Thần Điêu Đại Hiệp

Hồi 12 : Người đàn bà trong cổ mộ đài

trước
tiếp

Thầy trò đang ngớ ngẩn thì một hồi tù và nữa lại nổi lên, tiếng tù và đằng đằng sát khí, báo hiệu có người đang giao đấu với nhau.

Khưu-xứ-Cơ tỏ vẻ giận dữ, nói:

– Quân gian ác! Quân gian ác!

Rồi ông ta nhìn về phía rừng cây rậm, nói tiếp:

– Quách-Tỉnh con! Bọn gian phi kia đã nguyền mười năm nữa đến trả thù. Lời nguyền ấy dụng ý trong mười năm sau chúng khỏi bận tâm đương đầu với con, để rảnh tay phá phách thiên hạ. ở đời lại có những bọn lợi dụng danh dự làm kế tiểu xảo như vậy sao? Thôi, ta đi đây.

Quách-Tỉnh hỏi:

– Bọn đó là Hoắc-Đô công tử chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

– Còn ai vào đây nữa! Bọn đó lại đến gây việc giao chiến với Tiểu-long-Nữ rồi.

Vừa nói, Khưu-xứ-Cơ vừa chạy như bay xuống núi. Quách-Tỉnh chạy theo sau.

Hai người vượt qua khỏi chừng một trăm dặm đường thì tiếng tù và nổi bật lên. Trong tiếng tù và ấy có chen lẩn tiếng lêng kêng, chứng tỏ rằng vị sư Tây-Tạng Đạt-nhĩ-Ba cũng đã xuất trận.

Khưu-xứ-Cơ nói:

– Hai đứa nầy vốn sanh trong chốn danh gia vũ nghệ mà lại hợp nhau đi hiếp đáp một thiếu nữ thì không còn biết sỉ nhục là gì.

Quách-Tỉnh theo chân Khưu-xứ-Cơ rảo bước, mỗi lúc một nhanh hơn. Chỉ chốc lát cả hai đến sau lưng núi. Nhìn qua vách đá. Quách Tỉnh trông thấy núi rừng một màu đen đặc, phía trên khoảng rừng cây thấp thoáng bóng mười người, đứng sừng sững như những bóng ma si tình đã vây đánh nơi Trùng-Dương điện trước đây.

Hai người ẩn sau vách đá để xem xét động tĩnh ra sao!

Hoắc-Đô hoàng-tử và nhà sư Tây-Tạng đứng khít nhau, cứ sau mỗi tiếng tù và thổi lên là họ nối theo những tiếng keng keng cốt sao khiêu khích Tiểu-long-Nữ ra khỏi mộ đài.

Sau một lúc khích lệ, rừng cây náo động trở lại với trạng thái êm đềm giữa rừng khuya.

Hoắc-Đô hoàng-tử bỏ chiếc tù và xuống đất, dõng dạc với giọng nói sang sảng:

– Ta là Tiểu vương xứ Mông-Cổ, tên Hoắc-Đô, kính hướng Tiểu-long-Nữ chào mừng.

Cứ mỗi lần nói xong, trong rừng cây có tiếng đờn “tanh tanh” vọng lại chào mừng.

Thấy Tiểu-long-Nữ đánh đờn đáp lễ, Hoắc-Đô hoàng tử mừng rỡ, cất giọng nói tiếp:

– Được nghe thiên hạ đồn về đạo hạnh cô nương, nên ta đến đây xin đem tài tỉ thí để cầu duyên, xin cô nương vui lòng chỉ giáo cho chút ít tài nghệ.

Lời nói vừa dứt, tiếng đàn bỗng trở nên kích động, bao hàm ý giận dữ như muốn đuổi khách. Bọn tà ma nào có hiểu gì tâm trạng của kẻ chơi đàn. Hoắc-Đô lại cất giọng nói:

– Tiểu vương tôi vốn giòng giõi danh gia vong tộc, dung mạo nào có thô kệch gì, ước mong được cô nương thưa tiếp, tôi tin rằng với tài nghệ của tôi không đến nỗi làm cho cô nương thẹn mặt.

Giọng đờn bỗng cao vọt lên như có ý trách móc. Cây thiết huyền cầm vốn có âm thanh thật hòa nhã trong trẻo, thế mà chẳng biết tâm trạng của cô gái ấy ra sao mà lúc bấy giờ tiếng đàn bỗng trở nên chua chát, khiến những kẻ biết nghe đờn không dám kiên nhẫn đứng nghe lần thứ hai nữa.

Hoắc-Đô quay sang phía nhà sư Đạt-nhi-Ba, đưa mắt hỏi dò ý kiến. Nhà sư Tây-Tạng gật đầu, Hoắc-Đô nói:

– Cô nương nhất định không ra, Tiểu vương nầy chỉ còn có cách là dùng võ lực để thỉnh cầu thôi.

Nói đoạn, hắn vung tay phải lên ra hiệu, tức thì bọn yêu tà ào ào chạy về hướng rừng cây.

Trong bọn chúng đứa nào cũng nghĩ bụng:

– Bọn Toàn-Chân là môn phái lợi hại trong giới võ lâm mà hai người cầm đầu của chúng còn chưa sợ, chúng dại gì mà không hứa theo hai đứa nầy để vào mộ đài cướp bóc.

Nghĩ thế, chúng tranh nhau, mạnh ai nấy chạy vào rừng.

Khưu-xứ-Cơ trông thấy nổi giận lớn tiếng hét:

– Đây là chốn cũ của tổ sư chân nhân ta, chúng bay không được vô lễ phạm đến.

Mọi người nghe giọng nói của Khưu-xứ-Cơ oang oang trong rừng, một giọng nói hùng hồn như có một mãnh lực chặn đứng mọi hành động phi nghĩa, tất cả đều rờn rợn nhưng lòng tham của chúng thúc giục chúng không dừng bước.

Khưu-xứ-Cơ quay lại nói với Quách-Tỉnh:

– Quách đồ đệ, chúng ta ra tay kẻo trễ.

Tức thì hai thầy trò Quách-Tỉnh từ sau bức tường đá co chân nhẩy vọt tới. Nhưng bỗng họ dừng chân lại, vì trước mặt họ, bọn tà sư kia một lũ lố nhố ôm đầu chạy thối lui, miệng rên rỉ kêu cứu.

Khưu-xứ-Cơ cũng như Quách-Tỉnh đều đứng ngây người nhìn cuộc rối loạn của chúng.

Chẳng bao lâu Hoắc-Đô và Đạt-nhi-Ba cũng trồi đầu ra, vẻ mặt hầm hầm kinh sợ chẳng khác nào vẻ mặt thảm hại khi chúng rút lui ở Trùng-Dương cung.

Khưu-xứ-Cơ và Quách-Tỉnh trong lòng không khỏi ngạc nhiên tự hỏi:

– Chẳng biết Tiểu-long-Nữ đã dùng biện pháp nào mà xua đuổi bọn chúng mau lẹ như thế?

Hai người chưa tìm được lời giải đáp thì bỗng nghe đằng xa có tiếng kêu vù vù vọng lại. Dưới ánh trăng màu sữa loãng, một đoàn côn trùng đang bay đến vun vút. Đoàn côn trùng tỏa ra tứ phía, bâu vào đầu bọn dâm tặc kia mà cắn.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ, hỏi:

– Chẳng biết giống côn trùng ấy thuộc loại gì.

Khưu-xứ-Cơ lắc đầu không đáp, chăm chú nhìn, thấy trong bọn kia có nhiều người nhảy chồm lên kêu la vì đau đớn quá.

Quách-Tỉnh nói:

– Đúng là loài ong rồi! Nhưng tại sao ong lại có sắc trắng.

Lúc ấy bầy ong lại xúm đến đốt vào đầu bảy tám người nữa. Họ nằm lăn ra, kêu thảm thiết.

Quách-Tỉnh nghĩ bụng:

– Bị ong đốt mà đau đớn như thế tất loài ong nầy có một thứ nọc độc khác thường khiến người ta không thể chịu nổi.

Bây giờ, bầy ong đang thắng thế, cất cánh vù vù tiến dần về phía Khưu-xứ-Cơ và Quách-Tỉnh.

Khưu, Quách hai người cũng ái ngại không biết phải đối phó bằng cách nào. Khưu-xứ-Cơ vận khí dồn xuống đơn điền, rồi búng miệng thổi ra một hơi. Một luồng gió làm xào xạc rừng cây thổi ngược lại bầy ong.

Bầy ong đang lúc hăng say thẳng hướng, thấy có luồng gió vội dừng cánh. Khưu-xứ-Cơ búng miệng thổi tiếp một hơi nữa, và Quách-Tỉnh cũng búng miệng thổi phụ vào. Bầy ong bị gió cản lại quay sang hướng khác. Hai người này áp dụng ngón võ nghệ vi diệu của phái Toàn-Chân, làm cho bầy ong chống cự không nổi.

Bầy ong lại tỏa ra, tìm bọn Hoắc-Đô, Đạt-Nhĩ-Ba mà cắn. Hơn mười nạn nhân nữa quằn quại rên la vì nọc độc của bầy ong quái quắc kia. Chúng nói lớn:

– Chúng con biết đã phạm trọng tội, xin Tiểu-long-Nữ cô nương vui lòng cứu sống cho.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nghĩ thầm:

– Bọn kia toàn là những đứa đã từng sống trong đời võ sĩ giang hồ, can đảm có thừa, coi cái chết như không, cớ sao lại rên rỉ thảm thiết trước một bầy ong nhỏ bé như thế nhỉ?

Bấy giờ từ trong rừng vọng ra tiếng đàn cầm. Trên ngọn cây dâng lên một đám khói thưa thớt, trắng phau. Và một mùi hương phảng phất thơm ngát.

Một lát sau, tiếng bay phần phật của bầy ong mỗi lúc một gần. Khi ngửi thấy hương hoa, bầy ong nhóm lại bay trở về rừng.

Thì ra Tiểu-long-Nữ đã tung hương hoa để chiêu hồi đàn ong trở về.

Khưu-xứ-Cơ đã từ hai muơi năm trường là kẻ lân bang của Tiểu-long-Nữ thế mà cũng chẳng biết nàng có thể làm được những chuyện lạ lùng như thế, nên nay đem lòng cảm phục.

Với một giọng nói hình như thích thú, Khưu-xứ-Cơ quay lại Quách-Tỉnh:

– Nếu chúng ta sớm biết tài nghệ Tiểu-long-Nữ thế nầy thì Trùng-Dương cung của chúng ta chắc không đến nỗi phải bị tiêu diệt.

Câu nói của Khưu-xứ-Cơ tưởng chỉ để mình Quách-Tỉnh nghe thấy mà thôi nhưng hình như trong mộ đài Tiểu-long-Nữ cũng biết được ý tứ của hai người bằng phép “độc tâm thuật” nên bỗng có tiếng đàn vọng ra, giọng rất dịu dàng tựa hồ như một lời cảm tạ kẻ tri âm.

Khưu-xứ-Cơ cười hề hề, nói:

– Cô nương bất tất phải dùng đến lễ độ như thế. Bần đạo Khưu-xứ-Cơ này xin cho đệ tử Quách-Tỉnh thân đến nơi kính chúc cô nương.

Bên trong, đàn cầm vọng ra hai tiếng ”tanh-tanh” để cảm ơn rồi im bặt.

Quách-Tỉnh nghe trong bọn Hoắc-Đô có những tiếng kêu thảm thiết, động lòng nói với Khưu-xứ-Cơ:

– Bọn họ là những thiên thần tội nghiệp. Xin sư phụ thỉnh cầu với Tiểu-long-Nữ để cho chúng ta được cứu mạng họ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

– Cứ để tùy ý Long cô nương xử trí, chúng ta chớ nên dự vào. Chúng ta trở về thôi.

Nói xong, hai thầy trò Khưu-xứ-Cơ lui gót, trở về hướng đông.

Dọc đường Quách-Tỉnh đem thân thế Dương-Qua kể lại tỷ mỷ cho Khưu-xứ-Cơ nghe.

Khưu-xứ-Cơ thở dài, nói:

– Dương-Khang, cha của Dương-Qua là một vị anh hùng, lẽ nào chúng ta không thương tình đào luyện cho Dương-Qua trở nen người nối nghiệp. Phần con, con đã có lòng tốt với Dương-Qua thì cũng nên ráng hơn nữa. Còn ta, ta sẽ tận tâm nuôi dạy để mai sau nó nên người.

Quách-Tỉnh nghe Khưu-xứ-Cơ nói, rất mừng rỡ, tuy dọc đường giữa rừng núi, Quách-Tỉnh cũng quỳ xuống để tạ ơn:

Khưu-xứ-Cơ lại hỏi:

– Có lần con nói rằng tại Đào-hoa đảo có người đến vẽ trộm địa đồ, và bên trong có Cái-Bang dính líu việc ấy có nghĩa gì vậy?

Quách-Tỉnh thưa:

– Sư phụ còn nhớ đến đứa học trò bất hiếu là Bành không?

Khưu-xứ-Cơ như nhớ ra, nói:

– à! Ta nhớ rồi! Nó lớn gan lắm! Nhưng không ngờ nó lại dám đến tận đảo Đào-hoa mà sanh chuyện nhỉ.

Quách-Tỉnh nói:

– Vợ chồng đệ tử đã suy nghĩ rất nhiều, cố tìm hiểu chuyện đó: “Nếu chỉ có Bành thị thì nhất quyết Bành-thị không dám làm liều, ngặt vì trong việc còn có người đứng sau ném đá giấu tay.

Khưu-xứ-Cơ cười, nói:

– Hiện nay võ nghệ của Hoàng Dung và lối bố trí trên đảo Đào-hoa, nếu có người toan đến phá phách thì kẻ ấy nhất định mang thất bại, chẳng làm được trò trống gì. Vậy con chẳng cần bận tâm đến làm chi!

Quách-Tỉnh gật đầu tỏ vẻ đồng ý rồi bỏ qua việc ấy.

Hai người chuyện trò với nhau một lúc thì về đến Trùng-Dương điện. Bấy giờ trời đã sáng tỏ, mọi người đang dọn dẹp, tìm gỗ đá chặt cây dựng lên mấy túp lều tạm trú. Ngôi võ điện nguy nga trước đây bây giờ chỉ còn lại những vết chân tường làm kỷ niệm.

