Dù cho thiên tứ vạn chung
Cuối cùng rồi sẽ cũng đành buông xuôi
Hơn thua tranh một tiếng cười
Trước sau âu cũng một đời như nhau.
*
* *
Chờ một hồi lâu thì trời bắt đầu tảng sáng, y liền ngồi xuống nghỉ
ngơi. Đợi khi ánh thái dương từ phương đông trồi lên, trên cây chim bắt
đầu ríu rít, mới nghe Đồng Mỗ từ gốc cây phía bắc ôi lên một tiếng, Lý
Thu Thủy ở gốc cây phía nam cũng a lên, hai người cùng tỉnh lại.
Hư Trúc mừng lắm vội vàng nhảy tới, đứng chặn ngay giữa hai người,
chắp tay suýt xoa:
– Sư bá, sư thúc ba người mình chết đi sống lại, thôi chuyện hơn
thua xin bỏ qua đừng tiếp tục giao đấu nữa.
Đồng Mỗ nói:
– Không được! Con tiện nhân kia chưa chết làm sao ta có thể bỏ
qua được?
Lý Thu Thủy cũng nói:
– Thù sâu như biển, chưa chết chưa thôi.
Hư Trúc hay tay xua rối rít nói:
– Nhất định là không nên, nhất định là không nên!
Lý Thu Thủy chống tay xuống đất nhổm dậy định xông vào đánh
Đồng Mỗ. Đồng Mỗ cũng hai tay vòng ra tập trung sức lực đánh trả lại.
Ngờ đâu Lý Thu Thủy vừa nhổm lên thì đã khuỵu xuống, hai tay Đồng
Mỗ cũng không sao vung ra được, chỉ còn nước tựa vào gốc cây thở dốc.
Hư Trúc thấy hai người không còn hơi sức đâu mà đánh nhau, trong
bụng mừng rơn nói:
– Thế cũng tốt, sư bá, sư thúc nghỉ ngơi để tiểu điệt đi kiếm gì cho
hai vị ăn.
Chỉ thấy Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy cùng ngồi xếp bằng, lòng bàn
tay, lòng bàn chân ngửa lên trời, cùng một tư thức biết rằng hai người
đồng môn tỉ muội đang cố gắng vận công, hễ ai ngưng tụ được chân khí
trước là sẽ đánh ra người kia không sao chống đỡ được. Trong tình cảnh
đó Hư Trúc làm sao dám bỏ đi. Y đưa mắt nhìn Đồng Mỗ, lại nhìn Lý Thu
Thủy thấy cả hai mặt mày nhăn nheo, hình dung khẳng khiu nghĩ thầm:
“Sư bá năm nay đã chín mươi sáu, sư thúc thì ít lắm cũng phải ngoài tám
mươi. Hai người tuổi tác cao như thế, sao vẫn còn câu chấp hẹp hòi, tính
tình nóng nảy như vậy?”.
Y vắt áo cho ráo nước, đột nhiên nghe cạch một tiếng, một vật rơi
xuống, chính là bức tranh Tiêu Dao Tử đã giao cho y. Bức tranh đó vẽ trên
lụa nên tuy ướt sũng mà không bị hư. Hư Trúc vội vàng mở ra trải lên trên
tảng đá phơi cho khô, thấy nét đan thanh đã bị nước thấm lem nhem,
không khỏi tiếc rẻ.
Lý Thu Thủy nghe tiếng sột soạt, hé mắt nhìn, thấy bức tranh thảng
thốt kêu lên:
– Đem lại cho ta coi! Ta chẳng đời nào tin sư ca lại vẽ chân dung
con tiện tì đó.
Đồng Mỗ cũng kêu lên:
– Chớ để thị coi! Để cho ta chính tay dày vò, chọc tức con tiện
nhân kia chớ lẽ nào để nó được tiện nghi đến thế sao?
Lý Thu Thủy cười khanh khách nói:
– Ta cũng chẳng thèm coi nữa! Ngươi sợ ta coi rồi biết là bức tranh
không phải vẽ ngươi chứ gì. Đan thanh diệu bút của sư ca, lẽ nào lại đi
truyền thần cái đứa người không ra người, ngợm không ra ngợm? Y có
phải cần vẽ Chung Quì3 để bắt quỉ đâu mà phải vẽ ngươi làm gì?
