Thần trí đang hôn mê trầm trọng, thân người đang buốt cóng tái tê, Vũ Văn Đức Chính bất giác bật kêu lên :
– Ôi chao! Nóng quá!
Phản ứng của con nhà võ buộc Vũ Văn Đức Chính phải vùng thân lăn sang một bên.
Cốp! Đầu va vào một vách đá khiến cho Vũ Văn Đức Chính phải hồi tỉnh lại và…
– Nóng! Nóng quá!
Nhìn làn hơi mù mờ giăng giăng trước mặt đang như phả vào người Vũ Văn Đức Chính một luồng hơi nóng đến tối tăm mặt mũi. Vũ Văn Đức Chính kinh hoàng đến tột cùng, không hiểu mình đang ở chỗ nào đây?
– Ôi chao! Chỗ này cũng nóng!
Nhìn xuống chân, Vũ Văn Đức Chính thất kinh hồn vía khi thấy có làn khói bốc lên từ đôi giày vải của Vũ Văn Đức Chính.
Bịch… bịch… bịch…
Hai chân thay nhau lúc công lúc đứng, Vũ Văn Đức Chính mới biết là đôi giày vải đang ngún cháy do chỗ Vũ Văn Đức Chính đứng là một bờ đá, cũng đang nóng đến kinh người.
Nhìn lại y phục, Vũ Văn Đức Chính cũng thấy nó đang ngùn ngụt bốc khói.
– Không xong rồi! Ở đây một lúc nữa chắc ta bị thiêu ra tro mất.
Kinh tâm tán đởm, Vũ Văn Đức Chính nhớn nhác nhìn quanh, trong khi hai chân không ngớt di động để giữ cho đôi giày vải không chạm lâu vào bờ đá nóng như nung, để chúng khỏi cháy rụi đi.
Không nhìn thì không sao, một khi đã nhìn thì Vũ Văn Đức Chính không còn lòng nào để mà tính toán nghĩ suy nữa.
Vì khắp nơi, qua lớp hơi nóng mù mờ, đâu đâu Vũ Văn Đức Chính cũng thấy toàn đá là đá. Đá nơi Vũ Văn Đức Chính đang đứng thì nóng, vậy toàn bộ những mõm đá mà Vũ Văn Đức Chính nhìn thấy cũng phải nóng như thế mà thôi.
Có nghĩa là dù Vũ Văn Đức Chính có chạy nhảy đến đâu cũng chung một tình trạng như thế này thôi. Như thế có khác nào là cái chết? Ở đâu cũng chết!
Quay nhìn lại chỗ có làn hơi mù mờ dày đặc nhất. Vũ Văn Đức Chính nghe ớn lạnh khắp người, và tưởng tượng rằng nơi đó ắt còn nóng hơn bội phần.
Quả thế thật, chỉ cần Vũ Văn Đức Chính chồm người ra mé ngoài bờ đá một chút thôi, thì Vũ Văn Đức Chính cơ hồ không chịu nổi với luồng hơi nóng hổi phà vào mặt.
Nước mắt nước mũi tuôn ra ồ ồ, Vũ Văn Đức Chính gần như tuyệt vọng khi đang ở trong tuyệt cảnh này.
Bũm!
Đang lúc Vũ Văn Đức Chính thay đổi chân trụ đỡ thân hình, thì vô tình mũi giày của Vũ Văn Đức Chính chạm vào một viên đá nhỏ, khiến cho viên đá nhỏ, khiến cho viên đá nhỏ rơi tỏm xuống khỏi mép bờ đá, mất hút vào nơi có làn hơi mù mờ dày đặc nhất mà Vũ Văn Đức Chính đã cho là nơi nóng nhất trong những chỗ đang nóng quanh đây.
Và tiếng chạm của viên đá vào nơi nào đó ở phía dưới, khiến Vũ Văn Đức Chính nghe được và phải động tâm.
Kinh nghi, Vũ Văn Đức Chính hất thêm một viên đá nữa, viên nữa xuống phía dưới.
Bũm… bũm… bũm…
Trước sau ba viên, và ba lần tiếng âm thanh vang ra khiến Vũ Văn Đức Chính không khỏi nghi ngờ, thầm nghĩ trong lòng :
“Nước? Một nơi nóng thế này lại còn có nước được sao? Là địa nhiệt tuyền ư?”
Ngẫm nghĩ thêm một lúc nữa, Vũ Văn Đức Chính chợt hiểu tất cả. Thì ra chưởng kình Thái Dương thần công được Vũ Văn Đức Chính đánh ra với toàn bộ nội lực dương cương có sẵn trong người đã làm cho Vũ Văn Đức Chính mừng vui khôn xiết, khi thấy một màu vàng chói lòa xuất hiện.
Với uy lực đến vàng đá cũng phải tiêu tan này, Vũ Văn Đức Chính tin rằng cái hận này của sư môn ắt là sẽ trả được.
