Lại nói, Bạch Thiếu Huy rời đất Hà Nam, tiếp tục cuộc tuần du thị sát thiên hạ. Vì tính thích chiêm ngưỡng cảnh đẹp, chàng thong thả du sơn ngoạn cảnh, thăm viếng chùa miếu, thắng tích nên hành trình vô cùng chậm chạp.
Hôm ấy, chàng đến địa phận Cống Sơn.
Trong một tòa sơn cốc hẻo lánh thuộc dãy Cống Sơn đang diễn ra một quang cảnh có thể nói là thế gian hy hữu.
Nơi đây, cảnh vật xanh tươi kỳ dị, cây cối cao lớn ngút ngàn. Trên trời hàng nghìn đàn chim đủ loại, đủ màu sắc đang bay lượn hót líu lo. Dưới đất, hàng vạn con rắn xếp thành đội ngũ rất tề chỉnh.
Nơi chính giữa sơn cốc có một lão nhân vận áo bào đen, thân hình mập mạp phì nộn, vẻ mặt hung ác, tay cầm xà trượng. Đối diện với lão ta là một mỹ phụ tác độ trung niên, tay cầm phụng trượng, nhãn thần nghiêm lạnh nhưng cũng có vẻ hiền từ phúc hậu. Cả hai người họ đều thủ thế, mắt chăm chú quan sát động tĩnh của đối phương.
Đột nhiên, Hắc bào lão nhân rú lên một tiếng lảnh lót làm chấn động cả một vùng sơn cốc. Thanh âm lan truyền vang vọng rất xa, chấn động vách núi khiến đất đá rơi lả tả, chim chóc hoảng hốt bay toán loạn.
Sau đó, lão nhân múa trượng dùng liên hoàn trượng pháp dồn dập đánh tới. Trượng ảnh trùng trùng, trượng phong lớp lớp ào ạt cuốn tới, khí thế như muốn bài sơn đảo hải.
Mỹ phụ không dám khinh xuất, vội nghiêng mình né tránh, rồi mới vung phụng trượng phản công, chiêu thế cũng lợi hại không kém.
Song phương giao tranh kịch liệt.
Hai đàn độc xà và linh điểu cũng theo lệnh của chủ nhân mà lao vào nhau cắn xé. Linh điểu có lợi thế là biết bay, chao lượn trên không, thỉnh thoảng mới lao xuống tấn công. Nhưng đàn rắn lại mang trong mình chất kỳ độc, liều lĩnh kháng cự khiến cho đối phương phải kiêng dè.
Trận chiến xà điểu tương tranh cổ kim hiếm thấy, nếu ai chứng kiến ắt phải kinh tâm động phách.
Trải qua hàng nghìn chiêu vẫn không phân thắng bại. Hắc bào lão nhân càng lúc càng nóng nảy, gào thét vang dội, ra chiêu nhanh hơn. Lão đã nổi nóng tất phát sinh sơ hở. Trung niên mỹ phụ liền nhân cơ hội đó mà vung phụng trượng đánh vào giữa ngực đối phương.
Lão nhân kinh hoàng thất sắc, định bề nhảy tránh nhưng không còn kịp nữa, liền phóng thẳng xà trượng vào địch thủ. Xà trượng nguyên là một con rắn độc, liền há miệng đớp ngay cánh tay mỹ phụ. Bà nổi giận vung chưởng đánh vào đầu độc xà nát bấy.
Lão nhân bị trúng một trượng vào giữa ngực, chấn động phủ tạng, nên thương thế rất là trầm trọng. Mỹ phụ tuy thương tích không nặng lắm, nhưng lại bị chất kỳ độc ngấm vào cơ thể khiến toàn thân tê dại.
Sau trận chiến kinh hồn, kết cục là song phương đều lưỡng bại câu thương.
Hai người họ đã ngừng chiến, song bọn xà điểu vẫn còn đang tiếp tục giao tranh. Cả hai vị chủ nhân đều không còn đủ hơi sức để ra lệnh cho bọn chúng đình chiến, đành để mặc chúng tự do sát phạt.