Khưu-xứ-Cơ triệu tập các đạo sĩ họp mặt, rồi dẫn đạo sĩ râu dài đã chỉ huy trận Bắc-đẩu giới thiệu với Quách-Tỉnh:

– Người nầy học trò của Vương sư đệ, tên là Triệu-chí-Kính làm tam đại đệ tử, đã tập luyện rất thuần thục. Ta định giao trách nhiệm giáo dục Dương-Qua cho Triệu-chí-Kính.

Quách-Tỉnh đã từng giao đấu với Triệu-chí-Kính, nên biết Triệu-chí-Kính võ nghệ đã điêu luyện, lấy làm mừng, liền gọi Dương-Qua bảo phải làm lễ nhập môn Triệu-chí-Kính.

Kế đó, Quách-Tỉnh ở lại Chung Nam sơn ít bữa dặn dò Dương-Qua cặn kẽ, rồi từ biệt mọi người trở về đảo Đào-hoa.

Dùng dằng mãi, Quách-Tỉnh mới xa Chung-Nam sơn mà lòng đầy lưu luyến.

Khưu-xứ-Cơ nhớ lại hồi năm xưa, Dương Khang vì võ nghệ siêu quần nên được giao giữ việc nuôi dưỡng Tôn-xứ-Ưu ở Vương phủ. Sau đó vì hư hỏng ở Trù-Thành nên mang hại. Do lẽ đó Khưu-xứ-Cơ tự nghĩ rằng: Phàm thầy dạy có nghiêm thì mới tạo nên được trò giỏi, cha có nghiêm thì mới rèn được đứa con có hiếu. Việc dạy dỗ Dương-Qua phải rất nghiêm thì mới tránh được vết xe đồ của cha nó.

Ngay lúc ấy, Khưu-xứ-Cơ gọi Dương-Qua vào, nghiêm sắc mặt lớn tiếng ra lệnh cho nó phải chịu sự khó nhọc, khổ sở bất cứ việc gì cũng phải vâng lời Triệu-chí-Kính.

Dương-Qua vốn đã không muốn ở lại Chung-Nam Sơn. Bây giờ mới vừa thọ giáo đã bị một trận quở mắng trong lòng lại càng thêm ấm ức. Tuy cố nhẫn nhục nghe, song nước mắt tràn ra, không ngăn nổi.

Rồi đợi đến lúc Khưu-xứ-Cơ đi khỏi nó oà ra khóc.

Triệu-chí-Kính thấy thế nhỏ nhẹ hỏi:

– Có điều gì thế! Đạo trưởng có điều gì làm cho con không đẹp ý chăng?

Dương-Qua quay đầu lại, thấy Triệu-chí-Kính, sư phụ mình, lấy làm bối rối, chấp tay thưa:

– Thưa sư phụ, con nghĩ đến chú Quách đảo Đào-hoa, lòng nhớ nhung không cầm được.

Triệu-chí-Kính thấy Dương-Qua chỉ vì bị Khưu-xứ-Cơ nghiêm khắc nên khóc lóc, giờ đây nó lại viện cớ nói dối là nhớ Quách-Tỉnh mà khóc. Lời ấy làm cho Triệu-chí-Kính không bằng lòng, thầm nghĩ: Thằng bé chưa bao nhiêu tuổi mà đã dùng lời lẽ lừa dối! Vậy ta phải răn dạy thế nào cho nghiêm mới có thể sửa đổi được tính nết của hắn.

Nghĩ như vậy Triệu-chí-Kính hầm hầm nét mặt nạt:

– Đối với bực sư phụ mà ngươi dám dối ư?

Thật ra, Dương-Qua chính mắt đã trông thấy các đạo sĩ Toàn-Chân môn phái, người nào cũng đều bị Quách-Tỉnh đánh tơi bời như lá rụng. Nó lại thấy Khưu-xứ-Cơ và đồng bọn lại bị Hoắc-Đô dùng yêu tà làm cho thất điên bát đảo phải nhờ vào sức Quách-Tỉnh mới thoát được cảnh đại bại. Nó cho võ nghệ của các đạo sĩ Trùng-Dương cung chỉ là bậc tầm thường không đi đến đâu cả. Ngay đối với Khưu-xứ-Cơ nó chẳng khâm phục, huống hồ Triệu-chí-Kính.

Tuy nhiên, lòng nó cũng có đôi chút thắc mắc: tại sao võ nghệ họ như vậy mà trong giới giang hồ ai cũng ca tụng môn phái Toàn-Chân, cho môn phái Toàn-Chân là một môn phái chơn truyền thuộc vào hạng nhất trong thiên hạ.

Phải chăng vì môn đồ đã biếng nhác, tập luyện không đến nơi đến chốn, để cho phái võ này càng ngày càng đi đến chỗ thất truyền?

Nhưng dù sao, trước mắt nó, với Khưu-xứ-Cơ, Triệu-chí-Kính những kẻ nó đã cho rằng bất tài thì dẫu nó có thọ giáo cũng chẳng ích gì.

Dương-Qua đã nhồi đi nhồi lại trong óc bao nhiêu ý tưởng như trên. Và cũng chính vì ý tưởng đó mà sau này lắm chuyện không hay đã xảy đến cho nó.

Dương-Qua thấy sắc mặt sư phụ tỏ ra khó chịu, nghĩ thầm:

– Ta tuy làm lễ thụ giáo, nhận người là thầy thực, song chỉ vì bất đắc dĩ. Dẫu ta có cố ý vâng lời, gắng công tập luyện một lối võ như người rồi ra cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ.

Nghĩ như thế, nó quay mặt đi, không thèm nói gì đến Triệu-chí-Kính cả.

Triệu-chí-Kính nổi giận, quai mồm ra hét:

– Ta hỏi mi, mi dám to gan không trả lời sao?

Dương-Qua quay lại nói:

– Sư phụ muốn tôi trả lời sao thì tôi trả lời vậy, không cần phải hỏi tôi làm chi.

Triệu-chí-Kính thấy nó vô lễ lòng giận dữ không thể nén được, đưa tay tát vào mặt nó một cái, trán nó sưng lên một cục bứu rất lớn.

Dương-Qua kêu lên một tiếng, rồi vừa nhón chân khóc vừa chạy vào rừng.

Triệu-chí-Kính đuổi theo kịp, nắm nó lại hỏi:

– Mày chạy đi đâu?

Dương-Qua trừng mắt nói:

– Ông thả tôi ra, tôi không thèm học võ nghệ của ông làm gì.

Triệu-chí-Kính càng giận hơn, quát mắng:

– Đồ vô loại! Mày nói gì thế?

Dương-Qua lúc bấy giờ chẳng cần gì nữa, mắng lại:

– Đạo sĩ hèn hạ! Cứ đánh ta cho chết đi!

Thời xưa, bổn phận của học trò đối với thầy được xem là tuyệt đối, tình thầy chẳng khác gì tình cha con. Trong giới võ lâm cũng thế, sư phụ có quyền xử tử đệ tử, mà đệ tử chẳng hề dám nói một tiếng. Lúc bấy giờ Dương-Qua dám mở mồm mắng lại Triệu-chí-Kính là một điều ít trông thấy, một cử chỉ trái nghịch, một hành vi vô đạo.

Do đó, Triệu-chí-Kính mặt tái đi vì giận, khi uất lên đến tuyệt đỉnh, liền đưa tay tát vào mặt Dương-Qua mấy cái. Dương-Qua né tránh rồi thừa cơ nắm được tay Triệu-chí-Kính, cắn lấy ngón tay trỏ.

Trước đây Dương-Qua được Âu-Dương-Phong truyền dạy nội công tuy chưa đến đâu song cũng có thể sử dụng tạm thời trong các việc lặt vặt. Nó cắn chặt ngón tay Triệu-chí-Kính, làm cho Triệu-chí-Kính vùng vẫy thế nào cũng không được.

Đau quá, Triệu-chí-Kính hét lớn:

– Muốn sống bỏ ra! Mầy muốn chết sao?

Dương-Qua đã lỡ, không còn biết sợ hãi nữa. Vả lại nó cũng đã đến mức tức quá không thể nhịn nổi, nên Triệu-chí-Kính càng nói nó lại càng cắn chặt hơn, nhứt là lúc nó bị Triệu-chí-Kính dùng tay đánh vào đầu vào vai nó.

Triệu-chí-Kính rút tay không ra, bị đau quá cũng không còn e dè gì nữa, dùng tay trái đánh một chùy thật mạnh vào “Thiên linh cái” của nó, thằng bé bị tê hẳn người đi té xỉu xuống đất. Nhờ đó Triệu-chí-Kính mới rút tay ra được, thì ngón tay của ông ta đã đứt thấu xương.

Ngón tay đó, Triệu-chí-Kính có thể dùng kim khâu lại, xức thuốc lành, song, chịu tật, không cử động lanh lợi được nữa.

Nhìn ngón tay bị thương, Triệu-chí-Kính cơn tức chưa nguôi, dùng chân đá vào mình Dương-Qua mấy cái cho hả dạ, rồi mới xé áo buộc ngón tay lại.

Nhìn cùng bốn phía, Triệu-chí-Kính không thấy có bóng một người nào, lẩm bẩm:

– May mà không ai thấy, nếu có kẻ biết được thì ta còn gì thể diện.

Triệu-chí-Kính lấy nước rảy vào mặt Dương-Qua cho tỉnh lại. Nhưng thằng bé vừa tỉnh, nó chồm dậy, xông vào Triệu-chí-Kính toan đánh.

Triệu-chí-Kính trợn tròn đôi mắt, nắm áo trước mặt nó, hét:

– Đồ súc sinh! Mày muốn ta đánh chết sao?

Dương-Qua đôi mắt đỏ ngầu, chưởi lớn:

– Đồ chó má! Mi là đồ đạo sĩ khốn nạn!

Triệu-chí-Kính không còn nhẫn nhục được nữa lấy ngón tay xỉ vào mặt nó một cái.

Như đã đề phòng trước, Dương-Qua tránh khỏi, rồi tiến sát vào đưa tay đánh lại.

Triệu-chí-Kính thoi cho nó mấy cái nữa, làm cho nó xiển niển. Tuy nhiên, thằng bé vẫn như không biết đau, lì lợm dấn thân vào.

Thật ra, Triệu-chí-Kính chỉ dùng một tay một chân cũng đủ làm cho Dương-Qua thọ thương song ông ta nghĩ rằng nó là đệ tử mình, nếu đánh nó bị thương tích, lúc trở về các sư phụ và sư bá hỏi thì biết trả lời làm sao.

Nghĩ thế Triệu-chí-Kính cố tình nhân nhượng.

Nhưng Dương-Qua không biết thế. Cơn giận làm cho nó như điên như dại. Nó lấy hết sức bình sinh coi như mình đang đứng trước một địch thủ bắt cộng đái thiên, mặc dù bị đánh té xiển niển, nó vẫn xông đến, không chịu đầu hàng.

Sau một hồi đấm đá liên tiếp, Triệu-chí-Kính thấy mặt mày, mình mẩy Dương Qua tím bầm, không còn sót chỗ nào, lòng hối hận muốn thôi, không đánh nữa. Song Dương Qua vẫn một mực nhất định không chịu thôi, buộc lòng Triệu-Chí-Kính phải dùng tay điểm vào huyệt phía dưới lưng nó, nó mới chịu nằm xoài xuống đất.

ấy thế mà trong lúc nằm xoài dưới đất, đôi mắt nó nộ khí vẫn còn tiết ra ngùn ngụt.

Triệu-chí-Kính nói:

Mày là đứa môn đệ phản nghịch. Mày có chịu sửa lỗi hay không?

Dương-Qua vẫn trợn đôi mắt nhìn Triệu-chí-Kính tỏ vẻ bất phục, mà không nói năng gì cả.

Triệu-chí-Kính bực bội, bước lại ngồi trên một tảng đá thở hào hển.

Thật ra, Triệu-chí-Kính đấu với một đối thủ võ nghệ cao cường, hơn ba tiếng đồng hồ liền mà chẳng bao giờ ông ta thở hổn hển như thế. ấy bởi khí tức của ông ta lên quá cao, làm cho người ông ta mất thăng bằng đó thôi.

Triệu-chí-Kính nhìn đứa học trò mình nằm dài dưới đất, nghĩ đến tánh ngang bướng của nó, chưa biết nên xử trí thế nào, thì bỗng một hồi chuông từ nơi võ điện vang rền.

Đó là tiếng chuông chiêu tập môn đệ của vị giáo trưởng Mã-Ngọc.

Triệu-chí-Kính nghe tiếng chuông giật mình, quay lại bảo Dương-Qua:

Nếu từ rày trở đi mày còn ngang bướng vô lễ như thế thì ta đánh đến chết không tha.

Nói đoạn, Triệu-chí-Kính lấy ngón tay ấn vào huyệt để giải đau cho Dương-Qua.

Nào ngờ Dương-Qua vừa nhỏm dậy lại xông vào đánh nữa.

Triệu-chí-Kính tức giận, nói:

– Tao không đánh mày nữa sao mày lại làm thế?

Dương-Qua hậm hực nói:

– Từ nay trở đi người còn đánh nữa chăng?

Tiếng chuông giục vang hồi khiến cho Triệu-chí-Kính không còn thì giờ nói nhiều hơn.

– Mày mà không chừa tật hỗn ẩu, vô lễ thì ta còn đánh mãi, đánh đến chết mới thôi.

Dương-Qua nói:

– Thế càng tốt! Nếu không đánh ta, ta gọi bằng sư phụ, còn nếu cứ đánh mãi, ta chẳng thèm nhận là sư phụ nữa.

Triệu-chí-Kính cười chua chát, gật đầu nói:

– Trường giáo triệu tập chúng ta về võ điện. Thôi hãy trở về nhận lệnh đã, bữa khác sẽ hay.

Thấy Dương-Qua áo quần tơi tả, mặt mày tím bầm, sợ có người trông thấy hỏi nó, nó nói thật thì danh dự làm thầy của Triệu-chí-Kính còn gì, Triệu-chí-Kính lòng lo lắng, cực chẳng đã phủi lại quần áo và lau mặt cho thằng bé nắm tay nó dắt về võ điện.

Bây giờ nơi điện Trùng-Dương cung đã được cáo đạo sĩ dựng lên mười mấy túp lều tranh, xây cất trên nền cũ. Triệu-chí-Kính và Dương-Qua về đến nơi thì ai vào phòng nấy, chỉ còn có Mã-Ngọc Khưu-Xứ-Cơ và Dương-xứ-Nhất hãy còn ngồi ở bên ngoài.