Chính vì niềm tin sắt đá này mà Vũ Văn Đức Chính dù đang bị toàn bộ số nội lực âm nhu trong người tràn lên xâu xé làm tê buốt toàn thân, nhưng vẫn còn trụ vững trong chốc lát để chờ xem đối phương ngã gục, rửa lại cái hận ngày nào của sư phụ.
Nào ngờ, ngay giây phút quyết định đó, toàn thân Vũ Văn Đức Chính bất giác rúng động đỡ một chưởng tập kích của ai đó? Thái Phi Ngọc Bội hay Thái Phi Phụng Ngọc? Và ngay hậu tâm, hậu quả tất yếu là Vũ Văn Đức Chính không còn biết gì nữa.
Không biết đối phương Thái Phi lão nương nương đã như thế nào? Không biết rằng Vũ Văn Đức Chính đã văng người bay vọt khỏi ngang động khẩu Thái Phi tiên cảnh và lọt xuống đây.
Nếu không nhờ dòng địa nhiệt tuyền (suối nước nóng) này, ắt Vũ Văn Đức Chính đã tan xác và chết mà không sao nhắm mắt được.
Mừng vì đã thoát cảnh thảm tử thì ít, Vũ Văn Đức Chính căm giận thì nhiều hơn, nhiều hơn gấp bội.
Do đó, bất kể dòng địa nhiệt tuyền đang ngùn ngụt hơi nóng từ hướng nào chảy đến? Và chảy về phía nào? Nhưng Vũ Văn Đức Chính tin rằng cứ theo dòng chảy xuôi của địa nhiệt tuyền thì sẽ thoát nạn, thoát khỏi cảnh địa ngục trần gian này.
Vì thế, Vũ Văn Đức Chính liền vận khởi công lực đn, định dùng nội công thâm hậu trong nội thể để phi thân ngay bên trên dòng địa nhiệt tuyền, hầu xác định xem phía nào là phía hạ lưu của con suối, và đó chính là lối thoát thân duy nhất.
Nhưng công lực vừa được Vũ Văn Đức Chính đề tựu thì Vũ Văn Đức Chính đã bàng hoàng thất sắc, người tức thì run bắn lên vì lạnh.
Theo đà chuẩn bị phi thân đi, Vũ Văn Đức Chính ngã nhào xuống dòng địa nhiệt tuyền, chẳng khác nào hòn đá to được vất xuống khỏi mép bờ đá vậy.
Bũm!
May cho Vũ Văn Đức Chính, hay đây là tấu xảo kỳ lạ của đất trời. Vì toàn thân đang cóng lạnh, đột ngột được ngâm vào dòng địa nhiệt tuyền, Vũ Văn Đức Chính liền cảm thấy sảng khoái, bình an vô sự. Ngoại trừ làn hơi mù mờ dày đặc và nồng nặc mùi diêm sinh làm cho Vũ Văn Đức Chính bất giác khó thở ra thì còn lại, Vũ Văn Đức Chính không hề thấy khó chịu khi đang ngâm người vào lòng nước nóng, cái nóng tưởng chừng bỏng đến lột da.
Một lần nữa Vũ Văn Đức Chính mừng vì đã hiểu rằng trong nội thể của Vũ Văn Đức Chính song song tồn tại hai luồng nội lực trái nghịch nhau. Nhưng do quá trình rèn luyện theo nội công tâm pháp thuần dương, Vũ Văn Đức Chính đã tập quen thành điều hiển nhiên tất yếu: đó là đè nén luồng nội kình âm nhu, do nội đơn và huyết của con Độc giác long vương phát sinh ra, và sự thực là luồng nhu kình âm nhu này vô phương phát tác, không gây tác hại cũng không làm nên điều lợi.
Nhưng hôm nay, trong lần đụng độ quyết liệt này, Vũ Văn Đức Chính vô tình đã để cho luồng nhu kình âm nhu dâng trào lên, bộc phát lên sau nhiều năm đè nén. Lực lượng này, dù bây giờ Vũ Văn Đức Chính có muốn dùng nội kình dương cương để đè nén nó lại cũng vô lực. Và điều này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là luồng nội kình dương cương bị co lại, gom lại sẽ thiêu hủy tâm can của Vũ Văn Đức Chính. Còn bên ngoài, toàn thể châu thân phía ngoài vùng Đan điền sẽ hóa lạnh, hóa băng mà chết.
Thái Hư thượng nhân, sư phụ của Vũ Văn Đức Chính, do kiến văn uyên bác, đã dự đoán được điều này nên đã bao lần căn dặn Vũ Văn Đức Chính đừng bao giờ khinh suất dùng quá nửa công lực thuần dương.
Điều này đã xảy ra và nếu Vũ Văn Đức Chính không có dòng địa nhiệt tuyền nóng đến cực độ này hóa giải cái lạnh từ nội thể của Vũ Văn Đức Chính trào ra, thì cái chết sẽ đến là tất nhiên.
