lấy dây khổn tiên mà trói Dư Hồng lại.
Ba tiên đồng giả vâng lời, Dư Hồng sợ thầy nên không dám cự, cứ năn nỉ rằng:
– Đệ từ mới phạm tội một phen, xin thầy thương nghĩa sư sanh, rộng mở lưới thang làm phước.
Xích Mi giả thấy Dư Hồng trúng kế mừng thầm trong lòng, ngoài tuy làm mặt giận mà trong lòng hớn hở biết bao, lấy lá phù của Lê Sơn Thánh mẫu đem giắt trên đầu Dư Hồng vì sợ nó xuất hồn biến mất. Lá bùa ấy là kiểu của Lê Sơn Thánh mẫu dạy, nên Lưu Kim Đính y phép họa theo, đã trao Xuân Đào khi ban đêm và dặn các việc. Dư Hồng năn nỉ hết sức mà thầy chẳng trả lời, lại đem phù giải án đầu mình thì không biết cớ chi đó, nếu không trốn trước ắt là họa đến khó loan. Dư Hồng liền niệm chú độn thổ, chẳng ngờ độn không được mới biết bùa ấy là bùa ếm mình. Còn Xích Mi giả sợ trì hoãn thì binh tướng Đường ra tiếp Dư Hồng, nên truyền lệnh dẫn đi lập tức. Ba tiên đồng giả biết ý, dắt Dư Hồng thẳng về thành Huy Châu. Dư Hồng vừa đi vừa nghĩ:
– Dầu mình mắc tội thì thầy bắt về núi mà gia hình? Lẽ nào đem qua dinh Tống? Hay là lão già này dâng mình cho Tống Thái Tổ mà tấn ích chăng? Càng nghĩ càng tức mình, không biến hóa không đặng. Dư Hồng nổi giận, hét lớn:
– Đệ tử dầu phạm tội nặng thì thầy bắt về động lóc thịt cũng ưng lẽ nào thầy dẫn qua nạp cho kẻ cừu nhơn, dường ấy tôi chết sao cho nhắm mắt? Thiệt thầy không biết xét, công tôi làm đệ tử hơn nửa đời ví chẳng khác Trương Lương dưng dép. Nay thầy hẹp lượng không dung thì thôi, sao lại nạp học trò cho Tống gia hình mà không sợ mất thể diện?
Dư Hồng giận hỏi mãi mà Xích Mi cứ làm thinh đi hoài. Dư Hồng thấy vậy nghĩ:
– Vả chăng thầy mình lượng rộng như biển, lại bấy lâu yêu thương mình, nay vì cớ nào mà thay lòng đổi dạ như vậy? Không lẽ thầy mình sợ Tống chắc là tấn ích mà thôi. Ta dầu thác cũng báo oán việc này cho đặng?
Khi về thành, Xích Mi giả hiện ra Xuân Đào, ba tiên đồng hiện nguyên hình thế nữ. Khi ấy Dư Hồng xem thấy mới hay mình trúng kế, ăn năn thì sự đã rồi. Bèn nổi giận hét lớn:
– Lũ bay thật lớn mật, dám giả mạo thầy ta nếu thầy ta hay có sự chúng bay gạt mà giết ta, thì chúa tôi bây không còn một mạng. Chẳng những loài dâm tỷ mà thôi! Lưu Kim Đính thấy bốn con tỳ nữ đem nạp Dư Hồng thì nghĩ:
– Nếu giết Dư Hồng chọc thầy nó xuống đây thì khó chịu. Bằng tha nó một phen nữa, lại sợ gì. Bởi khi trước Phùng Mậu bắt nó, có tha một lần, mới sánh sự rơi độc chết hai tướng, nhiều người trách và oán Phùng Mậu thả Dư Hồng: Đến nay Thiên tử đã có chỉ cấm nghiêm, nếu bắt đặng thì gia hình lập tức. Chi bằng tuân chỉ giết nó mà trừ họa nhãn tiền. Sau Xích Mi lão tổ xuống đây, thì lấy lời phải quấy mà cãi lẽ cũng đặng. Vì khi trước có thấy mặt ngài một lần, thiệt lão tổ là người nhơn đức nên dễ nói. Nghĩ rồi, Kim Đính dẫn Dư Hồng vào nộp. Tống Thái Tổ nghĩ:
– Lý Cảnh cậy có Dư Hồng phép nhiệm, nên không chịu hàng đầu. Nay mà giết Dư Hồng, chẳng khác nào chặt tay Lý Cảnh. Nghĩ rồi lại phán:
– Dư Hồng đã đáng tội chết mướt phần, vì khi trước trẫm tha về, mà không khuyên Lý Cảnh qui thuận, lại không chịu về non tiên tu luyện, lại còn ra trận hành hung, nay giết là đáng tội.