Mã-Ngọc vỗ tay ra hiệu, mọi người đều im bặt. Giọng ông sang sảng nói:

– Trường-Sinh chân nhân sai Thành-Tinh từ Sơn-Tây đến, cho biết bên ấy tình thế rất nguy ngập, Trường-Xuân và Ngọc-Dương chân nhân đã tới ứng điện, nay yêu cầu ta và đệ tử đi cứu ứng đây.

Mọi đạo sĩ nhìn nhau tỏ ra rất phẫn uất.

Tiếp theo đó, Khưu-xứ-Cơ đọc danh sách mười đạo sĩ đã được lựa chọn ra đi. Ông ta nói:

– Các ngươi sửa soạn hành lý để sáng sớm theo ta.

Các đạo sĩ xôn xao bàn tán:

– Lý-mạc-Thu chẳng qua là một nữ nhi, vì sao Trường-Sinh chân nhân và Lưu sư thúc không địch nổi?

Có người nói:

– Nếu Khưu xứ bá và Vương sư thúc đến đó thì chắc Lý-mạc-Thu phải cúi đầu hàng phục.

Trong lúc mọi người đang bàn tán thì Khưu-xứ-Cơ bước đến bên Triệu-chí-Kính nói:

– Ta muốn đem ngươi theo ta, nhưng thấy ngươi không thể trễ tràng việc giáo dục Dương-Qua nên đành phải để ngươi ở lại.

Đoạn ông ta liếc mắt nhìn Dương-Qua, thấy thằng bé mặt tím bầm, ngạc nhiên hỏi:

– Làm sao thế? Ai đánh cháu thế này?

Triệu-chí-Kính lo sợ nếu Dương-Qua kể ra sự thật ắt Khưu-xứ-Cơ sẽ quở trách, nên hốt hoảng đưa mắt nhìn Dương-Qua với thái độ trấn an. Nhưng, Dương-Qua làm ngơ không thèm để ý.

Khưu-xứ-Cơ giận dữ nói:

– Đứa nào đánh cháu thế nầy thật là đốn mạt! Cháu hãy nói rõ cho ta biết.

Câu nói ấy càng làm cho Triệu-chí-Kính bối rối hơn. Song Dương-Qua tỏ vẻ bình thản nói:

– Không có ai đánh cháu cả. Vì vô ý, cháu bị vấp ngã trong hang núi.

Khưu-xứ-Cơ không tin, hét lớn:

– Đừng nói dối! Làm thế nào lại bị vấp ngã mà bầm mặt mày nhiều chỗ như vậy?

Dương-Qua thưa:

– Vì sư phụ con có dặn lúc nào cũng để tâm đến võ nghệ, do đó con lãng ý nên bị rủi ro.

Nghe nói thế, Khưu-xứ-Cơ hỏi dồn:

– Rồi sao? Rồi vì đâu bị vấp ngã như thế?

Dương-Qua thưa:

– Thấy sư phụ dạy thế con không muốn phụ lòng sư phụ, luôn luôn nghĩ đến việc học hành…

Những lời nói khôn ngoan của Dương-Qua khiến Triệu-chí-Kính rất hài lòng, nét mặt dịu lại.

Dương-Qua kể tiếp:

– Nào ngờ, đột nhiên có một con chó dại đến cắn cháu. Cháu đánh nó, nó vẫn cứ sấn lại làm dữ, cháu sợ nó cắn trúng nên thoát thân, chạy trốn. Trong lúc vội vàng cháu sơ ý trợt chân té xuống hang đá. May sao gặp sư phụ và nhờ sư phụ đến lôi cháu dậy.

Khưu-xư-Cơ bán tin bán nghi, đưa mắt nhìn Triệu-chí-Kính có ý hỏi dò hư thực thế nào.

Triệu-chí-Kính nét mặt hầm hầm, giận dữ nói:

– Mày xấc láo đến mức đó là cùng! Tại sao mày lại dám gọi ta là loài chó dại?

Khưu-xứ-Cơ ngạc nhiên, nhìn Triệu-chí-Kính không hiểu ra sao cả.

Triệu-chí-Kính trong lúc nóng nảy đã lỡ lời trước mặt Khưu-xứ-Cơ còn biết giấu giếm thế nào nữa. Nếu đồng lõa với Dương-Qua lừa dối Khưu-xứ-Cơ thì cũng khốn, mà nói thực ra thì cũng chẳng yên.

Triệu-chí-Kính quay sang Khưu-xứ-Cơ thưa:

– Dạ dạ! Đúng là đệ tử có vực nó dậy.

Chẳng biết Khưu-xứ-Cơ có thật tin lời Triệu-chí-Kính không, chỉ thấy ông ta nét mặt lạnh nhạt rồi nói lảng sang chuyện khác:

– Ta đi rồi, ngươi phải rán sức truyền thụ cho Dương-Qua những huyền công của bản môn. Cứ mười ngày một lần phải lên trình với Mã sư bá, để Mã sư bá xem xét lại.

Triệu-chí-Kính lòng không vui đối với đứa đồ đệ như Dương-Qua, song Khưu-xứ-Cơ đã dặn dò không dám nói gì hơn phải cúi đầu vâng lệnh.

Dương-Qua lúc đó thích thú lắm, vì nó đã ám chỉ sư phụ nó là một con chó dại mà sư phụ nó không dám phản đối. Nó không để ý gì đến lời dặn dò của Khưu-Xứ-Cơ nữa.

Khưu-Xứ-Cơ vừa bước đi được mười bước, lửa giận phừng phừng bốc lên làm cho Triệu-chí-Kính không còn dằn được nữa, ông ta đưa tay đánh mạnh vào đầu Dương-Qua một cái. Dương-Qua kêu lớn:

– Khưu tiên sư! Khưu tiên sư!

Khưu-xư-Cơ ngoảnh lại hỏi:

– Cái gì thế?

Tay của Triệu-chí-Kính vẫn còn giơ lên ngay đầu Dương-Qua nên không chối cãi vào đâu được nữa. Triệu-chí-Kính vừa tức vừa ngượng cúi đầu không nói.

Dương-Qua chạy về phía Khưu-xứ-Cơ, mếu máo khóc và nói:

– Thưa tiên sư, tiên sư đi rồi không ai che chở cháu, chắc là các sư bá, sư thúc sẽ đánh con đến chết mà thôi.

Khưu-xứ-Cơ nhìn mặt Dương-Qua quát:

– Đừng nói bậy, làm gì có việc như thế!

Tuy bên ngoài Khưu-xứ-Cơ vẻ nghiêm khắc song bên trong nghĩ đến đứa bé thân cô thế quả, mồ côi cha mẹ, động lòng thương liền gọi Triệu-chí-Kính bảo, ta giao đứa bé này cho ngươi, nếu lúc ta trở về có gì sơ xuất ta sẽ quả trách ngươi đấy.

Triệu-chí-Kính không biết nói sao chỉ biết cúi đầu nghe dạy.

Ngày hôm ấy, sau bữa cơm chiều, Dương-Qua hăm hở chạy đến một gian nhà tranh, cửa phòng của Triệu-chí-Kính sư phụ nó.

Vừa bước vào, thấy Triệu-chí-Kính, nó đã vồn vã nói:

– Sư phụ!

Giờ ấy là giờ các đạo sĩ Trùng-Dương điện đang luyện võ công.

Triệu-chí-Kính ngồi xếp bằng trên một tấm ván, đang chú mục nhìn xa xăm, bỗng thấy thằng bé chạy vào, với dáng điệu ấy, Triệu-chí-Kính suy nghĩ:

– Thằng nhỏ nầy thật ranh mãnh, tinh ma. Ngay bây giờ nó đã bướng bỉnh, hỗn xược, nếu nó học được thành tài thì nó còn kể ai vào đâu nữa. Dạy nó thật hoài công. Tuy nhiên, Đạo trưởng đã có lời truyền, nếu ta những tận tâm chỉ dạy thì cũng không được.

Lòng Triệu-chí-Kính thắc mắc mãi, nghĩ chưa ra lối thoát.

Thấy sư phụ ngồi im lìm, thằng bé chậm rãi bước đến mỉm cười.

Cử chỉ ấy lại gieo vào lòng Triệu-chí-Kính một cái gì chán ghét. Thốt nhiên, Triệu-chí-Kính nghĩ ra được một giải pháp, bụng bảo dạ:

– Được, ta cứ cho nó học một số ít trăm câu ca về môn huyền công, còn mánh khóe về võ nghệ ta chỉ dạy đến nửa chừng mà thôi. Như vậy nó không thể nào đến mức điêu luyện được. Sau nầy đạo trưởng có hỏi đến, ta cứ đổ thừa cho nó là đứa biếng nhác, không chịu cố gắng học hành.

Nghĩ như thế, nét mặt Triệu-chí-Kính bỗng tươi hẳn lên. Ông ta quay về phía Dương-Qua nói:

– Qua nhi! Con đã đến đó sao?

Dương-Qua nói:

– Hôm nay có đánh ta nữa chăng?

Cũng vẫn với giọng hỗn láo đó, song Triệu-chí-Kính không thèm giận dữ như trước, nói:

– Ta truyền võ nghệ cho con nào có đánh đập con làm gì? Từ nay con phải lo học tập mới được.

Dương-Qua thấy thái độ Triệu-chí-Kính đổi khác, đổi một cách nhanh chóng ngoài sự ức đoán của nó lên lấy làm lạ, dần dần tiến lại gần, tuy chưa được yên trí lắm.

Triệu-chí-Kính liếc mắt nhìn nó với thái độ ung dung, chẳng tỏ ý gì thù oán nó, nói:

– Môn phái Toàn-Chân của ta luyện tập võ nghệ không giống các môn phái khác. ở đây chúng ta luyện tập từ trong ra ngoài chứ không phải từ ngoài vào trong. Bây giờ ta truyền cho con tâm pháp, con phải cố công học cho thuộc lòng.

Dứt lời Triệu-chí-Kính đọc một mớ khẩu quyết về nội công của môn phái Toàn-Chân.

Dương-Qua vốn thông minh hơn người, chỉ học qua là thuộc làu hết. Tuy nhiên, qua những vết nứt rạng giữa tình sư đệ, qua những trạng thái đổi thay bất ngờ của Triệu-chí-Kính. Dương-Qua nghĩ rằng: có lẽ Triệu-chí-Kính đã đem những khẩu quyết giả mạo để dạy nó lấy lệ, làm cho nó mất thời giờ đi chăng?

Nghĩ như vậy, nó giả vờ quên một vài đoạn đến hỏi Triệu-chí-Kính thì Triệu-chí-Kính cũng nói y như vậy.

Mặc dầu thế, nó vẫn chưa tin cách đó, hai ngày nó lại giả quên và hỏi lại nữa. Nhưng lần nào Triệu-chí-Kính cũng nói không khác.

Nó tin lời, cho khẩu quyết đó không phải là thứ giả.

Trong khoảng mười ngày, Triệu-chí-Kính không dạy món gì ra khác hơn là khẩu quyết. Ngoài ra việc tập luyện võ nghệ thì Dương-Qua không hề biết đến một mảy may nào.

Đúng ngày thứ mười, Triệu-chí-Kính đưa nó đến trình với Mã-Ngọc, và bảo là đã truyền cho nó bảo môn tâm pháp. Triệu-chí-Kính ra lệnh cho Dương-Qua đọc lại khẩu quyết cho Mã-Ngọc nghe.

Nó đọc không sót một chữ nào, khiến cho Mã-Ngọc phải tấm tắc khen thầm:

– Thằng bé nầy thông minh đáo để. Sau này ắt nó phải trở thành một tay võ hiệp siêu quần trong phái Toàn-Chân.

Mã-Ngọc đâu có ngờ quỉ kế của Triệu-chí-Kính!

Mấy tháng trời trôi qua như chớp, thấm thoắt đã đến mùa đông! Dương-Qua bấy giờ cũng chỉ thuộc làu một mớ khẩu quyết để khi cần đàm luận võ nghệ có thể nói thao thao bất tuyệt, còn việc thực hành chẳng biết một mảy may. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời của thằng bé cũng đành vô dụng.

Qua mười ngày đầu, Dương-Qua đã cảm thấy được ác ý của Triệu-chí-Kính, sư phụ nó, nhưng nó như con chim nhốt trong lòng, ai muốn cho ăn gì tùy ý, đâu dám đòi hỏi gì hơn.

Oán hận của nó mỗi ngày một tăng, cấu kết trong tiềm thức mà không có một ai để ý giãi bày. Nó nóng lòng đợi Khưu tổ sư về nhưng chờ mãi vẫn chưa thấy.

Hình như, nơi Trùng-Dương điện chẳng phải mình sư phụ nó có ác ý với nó, mà nó có cảm giác mọi người nơi đó ai cũng ghét nó. Do đó, nó thấy chán ngán trước cuộc sống cô đơn, không người tâm sự. Tuy không nói ra mà lòng nó khinh thị tất cả những ai gọi là môn phái Toàn-Chân.

Về phần Triệu-chí-Kính, ông ta lấy làm đắc ý khi thay Dương-Qua không thi thố nổi tài năng. Thường khi thấy Dương-Qua chôn vùi trí óc trong mớ khẩu quyết vô dụng kia. Triệu-chí-Kính tự bảo:

– Mày hỗn láo với sư phụ mày rốt cuộc mày chỉ mang thiệt thòi vào thân!

Trời đông tuyết đổ mỗi lúc một nhiều. Chẳng mấy chốc mùa đông cũng sắp hết.

Theo thông lệ của Tổ sư Trùng-Dương cung truyền lại, hàng năm cứ gần đến đêm trừ tịch có tổ chức một cuộc so tài trong võ điện mục đích để kiểm điểm lại tài năng từng người và sự tiến triển của môn phái qua một năm rèn luyện.

Các đạo sĩ thấy ngày so tài gần đến, ai nấy chăm chú tập luyện không lúc nào nghỉ.

Họ mơ đến ngày rằm tháng chạp, cái ngày trăng tròn vành vạnh, đó là cái ngày mọi người chứng kiến cho công trình học tập của mỗi vị đạo sĩ Trùng-Dương cung.