Như đã nói, đang khi Vũ Văn Đức Chính vận khởi công lực lên, thì không phải luồng nội kình dương cương dâng lên, mà chính là luồng nội kình chí âm chí nhu dâng lên. Nhờ đó, Vũ Văn Đức Chính hầu như an toàn trong lúc đắm mình dưới dòng địa nhiệt tuyền đang sục sôi này.
Đã từng ước mơ, hoặc hòa hợp được hai luồng nội kình xung khắc này làm một, tạo thành một thể nhất quán hầu phát huy như Lưỡng Nghi chưởng của Âm Dương song lão quái hiệp, hoặc hóa giải được một trong hai luồng nội kình này đi, chỉ chừa lại một thôi, thì bây giờ Vũ Văn Đức Chính còn ước ao nào hơn có một dịp ngàn năm một thuở như thế này?
Vũ Văn Đức Chính thầm tính toán :
“Một trăm hai mươi năm công lực thuần dương! Bấy nhiêu đó cũng đã đủ để báo thù rửa hận rồi, nếu không muốn nói là thừa. Vì qua lần vừa rồi, chính bọn người Thái Phi tự xưng là độc tôn cũng không sao chống nổi một chưởng Thái Dương thần công của ta với hơn một trăm năm công lực kia mà. Vậy còn nuối tiếc gì nữa, không xả bỏ luồng nội kình âm nhu bất lợi này đi cho rồi?”
Nghĩ thế nên Vũ Văn Đức Chính vẫn trầm mình đứng yên dưới lòng địa nhiệt tuyền và tiếp tục vận công lên, hầu trút bỏ hết hai giáp tý công lực chí âm chí nhu trong nội thể đi.
Thu thập, hoặc tu luyện để có được hai giáp tý công tu vi thì tất nhiên đòi hỏi một thời gian dài, lâu, rất lâu.
Nhưng để xả bỏ thì mau, rất mau nữa là đằng khác. Và bất chợt, Vũ Văn Đức Chính phải đình lại công việc đang tiến hành dang dở này, vì như có một luồng chớp giật đã lóe lên trong tâm trí Vũ Văn Đức Chính :
“Nguy! Chí nguy!”
Sao lại nguy? Giữ lại trong người mới là nguy, chứ xóa bỏ thì có gì nguy mà Vũ Văn Đức Chính phải sợ?
Không sợ sao được khi Vũ Văn Đức Chính nhìn lại chỗ mình đang đứng và đưa mắt nhìn quanh.
Vũ Văn Đức Chính thầm nghĩ :
“Nếu ta xả bỏ công lực âm nhu ngay tại đây, thì sau khi xả bỏ xong, liệu ta có còn sống được hay không? Trong người thì chỉ còn luồng công lực chí dương, cộng với cái nóng tự nhiên ở quanh ta đây thì dù không chết bởi luồng âm kình công phạt, ngược lại cũng phải chết vì cháy, vì nóng thôi! Không được!”
Lần thứ ba trong ngày Vũ Văn Đức Chính phải cảm tạ đấng hóa công, vì đã làm cho Vũ Văn Đức Chính phát hiện được điều này.
Đương nhiên, sau khi đã phát hiện kịp lúc, Vũ Văn Đức Chính dễ dàng tìm được cách giải quyết thỏa đáng.
Đi ngược dòng địa nhiệt tuyền thì đương nhiên cái nóng sẽ tăng lên – chết! Đi xuôi dòng thì cái nóng thuyên giảm – sống! Hay hơn hết là Vũ Văn Đức Chính cứ vừa đi xuôi dòng, vừa xả bỏ công lực chí âm. Vì như thế thì luồng âm kình sẽ giảm đồng bộ với cái nóng của dòng địa nhiệt tuyền.
Tìm được biện pháp thích hợp, Vũ Văn Đức Chính bèn hăm hở bước đi, sau khi nhận định kỹ dòng nước chảy về hướng nào rồi.
Do không biết dòng địa nhiệt còn kéo dài bao xa? Liệu có thoát kịp cái nóng tự nhiên này một khi luồng âm kình đã xả bỏ hết hai là không? Nên Vũ Văn Đức Chính cố tình sái bước nhanh hơn, chạy nhanh hơn.
Và khi làn hơi nóng từ dòng địa nhiệt tuyền bốc lên đã bớt đi ít nhiều, khi Vũ Văn Đức Chính nhìn thấy xa xa một mảng trời trong xanh, cách vị trí của Vũ Văn Đức Chính độ chừng non một trăm trượng, thì Vũ Văn Đức Chính chợt nghe từ một góc tối, ngay trong lòng địa nhiệt tuyền có một tiếng rên rỉ phát ra.
“Là ai? Sao lại có mặt ở địa ngục trần gian này? Không lẽ là kẻ địch của bọn người Thái Phi độc tôn giống như ta? Nếu thế thì… nếu người này chịu đựng được cái nóng này ắt là người có nội công âm hàn giống như ta, nhưng không bằng ta. Và người này đang gặp hung hiểm?”