Hiện cuộc chiến không người chỉ huy nên quang cảnh vô cùng hỗn loạn. Bọn xà điểu say máu xông vào mổ cắn nhau kịch liệt. Cả hai nhìn lũ động vật thân thiết lớp chết, lớp bị thương mà bản thân lại bất lực, không còn sức cứu vãn, sinh lòng thương tiếc mà rưng rưng ngấn lệ.
Bỗng nhiên có tiếng tiêu trỗi lên réo rắt, thanh âm trong trẻo nhu hòa, vút lên cao rồi theo gió lan truyền khắp nơi. Tiếng tiêu quyện vờn áp đảo tiếng sát phạt, dần dần chuyển vào mê cung, âm giai huyền ảo du mộng, mê hoặc tâm thần. Không chỉ lão nhân, lão phụ cảm thấy như lạc vào mộng cảnh mà đàn rắn cũng cuộn mình yên lặng, đàn chim đậu xuống tàn cây bờ đá lim dim.
Lát sau, thanh âm nhỏ dần nhỏ dần rồi dứt hẳn. Quang cảnh toàn sơn cốc chìm vào tĩnh lặng như chốn hoang sơ không một bóng người.
Cảnh vật yên tĩnh được một lúc thì nghe thấy có tiếng bước chân từ ngoài vọng vào. Hai người đưa mắt chăm chú nhìn ra cửa cốc, trong lòng hồi hộp, chờ đợi được diện kiến bậc danh sĩ cao nhân.
Giây lâu, ngay cửa vào của sơn cốc bỗng thấy xuất hiện một chàng công tử phong lưu tuấn dật đang nhẹ nhàng thả bước tiến vào.
Chàng công tử mi thanh mục tú, mặt trắng môi hồng, tuổi độ mười sáu, trong vận bạch y, ngoài khoác bạch bào kết trân châu, thắt ngọc đái, tóc cột lụa trắng tơ vàng đính dạ minh châu, chân mang giày trắng, tay cầm chiếc ngọc tiêu vô cùng quý giá. Bạch ngọc tiêu toàn thân trơn bóng lấp loáng dưới ánh dương quang, không một đường vân, không một tỳ vết, quả là kỳ trân thế gian hy hữu. Trông chàng thật phong lưu anh tuấn, nghi biểu đường bệ, khí độ phi phàm, khiến người đối diện sinh lòng kính nể. Chàng chính là Bạch Thiếu Huy, vị điện hạ của Bích Dạ Cung.
Bạch Thiếu Huy đưa mắt nhìn hai người, khẽ buông một tiếng thở dài. Hai người không thể nói chuyện được, chỉ biết nhìn chàng với ánh mắt kính phục.
Chàng đưa tay cách không điểm vào mấy huyệt đạo của hai người. Cả hai rùng mình vài cái, vẻ mặt bớt nhợt nhạt, đã có thể cử động lại được.
Đoạn, chàng cất ngọc tiêu, lấy ra một chiếc quạt xếp cầm trên tay phe phẩy. Chiếc quạt vô cùng quý giá, sườn quạt làm bằng bạch ngọc và phất lụa trắng, trên có đề một bài từ khúc bằng thể chữ tiểu giai, nét bút thần diệu thoát tục.
Chàng khẽ thở dài một tiếng, hỏi :
– Nhị vị sao lại đến nông nỗi này :
Mỹ phụ trung niên đưa mắt lườm Hắc bào lão nhân, đoạn phân trần :
– Nơi đây gọi là Bách Cầm Cốc. Lão thân là Bách Cầm Tiên Tử. Còn lão già này là Vạn Xà Ma Quân ở Vạn Xà Cốc, cũng ở gần đây. Lão thân vốn không thù oán gì với lão. Chỉ vì lão thích nuôi rắn còn lão thân thích nuôi chim nên sinh ra hiềm khích. Lão cho rằng thiên hạ nói loài chim là khắc tinh của loài rắn là không đúng. Vì thế đã mấy lần lão đến tìm lão thân gây sự đánh nhau.
Hắc bào lão nhân là Vạn Xà Ma Quân sắc diện thiểu não, buồn bã nói :
– Chúng ta đều sắp chết cả rồi. Mọi chuyện trước đây hãy bỏ qua đi.