Lúc đó, môn đệ phái Toàn-Chân phân ra nhiều nhóm, cứ mỗi nhóm nhỏ đấu nhau thì gọi là cuộc so tài sơ bộ. Kẻ nào thắng ở hiệp sơ bộ mới được vào đấu các hiệp tuyển chọn.

Mã-Ngọc cùng với các đệ tử lớn nhỏ hợp thành một nhóm, Khưu-xứ-Cơ cùng với đồ đệ lớn nhỏ họp thành một nhóm, còn nhóm thứ ba là nhóm Đàm-xứ-Thụy.

Tuy Đàm-xứ-Thụy đã qua đời song đệ tử của Đàm-xứ-Thụy toàn là những tay cự phách. Do đó Mã Ngọc, Khưu-xứ-Cơ tỏ lòng nhớ tiếc một đạo hữu sớm qua đời thường nhắc nhở môn đệ của Đàm-xứ-Thụy, và dành riêng cho Đàm-xứ-Thụy một vinh dự.

Mỗi năm đến ngày chánh thức so tài thì môn đệ ba nhóm ấy được họp mặt, tuyển dụng.

Năm nay Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất v.v… đi chưa về, chỉ còn có Mã-Ngọc, Xích-đạo-Thông ở nhà, hai người nầy trấn giữ võ điện.

Tuy nhiên, khác mọi năm, năm nay Trùng-Dương cung vừa xảy ra một tai biến nên cá nhân mỗi người trong môn phái đều cố tâm rèn luyện võ công, cốt làm sao cho tiếng tăm của môn phái khỏi suy kém, và môn phái chính thống này khỏi mai một.

Thật vậy, đã mười năm nay, các đệ tử cừ khôi trong môn phái đều phiêu lưu tản mác chỉ còn lại một vài vị tiên sư cầm đầu có bản lĩnh, còn các môn đệ đều chưa mấy thuần phục.

Đúng vào giờ ngọ ngày hôm ấy cứ theo thứ tự đã định sẵn, Triệu-chí-Kính, Thôi-chí-Phương tụ tập ở Đông-nam nơi khoảng đất trống cùng nhau kiểm điểm lại lối tổ chức hàng năm trong vũ điện, và chủ tọa cuộc so tài sơ bộ của lớp đệ tử nhỏ tuổi gọi là “đệ tử đại đệ tử”.

Lớp đệ tử nầy liền biểu diễn quyền thuật, hoặc múa đao, múa kiếm, múa các vũ khí nhẹ ngắn, hoặc vận dụng nội công tùy theo sở trường mỗi người, và tất cả đều do Triệu-chí-Kính phê bình để thẩm định hơn thua.

Nhưng “đệ tử đại đệ tử” là gì?

Toàn-Chân môn phái do Vương-trùng-Dương khai sáng gọi là vị tổ sư. Mã-Ngọc cùng trong bọn bảy đạo sĩ kia là học trò tổ sư nên liệt vào hạng “đệ nhị đại đệ tử”. Còn Dương-Khang, Triệu-chí-Kính, Doãn-chí-Bình v.v đều là học trò của bảy vị kia, nên gọi là “đệ tam đại đệ tử”. Đến lớp nhỏ tuổi như Dương-Qua và đồng bọn đều là học trò của lớp “đệ tam đại đệ-tử” nên gọi là “đệ tử đại đệ tử”.

Dương-Qua nhập vào hạng đệ-tử đại đệ-tử sau cùng nên ngồi ở sau rốt.

Nhìn thấy các tiểu đạo sĩ khác cũng lớp tuổi với mình mà ai nấy quyền thuật đều có vẻ tinh thục hơn, mỗi người đều chuyên môn một ngón, Dương-Qua thấy bực bội và oán hận trong lòng.

Triệu-chí-Kính nhìn thấy nét mặt nó có vẻ giận dữ oán hờn thì lại muốn cho nó xuất trận để các đệ tử khác thấy cái bất tài của nó mà chê cười cho bõ ghét.

Ông ta đợi đến lúc hai tiểu đạo sĩ so tài xong, cất khí giới rồi thét gọi Dương-Qua:

– Dương Qua! Ra đấu đi!

Dương-Qua đứng ngẩn người ra nghĩ bụng:

– Chưa dạy người ta một chút võ nghệ nào mà bảo người ta đấu là đấu cái quái gì chớ?

Trong lúc Dương-Qua đang chần chờ, thì Triệu-chí-Kính lại gọi:

-Dương-Qua! Có nghe ta gọi không! Hãy mau ra đấu trường!

Bị gọi nhiều lần như thúc giục, Dương-Qua không biết làm sao bước tới trước mặt Triệu-chí-Kính xá dài, và nói:

– Đệ tử là Dương-Qua kính trình diện sư phụ.

Trong Toàn-Chân phải phần đông là những kẻ tu hành, song cũng có một số ít như Dương-Qua, không thuộc hẳn vào hạng tu hành cho nên lúc chào hỏi, lúc yết kiến có những cử chỉ khác hơn.

Thấy Dương-Qua bước đến cúi đầu chào, Triệu-chí-Kính chỉ tay vào đấu trường thách:

– Có tiểu đạo sĩ nào dám đấu với Dương-Qua chăng?

Một tiểu đạo sĩ nghe Triệu-chí-Kính nói, ung dung bước ra đấu trường. Vị tiểu đạo sĩ này thân hình vạm vỡ, to béo hơn Dương-Qua nhiều.

Dương-Qua chần chờ không dám bước ra. Triệu-chí-Kính vẫy tay nói với Dương-Qua:

– Nó không lớn gì hơn người bao nhiêu đâu, người hãy ra tỉ thí với nó xem nào?

Dương-Qua thưa:

– Đệ tử chưa học được một môn võ thuật đâu dám cùng với đạo huynh tỉ thí.

Triệu-chí-Kính nổi giận hét:

– Ta đã dạy ngươi hơn nửa năm võ nghệ, tại sao ngươi lại nói chưa học một môn nào? Thế thì nửa năm nay ngươi làm cái trò trống gì?

Dương-Qua không biết trả lời sao đành đứng im cúi đầu xuống.

Triệu-chí-Kính nói:

– Mày lười biếng, ham chơi, chẳng khổ công tập luyện, quyền thuật chẳng ra gì không dám thi thố với đồng bạn thực là hổ nhục. Ta hỏi mi: Chân tay tiến đều, ngang dọc múa còn câu dưới là gì?

Dương-Qua đáp:

– “Tay múa lung tung đâu vào đấy”.

Triệu-chí-Kính khen:

– Đúng! Vậy ta hỏi mi: “Hai phép sanh khác tùy nghi” còn câu dưới là gì?

Dương-Qua đáp:

– “Né tiến tùy theo thế đối phương”.

Triệu-chí-Kính mỉm cười, nói:

– Giỏi lắm! Không sai một chữ. Thế thì mi đem cái biết ấy ra đấu trường mà áp dụng xem sao.

Dương-Qua sợ sệt nói:

– Đệ tử chẳng hiểu gì về những câu khẩu quyết đó.

Triệu-chí-Kính bề trong tuy thích chí, nhưng bề ngoài làm ra vẻ giận dữ quát mắng:

– Học hành gì mi! Học khẩu quyết rồi thì phải tập luyện! Còn dùng dằng mãi chẳng chịu ra chiến đấu ư?

Các đạo sĩ nghe Dương-Qua đọc khẩu quyết không sai chữ nào thế mà khi ra tỉ thí thì lại khiếp sợ, nên xúm nhau khích lệ, kẻ bỉm môi, người giục giã với luận điệu gần như châm biếm.

Bao nhiêu ác cảm hình như đổ dồn vào Dương-Qua.

Nguyên nhân chỉ vì lúc Quách Tỉnh lên núi đã đem sức mình hạ mấy tên cự phách trong môn phái Toàn-Chân nhục nhã ấy còn ghi trong lòng các đạo sĩ Trùng-Dương điện. Thế rồi bao nhiêu bực tức đổ dồn vào Dương-Qua, ai trông thấy Dương-Qua cũng đều nhớ lại cái ngày bại trận xấu hổ đó.

Thật ra, cùng một môn phái, cùng là bạn mà những người có thái độ như thế đâu phải chính đáng. Âu cũng là thói thường, trong thiên hạ. Mà chốn Trùng Dương cung nào phải ai cũng tốt đâu.

Dương-Qua thấy mọi người đến thúc giục mình, mỉa mai mình lòng tự ái nổi lên, không đằng được, nghĩ thầm:

– Bữa nay ta liều chết một phen xem sao!

Nghĩ đoạn, nó xông ra đấu trường múa máy tay chân, đưa thẳng tay lên bổ vào đầu tiểu đạo sĩ đối thủ.

Tiểu đạo sĩ kia thấy Dương-Qua bộ tịch khác thường, không theo nguyên tắc của môn phái, không biết tiến thoái theo phép vũ thuật chỉ múa lung tung, lấy làm lạ chưa dám đụng thế, cứ lùi mãi.

Dương-Qua hăng quá đánh thí thân, tấn công địch thủ đủ mọi mặt mà không cần tự vệ.

Tiểu đạo sĩ địch thủ lùi hoài bất giác nhận thấy chỗ sơ hở của Dương-Qua, liền dùng thế “Phong thảo lạc diệp” nghĩa là gió quét lá rụng, đánh vào chân, làm cho Dương-Qua mất đà ngã sấp xuống đổ máu mũi máu mồm chảy ra một lượt.

Các tiểu đạo sĩ đứng xem thấy Dương-Qua bị thương rộ lên cười một lượt.

Dương-Qua thấy thế càng căm tức hơn, không còn biết đau đớn là gì, chờm dậy chân đá tay đấm lăn xả vào địch thủ.

Tiểu đạo sĩ địch thủ thấy nó hầm hầm nét mặt, xông đến tấn công như vũ bão, chỉ còn biết né tránh. Dương-Qua cứ một mặt đánh bừa, không kể gì đến nguyên tắc võ biền nữa. Hắn cúi đầu lủi vào nắm chân trái của đối thủ vật xuống.

Đối thủ luồn tay mặt qua một bên, cứ hông Dương-Qua đánh thốc tới, dùng theo thế “Thiên thân đảo huyền” để cứu nguy việc bị địch thủ bẻ cẳng.

Dương-Qua lúc trước một thời gian ở Đào-hoa đảo chẳng luyện tập gì hết, từ ngày tới Trùng-Dương cung thấm thoắt đã hơn nửa năm cũng chẳng luyện được một miếng võ nào. Nhưng vì máu hăng của nó xông lên ngùn ngụt, nên nó chưa thấy đau thấm tới.

Địch thủ lấy làm lạ, chẳng biết vì sao nó nhỏ bé như thế kia mà đánh mãi vẫn không chuyển. Tiểu đạo sĩ định thử, liền vận dụng hết sức mình, thoi vào hông Dương-Qua một cái đích đáng.

Lần nầy Dương-Qua bị đau điếng cả người. Nhưng lạ thay nó càng đau lại càng hăng lên. Nó bỏ chân trái của địch thủ ra, rồi lại xông vào nắm lấy chân phải.

Địch thủ bị hắn lao vào quá mạnh, giật mình mất thăng bằng. Nhân đó, hắn bồi vào một chùy trúng ngay quai hàm, địch thủ phải ngã ngửa ra, nằm sải dưới đất như một tấm ván.

Nó xông tới! Đạo sĩ địch thủ thừa cơ vận nội công vào mông và hai bàn tay, tung người đá bật vào ngực Dương-Qua.

Dương-Qua chụp được chân, lật trái một vòng, làm cho đối thủ lăn tròn như chiếc vụ.

Bị đau quá, đạo sĩ đối thủ không còn chịu nổi nữa, đứng dậy nói:

– Dương-Qua! Ta xin cầu hòa!

Ban chấm điểm thấy thế tưởng rằng đối phương đã chịu hòa thì Dương-Qua ngưng đấu, ngờ đâu nó vẫn cứ xông vào đánh mãi, càng đánh càng hăng, càng đánh càng dẻo, chỉ vài ba đòn kế tiếp, đạo sĩ đối thủ phải bị vọt máu mũi, nằm sải dưới đất.

Các đạo sĩ đứng xem thấy sợ để Dương-Qua hung hăng quá sẽ gây tai họa, liền bảo phải thôi đấu.

Mặc kệ, Dương-Qua như một đứa điên dại, cứ đấm đá liên hồi. Đối thủ lùi bao nhiêu thì Dương-Qua tiến tới bấy nhiêu, cuộc đấu võ trở thành một cuộc đuổi bắt buồn cười.

Dương-Qua từ ngày lưu lại Chung-Nam sơn đến nay đã nửa năm, có lẽ khí uất tích lũy lâu ngày chỉ chờ đợi có dịp là phát tiết ra. Thì ngày hôm nay chính là dịp để cho Dương-Qua phát tiết cái uất khí trong người nó vậy.

Do đó càng đánh nó càng hăng, khí uất đã làm cho nó không còn biết đau đớn gì nữa.
Đến cuối cùng, đối thủ của nó chịu không nổi la lên cầu cứu.

Thấy đối thủ cứ chạy mãi, miệng la ôi ối, Dương-Qua hét:

– Đạo sĩ khốn kiếp! Đồ đểu giả! Hèn mạt!

Câu mắng đó chẳng những Dương-Qua mắng đạo sĩ đối thủ của nó mà nó có ý mắng tất cả các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà nó cho là thù địch với nó.

Các đạo sĩ đứng xem nghe Dương-Qua mắng chưởi bừa bãi, nghĩ thầm:

Thằng bé nầy không được dạy dỗ cẩn thận ắt sau sẽ trở thành một phường phản phúc.

Ai nấy đều nhìn Dương-Qua với thái độ căm tức.

Giữa lúc đó thì Dương-Qua rượt đối thủ của nó, miệng vẫn la chưởi om sòm. Còn đối thủ của nó như đã mệt sức, kêu lớn:

– Sư phụ ơi! Sư phụ ơi! Cứu con với.

Triệu-chí-Kính thấy thế hét lên:

– Hãy ngừng trận đấu! Dương-Qua!

Mặc cho lời kêu gào của Triệu-chí-Kính, Dương-Qua vẫn đuổi theo đối phương, như muốn bắt lấy đối phương để giộng đầu xuống đất cho hả giận.

Bây giờ, trong đám đạo sĩ lớn tuổi, có một người quá nóng lòng vùng chạy ra đấu trường, nắm cổ Dương-Qua ghì chặt lại.