Đồng bệnh tương lân, đồng thân tương trợ. Không chút chậm trễ, Vũ Văn Đức Chính lướt nhanh người đến ngay góc tối. Bằng nhãn quang tinh tường, Vũ Văn Đức Chính đã nhìn thấy một lão già râu bạc trắng, có gương mặt thập phần đoan chính đang ngồi tọa công ngay trong dòng nước địa nhiệt tuyền.
Lão già này vừa vận công trong người lên để chống lại cái nóng tự nhiên của dòng địa nhiệt tuyền vừa luôn miệng rên rỉ, tưởng chừng như sắp chết đến nơi vì kiệt lực.
Không dừng được, Vũ Văn Đức Chính bước vòng ra phía sau lão già nọ, đặt hữu thủ vào ngay Linh Đài huyệt, và kịp thời trút sang cho lão ta một ít nội kình âm hàn trong người mà Vũ Văn Đức Chính đàng nào cũng phải xả bỏ.
Và khi thấy lão già nọ đã thôi không rên rỉ nữa, Vũ Văn Đức Chính nhỏ giọng để lão không giật mình và hỏi :
– Tiền bối là ai? Sao lại ở nơi chốn này?
Thoát cơn nguy ngập, lão già biết là có ân nhân kịp thời tương trợ bèn cảm thán đáp :
– Nguy hiểm thật! Lão phu định dùng cái nóng tự nhiên của trời đất này để khổ luyện làm tăng thêm công phu âm nhu, nào ngờ…
– Sao, tiền bối?
Lão già cảm khái thở dài một hơi đoạn nói tiếp :
– Nhân định không sao thắng được thiên định. Nếu không nhờ tiểu hữu ra tay tiếp trợ, thì lão phu kiếp này không sao nhìn được ánh dương quang nữa rồi. Chà! Hiểm địa! Đúng là Hỏa Dung tuyệt địa. Công phu âm nhu tăng đâu không thấy chỉ suýt nữa đã mất sạch sành sanh cả rồi.
Như chợt nghĩ ra, lão già nọ liền ngưng lời than oán, mà nghi ngờ hỏi lại :
– Tiểu hữu là ai? Công phu âm nhu của tiểu hữu quả là bất phàm, chẳng những đủ để chống chọi lại cái nóng khiếp người này mà lại còn dư để tiếp trợ cho lão phu nữa. Tiểu hữu là ai?
Do còn đang dụ dự bất quyết, không hiểu nên sử dụng danh xưng nào? Vũ Văn Đức Chính thì chưa đúng lúc lắm, khi kẻ thù gia là ai còn chưa tìm được? Còn Văn Đức Chính thì… sao đúng là nam nhi đại trượng phu khi cải danh đổi họ, không khác nào kẻ tiểu nhân đang làm điều mờ ám?
Cho nên Vũ Văn Đức Chính bèn nói khác đi, lờ đi danh tự của mình và giải thích :
– Tiểu bối từ phía tít trên kia rơi xuống, do… độc xà cắn phải. Không hiểu sao trong người tiểu bối sau đó lại phát lạnh, nếu không nhờ sức nóng của dòng nước này ắt tiểu bối đã phải chết vì lạnh rồi. Còn tiền bối là ai?
Không hiểu là do nghi kỵ hay bởi lời giải thích của Vũ Văn Đức Chính nghe không xuôi tai hay sao đó, mà lão già chỉ nói :
– Bao năm qua, lão phu đã thoái ẩn giang hồ, nên danh hiệu trước đây của lão phu không muốn nhắc đến làm gì nữa. Có điều… tiểu hữu đã có ân tiếp trợ, lão phu không thể không nói. Tên của lão phu là Ngụy Như Tào. Trên đời này ngoài lão phu và tiểu hữu ra, chắc không còn ai biết đến danh tự này đâu. Ha ha ha…
Vẫn còn đang rót luồng hàn âm kình tiếp trợ lão già nọ, Vũ Văn Đức Chính chợt nghe lão xưng tên họ kỳ quặc kia xong, lại vùng cười lên bằng giọng cười nham hiểm, thì Vũ Văn Đức Chính biết là có biến.
Rụt nhanh tay lại, Vũ Văn Đức Chính kêu lớn lên hỏi :
– Sao Ngụy tiền bối lại…
Âm cuối cùng là âm “cười”? Vũ Văn Đức Chính bỗng nghe lạnh toát ở ngực, và ngã sấp mình vào lòng địa nhiệt tuyền khi âm cuối cùng chưa thoát ra khỏi bờ môi.
Trước khi ngập hẳn thân người vào dòng nước nóng, Vũ Văn Đức Chính kịp nghe được những lời cuối cùng của lão già nọ, trước khi lão bỏ chạy biến đi.
– Tiểu tử trá ngụy, dám dối gạt lão phu. Trên đời này ta chuyên lừa gạt người, há dễ để người gạt được ta sao? Ha ha ha…
Ngay sau đó, cái lạnh trên lồng ngực Vũ Văn Đức Chính được thay thế bằng cái nóng thấu tâm can. Cái nóng do dòng nước nóng thấm vào khiến cho Vũ Văn Đức Chính dù đang đau nhói, dù đang muốn ngất đi cũng phải tỉnh lại ngay!