Bách Cầm Tiên Tử gật đầu nói :
– Phải đấy. Thú thật là ta cũng chẳng thấy căm ghét gì lão.
Bạch Thiếu Huy mỉm cười nói :
– Nhị vị đã chết đâu. Sao lại nói gở như thế ?
Vạn Xà Ma Quân nói :
– Lão phu thọ thương rất nặng, tâm mạch tổn hại nghiêm trọng, khó thể qua khỏi. Còn Bách Cầm Tiên Tử bị con Hắc Ty Xà của lão phu cắn phải nên đã trúng phải chất tuyệt độc không có thuốc giải.
Bách Cầm Tiên Tử hỏi :
– Chất độc của Hắc Ty Xà không có thuốc giải thật sao ?
Vạn Xà Ma Quân đáp :
– Hắc Ty Xà là một kỳ vật rất hiếm gặp, trong mình mang chất tuyệt độc không phương giải cứu. Trước đây, tiên sư có nói rằng trên đời này chỉ duy có Kim Tuyến Linh Xà mới có thể trị được chất độc của Hắc Ty Xà, vì Kim Tuyến Linh Xà là thần vật tuyệt thế, chủ của vạn độc. Nhưng Kim Tuyến Linh Xà lại là một thần vật thế gian hy hữu, cực kỳ trân quý, ngay chính tiên sư cũng chỉ mới được nghe tổ sư gia nói đến chứ chưa hề biết nó có hình dạng thế nào.
Bạch Thiếu Huy khẽ cười hỏi :
– Kim Tuyến Linh Xà trân quý đến thế hay sao ?
Vạn Xà Ma Quân đáp :
– Linh xà là kỳ vật của thế gian. Chỉ được nhìn thấy nó thôi cũng đã là duyên may hiếm có rồi, chứ đừng mong chi nói đến chuyện làm chủ được nó.
Bạch Thiếu Huy mỉm cười, khẽ gọi :
– Linh nhi.
Kim Tuyến Linh Xà nghe gọi liền nới lỏng búi tóc, bò xuống tay chàng trước sự sửng sốt của Vạn Xà Ma Quân. Chàng đưa Linh Xà đến gần vết độc thương trên tay Bách Cầm Tiên Tử nói :
– Linh nhi hãy mau hút hết chất độc ra.
Linh Xà lập tức cắn vào hai vết răng cũ của Hắc Ty Xà. Lát sau, thân hình nó căng phồng lên gấp bội. Vết thương trên tay Bách Cầm Tiên Tử từ từ xẹp xuống, vết thâm đen cũng gần như mất hẳn. Bách Cầm Tiên Tử mừng rỡ ngồi vận công điều tức. Bà nghe cơ thể thư thái khôn tả, cảm giác đau nhức không còn nữa.
Sau khi lấy ra khỏi vết thương, từ miệng Linh Xà rỉ ra một thứ chất lỏng màu đen có mùi hăng hắc khó chịu. Vạn Xà Ma Quân thấy vậy thì mừng rỡ gắng gượng đưa bầu hứng lấy. Chừng cạn tuần trà, thân hình Linh Xà nhỏ lại như cũ, và Bạch Thiếu Huy lại mang quấn vào búi tóc.
Bách Cầm Tiên Tử sau khi bình phục vội đứng dậy vái lạy cảm tạ. Bạch Thiếu Huy nói :
– Vạn Xà Ma Quân thọ thương khá nặng, khó lòng hồi phục nhanh chóng. Tiên Tử hãy đưa lão đến nơi yên tĩnh rồi từ từ quả nhân sẽ tìm phương điều trị.
Bách Cầm Tiên Tử vâng lời, dìu đỡ Vạn Xà Ma Quân đi vào Bách Cầm Cốc ở gần đó. Bạch Thiếu Huy thong thả theo sau hai người họ.
Trong suốt ba hôm liền, chàng đã dùng Kim Châm đả thông kinh mạch cho Ma Quân. Chàng còn dùng lương dược bồi bổ khí huyết và dùng Ngọc Tiêu thổi khúc Tiêu Dao Dẫn để hỗ trợ sức thuốc và giúp cho tinh thần bệnh nhân thư thái. Ngoài ra, chàng còn bảo Bách Cầm Tiên Tử chuẩn bị sẵn văn phòng tứ bảo có việc cần dùng.
