Hán tử kia chính là “Hắc Quang Thượng Nhân” Chiêm Biệt Dã.
Nguyên lai chuyện là như sau.
Trong khoảng thời gian Phương cự hiệp lãnh tụ võ lâm, đang lúc quốc gia dụng binh, chống lại ngoài xâm, mà đạo tặc phản dân lại thừa loạn nổi lên khắp nơi. Phương cự hiệp liền dùng võ học tuyệt thế, năng lực cái thế và danh vọng hơn người, hô một tiếng lập tức bốn phương hưởng ứng, tổ chức các lộ cao thủ võ lâm, hảo hán giang hồ, giết địch dẹp cướp, cứu tế thế nhân.
Người luyện võ chân chính, chính là để vệ quốc an bang, tế thế cứu dân.
Trong đoạn ngày tháng này, phu nhân Vãn Y của cự hiệp từng có một dạo thay chồng quản lý đại cục võ lâm Trung Nguyên, thống lĩnh các tổ chức Phụ Phụ Uy Vọng bang, Kim Tự Chiêu Bài, Lão Tự Hiệu, cũng quản lý điều động một cách chỉnh tề ngăn nắp, phồn vinh phát triển. Phương Ứng Khán cũng xin nghĩa mẫu cho đi đánh giặc, muốn trực tiếp ảnh hưởng đến kinh sư triều chính, do đó được phái đi kinh thành mở rộng sức ảnh hưởng của Kim Tự Chiêu Bài. Không ngờ, kết quả là Phương Ứng Khán đã liên kết với thế lực nội thích và thái giám trong cung đình, hợp thành Tập đoàn Hữu Kiều, trở thành một trong ba thế lực võ lâm tại kinh thành hiện nay, hơn nữa còn có xu thế hậu sinh khả úy, độc chiếm ngôi đầu.
Có điều với sức một mình Hạ Vãn Y, dù sao cũng không thể chiếu cố chu đáo được. Hơn nữa vì lo nghĩ quá mức, trong khi những cao thủ cấp bậc nguyên lão từng xây dựng sự nghiệp, kề vai chiến đấu với cự hiệp trước kia, phần lớn đã theo đại hiệp đi tiền tuyến biên cương vì nước giết địch, đối kháng ngoại xâm, còn lại đám người mới và tinh anh thì phải ứng phó với các lộ nhân vật tà phái thừa loạn nổi lên, đục nước béo cò, đương nhiên rất hao phí tâm lực.
Phương phu nhân cũng không có dã tâm, nàng chỉ cảm thấy mệt mỏi, muốn buông tay, muốn nghỉ ngơi.
Nàng chỉ muốn trải qua năm tháng ân ái bình yên, cùng với cự hiệp tiêu dao tự tại, như hình với bóng.
Nàng nhìn trời chiều, cảm thấy đỏ hơn cả lửa, đỏ tươi hơn hoa, ráng đỏ hơn máu. Nàng chỉ muốn nghỉ ngơi một chút, tựa vào bờ vai rộng rãi vững chắc của trượng phu, ngắm nhìn ánh tà dương vô hạn tỏa sáng trong khoảnh khắc. Có lẽ đó chính là thiên trường địa cửu, biển cạn đá mòn.
Cho nên nàng giao phần lớn công việc cho môn hạ đệ tử và người mới xử lý, từ đó có rất nhiều đệ tử xấu xa thừa dịp làm loạn, bòn rút lợi ích.
Sau đó Phương phu nhân đến kinh sư để tập hợp nhân thủ, con nuôi Phương Ứng Khán muốn giữ nàng lại, hi vọng nghĩa mẫu có thể ở lại kinh thành bình yên hưởng phúc, chuyện bên ngoài cứ giao cho hắn xử lý là được.
Phương phu nhân cũng muốn Phương Ứng Khán lập công dựng nghiệp, vì vậy mới buông tay để hắn dẹp yên một chút phân tranh giang hồ. Nhưng Phương tiểu hầu gia vừa ra giang hồ lại sát tính quá mạnh, rất nhanh đã giành được danh hiệu “Thần Thương Huyết Kiếm tiểu hầu gia”, nhưng cũng chọc phải một số đại bang, đại phái, đại thế gia hùng mạnh trong võ lâm, muốn đối phó với hắn.
Đầu tiên là hảo thủ của Lão Tự Hiệu Ôn gia, cảm thấy Phương Ứng Khán hành động quá đáng, muốn “giáo huấn” hắn một chút.
Sau đó là cao thủ của Thục Trung Đường môn.
Bọn họ truy sát Phương Ứng Khán, thậm chí đuổi đến tận kinh thành.
Phương phu nhân dĩ nhiên phải che chở con nuôi của mình.
Nàng đành phải ra mặt hóa giải.