Không tỉnh cũng phải tỉnh, vì bằng không Vũ Văn Đức Chính sẽ phải hết thở vì ngộp nước! Đứng thẳng được thân hình lên, Vũ Văn Đức Chính căm hận khi nhìn thấy một ngọn liễu kiếm ngắn đang cắm phập trên vùng ngực gần tâm thất!
Điểm huyệt chỉ huyết quanh chỗ ngọn liễu kiếm đâm vào, cắn chặt răng Vũ Văn Đức Chính nhổ ngọn liễu kiếm ra và định ném đi.
Chợt nghĩ lại, Vũ Văn Đức Chính nhét vào bọc áo, lòng thầm nghĩ :
“Ngụy Như Tào? Đúng là lão già quỷ quái trá nguy! Dám lừa gạt ta bằng cái tên không thể nào có được! Hừ! Thù này chẳng báo chẳng thể làm người! Cây có bóng, người có tên! Ta không tin ta không tìm được lão qua thanh liễu kiếm này!”
Gom chút ít kình lực âm hàn còn sót lại trong người, Vũ Văn Đức Chính nhịn đau đi lần về khoảng nhỏ trời trong xanh trước mặt! Lối thoát thân duy nhất trong Hỏa Dung tuyệt địa này, theo lời lão già gian ngoa nọ đã cảm thán kêu lên lúc nãy.
Lấp ló sau một ghềnh đá gần vòm động, nơi dòng Địa nhiệt tuyền thoát ra ngoài không gian rộng lớn, Vũ Văn Đức Chính phần thì mỏi mệt, phần thì sợ lão già trá ngụy nọ còn đang chực chờ phía ngoài phát giác và giết Vũ Văn Đức Chính đi, cho nên Vũ Văn Đức Chính không dám thẳng bước tiến ra! Ngược lại, Vũ Văn Đức Chính tìm đường leo lên phía sau ghềnh đá!
Một là để ẩn thân, hai là cần phải điều trị ngoại thương, và điều hòa lại chân lực đã quá mỏi mòn?
Lần dò từng chỗ đặt chân, rốt cuộc Vũ Văn Đức Chính đã được thoải mái trong một tiểu động ngay trên chốc ghềnh đá, khuất hẳn mọi cặp mắt tò mò nhìn từ dưới dòng Địa nhiệt tuyền lên, và từ phía ngoài vòn động nhìn vào…
Ngồi xếp bằng, việc đầu tiên cần làm là Vũ Văn Đức Chính phải kiểm tra lại xem luồng nội kình âm hàn có còn sót lại chút nào trong nội thể hay không đã?
Vũ Văn Đức Chính hoàn toàn yên tâm khi biết chắc là toàn bộ luồng nội kình âm nhu đã được hoàn toàn xả bỏ!
Sau mười hai vòng châu thiên, luồng nội lực thuần dương đang tuôn chảy tràn đầy khắp các kinh mạch trong nội thể của Vũ Văn Đức Chính, khiến cho Vũ Văn Đức Chính sảng khoái tinh thần.
Không, không phải là tuôn chảy khắp các kinh mạch! Dù luồng nội kình thuần dương chí cương đã lấp đầy chỗ trống trước đây chàng đã nén chặt luồng nội khí chí âm vào đó, nhưng Vũ Văn Đức Chính cũng không mãn nguyện lắm khi luồng nội lực chí cương này còn bị tắt nghẽn lại tại cuối mạch Nhâm và cuối mạch Đốc.
Dù đã nhiều cố gắng, tận lực nhưng Vũ Văn Đức Chính không sao đưa nội lực bản thể xung phá được ải quan này!
Từ Bách Hội huyệt, xuyên qua Đan điền, vòng xuống Hội Âm, Vũ Văn Đức Chính không thể đưa nội kình vòng qua phía sau để xông thẳng lên Thiên Đình, vì nghẽn ở cuối mạch Đốc.
Ngược lại, từ Bách Hội huyệt, xuống thẳng Hội Âm, Vũ Văn Đức Chính cũng không thể rót hết số nội lực này vào Đan điền, phối hợp với số nội lực còn tích tụ trong Đan điền để đưa thẳng xông lên Trùng Lâu! Vì nghẽn ở cuối mạch Nhâm!
Thập nhị tiểu chu thiên thì được, nhưng để được Thập nhị trùng lâu thì không! Nội lực cao thâm hơn người thì có… nhưng đạt đến cảnh giới vô thượng thì chưa! Hai giáp tý công phu tu vi thì thừa nhưng để đến Đăng phong tạo cực thì thiếu! Chán nản, Vũ Văn Đức Chính xả công, mặc nhiên chấp nhận câu “Nhân định bất thắng thiên mệnh!”
Ô kìa! Một điểm hàn quang lấp lánh sát phía trong, phía trên tiểu động đập vào mắt Vũ Văn Đức Chính như một chớp lóe lên giữa đêm đông lạnh lùng!