Sang ngày thứ tư, Vạn Xà Ma Quân đã hoàn toàn bình phục và Bạch Thiếu Huy cũng quyết định lên đường.
Trước khi rời Bách Cầm Cốc, chàng trao cho hai người họ mỗi người một tập giấy đã được đóng bìa cẩn thận. Bìa sách là một lá vàng dát mỏng, bên trong ghi chép những võ công tuyệt học thần kỳ hãn thế.
Quyển của Vạn Xà Ma Quân bên ngoài đề Linh Xà Bí phổ, bên trong ghi chép đường lối của Vạn Xà Trận pháp và pho khinh công Linh Xà Thần Thuật.
Quyển của Bách Cầm Tiên Tử bên ngoài đề Cầm Kinh, bên trong ghi chép khúc nhạc Bách Cầm Triều Phụng và pho khinh công Bách Cầm Thân Pháp.
Đấy là những tuyệt học rất phù hợp với sở trường của hai người nên bọn họ vừa xem thấy là hết sức mừng rỡ, đồng phục lạy tạ ân.
Vạn Xà Ma Quân thấy Bạch Thiếu Huy sở học bao la vô hạn, lòng vô cùng kính phục, hỏi :
– Điện hạ đã hiểu biết Vạn Xà trận pháp, lại là chủ của Kim Tuyến Linh Xà, hẳn phải là Tổ sư về nghề dụng độc.
Bạch Thiếu Huy cười nói :
– Không phải. Linh Nhi là bảo vật trong cung, quả nhân mang theo để phòng thân. Còn dụng độc thì quả nhân chỉ thông hiểu chứ không chuyên luyện. Bản cung tuyệt học vô số, không thể nào luyện hết được. Quả nhân chỉ mới tạm gọi là thông hiểu mà thôi.
Vạn Xà Ma Quân nói :
– Ân tái tạo của điện hạ, lão phu suốt đời ghi tạc. Nếu điện hạ không chê, lão phu xin được theo phò tá, hầu dựng đại nghiệp, lưu danh vạn đại.
Bách Cầm Tiên Tử cũng nói :
– Lão thân cũng có ý đó. Mong điện hạ không từ chối.
Bạch Thiếu Huy khẽ cười :
– Đại nghiệp thì tiên vương đã tạo dựng sẵn cho quả nhân rồi.
Bách Cầm Tiên Tử nói :
– Nếu vậy thì lão thân xin được theo hầu dưới trướng, hầu đền đáp đại ân trong muôn một.
Vạn Xà Ma Quân nói theo :
– Phải đấy. Thọ ân bất báo phi quân tử. Lão phu không dám nhận là quân tử, nhưng cũng không chịu làm tiểu nhân.
Bạch Thiếu Huy mỉm cười nói :
– Nhị vị đã quyết định như thế, quả nhân lẽ đâu từ chối. Song nhị vị bất tất phải đi theo quả nhân, cứ ở lại đây mà chuyên luyện công phu. Từ nay, Vạn Xà Ma Quân cùng với Bách Cầm Tiên Tử sẽ cùng đứng vào hàng ngũ Tản nhân, là các đại thần của bản cung.
Đoạn chàng lấy ra hai mảnh ngọc bội có khắc hình Sơn Hà Tứ Hải trao cho hai người họ, dặn dò những việc cần thiết. Cả hai quỳ xuống bái nhận.
Bách Cầm Tiên Tử lại dâng tặng chàng con Bạch Hạc mà bà ta vẫn dùng để đi đây đó. Chàng chợt nghĩ ra một ý hay, liền thu nhận.
Rời Bách Cầm Cốc, chàng cưỡi Bạch Hạc bay thẳng đến Thiên Đài Sơn, Huyền Đô Quan.
Bọn đạo nhân thấy chàng giá lâm liền vui mừng nghênh đón. Linh Huyền Tử thân dẫn chúng sư đệ cùng bọn đồ tử đồ tôn ra tận trước cửa quan đón rước.