Vị đạo sĩ này to lớn, mập mập, cử chỉ rất lanh lẹ.

Đạo sĩ ấy đưa tay đấm mạnh vào đầu vào cổ Dương-Qua lia lịa, miệng hét lớn:

– Đồ phản phúc! Đồ nhãi ranh!

Dương-Qua quay đầu lại nhìn thấy vị đạo sĩ đó là Tỉnh-Quang. Nó nhớ lại lúc nó mới đến Trùng-Dương cung, chính nó đã làm nhục vị đạo sĩ nầy.

Thực vậy, Tỉnh-Quang đã hậm hực thù oán Dương-Qua từ mấy tháng trường, mối thù ấy cấu kết vào lòng, trong cho có dịp là ra tay. Nay nhân chỗ sơ hở của Dương-Qua, Tỉnh-Quang dại gì không thừa cơ hội ấy.

Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top

Hắn dùng toàn những miếng đòn độc đánh Dương-Qua cho hả dạ.
Về phần Dương-Qua, khi liếc thấy bộ mặt căm hờn của Tỉnh-Quang nó đã có cảm giác thấy trước việc chẳng lành. Song nó bị Tỉnh-Quang nắm lấy cổ không làm sao giãy giụa được.

Sau mấy tràng cười gắn, Tỉnh-Quang dùng bàn tay chặt vào gáy của Dương-Qua như đánh một kẻ thù, và nói:

– Mày không nghe lời các bậc sư phụ, mày là đứa học trò ương ngạnh, bội thầy phản bạn, trong môn phái ta ai đánh mi cũng được.

Dứt lời Tỉnh-Quang lại tiếp tục đánh nữa.

Trong đám đạo sĩ đứng xem có Thôi-chí-Phương là người chính trực, thấy Dương-Qua ra tỉ thí mà chẳng hề biết gì vũ công của bản môn, lòng nghi hoặc sự hẹp hòi cùa Triệu-chí-Kính, lại đoán biết có điều gì tư vị thù hằn, khi thấy Tỉnh Quang dùng những ngón độc đánh Dương-Qua mà chẳng ai nói rằng gì cả, liền xông vào, quát:

– Tỉnh-Quang! Tỉnh Quang! Không được đánh nữa.

Tỉnh-Quang nghe tiếng quát của sư thúc Thôi-chí-Phương, tuy không bằng lòng, song cũng đành phải buông Dương-Qua ra, nói:

– Dám thưa sư thúc! Tôi đoán rằng sư thúc chưa rõ tính tình của thằng nhóc xảo quyệt nầy. Nó cứng cổ lắm, chẳng thèm nghe theo lời chỉ giáo của sư phụ. Nếu cứ dung thứ nó mãi thì trong môn phái chúng ta chẳng còn qui củ nào nữa.

Thôi-chí-Phương như chẳng nghe lý luận của Tỉnh-Quang, chạy đến trước mặt Dương-Qua nhìn thấy miệng mũi nó đầy máu, mặt sưng húp, tím bầm, động lòng thương, ôn tồn hỏi:

– Dương-Qua! Sao sư phụ dạy dỗ mà chẳng ráng tập tành để đến ngày tỉ thí lại đánh loạn đả như thế? Nguyên tắc võ chẳng rành rẽ.

Dương-Qua lòng hậm hực, phát hiện ra cả tiếng nói, nó đáp:

– Sao tiên sư lại nói thế? Tiên sư không biết rằng sư phụ tôi không hề dạy cho tôi một chút võ nghệ nào sao?

Thôi-chí-Phương nói:

– Ta đã nghe mi đọc khẩu quyết không sai một chữ, lẽ nào mi lại chưa được tập luyện?

Lời nói của Thôi-chí-Phương làm cho Dương-Qua nhớ lại lúc nó còn ở Đào-hoa đảo Hoàng Dung đã dạy cho nó nào Mạnh Tử, Luận-ngữ, nào Đại-học, Trung-Dung, nay đến Triệu-chí-Kính thì dạy nó khẩu quyết những món chỉ để nhồi sọ nó, thực ra không đem ra áp dụng trong thực tế được chút nào. Nghĩ như thế nó oán hận và nghi hoặc cả loài người. Nó tưởng không còn ai thực tâm thương nó nữa.

Và cũng vì nghĩ thế, nó quắc mắt nhìn Thôi-chí-Phương, nói:

– Đấu võ không đấu bằng miệng mà phải đấu bằng tay chân. Sư phụ tôi chỉ dạy tôi bằng miệng thì làm sao đấu với ai được. Nếu kẻ nào đấu võ bằng miệng thì lối dạy của sư phụ tôi quyết chẳng thua ai.

Thôi-chí-Phương lòng nghi ngờ chưa tin lời nó là thật, nên muốn thử xem nó có tập luyện ít nhiều chăng, liền làm ra vẻ giận dữ quát mắng:

– Mi ăn nói hỗn xược với bề trên như thế sao?

Dứt lời, Thôi-chí-Phương dùng tay đánh vút xuống đầu nó.

Miếng đánh ấy nếu kẻ nào không chân truyền tập luyện theo phái Toàn-Chân sẽ phải ngã gục ngay tức thời. Còn những người đã tập luyện có thể dùng “nhu chế cương, hư chế thực” mà trừ được.

Nhưng lạ thay! Dương-Qua không hề đỡ mà đầu nó chỉ rung lên một chút, rồi lùi lại đằng sau mấy bước chớ không bị ngã.

Thôi-chí-Phương thuộc vào hạng tam đại đệ tử của Toàn-Chân phái, là một trong những tay cự phách cao thủ, tuy không giỏi bằng Triệu-chí-Kính song cũng đủ sức dọc ngang trong giới giang hồ.

Thấy mình đánh một đòn nội công mà Dương-Qua chịu nổi, Thôi-chí-Phương lấy làm ngạc nhiên tự nghĩ:

– Cứ như sức đề kháng này thì ít ra nó cũng phải luyện trên mười năm nội công mới chịu nổi chứ nó vừa nhập môn trên sáu tháng làm gì có bản lãnh dường ấy? Nhưng nội công đã khá tại sao lúc giao đấu nó lại đánh loạn đả như thế?

Thôi-chí-Phương thắc mắc mãi vẫn không tìm hiểu nổi. Vì Thôi-chí-Phương có biết đâu rằng trước kia Mã-Ngọc đem bí thuật của Toàn-Chân truyền lại cho Quách-Tỉnh, Quách-Tỉnh truyền lại cho Tần-nam-Cầm. Trong mấy năm trời, Dương-Qua đã học phép nội công của Tần-nam-Cầm cho nên trong lúc giao đấu Dương-Qua không biết ngón đánh nào hay mà căn bản nội công của nó rất vững chắc, có thể ngang với người đã từng rèn luyện trong mười năm.

Dương-Qua bị Thôi-chí-Phương giáng cho một đòn như thế càng giận, dẫu ông trời nó chưa nể huống hồ Thôi-chí-Phương. Nó lao đầu đến, đánh vào bụng Thôi-chí-Phương một thoi.

Thôi-chí-Phương né sang một bên, và rất đắc ý như đã tìm thấy được trình độ võ công của Dương-Qua, mỉm cười bảo Tỉnh-Quang:

– Tỉnh Quang! Ra mà đấu với Dương-Qua! Nhưng chớ đánh nó mạnh nghe.

Tỉnh Quang đã hờm sẵn, chỉ còn có lời nói ấy là nhảy ra đánh Dương-Qua lập tức.

Dương-Qua cũng không nhịn, đâm bổ vào Tỉnh-Quang. Nhưng hễ Dương-Qua đâm vào bên trái thì Tỉnh-Quang dùng tay mặt đánh vào hông, còn Dương-Qua đâm vào bên phải thì Tỉnh-Quang dùng tay trái thoi vào ngực với thế “Hổ môn thủ”.

Với lối đánh độc hiểm của Tỉnh-Quang, nếu Dương-Qua không luyện nội công trong mười năm tất phải bị hộc máu rồi.

Tuy vậy, mặt Dương-Qua vẫn trắng bạch ra như giấy.

Tỉnh-Quang thấy đánh nó miếng nầy vẫn không chuyển, lấy làm kinh ngạc, liền vận khí vào bàn tay bồi một quả thôi sơn vào mặt. May thay, đòn nầy Dương-Qua dùng vai đỡ được, song nó không hiểu một tí gì về quyền thuật nên cứ xông vào một cách vụng về, mặc tình cho đối phương đánh đá.

ác ý hơn nữa, Tỉnh-Quang dùng tay mặt nhử nó rồi lòn tay trái đánh vào bụng dưới nó một đòn chí tử, nó đau quá phải gò bụng gò lưng lại mà chịu.

Trong lúc nó cúi lom khom người lại bị Tỉnh-Quang dùng bàn tay chém vào ót nó mấy cái, làm cho nó xây xẩm mặt mày, lảo đảo muốn ngã. Các đạo sĩ đứng xem thấy thế rộ lên cười trước tánh liều lĩnh của nó.

Thực ra, mọi người có đâu rằng Dương-Qua vốn giống tánh ông nội hắn là Dương-Thiết, một con người gan dạ đến chẳng bao giờ chịu đầu hàng trước kẻ địch.

Bây giờ Thôi-chí-Phương hiểu rõ Dương-Qua chẳng được tập luyện võ nghệ gì cả, nên quay sang bảo Tỉnh-Quang:

– Thôi! Đừng đánh nữa Tỉnh-Quang.

Nhưng Tỉnh-Quang được dịp trả thù, nhất định không thôi, vừa đánh túi bụi, vừa nói:

– Nào, mày đã biết tay tao chưa?

Dương-Qua cất mồm mắng:

– Khốn nạn! Tao nhất định không coi mày là gì!

Tỉnh-Quang tức giận quá, hai tay đánh lia lịa vào sống mũi Dương-Qua làm cho nó chẳng còn trông thấy trời đất gì nữa, lảo đảo quỵ chân xuống đất.

Khí uất xông lên, trong người nóng nực. Dương-Qua cảm thấy một hơi nóng chạy khắp mình, tập trung xuống đơn điền, tỏa ra tay chân, ra mồm, rồi cả người nó như có một mãnh lực nào sai khiến, nó há mồm “ngoạp” một tiếng, hai chân dí vào mặt đất tung người lên, dùng đầu đâm bổ vào ngực Tỉnh-Quang nhanh như điện chớp.

Thân hỉnh Tỉnh-Quang to lớn thế kia, mà với ngón đòn đó đã làm cho Tỉnh-Quang tung lên không trung mấy thước, rồi rơi huỵch xuống đất như một tấm phản nằm chết cứng.

Những đạo sĩ đứng xem nãy giờ thấy Tỉnh-Quang cậy lớn hiếp bé, cậy mạnh hiếp yếu, giở những ngón đòn độc ác đánh Dương-Qua, tuy không nói ra nhưng lòng cũng hồi hộp cho tính mệnh Dương-Qua. Giờ đây bỗng thấy Dương-Qua chỉ đánh một đòn mà làm cho Tỉnh-Quang bay bổng lên trời, rồi rơi xuống nằm chết cứng, đều lấy làm lạ chạy đến xem sao.

Thật ra trong lúc bí thế, Dương-Qua đã vô tình dùng thế võ “hàm mô công”, thế võ ấy trước kia nó đã đánh chết một đệ tử của Cái Bang tại đảo Đào-hoa vậy.

Nó nghe các đạo sĩ nhôn nhao lên, lào xào nói:

– Thôi chết mất rồi! Hết thở rồi! Trời ơi! Chúng ta phải lập tức vào thưa với trưởng giáo tiên sư.

Dương-Qua lúc đó mới biết địch thủ nó đã bị thế “hàm mô công” đến chết, và nó cảm thấy một tai vạ ghê gớm sắp xảy đến cho nó, nó liền thừa lúc mọi người không chú ý, co giò ù té bỏ chạy.

Các đạo sĩ đang lao nhao trước cái chết của Tỉnh-Quang, Dương-Qua chạy trốn lúc nào chẳng ai hay biết gì cả.

Triệu-chí-Kính thấy Tỉnh-Quang thương tích nặng nề, thập tử nhất sanh, không còn hy vọng sống được, vừa giận vừa thương, gọi tên Dương-Qua mắng lớn:

– Dương-Qua! Mày học ngón võ giết người ở đâu thế?

Võ công của Tỉnh-Quang tuy khá giỏi, song khổ nỗi từ lâu nay chỉ trấn thủ nơi võ điện, ít kinh nghiệm kiến văn, không biết chống với miếng đòn “hàm mô công” là miếng đòn rất độc.

Triệu-chí-Kính la hét một hồi chẳng thấy Dương-Qua trả lời đâu cả, xem lại thấy Dương-Qua đã mất dạng, liền phân công bốn mặt tìm kiếm.

Các đạo sĩ bàn nhau:

– Chung-Nam-sơn chu vi có mấy chục dặm lại là phạm vi thế lực của Trùng-Dương cung, làm thế nào thằng bé có thể thoát thân dễ dàng.

Trong lúc đó, Dương-Qua hoảng hốt, chẳng cần chọn lựa xem lối nào hạ sơn, cứ việc cắm đầu chạy một mạch rồi lẩn vào trong rừng rậm để ẩn trốn.

Chạy một lúc, nó nghe đàng sau có tiếng gọi:

– Dương-Qua! Dương-Qua! Mi ở đâu? Muốn sống hãy trình diện lập tức.

Bốn bề đều có người đuổi bắt làm cho Dương-Qua hoảng sợ. Nó chạy mãi vào rừng, không dám dừng bước.

Bỗng trước mặt có bóng một đạo sĩ chạy đến đón đường, nó vội rẽ sang phía khác, thì lại có tiếng kêu:

– Nó kìa! bắt lấy nó!

Đạo sĩ ấy vừa nói, vừa nhảy ra đón đường toan thộp lấy nó.

Nhanh như cắt, Dương-Qua cúi đầu khom lưng, vận dụng miếng võ “hàm mô công” bắn vào đối phương”. Đạo sĩ kia, tuy không chết cứng như Tỉnh-Quang song cũng bị thương văng ra xa hơn bảy thước.