Một điểm sáng trong một không gian tối mịt. Tiểu động tối, phía dưới dòng Địa nhiệt tuyền cũng tối. Vậy đây không thể nào là một điểm sáng do dòng Địa nhiệt tuyền phản quang chiếu lên tiểu động được!
“Vậy là do vật gì? Của ai!”
Chỉ khẽ xoay thân một cái, Vũ Văn Đức Chính đã mó, đã đụng vào vật đó! Không những chỉ riêng vật đó không mà thôi! Mà Vũ Văn Đức Chính lại còn thấy rõ, nhờ ánh sáng phát ra từ vật đó, ngay phía dưới vật đó là một chiếc hộp bằng gỗ đen mun!
Lòng hiếu kỳ dâng lên, Vũ Văn Đức Chính cầm vật phát sáng lên tay, và quan sát…
Vật phát sáng có hình vuông vắn thành một khối tứ bề được chạm hình con rồng uốn khúc quanh khối ngọc.
Bốn chân mãnh long vấn vào bốn góc, với móng vuốt xòe rộng chụp vào, nhưng chỉ có ba móng vuốt ở mỗi chân mà thôi!
Còn đầu rồng thì chồm thẳng xuống mặt dưới của khối ngọc, nơi có khắc hàng chữ: Đại Tống Thái Vương Tử. Cầm lấy đuôi rồi nhô cao lên tạo thành chỗ nắm, Vũ Văn Đức Chính nhờ vào kiến văn uyên bác của sư phụ truyền dạy đã biết được rằng đây là ấn triện của Thái tử con của Hoàng đế cựu triều thời Đại Tống cách đây hơn trăm năm!
Cảm khách, Vũ Văn Đức Chính thở dài và ngẫm nghĩ :
“Vật đổi sao dời, Đại Tống nay sụp, Tống triều tan rã! Ấn triện còn đây, người đâu rồi? Mất nước tan nhà, quyền hạn gì nữa một Thái tử con vua đã một thời vàng son rực rỡ?”
Mở chiếc hộp gỗ ra, Vũ Văn Đức Chính hy vọng tìm hiểu được tại sao ấn triện của Thái tử lại lưu lạc đến đây? Và ai là người dấu ấn triện vào tận chỗ kín này?
Nhờ ánh sáng của ấn triện này, Vũ Văn Đức Chính đã nhìn được trong hộp gỗ có chứa một tờ hoa tiên và một quyển sách mỏng bằng lụa!
Vừa nhìn được chỗ thự danh của tờ hoa tiên, Vũ Văn Đức Chính thiên hạ rúng động thân hình!
Vì chỗ thự danh có ghi rõ… không thể lầm lẫn được! Hàng chữ ghi: Vũ Văn Hoá Quang.
– Phụ thân?
Tay cầm ấn triện để soi sáng, Vũ Văn Đức Chính run run đọc :
“Tự bạch!
Ta nguyên là một đứa bé mồ côi, thân cô, thế cô! Ngay từ lúc lên mười được Thái Phi Kim Phụng nương nương thương tình cưu mang nuôi dưỡng!
Do đã hiểu thế nào là cái hận của kẻ bị người hiếp đáp nên ta khó lòng chấp nhận thói uy hiếp người của dòng dõi Thái Phi để giữ mãi địa vị độc tôn!
Chống đối lại thì không dám bởi vô lực, ta đành bỏ trốn Thái Phi tiên cảnh khi Thái Phi Kim Phụng nương nương sai phái ta nhập giang hồ tìm và hủy diệt nhân vật nào có võ công cao hơn hết!
Hỏa Dung tuyệt địa tuy là hiểm cảnh nhưng lại là chỗ duy nhất để thoát vòng kềm tỏa của dòng dõi Thái Phi! Bởi họ sẽ nghĩ là ta phải chết! Vì chưa từng có ai thoát chết một khi nhảy xuống Hỏa Dung tuyệt địa!
Vì an nguy của giang hồ, những sinh linh về tội của lòng tự tôn độc đoán dòng dõi Thái Phi độc tôn, ta chấp nhận may rũi! Chấp nhận bỏ lại thê nhi ta là Thái Phi Phụng Ngọc cùng Thái Phi Ngọc Bội!
Hy vọng có ai đó nhận được vật này, tùy thời, tùy lúc, tùy theo nhận định mà xét xem ta phải hay ta sai? Trả hoặc không trả lại kinh thư cùng ấn triện này cho dòng dõi Thái Phi độc tôn tại Thái Phi tiên cảnh?
Để hậu nhân hiểu được uyên nguyên, ta ghi lại đây tự sự phát sinh dòng dõi Thái Phi này! Lúc đương thời, Thái tử của Đại Tống đương triều đã yêu thương một nàng giai nhân hiệp lữ, định bụng đem nàng về trình tấu Hoàng đế để tấn phong nàng làm Thái Phi!