Lão đạo thỉnh chàng vào đại điện, làm lễ vấn an xong liền trình tấu về những việc đã làm được trong thời gian qua. Huyền Đô Quan hiện đã có hơn trăm môn hạ thuộc bốn đời, lấy chữ Linh, Thông, Nhất, Nguyên làm pháp hiệu, và sau kỳ khai minh đại điển của Vệ Đạo Minh trên Thiếu Lâm Tự đã tạo được thinh danh không nhỏ trên giang hồ.
Bạch Thiếu Huy hỏi han sơ qua về sinh kế của đạo quan. Sau đó, chàng lấy ra ba viên đan dược đưa cho Linh Huyền Tử, giao cho lão con Bạch Hạc và dặn dò những việc cần thiết. Chàng còn viết một phong thư, sai một đạo nhân mang đến thành Tây An trao cho Kim Tài Thần ở Kim gia trang.
Và rồi chàng lên đường hồi cung.
Thời bấy giờ đang ở vào giai đoạn đầu Minh triều trị vì Trung Thổ. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương sau khi đánh đuổi nhà Nguyên ra ngoài Vạn Lý Trường Thành, lên ngôi Hoàng đế thì bắt đầu đam mê tửu sắc, chính lệnh hà khắc, tàn sát công khanh. Chỉ mới có hơn chục năm cõi Trung Nguyên qua cơn binh lửa, vết thương chiến tranh chưa lành hẳn mà nay đã dần bước vào giai đoạn suy đồi.
Sau mấy mươi năm nam chinh bắc chiến, công nghiệp thành tựu, Chu đế thả sức sinh hoạt xa hoa để cho bõ những tháng ngày gian khổ. Đến lúc này, do bởi tửu sắc quá độ đã làm nguyên dương suy kiệt, khiến long thể khiếm an, tinh thần kiệt quệ, bệnh tật kéo dài. Triều đình đã triệu mời biết bao danh y mà mãi vẫn không sao chữa khỏi.
Hôm nọ, triều đình nhận được tấu chương của Tổng đốc Thiểm Tây. Trong biểu nói rằng Linh Huyền Chân Nhân tại Thiên Đài Sơn Huyền Đô Quan không những đạo hạnh cao siêu mà y đạo cũng rất tinh thâm, xin triều đình phái sứ giả đến Huyền Đô Bát Cảnh Cung thỉnh Chân Nhân về Kinh trị bệnh cho Hoàng đế.
Tiếp được biểu tấu, Minh đế cả mừng, lập tức cử Trương thượng thư ở Lễ Bộ khẩn cấp lên đường đến Thiên Đài Sơn.
Đoàn người ngựa cờ quạt chỉnh tề dù muốn đi nhanh cũng phải mất gần tháng trời mới đến nơi.
Đến trước đạo quan, trông thấy quang cảnh hùng vĩ mỹ lệ, điện đài lầu các trang nghiêm, đoàn quan quân sinh lòng kính ngưỡng, vội đóng quân lại dưới chân núi. Đích thân Trương thượng thư dẫn theo hai tùy tùng mang thánh chỉ thượng sơn. Tri khách đạo nhân đưa khách vào hậu viện bệ kiến chưởng giáo sư tôn.
Trương thượng thư theo chân Tri khách đạo nhân đi vào một tòa đạo am. Nơi này vô cùng tinh khiết thanh nhã, mùi hương trầm thoang thoảng. Cuối phòng có một sập gỗ, tĩnh tọa trên đó là một lão đạo nhân tuổi đã hơn bát tuần, tướng mạo hiền hòa đầy vẻ tiên phong đạo cốt.
Trương thượng thư chợt sinh lòng kính ngưỡng, vội vòng tay đảnh lễ, rồi trình đạo chỉ lên, nói :
– Hoàng thượng lâm trọng bệnh đã lâu. Biết tiên trưởng y đạo tinh thâm nên hoàng thượng đặc biệt cử hạ quan đến thỉnh tiên trưởng hồi kinh.
Đạo nhân xem xong cười nói :
– Thượng thư đại nhân dời kinh đến nơi này mất thời gian bao lâu.
Trương thượng thư đáp :
– Hồi bẩm tiên trưởng. Hạ quan đi đường mất gần một tháng.