Thái Tồ truyền tả đao dẫn Dư Hồng ra ngoài mà xử trảm lập tức. Giây phút, tả đao vào tâu:
– Chúng tôi chém Dư Hồng đổ lửa sáng nhòa, mẻ gươm mà mình không đứt. Thay tay mười mấy người cũng vậy. Tống Thái Tổ lấy làm lạ, kinh hãi phán:
– Như vậy biết làm sao mà trừ nó? Cao Hoài Đức và các tướng bị bắt khi trước đồng tâu:
– Nếu trừ không đặng Dư Hồng thì e họa chưa dứt. Vì hồi mới dẫn nó vào, nó chẳng bái quỳ, lại thêm buông lời vô lễ. Nếu thả nó ra một lần nữa, chắc là nó báo oán chẳng không!
Lưu Kim Đính thấy vua và cha chồng với các tướng muốn giết Dư Hồng, vì có oan va khi trước, nên không dám nghịch ý, phải tâu thiệt rằng:
– Dư Hồng luyện phép cổ đã thành gang, nên xương thịt cứng hơn sắt. Để tôi dùng gươm phép mà chém mới đặng.
Lưu Kim Đính lấy phép ra niệm chú, rồi giở hồ lô hào quang bay lên sáng rực, một lưỡi kéo hiện ra, bay liệng trên không, mà bên dưới Dư Hồng đã rụng đầu, máu tuôn lai láng. Thương hại cho Dư Hồng là con hồng nhạn, tu luyện mấy trăm năm, sau nhờ Xích Mi lão tổ truyền đạo, chẳng bao lâu cũng thành tiên, bởi cãi lại thầy, sát sánh hại mạng nên phép trời báo ứng. Còn Dư Triệu thấy tiên đồng nói có thầy xuống bắt Dư Hồng thì sợ mắc tội nên trốn trong ải, không dám ló ra. Nay nghe Dư Hồng bị bắt, đem ra pháp trường xử trảm, thì động lòng thương bạn, lấy cỏ ẩn thân bỏ vào túi, rồi đến nơi ôm thây Dư Hồng khóc kể:
– Đạo huynh ơn uổng công tu luyện trăm năm, tình anh em biết làm sao mà cứu được.
Dư Triệu càng kể càng đau lòng, chẳng ngờ bị máu Dư Hồng thấm dính vào người, nên cỏ ẩn thần không còn hiệu nghiệm, phải lộ rõ hình dạng. Quân tuần trông thấy một đạo sĩ ôm thây Dư Hồng mà khóc liền áp tới bắt Dư Triệu trói lại đem về nạp. Sở dĩ Dư Triệu không biến hóa được là vì bị nhiễm uế khí. Tống Thái Tổ thấy Dư Triệu thì nổi giận mắng:
– Hai ngươi xúi Lý Cảnh nghịch với Tống triều, nên binh tướng hai nước hao tổn không biết bao nhiêu. Đáng lẽ thấy Dư Hồng bị chết thì ngươi lo lánh mặt, tại sao còn dám đến khóc than. Dư Triệu sợ Tống Thái Tổ giết mình, nên kiếm lời nịnh giặc:
– Ta khen cho chúa tôi nhà Đường chỉ còn lại đi Thanh Lưu mà dám chống cự với nước Tống. Ta thấy Dư Hồng bị giết, nên động lòng than khóc ngoài đồng, chớ có tội gì mà muốn giết ta nữa? Ta e lúc thầy ta hay được, xuống núi trả thù, thì các ngươi chẳng đặng toàn thân. Lưu Kim Đính nghe nói nghĩ thầm:
– Xích Mi lão tổ là bậc đại tiên, mình đã giả Xích Mi lão tổ gạt Dư Hồng, thật là tội vô lễ. Nếu nay giết Dư Triệu nữa, chắc Xích Mi lão tổ không dung. Nghĩ rồi Lưu Kim Đính tâu với vua:
– Dư Triệu tuy giúp Dư Hồng, nhưng vị tình Xích Mi lão tổ mà tha chết cho nó, khuyên nó về núi tu hành, nếu trợ Đường đánh Tống, sau này bắt được không dung tha.