Nhưng, dù là bậc tài hoa về võ thuật, giai nhân nọ cũng chỉ là hạng dân dã, Hoàng đế đương triều nào dễ dàng ưng thuận tấn phong nàng làm Thái phi.
Vì uất ức, nàng đã bỏ đi, ly khai Thái tử và mối tình tuyệt vọng! Khi đi nàng đã mang theo ấn triện của Thái tử với hy vọng rằng ngoài nàng không ai còn được tấn phong là Thái Phi nữa, một khi ấn triện Thái tử không còn!
Đồng thời nàng cũng đánh cắp bí cấp Nghịch Đảo Càn Khôn Cang Nhu thần công và Bí phổ khai thông sanh tử huyền quan quyết là báu vật truyền ngôi của vua nước Đại Tống.
Lưu ấn triện, luyện tập Nghịch Đảo Càn Khôn Cang Nhu thần công với sự khai thông sinh tử huyền quan bí phổ giúp sức, nàng nghiễm nhiên là một độc tôn Thái Phi.
Để truyền đời dòng dõi độc tôn này, nàng đã tìm bạn tình một đêm để phối giống, sanh được một ái nữ được nàng gán cho cái họ là Thái Phi!
Cứ tiếp tục như thế, đến đời Thái Phi Kim Phụng nương nương, nhạc mẫu của ta là đã đến đời Thái Phi thứ ba!
Để biểu hiện sự truyền đời, tên của người đời trước được đặt nối tiếp cho tên người đời sau! Để biểu hiện sự độc tôn, mỗi đời Thái Phi phải xuất hiện giang hồ một lần để chứng minh dòng dõi Thái Phi là thiên hạ đệ nhất nhân!
Cứ thế mãi thì giang hồ sao tránh được sự hao tổn nguyên khí? Sao tránh được sự loạn lạc, nhiễu nhương?
Ta mang theo ấn triện và bí phổ khai thông sinh tử huyền quan này là có lòng hy vọng rằng, rốt cuộc dòng dõi Thái Phi vẫn còn đó, nhưng dừng, và không đủ lực để xưng là độc tôn nữa!
Thế là thuận thiên, hợp đạo lý! Không biết ta sống chết thế nào sau khi nhảy xuống Hỏa Dung tuyệt địa! Nhưng dù sao ta cũng vẫn tin rằng dòng dõi Thái Phi sẽ không là độc tôn! Bởi đã mất Bí phổ khai thông sinh tử huyền quan rồi!
Nghịch Đảo Càn Khôn Cang Nhu thần công dù cao thâm tuyệt thế, nhưng một khi nội lực bất túc do Nhâm Đốc nhị mạch bất tương thông thì cũng không đáng sợ.
Chuyện ta làm ta biết, trời đất biết! Nếu ta sai, trời đất chẳng dung ta! Ta còn sống, và rời được Hỏa dung tuyệt địa, ấy là trời đã chứng cho lòng ta.
Vũ Văn Hóa Quang lưu tự.”
“Quả là trời đã chứng cho phụ thân vì phụ thân đã sống sót sau khi rơi vào Hỏa Dung tuyệt địa! Phụ thân đã không sai khi làm như thế này!”
Tâm tình xúc động, Vũ Văn Đức Chính đã nghĩ thế khi đã đọc xong lời tự bạch của phụ thân lưu lại. Có điều Vũ Văn Đức Chính không sao hiểu được là tại sao phụ thân không đem theo người mà lưu lại đây ấn triện và Bí phổ này?
Phải chăng phụ thân sợ trước sau gì nguyên phối trước của phụ thân là Thái Phi Phụng Ngọc nương nương sẽ truy tìm được hành tung của phụ thân và họ sẽ thu hồi lại được ấn triện cùng Bí phổ? Và như thế có nghĩa là tâm nguyện của phụ thân sẽ như đổ sông đổ biển?
Hay là vì phụ thân lúc thoát được đến đây, đã sức cùng lực kiệt ngỡ trước sau gì cũng chết. Có nghĩa là trời xanh không chứng cho hành động này của phụ thân nên phụ thân ném đại lên đây, hy vọng trả lại cho Thái Phi tiên cảnh những vật gì thuộc về Thái Phi tiên cảnh?
Vũ Văn Đức Chính không sao suy đoán được điều gì đã xảy đến cho phụ thân! Mà Vũ Văn Đức Chính chỉ biết rằng phụ thân đã an bày khi rời khỏi Hỏa dung tuyệt địa! Đã tạo nên một sự nghiệp lẫy lừng là Vũ Văn lầu chủ! Đã có một thanh danh trượng nghĩa rõ ràng! Và đã có gia đình, đã có một hậu nhân đang ngồi đây là Vũ Văn Đức Chính!
Nhớ lại thuở còn trong vòng tay chăm sóc và giáo huấn của phụ thân cách đây mười hai năm. Vũ Văn Đức Chính thừa hiểu di chí của phụ thân lưu lại khi đặt tên con là Đức Chính! Và cho đến tận bây giờ, Vũ Văn Đức Chính chưa hề có một hành động nào làm ô uế thanh danh dòng họ Vũ Văn!