Hai đạo sĩ khác thấy nó đánh hiểm độc quá cũng hết hồn chẳng dám đến gần, chỉ đứng đằng xa kêu cứu om sòm. Nhờ vận dụng thế “hàm mô công” Dương-Qua đã thắng được hai đạo sĩ. Nó cảm thấy bớt sợ hãi. Tuy nhiên, chân nó vẫn chạy không ngừng.

Chạy một hồi, nó thấy đã xa những đạo sĩ kia, nên lấy làm sung sướng.

Bỗng nhiên ở chòm cây trước mặt nó có tiếng sột sạt rồi một người diện mạo phương phi, hình dung tuấn tú xuất hiện theo sau là Doãn-chí-Bình, đệ tam đại đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Vị đạo trưởng nầy sao lại trở về trong lúc nó tìm đường trốn thoát.

Lòng nó phân vân chưa biết phải đối phó ra sao, thì nhanh như chớp Doãn-chí-Bình đã nhảy sang một bên, đưa tay thộp vào ngực nó, nói lớn:

– Mày có chạy đi đàng trời mới thoát nổi tay ta.

Dương-Qua phản ứng ngay. Nội công “hàm mô” được vận dụng lên tức thời ở đầu ngón tay. Doãn-chí-Bình cảm thấy sức điện nội công của nó lợi hại liền siết chặt cổ tay nó, để ngăn nội công không cho phát xuất và buộc phải thối lui về đơn điền.

Thuật “hàm mô công” tuy là một thuật nội công lợi hại vào bực nhất, song Dương-Qua thời gian tập luyện chưa được bao nhiêu, vả lại đối với một người như Doãn-chí-Bình, cao đệ trong môn phái Toàn-Chân, dày công tập luyện và chiến đấu thì nó làm sao thắng nổi.

Bị ngăn nội công lại, chân nó nhảy chồm chồm lên như một con cóc. Thì ra nội công không trở về đơn điền mà lại trở dồn xuống dưới chân, phì ra đằng mồm, buộc nó phải thốt ra những lời chưởi rủa:

– Khốn nạn! Dã man! Tàn ác!

Thốt nhiên, Doãn-chí-Bình buông tay Dương-Qua, bảo:

– Mi muốn trốn thoát hãy hạ sơn đi. Ta đứng đây bảo vệ cho mi.

Nếu mi chần chờ sư phụ mi bắt được thì cái mạng nhỏ nhoi của mi ắt không toàn vẹn.

Doãn-chí-Bình xưa kia vốn cùng Dương-Khang, cha của Dương-Qua, tập luyện võ nghệ, tình đồng môn thực thắm thiết. Nay Doãn-chí-Bình vừa về đến thì được biết câu chuyện của Dương-Qua, lại nghe nói Triệu-chí-Kính hẹp hòi nghiêm khắc quá mức, đối với Dương-Qua nhiều ác ý. Bởi vậy khi nhìn thấy mặt mày Dương-Qua sưng húp và tím bầm, quần áo rách nát, Doãn-chí-Bình cảm thấy thằng bé bị đánh đập quá nhiều đem lòng thương hại.

Dương-Qua lấy làm lạ đứng ngây người, không hiểu thái độ của Doãn-chí-Bình đối với mình ra sao cả.

Nhưng ngày vừa qua nó gặp nhiều cơ nhục quá nên chẳng biết tin vào lòng tốt bất cứ ai. Bởi vậy, tuy Doãn-chí-Bình đã thả nó ra mà nó vẫn nghi ngờ chẳng biết đây có phải vì lòng tốt hay vì một xảo kế nào để hãm hại nó. Nó chẳng nói chẳng rằng, cắm đầu chạy một mạch, không quay lại.

Giây phút, nó nghe một nhóm người đàng sau nó đang cãi lộn lao xao.

Tứ chi nó không đến nỗi rã rời mệt mỏi, vì nó đã có công luyện tập nội công hồi nhỏ. Nó chạy gần đến chân núi, nhảy vượt qua mấy đám sậy, rồi ngẩng mặt lên nhìn thì lúc đó trời đã bắt đầu tối nhá nhem. Cơ thể nó đã vận dụng sức lực quá nhiều, cho nên nó thấy cần phải vận dụng hơi thở để lấy lại sức. Nó ngồi trên một tảng đá, ngẩng cổ lên hút những làn không khí trong lành của miền rừng núi.

Ngồi nghỉ được một lúc, nó cảm thấy đã khỏe khoắn, toan đứng dậy chạy nữa thì bỗng nhiên trước mặt nó, vị đạo sĩ râu dài, đứng sừng sững tự lúc nào.

Vị đạo sĩ ấy chính là Triệu-chí-Kính, sư phụ của nó.

Triệu-chí-Kính gương to đôi mắt nhìn nó chòng chọc, hơi giận dữ bốc lên ngùn ngụt.

Dương-Qua thốt nhiên kêu to lên một tiếng, rồi cắm đầu vụt chạy.

Triệu-chí-Kính phi thân đuổi theo.

Dương-Qua tay quờ được hòn đá ném lại phía sau, Triệu-chí-Kính tránh được. Hai thầy trò kẻ trốn người theo bắt, chạy ngoằn ngoèo trong rừng đêm.

Dương-Qua chạy được một lúc thì thấy trước mặt có bức tường đá chắn ngang. Nó hoảng hồn chưa biết làm sao, thì thấy dưới chân tường ấy có một con suối. Chẳng ngần ngại, nó nhảy ùm xuống đấy.

Triệu-chí-Kính thấy nó nhảy xuống suối, biết nó sẽ lội sang bãi cỏ xanh để vào rừng thông trước mặt trốn thoát nên đi vòng qua bờ suối đến đón ở rừng thông.

Nhưng, trong lúc Triệu-chí-Kính đi vòng bờ suối thì Dương-Qua đã vượt khỏi suối, chạy vào khu rừng. Triệu-chí-Kính, phải theo dấu đường mòn đuổi theo.

Rừng càng sâu cây cối càng rậm, màn đen phủ dăng như mực.

Bỗng nhiên, Triệu-chí-Kính nhớ lại nơi đó là Hoạt-tử-Nhân mộ đài, chỗ của vị sư tổ Trùng-Dương võ điện.

Luật lệ của Toàn-Chân môn phái cấm ngặt không, cho đệ tử nào được vào đấy một bước, nên Triệu-chí-Kính cho rằng Dương-Qua không thể vào đấy dung thân được, bèn kêu lớn:

– Dương-Qua! Dương-Qua! muốn sống thì ra ngay.

Kêu mấy tiếng vẫn không có người đáp lại, Triệu-chí-Kính bôn bả đuổi theo. Nhưng vừa tiến vào ít bước thì ông ta thấy một hàng chữ khắc trên bia đá, nhờ có ánh sao, nên có thể vận nhỡn quang dọc được:

“Người ngoài hãy dừng bước”.

ái ngại, Triệu-chí-Kính không dám đi sâu vào cất tiếng kêu:

– Thằng nhãi ranh Dương-Qua! Nếu mày không trở ra mày sẽ chết tươi trong đó không kịp trối!

Vừa dứt tiếng, Triệu-chí-Kính nghe bên mình có tiếng o! o! o!, tiếng kêu khác thường. Tiếng đó, trong bóng tối chập chờn hiện ra một đàn ong không đáp xuống được.

Nhưng loại ong nầy rất linh tính, thấy Triệu-chí-Kính dùng áo che chở tách ra làm hai bầy, một bầy tấn công phía trước, một bầy tấn công phía sau. Triệu-chí-Kính lại múa áo vòng quanh thân thể để đón ngừa. Bầy ong lại rẽ làm tư tấn công vào bốn mặt.

Triệu-chí-Kính thấy nguy, chỉ còn có cách lấy vạt áo che kín đầu, kín mặt, chạy thối lui cho nhanh.

Bầy ong vù vù đuổi theo sát Triệu-chí-Kính chạy hướng nào chúng bay theo hướng đó.

Triệu-chí-Kính thỉnh thoảng phải hé mắt ra để thấy đường chạy. Bỗng hai chú ong thấy chỗ sơ hở đó, thừa dịp luồn vào, đốt ngay nơi trán. Triệu-chí-Kính không chịu nổi hét lớn:

– Ôi chao! Ong gì mà đốt đau đến thế. Có lẽ lần này ta sẽ chết mất.

Thật vậy, loài ngọc ong rất độc, chỉ cần chích một mũi mà nạn nhân đủ thấy rêm khắp người, bất tất phải bị nhiều mũi.

Triệu-chí-Kính đến độ đau không sao chịu nổi, nằm lăn xuống bãi cỏ, vật mình kêu la.

Bầy ong thấy đã thắng trận kéo nhau bay vào rừng.

Lúc bấy giờ, Dương-Qua cũng không tránh khỏi sự tấn công của bầy ong. Nó bị ngã gục xuống bãi cỏ bất tỉnh chẳng biết tự lúc nào.

Cho đến khi nó tỉnh dậy thì thấy toàn thân đau nhức, quanh mình nó vẫn còn lảng vảng mấy con ong trắng. Tuổi nó còn nhỏ, nó vừa trải qua một ngày gian lao khổ cực nào đấu võ với các đạo sĩ kia nào các đạo sĩ Toàn-Chân rượt bắt, bây giờ nó lại bị ong độc cắn nữa. Với tấm thân bé bỏng đó, sức đâu chịu nổi. Nó đã đến lúc kiệt quệ, mắt nó hoa lên không còn trông thấy đường nó, thiếp đi một hồi lâu.

Trong cơn mê, nó cảm thấy một vị thơm thơ ngọt ngào mát mẻ tan dần vào miệng nó, rồi từ từ chạy xuống cổ họng. Nó sung sướng nuốt vào bụng. Nước ấy chạy đến đâu là mát rượi đến đấy. Nó mở bừng mắt ra tỉnh dậy thì thấy trước mặt nó một bà lão mặt mày xấu xí lạ thường.

Bà lão mặt mày xấu xí ấy, tay trái đặt lên trán nó, tay mặt cầm một cái bình nhỏ, trút lần lần chất nước ngọt kia vào miệng.

Thứ nước thần thánh ấy chính là thứ mật ong ngọc, có tác dụng trừ nọc độc và làm cho tinh thần người mệt nhọc được sảng khoái rất mau lẹ.

Mật ong kia làm cho Dương-Qua mỗi lúc một tỉnh. Nó biết rằng bà lão mặt mày xấu xí đó đã cứu sống nó, bà là một ân nhân chứ không phải một địch thủ, toan hãm hại nó. Lòng nó lâng lâng một niềm thương, để tỏ vẻ tri ân, nó mỉm miệng cười. Bà lão thấy nó cười tỏ ra là hiểu ý nó.

Nó mở mắt nhìn, thấy nụ cười bà lão làm nhăn nheo cả một khuôn mặt già nua. Vẻ xấu xí lại càng xấu xí hơn khiến cho ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.

Nhưng đối với Dương-Qua trong phút nầy nó đã chán ghét những khuôn mặt hùng hồn quắc thước rồi. Nó cho rằng những khuôn mặt quắc thước yên hùng chỉ là những khuôn mặt chứa đựng cái gì tàn ác hung hăng. Chỉ có khuôn mặt xấu xa mới giữ được nơi đó những cái hiền từ đáng mến.

Tuy ý nghĩ của nó nông cạn, song hoàn cảnh đã tạo cho nó một ý nghĩ kỳ quái như thế thì còn biết làm sao? Nó thấy khuôn mặt của bà lão đã làm cho lòng nó ấm áp, chứ không như những khuôn mặt của các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà lúc nào nó cũng thấy lạnh nhạt như băng tuyết.

Nó buột miệng se sẽ nói:

– Bà ơi! Bà đừng để sư phụ con đến bắt con nhé!

Bà lão thấy giọng xưng hô thân mật của nó, mừng rỡ hỏi:

– Cháu ơi! Sư phụ cháu là ai thế?

Đã từ lâu, Dương-Qua chưa bao giờ nghe được một câu nói êm đềm thân mật như thế. Còn nhỏ tuổi, tuy đã trải qua những ngày thực là phiêu lưu vất vả, tâm hồn nó vẫn còn dễ xúc động trước những hành vi cao đẹp nhân từ.

Quá cảm kích, Dương-Qua nghẹn ngào không nói nên lời, òa lên khóc nức nở.

Bà lão tay siết chặt lấy nó không một lời an ủi. Bà ta chỉ ngoẹo đầu sang một bên, đôi mắt long lanh như mặt sóng trùng dương, chứa đựng một tình thương mênh mông không bờ bến.

Bà lão đợi cho Dương-Qua khóc một hồi rồi mới cất giọng hỏi:

– Cháu đã bớt đau chưa hở cháu?

Bản tính Dương-Qua ưa ngọt chứ không ưa xẵng. Cũng vì thế mà nó không sao chịu nổi cảnh hà hiếp, khắc bạc của mọi người. Vả lại, đối với những kẻ hà hiếp khắc bạc, nó chẳng bao giờ nhỏ ra một giọt nước mắt, mà nó chỉ xúc động trước cái dịu hiền tình cảm mà thôi.

Bởi vậy, bà lão chỉ nói vài câu đã làm cho nước mắt nó tuông tràn không dứt.

Nó khóc! Khóc mãi không nói ra lời! Tuy nó không nói được mà hai dòng nước mát nó đã nói lên tất cả.

Bà lão lấy khăn nhẹ nhàng lau nước mắt cho nó, và dùng lời dịu ngọt dỗ dành chẳng khác gì bà đã dỗ một đứa con.

– Thôi nín đi cháu! Cháu đừng khóc nữa! Chỉ chốc lát cháu sẽ khỏi hẳn.

Dương-Qua chẳng cần biết bà lão nói gì, nó chỉ cần nghe cái giọng dịu hiền kia cũng đủ làm cho nó khóc ngất rồi.

Bà lão càng nói nó càng khóc, và khóc ngất không thôi.

Bỗng một giọng ngọt ngào và trong như nước suối, từ trong rặng cây vẳng lại:

– Tôn bà! Sao tôn bà lại thân ái với một đứa bé dối trá, khinh nhờn đệ tử của người khác?

Dương-Qua ngẩng đầu lên nhìn thấy sau rèm cây, một thiếu nữ đẹp tựa tiên sa, nõn nà trong bộ xiêm y trăng buốc. Một sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn mà trong cõi trần gian tưởng chưa bao giờ thấy.

Tự nhiên mặt Dương-Qua đỏ bừng lên, nó cúi xuống vì xấu hổ như nhận thấy thiếu nữ đưa mắt nhìn từ đầu đến chân nó.