Nàng còn mời cả Gia Cát tiên sinh và môn sinh đắc ý của y đến để hòa giải.
Nghe nói, cao thủ của Lão Tự Hiệu và Đường môn không chấp nhận hòa giải, còn hạ kịch độc với nàng.
Phương phu nhân trúng độc, tin tức rất nhanh truyền đến tai Phương cự hiệp.
Vừa lúc binh họa ở chỗ cự hiệp tạm thời lắng lại, Phương cự hiệp nóng lòng nhớ nhà, lập tức phong trần mệt mỏi trở về kinh sư, thăm hỏi ái thê.
Nhưng Phương phu nhân đã si si ngốc ngốc, thần trí không rõ.
Vì vậy cự hiệp lập tức rời kinh, cầu xin tranh chấp với cao thủ Đường môn, muốn lấy được thuốc giải. Bởi vì Đường môn không thừa nhận chuyện này, gần như đã gây lên một trận mưa to gió lớn trong giang hồ. May mắn là được các lộ danh nhân võ lâm điều đình, cự hiệp cuối cùng gián tiếp lấy được thuốc giải từ chỗ hảo thủ của Hạ Tam Lạm Hà Gia.
Nhưng khi y vất vả trở lại kinh thành, tất cả đã muộn.
Ái thê đã hương tiêu ngọc vẫn.
Nghe nói, Hạ Vãn Y vì không chịu nổi độc lực giày vò, lại mất đi bản tính, phát điên một đường chạy lên núi cao, đi lên đỉnh Chiết Hồng. Phương Ứng Khán nghe tin kinh hãi, cùng với đám người Mễ công công toàn lực đuổi lên Thục sơn, tiếc rằng đã chậm một bước.
Bọn họ tận mắt nhìn thấy Vãn Y phu nhân tung người nhảy xuống vực sâu vạn trượng, muốn cứu cũng không kịp.
Bên vách đá còn có một đôi giày và một chiếc khăn của Phương phu nhân, trên khăn thêu một đôi uyên ương, hai con tiên hạc, còn phát ra mùi thơm dịu của hoa đồ mi.
Tại sao nàng lại đi tìm chết?
Nàng lại không kịp đợi Phương cự hiệp trở về chữa trị cho nàng.
Trên khăn còn thêu mấy chữ “thiên trường địa cửu đã từng sở hữu”.
Phương cự hiệp chạy về kinh sư, từ đó cảm thấy trời đất diệt tuyệt, vạn sự như không, chỉ lẩm bẩm tám chữ trên khăn kia.
Gia Cát tiên sinh từng dùng chuyện này khuyên bảo y:
– Đã từng sở hữu, không bằng tự do. Bây giờ tôn phu nhân đã tự do tự tại, ít nhất cũng tốt hơn so với trải qua những ngày tháng khó khăn nguy hiểm trong lồng giam mật thất của nhân sinh.
Truy Mệnh cũng nhân cơ hội nói một lời hai nghĩa:
– Thiên trường địa cửu, không bằng uống rượu. Có lẽ đối với tôn phu nhân, chuyện này cũng là một sự giải thoát.
Cự hiệp lại không uống rượu, bởi vì rượu không tiêu được nỗi sầu của y.
Y phải đối mặt với sự bi thương của mình.
Y dùng đau đớn của sự tỉnh táo để nhớ nhung ái thê của mình.
Y nhìn di vật của nàng, nghĩ đến những ngày tháng cùng trải qua, nhớ đến giọng nói và dáng điệu của nàng, lúm đồng tiền và tiếng kèn tiếng sáo.
Cho đến một ngày, y bỏ lại tất cả, không để ý tới chuyện giang hồ nữa.
Y rời khỏi kinh sư.
Chỉ vào ngày giỗ của ái thê hàng năm, y mới trở lại bái tế nàng.
Mấy năm gần đây, y thậm chí cũng không trở lại nữa.
Bởi vì y nhớ đến nàng là ở trong lòng.
Bái tế nàng là chuyện mà y làm mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi khắc. Giống như thật lòng bái thần không nhất định phải đến miếu, thành kính chay tịnh không nhất định phải chọn ngày đầu năm.
Y không tiều tụy, cũng không quá gầy gò, thậm chí còn hơi phát tướng.
Đa tình cũng không cười y sớm sinh tóc bạc… ngược lại còn chế nhạo y không sinh tóc bạc.
Mái tóc của y vẫn màu đen.
Nhưng chỉ có trong lòng y biết, khi nàng nhảy xuống vực sâu, y cũng đã tiến vào địa ngục.
Nàng chết rồi, y cũng không còn sống nữa.
Y vẫn sống, là vì một hi vọng có lẽ vĩnh viễn không được như ý nguyện.
Y mong đợi kỳ tích, đó là nàng vẫn sống.