Không phải đến bây giờ mà thôi, mà từ đây về sau, Vũ Văn Đức Chính phát nguyện với lòng, rằng chàng sẽ không bao giờ quên đi lời giáo huấn của tiên phụ.
Bất giác, Vũ Văn Đức Chính xót xa khi lần dỡ quyển Bí phổ khai thông sanh tử huyền quan quyết bằng lụa mỏng.
Tấu xảo thay! Phải chăng đây là do tiên phụ sống khôn thác thiêng đã dẫn dắt Vũ Văn Đức Chính tìm được hai món báu vật này?
Phải chăng đây là trách nhiệm mà tiên phụ muốn Vũ Văn Đức Chính phải hoàn thành: để dòng dõi Thái Phi vẫn tồn tại nhưng không được để họ giữ mãi địa vị độc tôn?
Và nếu muốn được như thế, thì Vũ Văn Đức Chính phải có võ công cao hơn họ, phải khai thông sanh tử huyền quan, phải chế trụ được họ nhưng không được quyền hủy diệt!
Thể theo ý trời xui khiến, thể theo lời di chí của tiên phụ, Vũ Văn Đức Chính liền lắng đọng tâm tư, đè nén lại mọi xúc cảm để đọc cho kỹ, hiểu cho rõ ràng kinh văn được ghi trên khai thông sanh tử huyền quan quyết bí phổ.
Nguyên lý võ học không khác nào nguyên lý của trời đất, hay nói đúng hơn, người xưa đã vận dụng nguyên lý trời đất vào võ học.
Âm tàn thì Dương hiện, ngược lại Dương khứ thì Âm lai. Nhưng giữa cái chí âm và chí dương vẫn có thời khắc cho âm dương tương giao, thiên địa giao thái. Đó là lúc bình minh hoặc lúc chiều buông!
Khai thông sanh tử huyền quan quyết là nguyên lý này được vận dụng triệt để! Nếu những ai có được một nội lực trên một giáp tý, khi muốn tự khai thông sinh tử huyền quan phải chia thành hai lực đạo. Một theo mạch Nhâm, một theo mạch Đốc.
Mạch Nhâm dẫn một nửa lực đạo được xem là dương, còn mạch Đốc dẫn nửa lực đạo còn lại được xem là âm.
Thiên địa chỉ giao thái được khi mạch Nhâm và mạch Đốc tương thông với nhau. Muốn thế thì âm không thể thịnh hơn dương, ngược lại dương không cường hơn âm. Mà phải là ngang bằng.
Người tự khai thông sanh tử huyền quan theo quyết của bí phổ này phải có trước hết là nội lực bản thể cao, đồng thời phải có một định lực vững vàng.
Bằng không ắt sẽ chuốc họa vào thân. Đối với người có nội lực không đủ một giáp tý thì cần phải có một cao nhân trợ thủ. Tự thân người này dùng nội lực bản thân để tự xem là dương nếu là nam, hoặc xem là âm nếu là nữ giới. Âm thì theo Đốc mạch còn dương thì theo Nhâm mạch.
Còn cao nhân trợ lực, bất luận nam hay nữ, đều phải bổ sung vào người kia bằng một nguồn nội lực ngang bằng và xung phá vào mạch còn lại để có được Thiên địa giao thái, tức là đạt mức khai thông Nhâm Đốc nhị mạch.
Hiểu được yếu quyết này, Vũ Văn Đức Chính không ngần ngại bắt tay vào việc khai phá sanh tử huyền quan ngay. Vì không nơi đâu an toàn và kín đáo bằng nơi này, và không lúc nào yên tĩnh bằng lúc này. Nội lực thì có dư! Định lực thì có thừa.
Khi những tia sáng nhợt nhạt từ mặt nước của dòng Địa nhiệt tuyền phản chiếu lên tiểu động thì Vũ Văn Đức Chính đã đại công cáo thành.
Thu liễm chân lực, để lại vào hộp gỗ ấn triện cùng bí phổ lưu lại tiểu động, Vũ Văn Đức Chính chỉ mang theo bất ngờ mình mảnh hoa tiên có di tự của tiên phụ ly khai khỏi Hỏa Dung tuyệt địa theo dòng chảy của Địa nhiệt tuyền thoát ra mà đi.
Tuân theo di chí của tiên phụ, Vũ Văn Đức Chính tạm thời bỏ qua, không nói gì đến Thái Phi Tiên cảnh, để sau gặp lại tỷ tỷ, ái nữ của đại mẫu cùng tiên phụ, Vũ Văn Đức Chính sẽ định liệu phương sách giải quyết sau.
Còn bây giờ, Vũ Văn Đức Chính có hai việc cần làm là :
– Truy tầm thù gia của dòng họ Vũ Văn.
– Tìm cho được kẻ đã lấy oán báo ân, đã trá ngụy khai tên giả dối là Ngụy Như Tào để trả thù.
Thế thôi đã.