Đạo nhân mỉm cười nói :
– Nếu bây giờ mà gấp rút khởi trình thì cũng phải mất cả tháng nữa mới về tới kinh đô. Chỉ sợ lúc đó bệnh tình đã trở nên trầm trọng, không phương cứu chữa. Dù bần đạo có y thuật tinh thâm đến đâu cũng vô ích.
Trương thương thư hỏi :
– Tiên trưởng luận rất phải. Chẳng hay tiên trưởng có phương sách nào không ?
Đạo nhân bảo :
– Đại nhân hãy đi theo bần đạo.
Vừa nói xong, đạo nhân đã đứng dậy bước ra bên ngoài. Trương thượng thư cũng vội ra theo. Đi đến cánh rừng phía sau hậu viện, đạo nhân bỗng gọi :
– Hạc nhi.
Lời vừa dứt thì chợt thấy một con bạch hạc xuất hiện trước mặt hai người. Đạo nhân khẽ động thân, cắp Trương thượng thư bay thẳng lên lưng hạc, thì thầm vài câu. Linh hạc nghe đạo nhân nói, gật gù tỏ ý hiểu, rồi vỗ cánh bay lên, nhắm hướng kinh thành thẳng tiến.
Trong Hoàng Thành ở Nam Kinh, lúc bấy giờ Minh triều đóng đô ở Kim Lăng, một thành thị lớn nằm ở phía nam Trường Giang, mấy nghìn thị vệ luân phiên tuần phòng nghiêm ngặt. Cần Chính Điện nơi hoàng đế ngự càng được bảo vệ cẩn mật hơn.
Một buổi chiều hôm nọ, bọn thị vệ đang canh tuần như thường lệ thì bỗng nghe có tiếng hạc kêu giữa không trung, rồi thấy một con bạch hạc thân hình to lớn dị thường chao lượn mấy vòng quanh cấm cung.
Cả bọn đang trầm trồ ngắm nghía thì đột nhiên có hai bóng người từ trên lưng hạc phóng xuống khiến ai nấy đều kinh hãi. Đến khi nhìn kỹ lại thì mới nhận ra một người chính là Lễ bộ thượng thư Trương đại nhân, cùng một vị đạo trưởng râu tóc bạc phơ đầy vẻ tiên phong đạo cốt.
Trương thượng thư vội sai người tiếp đón đạo trưởng thật trịnh trọng, rồi lập tức đi cầu kiến hoàng đế. Lát sau, lão trở ra cùng với hai tên nội giám, cung kính thỉnh vị đạo trưởng vào tẩm điện xem bệnh cho hoàng đế.
Minh đế khi ấy đang nằm trên long sàng, thấy mọi người vào đến thì ngẩng đầu nhìn lên. Trương thượng thư quỳ xuống tâu :
– Khải tấu hoàng thượng, Huyền Đô Quan chủ của Huyền Đô Bát Cảnh Cung đã được mời đến.
Linh Huyền Tử vòng tay nói :
– Bần đạo là Huyền Đô Quan chủ, đạo hiệu Linh Huyền xin ra mắt hoàng thượng.
Minh đế khẽ gật đầu. Một tên nội giám nói :
– Đạo trưởng hãy mau chẩn bệnh cho hoàng thượng.
Linh Huyền Tử liền tiến đến bên long sàng, đưa tay xem mạch, thực hành tứ chẩn. Đoạn đạo trưởng trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu.
Quần thần hồi hộp chờ đợi ý kiến của đạo trưởng.
Giây lâu, đạo trưởng mới bảo nội giám dọn dẹp một khoảng trống và đi tìm một chiếc kỷ đá, sau đó lấy ra một chiếc tráp vàng để trên kỷ.
Tiếp đó, đạo trưởng vái lạy thiên địa bách thần, rồi kính cẩn mang ra một chiếc lọ ngọc, đổ ra ba viên tiên đan mùi thơm ngào ngạt, khiến mọi người linh cơ xúc động. Ngay chính Minh đế cũng nhìn mấy viên tiên đan trên tay đạo trưởng ra dáng thèm thuồng.