Bà lão vừa cười vừa nói:

– Ta chẳng biết làm thế nào cho nó nín, xin cô nương khuyên nhủ nó giùm ta.

Thiếu nữ tiến đến gần nhìn những vết thương của Dương-Qua bị ong đốt, rồi đưa tay sờ lên trán nó xem nó nhiễm độc đến mức nào.

Lòng bàn tay thiếu nữ vừa chạm vào trán Dương-Qua thì Dương-Qua có cảm giác như lành lạnh. Nhưng không phải lạnh như băng tuyết, mà cái lạnh êm đềm như nhung gấm.

Nàng nói:

– Không sao đâu! Em nhỏ ạ! Em đã uống chút mật rồi chỉ trong nửa ngày em sẽ bình phục.

Dương-Qua nhìn chăm chăm vào thiếu nữ, chưa biết thiếu nữ ấy là ai? ở đâu? Tại sao lại có một sắc đẹp hồn nhiên, nõn nà, trong trẻo đến thế, thì bà lão như đã hiểu ý, nói:

– Vị nầy là chủ nhân chốn nầy, cháu phải lễ phép đối xử với cô nương.

Người thiếu nữ đẹp như hoa, trắng như ngọc kia, chính là Tiểu-long-Nữ, trong mộ đài Hoạt-tử-Nhân mà khách giang hồ đã từng được nghe danh hiệu. Còn bà lão chính là người lão bộc của vị tổ sư mộ đài và Trùng-Dương cung vậy.

Từ ngày vị đạo trưởng ở mộ đài tạ thế, hai người nầy vẫn sống chung với nhau trong mộ đài không rời nửa bước.

Vừa rồi, nghe tiếng ong bay. Tôn bà biết có người xâm nhập địa phận mộ đài, và kẻ ấy tất bị ong cắn trọng thương nên ra nhìn thử xem sao, bỗng thấy Dương-Qua, một thằng bé trong tuổi ấu thơ. Tôn bà đem lòng thương hại ra tay cứu độ cho nó.

Tôn bà đã đưa nó vào trong lấy mật cho uống giải độc. Do đó, Dương-Qua mới được hồi tỉnh mau chóng như vậy.

Theo luật lệ thì người ngoài không được vào mộ đài, đầu là nơi của mộ, tối kỵ nhất là nam giới. Dương-Qua tuy thuộc vào nam giới song tuổi còn nhỏ, lại bị ong độc cắn bị thương nặng quá, Tôn bà đánh liều vượt ra ngoài luật lệ đã quy định để mong cứu sống nó làm phước.

Nếu Tôn bà là một sư phụ xấu nhất ở trần gian thì cũng là một người có lòng tốt nhất, từ bi nhất trên cõi thế.

Dương-Qua lần lần thấy các vết thương êm dịu và tinh thần trở nên mạnh mẽ vô cùng. Nó ngồi sụp xuống đất, cúi đầu lạy bà lão và Tiểu-long-Nữ cô nương.

Nó nói:

– Cháu là Dương-Qua kính bái Tôn bà và Long cô nương.

Vẻ hoan hỉ lộ trên nét mặt bà lão. Bà đỡ Dương-Qua dậy nói:

– A! Cháu tên Dương-Qua! Thôi chẳng cần phải lạy nữa!

Bà lão dắt nó vào trong mộ đài.

Tôn bà ẩn cư trong mộ đài đến nay đã hàng mấy mươi năm, chẳng bao giờ tiếp xúc với người ngoài nay bỗng dưng thấy Dương-Qua một đứa bé khôi ngô, ăn nói lanh lợi, lâm vào hoàn cảnh tai nạn nên đem lòng thương mến.

Tiểu-long-Nữ lúc nào dáng mặt cũng trầm lặng như mặt nước hồ thu. Nàng ngồi trên một chiếc tràng kỷ gần đó, chỉ khe khẽ gật đầu khi nhìn nó.

Tôn bà hỏi Dương-Qua:

– Cháu từ đâu đến? Vì sao mà bị nhiễm thương tích? Có kẻ nào ác nghiệt đánh cháu như thế?

Dứt lời, Tôn bà không chờ Dương-Qua đáp, lấy một cái bánh cho Dương-Qua bảo ăn cho đỡ đói.

Dương-Qua ăn mấy miếng bánh ngon miệng, đem đầu đuôi câu chuyện mình kể lại cho hai người trong mộ đài nghe. Nó ăn nói hoạt bát, linh lợi, thỉnh thoảng ph vào câu chuyện những lời nói tình cảm khiến người nghe phải xúc động không ít.

Tôn bà nghe kể xót xa cho thân thế nó, thỉnh thoảng thở dài chép miệng, Tiểu-long-Nữ thanh sắc vẫn không lúc nào thay đổi. Nàng vẫn thư thái ngồi nghe cho đến lúc Dương-Qua kể đến chuyện Lý Mạc Thu, nàng mới đưa mắt nhìn Tôn bà một chút.

Tôn bà nghe Dương-Qua kể hết câu chuyện. Liền dang tay bế nó vào lòng âu yếm, nói:

– Ôi thôi! Sao mà số phận của cháu lại khổ cực đến thế.

Tiểu-long-Nữ từ từ đứng dậy nhìn Tôn bà nói:

– Những vết thương của em bé chẳng có gì đáng ngại. Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hãy đưa cháu ra khỏi mộ đài đi.

Câu nói của nàng làm cho cả hai người đều run lên.

Dương-Qua thổn thức nói:

– Cháu chẳng muốn trở về! Cháu chẳng muốn trở về! Xin cho cháu ở lại đây với bà với cô nương, dẫu đến chết cháu cũng chẳng rời.

Tôn bà nói:

– Dám thưa cô nương! Nếu để nó trở về Trùng-Dương cung nó sẽ bị cực khổ lắm. Sư phụ nó chẳng ưa gì nó!

Tiểu-long-Nữ đáp:

– Tôn bà nên dẫn nó ra ngoài. Còn về đâu, ở đâu tùy ý nó. Tôn bà có thể bảo với sư phụ nó đừng khe khắc nó nữa.

Tôn bà nói:

– Ôi! Việc bên Trùng-Dương cung chúng ta nào có biết ra sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

– Tôn bà lấy cho nó một hũ mật để nó mang theo rồi đem nó ra khỏi chốn nầy.

Lời nói của nàng tuy rất nhẹ nhàng, song có vẻ uy nghiêm làm cho người khác không dám chống lại.

Tôn bà thở dài, biết rằng Tiểu-long-Nữ đã nói đi nói lại như thế là đã quyết định rồi dẫu có nói gì nàng cũng chẳng nghe. Hai mắt bà lão nhìn Dương-Qua có vẻ luyến tiếc.

Dương-Qua động lòng, đứng phắt dậy chắp tay cúi đầu bái hai người và nói:

– Cháu xin tạ ơn Tôn bà và cô nương đã chữa cho cháu khỏi các vết thương. Cháu xin phép Tôn bà và cô nương đặng lên đường.

Tôn bà nhìn Dương-Qua với vẻ mặt rất ái ngại, nói:

– Bây giờ cháu định về đâu?

Dương-Qua lặng người đi một lúc rồi đáp:

– Trời đất vô cùng vô tận… Cháu thấy chỗ nào tốt thì về thôi. Giờ đây cháu chưa thể nào biết trước được.

Thật ra, Dương-Qua cũng chưa biết rồi đây nó sẽ ra sao? Đi về đâu? ở đâu? Nó phó mặc tấm thân nó cho hoàn cảnh.

Thấy nét mặt buồn rầu của nó đượm vào hai ánh mắt, Tiểu-long-Nữ nói:

– Em đừng lấy làm lạ khi thấy ta phải giục em rời khỏi chốn này. ấy bởi qui luật nơi đây nghiêm ngặt, không cho phép người ngoài được vào chớ đừng nói đến chuyện lưu trú nữa.

Dương-Qua đáp với giọng hồn nhiên:

Em đã từng sống trong hoang lạnh thì nay dẫu có ra đi cũng chẳng sao. Nhưng chẳng biết đến bao giờ em có thể thấy lại được Cô nương và Tôn bà!

Lời nói tuy bắt chước người lớn, song hàm xúc ít nhiều cái ngây thơ của một đứa bé! Tôn bà nghe giọng nói ấy vừa buồn cười vừa thương hại, nhìn vào mặt nó thấy đôi mắt nó rướm lệ, hai giọt nước mắt đang cuộn tròn lăn xuống đôi gò má.

Tôn bà không cầm được lòng thương, lại năn nỉ Tiểu-long-Nữ,

– Thưa cô nương! Thân nó bé bỏng, giữa đêm khuya canh vắng biết đâu mà về. Xin cô nương cho nó lưu lại đến sớm mai.

– Tiểu-long-Nữ đã quyết định điều gì thì đâu có ai năn nỉ cũng coi như chẳng nghe thấy. Nàng nể lời khe khẽ lắc đầu nói:

– Thưa Tôn bà, Tôn bà đã quên qui luật mà Tiên sư đã dặn sao?

Tôn bà biết có nói nữa cũng chẳng ích gì, tiến đến gần Dương-Qua nói nhỏ:

– Thôi ta cùng với cháu đi chơi vậy.

Dương-Qua dụi mắt cúi đầu bước ra, nói:

– Thưa bà, cháu chẳng dám phiền bà dẫn cháu ra đi.

Nó vừa ra đến cửa mộ, bỗng có tiếng nói từ ngoài vọng vào:

– Tôi là đệ tử của Toàn-Chân phái Doãn-chí-Bình, phụng mệnh sư phụ tôi đến xin yết kiến Tiểu-long-Nữ cô nương.

Tiếng nói rõ ràng từ trong rừng gần mộ đài nghe rõ mồn một.

Tôn bà vội lướt tới, nắm chặt tay Dương-Qua nói:

– Có người ở ngoài toan bắt cháu. Cháu đứng yên nơi đấy, đừng ra nữa.

Mặt Dương-Qua bỗng nhợt nhạt, nửa kinh hãi, nửa tức giận, thân thể nó run lên.

Tiểu-long-Nữ nói:

– Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hỏi xem họ muốn yết kiến chúng ta có điều chi.

Tôn bà nghĩ ngợi một lát rồi quay sang nói với Dương-Qua:

– Cháu ở đây, để ta ra ngoài hỏi xem họ muốn yết kiến cô nương có việc gì?

Dương-Qua bẩm tính vốn ngang ngạnh, lúc bấy giờ khí uất lại nổi lên, nó trọn đôi mắt tròn xoe nhìn ra ngoài nói:

– Thưa Tôn bà, Tôn bà chẳng cần che chở cháu làm chi, việc cháu làm cháu chịu, cháu đã lỡ tay đánh chết một đạo sĩ ở Trùng-Dương cung, dù cháu có bị họ giết cũng được.

Nói dứt lời nó nhảy thót ra ngoài.

Bà lão thở dài, nói:

– Thằng bé nầy thực khó bảo. Bọn họ đang ở nơi trung tâm khu vực của mộ đài, nó làm sao thoát ra khỏi được.

Nói là mộ đài, nhưng kỳ thực đây là một tòa nhà rộng lớn xây ngầm dưới lòng núi. Xưa kia chính Vương-trùng-Dương đã dùng chốn nầy để luyện tập võ nghệ. Lúc đầu, Vương-trùng-Dương chỉ xây cất sơ sài nhưng cũng đã bố trí nghiêm chỉnh nơi cư trú của mình, để xứng đáng là nơi trung tâm của một môn phái. Sau đó người bạn cũ của Vương-trùng-Dương đến ở, lại chỉnh đốn thêm lên, làm cho mộ đài thêm vẻ uy nghi diễm lệ, nhất là các phòng, các động và những lối ra vào trở nên huyền ảo khác thường.

Bấy giờ Tôn bà thấy Dương-Qua bướng bỉnh liền nhảy theo, nắm tay dắt đi.

Chỉ một lúc, hai người ra khỏi cửa động, xuyên qua rừng thông đến một miếng đất trống trước rừng.

Trăng sáng, xuyên qua các cành cây kẽ lá như thếp vàng, dưới ánh trăng, có bóng sáu, bảy đạo sĩ. Đàng xa lại có bốn đạo nhân đang phục dịch săn sóc cho hai người bị thương là Tỉnh-Quang và Triệu-chí-Kính.

Mấy đạo nhân trông thấy Dương-Qua liền bàn luận với nhau rồi tiến lên phía trước mấy bước.

Dương-Qua giật tay ra khỏi bàn tay bà lão, chạy đến đàng trước nói lớn.

– Ta ở chỗ nầy chờ chúng bay đến để giết chết ta đây.

Mấy đạo nhân không ngờ tánh khí Dương-Qua lại có thể cứng cỏi và liều lĩnh đến thế. Trong đám đạo nhân ấy có một người xông ra, định chộp lấy Dương-Qua ấn đầu đẩy nó về phía trước.

Dương-Qua điềm tĩnh, cười nhạt, nói:

– Ta đâu thèm trốn tránh mà ngươi lại vội vàng đến thế.

Vị đạo nhân ấy là đệ tử của Triệu-chí-Kính. Vì thế sư phụ nó vì Dương-Qua mà bị ong đốt trọng thương nên nó nóng lòng muốn bắt Dương-Qua đánh cho chết. Từ thuở nhỏ, đạo sĩ nầy sống bên Triệu-chí-Kính được Triệu-chí-Kính săn sóc coi như con đẻ vậy, nay Triệu-chí-Kính bị ong đốt, chết đi sống lại làm sao nó khỏi đau lòng. Nó hăm hở dùng quyền đánh vào đầu Dương-Qua.

Tôn bà định bụng sẽ đem lời phải trái nói chuyện với các đạo sĩ, song thấy Dương-Qua bị đạo sĩ kia nắm đầu, đột kích một cách tàn nhẫn, bà lão phút động lòng thương liền phi thân tới phóng vạt áo đánh vào bọn kia để cứu Dương-Qua. Bọn kia bị đau tê tái cả người tưởng như một lằn roi sắt đánh vào da thịt, vì thế bọn chúng phải buông Dương-Qua ra.

Tôn bà tay trái bồng Dương-Qua, tay phải chống vào hông, hiên ngang lui về phía rừng thông.