Tống Thái Tổ nghe nói, liền y tấu, liền mở trói tha Dư Triệu về. Dư Triệu được tha ra, liền trốn mất. Tống Thái Tổ nổi giận truyền quân đuổi theo bắt lại, nhưng Dư Triệu đã đi xa. Dư Triệu trở về tắm rửa, thay đổi y phục, rồi nghĩ đến Dư Hồng, không lẽ bỏ qua về núi, nhưng sức một mình không làm gì được. Nghĩ vậy Dư Triệu sầu thảm, thao thức suốt đêm.
Đêm ấy vào đầu canh năm, bỗng Dư Triệu nghe ra một kế, tính qua phía bắc rước năm vị yêu tiên về giúp sức với mình thì báo cừu cho Dư Hồng mới được. Lúc này ở phía Bắc núi Thanh Phong có năm vị yêu tiên. Thứ nhất là Bạch Hạc, xưng hiệu Tử Hà Tiên, thứ nhì là Thanh Ngưu Tiên xưng hiệu Bất Dật Tiên, thứ ba là Huyền Hồ (chồn đèn) xưng hiệu Huệ Tiên, thứ tư là Huỳnh Điệp (bướm vàng) xưng hiệu là Trưởng Hoa Tiên, thứ năm là Tinh Tinh (khỉ đột) xưng hiệu là Linh Tiên. Năm vị yêu tiên này cũng là loài cầm thú thành hình, như Dư Hồng, Dư Triệu. Còn Thanh Phong động vốn là của Huệ Tiên, bởi vợ nó là Hồ Ly, mặc đi xuống Kim Lăng giả hình trà trộn với trai phàm, đặng bổ cho sung sức. Bởi cớ ấy nên Huệ Tiên ở trong động một mình với Tử Hà Tiên, Bất Dật Tiên, Trưởng Hoa Tiên và Linh Tiên, đồng tới động ở chung với nhau cho vui. Khi Dư Triệu đến động Thanh Phong, thì Hà Tử Tiên ra nghênh tiếp năm vị yêu tiên đồng chào hỏi. Tử Hà Tiên nói:
– Tôi nghe anh giúp Nam Đường mà không mấy thành công, ý tôi muốn xuống giúp sức, ngặt bốn anh em kia không bằng lòng gánh vác chuyện thiên hạ. Hôm nay anh đến đây có việc gì? Dư Triệu nói:
– Lưu Kim Đính là gái thần thông, Phùng Mậu tuy lùn nhưng tài trí rất nhiều, chúng nó đã giết Dư Hồng nên tôi đến đây cầu mấy anh em giúp sức tôi báo cừu.
Năm vị yêu tiên thấy Dư Triệu cầu khẩn, ai cũng quyết ý xuống giúp nhà Đường. Dư Triệu nói:
– Như anh em có lòng giúp tôi báo cừu cho Dư Hồng thì phải đi cho kịp, kẻo trễ quân Tống thừa thắng phá thành, thì không tiện đối phó.
Năm vị yêu tiên xưa nay luyện phép làu thông mà chưa có dịp thử tài, nay cũng muốn ra oai giúp Đường đánh Tống để lấy tiếng. Tức thì năm vị yêu tiên thu góp bửu bối đi theo Dư Triệu. Vua Nam Đường đang ngồi trông đợi quốc sư, xảy thấy Dư Triệu bước vào tâu:
– Tôi đã viện đặng năm vị tiên ông đến giúp, xin bệ hạ sai các quan ra thành nghênh tiếp.