Đạo trưởng bỏ ba viên tiên đan vào trong tráp và đậy lại. Tiếp theo lão ngồi xếp bằng, miệng lâm râm tụng niệm, tay bắt quyết, rồi chỉ thẳng vào tráp vàng. Hai đạo chỉ phong đỏ rực từ ngón tay đạo trưởng xẹt ra, chạm vào tráp, khiến tráp đỏ dần lên, hơi nóng tỏa nghi ngút.
Mọi người đều trố mắt nhìn, thán phục pháp lực thần thông của đạo trưởng.
Chừng hơn khắc sau, đạo trưởng dừng lại, nhẹ nhàng đưa tay vuốt lên mặt tráp rồi mở nắp lấy tiên đan ra. Những người hiện diện thấy lão chạm vào chiếc tráp đang đỏ rực, bất giác rùng mình.
Đạo trưởng trao tiên đan cho Minh đế uống vào, rồi nhanh tay xoa bóp toàn thân, dùng bản thân công lực trút sang đả thông kinh mạch.
Lát sau, y phục Minh đế ướt đẫm mồ hôi, đầy mùi hôi hám, nhưng lại nghe toàn thân thư thái, hơi thở điều hòa, khí lực sung mãn, liền hoan hỉ phán :
– Tiên trưởng tinh thông y đạo, pháp lực cao thâm khôn lường.
Linh Huyền Tử không nói gì, đưa tay ra hiệu cần được tịnh dưỡng. Minh đế liền sai nội giám sửa soạn một gian tịnh thất kề bên tẩm điện cho đạo trưởng tịnh tu.
Sáng hôm sau, Minh đế lâm triều, hết lời ca ngợi Linh Huyền Tử trước văn võ bách quan, đoạn sai nội giám đi mời đạo trưởng lên điện.
Lát sau, nội giám trở lại tâu :
– Khải tấu hoàng thượng. Đêm qua tiên trưởng đã cưỡi hạc rời khỏi kinh thành.
Minh đế đưa mắt nhìn khắp quần thần, phán hỏi :
– Công lao của Linh Huyền tiên trưởng rất lớn. Trẫm nên ban thưởng như thế nào mới xứng đáng.
Chuyện Linh Huyền đạo trưởng cưỡi tiên hạc về kinh chữa bệnh cho hoàng đế, cùng với việc đạo trưởng thi triển pháp lực chế luyện tiên đan chỉ trong một đêm đã lan truyền nhanh chóng. Người kể lại còn thêm dầu thêm mỡ cho câu chuyện thêm phần thi vị, khiến mọi người đều xem lão đạo trưởng như một bậc thần tiên giáng thế. Ai nấy đều trầm trồ khen ngợi, kính phục vô cùng.
Lễ bộ thượng thư Trương đại nhân xuất ban tâu :
– Khải tấu hoàng thượng. Tiên trưởng đang đêm cưỡi hạc rời kinh cho thấy lão nhân gia là bậc chân tu, xem danh lợi như phù vân. Tuy nhiên, triều đình cũng nên thưởng công cho tiên trưởng để đền đáp công khó nhọc cũng như bày tỏ sự biết ơn của triều đình. Thần xin hoàng thượng giáng chỉ phong cho tiên trưởng một danh hiệu để tưởng thưởng công lao.
Minh đế vốn định sẽ thưởng công thật hậu cho Linh Huyền Tử để mong sau này còn có dịp nhờ đến lão. Do vậy mà lời tâu của Trương thượng thư khiến Minh đế rất đẹp dạ, hoan hỉ phán :
– Trương khanh gia tâu rất phải. Trẫm sẽ hạ chiếu phong tiên trưởng là Linh Huyền Thượng Nhân, Hộ Quốc Đại Pháp Sư. Đồng thời lấy ruộng đất trong phạm vi mười dặm quanh Thiên Đài Sơn khâm ban cho Huyền Đô Bát Cảnh Cung để lo việc hương hỏa cho đạo quan. Tổng đốc Thiểm Tây có công tiến dẫn, Trương khanh gia có công khó nhọc thỉnh mời sẽ được gia thăng nhất cấp. Giờ khanh hãy mang chiếu của trẫm đi đến Huyền Đô Quan chuyến nữa.
Trương thượng thư liền tuân mệnh khởi trình. Lần này lão chỉ tốn chút công sức mà được thăng quan nên rất hoan hỉ.