Miếng đánh bằng vạt áo để cướp lại người nhanh như điện, khiến cho các đạo sĩ đứng ngây người, không kịp đề phòng.

Tôn bà đi xa được vài trượng thì ba đạo sĩ tức giận hét lớn:

– Bỏ thằng ấy ra!

Dứt lời, họ hò nhau xông đến. Tôn bà ngãnh đầu lại, cười nhạt nói:

– Các người làm gì thế.

Bấy giờ Doãn-chí-Bình xông đến, nhận ra được bà lão là người đã ở lâu năm trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài, nên chẳng dám khinh thường, sợ mắc tội với tiền nhân liền ra lệnh cho các đạo sĩ kia:

– Tất cả mọi người đều phải dang ra, không được vô lễ với Tôn bà.

Đoạn Doãn-chí-Bình cúi rạp đầu làm lễ:

– Đệ tử Doãn-chí-Bình xin kính bái bậc tiền bối.

Bà lão hỏi:

– Có chi thế.

Doãn-chí-Bình thưa:

– Có thằng bé kia là đệ tử của Toàn-Chân phái, kính xin tiền bối vui lòng trả lại cho.

Tôn bà quắc mắt nghiêm nghị nói:

– Trước mặt ta, các ngươi dùng những đòn độc ác đánh nó. Nếu ta trao nó cho các ngươi mang về Trùng-Dương cung thì không biết các ngươi còn đối xử tàn ác với hắn bằng cách nào nữa. Ta nỡ lòng nào để cho đứa trẻ thơ phải chịu đày đọa oan uổng?

Doãn-chí-Bình nuốt nhục, nói:

– Thằng nhỏ nầy thực ngoan cố chưa từng thấy. Nó lừa thầy dối bạn, không còn biết lễ nghĩa, trời đất là gì. Chúng tôi răn phạt nó thì nó lại còn ươn ngạnh hơn.

Bà lão vẫn giận dữ, nói:

– Ghê gớm chưa! Nó lừa thầy bạn ư? Hay là những bậc làm anh làm cha đã lừa dối nó? Suốt nửa năm, chẳng dạy nó được một ngón võ nào, thế mà bảo nó phải ra tỉ thí với những đồ đệ hảo hán trong phái. Nó không muốn đấu mà cứ ép nó phải đấu. Đến khi đấu tất phải có kẻ hơn người thua, sao lại buộc nó vào tội ươn ngạnh? Đối với một đứa trẻ thơ như thế đó mà mọi người xúm lại đánh nó như đánh một kẻ thù thì còn mặt mũi nào dám xưng là sư phụ, sư thúc, sư bá của nó ư? Bực trên lầm lỗi bao giờ cũng đắc tội hơn kẻ dưới.

Tôn bà có nét mặt xấu xí, khi máu giận bốc lên, mặt đỏ gay, các bắp thịt nhăn nheo rung chuyển lại càng làm cho bà lão thô kịch hơn nữa. Các đạo sĩ ai nhìn vào mặt bà cũng phải rợn người.

Doãn-chí-Bình nghe bà lão nói một hồi, nghĩ bụng:

– Việc đả thương Tỉnh-Quang đâu phải là lỗi của Dương-Qua, chỉ tại những người đứng xem kích bác.

Nghĩ như vậy, hắn nói:

– Việc phải quấy chúng tôi cần trình với vị đạo trưởng chúng tôi phân xét. Bây giờ xin kính lão tiền bối giao trả Dương-Qua thôi.

Tôn bà cười nhạt nói:

– Toàn-Chân môn phái từ Vương-trùng Dương trở về sau không có lấy một người xứng đáng. Bởi thế tuy bọn ta ở gần mà chẳng bao giờ lui tới.

Doãn-chí-Bình nghe nói, bảo thầm:

– Lỗi ấy do mộ đài đâu phải lỗi của bọn ta không lui tới.

Tuy nghĩ thế, Doãn-chí-Bình cũng chẳng muốn biện luận làm gì với bà lão, chỉ muốn bà lão trả Dương-Qua lại cho xong việc bèn nói xuôi:

– Lão tiền bối là bậc tài cao đức trọng, nếu trong phái Toàn-Chân chúng tôi có điều gì sơ xuất dám xin lão tiền bối nói với đạo trưởng chúng tôi để răn dạy, và cũng để có dịp chúng tôi đến tạ tội cùng bậc tiền bối và Long cô nương.

Giữa lúc đó, Dương-Qua đang được Tôn bà bế ngang hông, kề tai nói nhỏ:

– Thưa Tôn bà, lão đạo sĩ nầy quỉ quái lắm, nhiều mưu kế thâm độc lắm, xin Tôn bà hãy cẩn thận kẻo lầm mưu đó.

Tôn bà thấy thằng bé đối với mình thân thiết chẳng khác tình bà cháu ruột thịt, lấy làm thích thú, nghĩ bụng:

– Dù chúng có nói đến đâu ta cũng không thể trao trả thằng bé nầy cho chúng hành hạ được.

Tôn bà nói lớn:

– Ngươi định đem thằng bé nầy về Trùng-Dương-cung để đối phó với nó chớ gì. Trời ơi! làm bậc sư phụ lại phải đối phó với đệ tử, đối phó với con nít ư?

Doãn-chí-Bình nói:

– Đệ tử đây với cha đứa bé xưa kia vốn là tình đồng môn. Nay cha nó mất đi, nó là đứa con côi cút, đệ tử nỡ nào quên tình cha nó mà xử tệ với nó. Xin trưởng lão cứ an tâm.

Bà lão lại lắc đầu nói:

– Già này vốn chẳng ưa kẻ khác nói nhiều lời.

Nói đoạn Tôn bà bồng Dương-Qua rảo bước vào rừng.

Bấy giờ Triệu-chí-Kính đang bị ong độc cằn, được mọi người cứu chữa gần đấy. Tuy Triệu-chí-Kính vẫn còn đau đớn khó chịu, tỉnh mỉnh tâm thần. Khi nghe bà lão nói, Triệu-chí-Kính nghe rõ và không đằng được sự căm tức, liền vùng dậy chạy về hướng Tôn bà quát lớn:

– Thằng nhỏ kia là đệ tử của ta, muốn đánh muốn mắng chưởi nó là do quyền ta quyết định. Ai ngăn cản sư phụ không cho trừng phạt đệ tử tất kẻ ấy không biết điều.

Bà lão thấy Triệu-chí-Kính nhảy lồng lộn như đứa mất trí, lại nghe giọng nói hỗn láo ấy biết hắn là sư phụ của Dương-Qua, và lời Dương-Qua là đúng, nên chẳng thèm phân lời hơn thiệt, cất tiếng nói:

– Ta chẳng để cho ngươi có quyền, ngươi làm gì ta.

Triệu-chí-Kính đỏ ngầu đôi mắt, quát:

– Đứa bé đó là đệ tử của ta. Bà có can hệ gì đến nó? Bà có quyền gì giữ lấy nó.

Tôn bà giọng run run, đáp:

– Từ trước nó đã không phải là người trong môn phái Toàn Chân. Nó đã tôn Tiểu-long-Nữ làm sư mẫu, Tiểu-long-Nữ trong mộ đài có quyền định đoạt số phận của nó, các ngươi không có quyền.

Các đạo sĩ nghe bà lão nói đều nhốn nháo lên.

Bởi vì theo quy tắc trong võ lâm, một đệ tử đã nhận ai làm thầy rồi thì không có quyền chạy sang thầy khác khi không có sự đồng ý của thầy trước. Trái lẽ đó sẽ bị ghép vào tội bội nghịch. Ngược lại, các bậc thầy cũng không có quyền nhận đệ tử của kẻ khác làm đệ tử của mình khi chưa được vị thầy trước yêu cầu. Hơn nữa, một đệ tử người nầy sang học người khác cũng không được gọi người khác bằng sư phụ. Trong đời võ chỉ được gọi một người bằng sư phụ mà thôi. Ví như Quách-Tỉnh trước kia đã làm lễ thụ giáo Giang-Nam thất tử, sau đến học Hông-thất-Công, vẫn không được gọi Hông-thất-Công là sư phụ. Mãi đến Kha-trấn-ác vì có sự dàn xếp chính thức với Thất tử, thỏa thuận phân công nên mới gọi Kha-trấn-ác là sư phụ.

Tôn bà bị Triệu-chí-Kính vặn hỏi, không biết trả lời làm sao phải nói bừa như thế, bà không biết rằng nói như thế là trái với quy tắc trong võ lâm. Hơn nữa, bà lão tự thuở nay có bao giờ giao thiệp với người ngoài đâu mà hiểu biết quy tắc.

Các đạo sĩ trong phái Toàn-Chân nghe bà lão nói, ai cũng tỏ vẻ cấm tức, bởi vì bà đã công khai phản lại luật lệ của tổ sư.

Triệu-chí-Kính cắn răng cố nhịn đau, thét hỏi Dương-Qua:

– Dương-Qua! Có đúng thế chăng? Có phải mày đã nhìn nhận Tiểu-long-Nữ làm sư phụ chăng?

Dương-Qua chỉ là một đứa bé, đâu biết trời đất là gì. Nó thấy ai bênh vực cho nó thì nó hưởng ứng nói theo.

Bởi vậy nó gườm mắt nhìn Triệu-chí-Kính, quát lớn:

– Đạo sĩ khốn kiếp kia! Cả bọn đánh ta, ta còn làm sao nhận là thầy được! Ta đã bái lạy Tôn bà làm sư mẫu và cả Tiểu-long-Nữ cô nương nữa.

Lửa giận xông lên ngùn ngụt ở họng ở cổ, Triệu-chí-Kính như muốn xé tung lồng ngực, Triệu-chí-Kính vùng dậy như một con hổ đói, lấy tay xỉa về phía bà lão.

Tôn bà mắng lớn:

– Súc sanh! Ngươi muốn làm gì ta?

Rồi bà lấy tay gạt phắt Triệu-chí-Kính ra.

Triệu-chí-Kính vốn là một tay cự phách trong phái Toàn-Chân so với những người trong hàng đệ tam đại đệ tử. Bởi vậy mặc dù đang bị thương, Triệu-chí-Kính ra quyền vẫn còn mãnh liệt lắm.

Sau một đòn chạm nhau, cả hai bên đều lui về một bước để thủ thế.

Tôn bà lườm mắt nhìn Triệu-chí-Kính nói:

– Khá khen mi cũng là tay bản lĩnh, không phải là tầm thường.

Triệu-chí-Kính lại xông vào xỉa một đòn thứ hai nữa. Nhưng ngón đòn này cũng bị Tôn bà đánh vẹt ra.

Lấy làm uất ức, Triệu-chí-Kính lấy toàn lực tấn công đòn thứ ba nữa.

Lần nầy Tôn bà không gạt, né sang một bên vút vạt áo tung ra, Triệu-chí-Kính nghe tiếng gió toan tránh sang một bên thì bỗng nhiên đến lúc cái vết độc trong người trở lại hành hạ làm cho Triệu-chí-Kính đau nhức không chịu nổi, ôm đầu ngồi phịch xuống đất.

Tôn bà tiến đến đá vào mông Triệu-chí-Kính một đá làm cho Triệu-chí-Kính tung bổng lên trời như một trái banh, tiếng la ú ớ không dứt.

Thấy vậy các đạo sĩ hô nhau lập bày thế trận Bắc-đẩu để đối phó với Tôn bà.

Tuy Tôn bà không biết đến trận Bắc-đẩu, song chỉ giao đấu vài hiệp, bà lão đã biết thế trận lợi hại như thế nào rồi. Tay trái bà phải bồng Dương-Qua chỉ còn có một tay mặt để ứng phó với đối phương mà thôi.

Sau khi đánh tới hiệp thứ mười ba, bà lão đã bị thế trận vây hãm, buộc bà ở trong tình trạng hiểm nghèo.

Thật ra, nếu đem tài võ nghệ của từng mỗi đạo sĩ ra mà so sánh thì trong bọn còn kém thua bà lão nhiều. Nhưng nhờ thế trận Bắc-đẩu bảy người hợp sức lại thành một, nên mãnh lực phi thường, trận thế nhờ đó biến chuyển theo lối liên hoàn làm cho bà lão ở trong thế “mãnh hổ nan địch quần hồ”.

Mỗi ngọn cước Tôn bà công kích đều bị Doãn-chí-Bình chỉ huy trận thế một cách linh diệu, giải vây một cách dễ dàng.

Còn thế công của Bắc đẩu trận luôn luôn liên tục, không hề gián đoạn. Bởi vậy, chỉ đánh thêm mười hiệp nữa, là Tôn bà bị hai đạo sĩ khóa được tay phải, mé hông trái lại bị hai người nữa công kích bằng những đòn bổ thượng.

ở vào thế bắt buộc, Tôn bà phải buông Dương-Qua ra để được rảnh tay ứng chiến.

Nhưng bà vừa buông Dương-Qua thì bỗng nghe một tiếng huýt hai đạo sĩ xông đến bắt Dương-Qua.

Tôn bà nghĩ bụng:

“Dương-Qua mắng bọn đạo sĩ kia là khốn khiếp thật cũng đúng. Ta không ngờ bọn chúng lại nhiều thù oán với thằng bé như thế”.

Đoạn , bà lão tung vạt áo quất đuổi hai người , mồm ngân lên mấy tiếng o ! o !. Tiếng ngân lúc đầu nhỏ sau lớn dần .

Doãn-chi-Bình đã rõ được tài nghệ của lão bà nên từ lúc giao đấu đến giờ hết sức thận trọng . Doãn-chí-Bình thừa hiểu vị tiền bối kia từ xưa đến nay cư trú trong Hoạt-tử-Nhân mộ đài , so với vị tổ sư sáng lập ra môn phái Toàn-Chân thì tài nghệ kể cũng suýt soát , chỉ vì bà lão già nua vậy thôi .

ấy vậy , muốn thắng bà lão đâu phải chuyện dễ , dẫu rằng với thế Bắc đảu trận.

Lúc nghe tiếng o ! o ! o ! Doãn-chí-Bình tưởng rằng đó là một phép ” truyền âm nhiếp tâm ” để điều hoà hơi thở và ổn định tâm thần , phòng bị địch nhân dùng pháp thuật chế ngự , nào ngờ đâu những âm thanh ấy mỗi phút một lớn dần , rồi gây nên một biến cố làm cho các đạo sĩ phải kinh hoàng khiếp vía.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.