Vua Nam Đường liền sai mở cửa thành. Giây phút thấy một vị tiên ông vào trước, trán gồ, trên mặt có lông dài, cặp mắt tròn vo, mỏ nhọn, mặc đồ trắng xưng là Tử Hà Tiên. Người kế đó, mặt nhỏ râu hai hàng, con mắt lòi, mặc áo rộn rực xưng là Trường Hoa Tiên. Người thứ ba, mặc áo đỏ, bộ tướng hung hăng, hai tay rất dài, hai chân cao lêu nghêu, mình đầu lông lá xưng là Linh Tiên. Người thứ tư mập ú, đầu lớn mặt dài, trên đầu có ngạnh, tiếng nói rổn rảng như chuông ngân. Tuy tướng mạo mạnh mẽ, mà cử chỉ lại chậm lụt, xưng là Bất Dật Tiên. Còn người thứ năm, đẹp trai cặp mắt xanh lẻo, nhìn ngó dáo dác, tiếng nói ngọt ngào, có vẻ lanh lợi, xưng hiệu là Huệ Tiên. Năm vị yêu tiên bước vào đồng bái vua Nam Đường. Vua Nam Đường truyền dọn tiệc thết đãi, rồi phán:
– Trẫm nhờ có Dư quốc sư tiến cử nên mới đặng biết năm vị tiên ông, lòng rất ái mộ, nhờ có năm vị đến giúp, cứu nạn cho nước Nam Đường. Năm vị tiên đồng nói:
– Chúng tôi đã vị tình Dư sư huynh mới đến đây, quyết ra sức phò Đường phá Tống.
Yến tiệc xong, Dư Triệu tâu với vua Nam Đường lập đàn tôn Tử Hà Tiên làm nguyên soái. Vua Đường y lời lập đàn bái tướng. Tử Hà Tiên cầm gươm và ấn soái ngồi giữa, rút lệnh tiễn sai Lâm Văn Báo ra khỏi ải Thanh Lưu năm chục dặm, lập một cái đài cao ba mươi thước, xung quanh rộng một trăm chín mươi bộ. Hai bên đài đào hai cái hầm sâu mười tám thước, công việc không được chậm trễ. Tiếp đó lại rút một cây lệnh tiễn nữa giao cho Tần Phụng, truyền bắt hai mươi người đàn bà chửa và hai chục thằng câm đem về tại đài để có việc cần dùng. Hai người vâng lệnh ai lo phần nấy. Đến khi hai tướng trở về bẩm lại các việc đã xong thì Tử Hà Tiên dẫn bốn anh em Dư Triệu lên đài, xem xét một lúc, rồi truyền dẫn hai mươi người đàn bà chửa và hai chục thằng câm đến. Dư Triệu bảo tả đao mổ bụng, song không cho phạm lấy ngũ tạng. Hai mươi người đàn bà chưa nghe nói khóc rống lên:
– Chúng tôi có tội chi mà phải chết thảm thiết như vậy? Tử Hà Tiên nói:
– Ta cậy thân thể các ngươi để lập trận mà đánh giặc Tống, lúc thành công sẽ tâu với vua làm siêu độ cho các ngươi khỏi sa vào địa ngục. Các người đàn bà chưa nổi giận mắng:
– Xưa nay tướng giỏi cầm binh không bao giờ giết người lập trận, nay yêu đạo bày việc dị đoan mà hại dân, sao gọi là đại tướng.
Các người đàn bà chửa mắng nhiếc nhiều điều thậm tệ, còn mấy thằng câm không nói ra tiếng, cũng trợn mất múa tay, ý nói yêu đạo bất nhơn, nguyền rủa bất nghĩa. Sáu yêu đạo nổi giận nạt lớn:
– Nếu không làm phép mà trừ giặc Tống, ải Thanh Lưu bị phá thì binh tướng đều bị chết hết, chẳng những bốn mươi đứa bay chịu chết mà thôi. Nói rồi truyền tả đao trói bốn mươi người ấy lại.
Lời bàn: Người chân chính và kẻ tà đạo khác nhau ở hành động. Căn cứ vào hành động để xét phẩm chất con người. Lời xưa có nói: Lòng lang dạ thú là để chỉ cho những kẻ có tâm địa tàn ác. Con người khác với nhau là ở chỗ nhân tính và ác tính. Dư Hồng, Dư Triệu là loài cầm thú thành người do công tu luyện cho nên dù đã thành người, tánh tình vẫn gần với loài cầm thú khác. Như vậy làm sao thành công được Đã là cầm thú thì dẫu tài phép đến đâu, hành động vẫn dã man, việc bắt đàn bà chửa mổ ruột, giết hại người dân để lập trận đồ thì chính là hành động dã man, xa rất nhân tính. Ở đây, tác giả muốn cho chúng ta thấy lương tâm giữa con người và cầm thú rất khác biệt. Sự chia cách ác tâm và thiện tâm là phẩm chất của kẻ lương thiện và dã man.-oOo-
– Hết hồi 23:1 (2):