Việc đau lòng nhất đời Đồng Mỗ là chuyện luyện công sơ ý đến nỗi
vĩnh viễn không cao lớn được. Tai họa đó chính là do Lý Thu Thủy năm
xưa gây ra4 đúng khi Đồng Mỗ luyện công yếu khẩn quan đầu, Lý Thu
Thủy ở đằng sau gào lên một tiếng khiến bà ta bị tẩu hỏa, chân khí chạy
lầm đường, về sau không thể trở lại nguyên trạng. Đến bây giờ nghe Lý
Thu Thủy nhắc đến mối hận bình sinh, khiến cho nộ khí xông lên, kêu lớn:
– Đồ đĩ ngựa, ta… ta… ta…
Bà ta thở không ra, oa lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu, tưởng
chừng muốn ngất đi. Lý Thu Thủy cười khẩy bồi thêm:
– Ngươi đã chịu thua chưa? Hay còn muốn ra tay đấu tiếp…
3
4
Đột nhiên bà ta ôm ngực ho sặc sụa. Hư Trúc thấy cả hai khí tàn lực
kiệt, chẳng mấy chốc sẽ lìa trần bèn khuyên:
– Sư bá, sư thúc, hai vị ngồi nghỉ một lát, chớ nên cố gắng mà
thêm mệt mỏi.
Đồng Mỗ bực tức đáp:
– Không được!
Ngay lúc đó phía tây nam truyền mấy tiếng lục lạc leng keng. Đồng
Mỗ nghe thấy vẻ mặt vui mừng, tinh thần phấn chấn, lấy trong túi ra một
ống sáo ngắn màu đen nói:
– Ngươi búng cái ống này lên trời.
Tiếng ho của Lý Thu Thủy càng lúc càng gấp. Hư Trúc không hiểu ra
sao, cầm chiếc ống sáo đen để vào ngón tay giữa, búng thẳng lên, nghe
một tiếng rít lảnh lót phát ra. Lúc này chỉ lực của Hư Trúc búng ra quả phi
phàm, ống sáo đó bay thẳng lên không tưởng như không còn thấy đâu nữa
nhưng tiếng u u vẫn vọng ra không dứt.
Hư Trúc sửng sốt nghĩ thầm: “Không xong, chiếc ống này của sư bá
là tín hiệu, bà ta gọi người đến đối phó với Lý sư thúc”. Y vội vàng chạy
đến trước mặt Lý Thu Thủy, cúi xuống nói khẽ:
– Sư thúc, sư bá có người đến tiếp tay rồi, để tiểu điệt cõng sư thúc
chạy trốn.
Chỉ thấy Lý Thu Thủy mắt nhắm nghiền, đầu ngoẹo qua, tiếng ho
cũng dứt, không còn động đậy gì nữa. Hư Trúc hoảng hốt, đưa tay dò hơi
thở thì quả không còn hô hấp thất thanh kêu lên:
– Sư thúc! Sư thúc!
Y đưa tay lay nhẹ đầu vai mong bà ta tỉnh lại, ngờ đầu Lý Thu Thủy
theo đà ngã qua lăn xuống, thì ra đã chết rồi. Đồng Mỗ cười ha hả nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu tiện nhân sợ mất vía chết rồi, ha ha, đại
cừu ta đã trả được, tặc tiện nhân sau cùng cũng chết trước ta, ha ha, ha
ha…
Bà ta khích động quá mức, hơi thở không còn liên tục được nữa, lại
hộc ra một ngụm máu. Bỗng có tiếng u u từ cao xuống thấp, chiếc ống sáo
đen rơi xuống, Hư Trúc đưa tay bắt lấy, vừa định nhìn qua Đồng Mỗ bỗng
nghe tiếng bước chân lộp cộp, kèm theo tiếng lục lạc loong coong, quay
đầu nhìn lại thấy mấy chục con lạc đà đang chạy tới. Những người ngồi
trên lưng lạc đà đều khoác áo choàng màu xanh nhạt còn ở tận đằng xa
trông chẳng khác gì một vầng mây xanh trôi lững lờ, loáng thoáng nghe
tiếng đàn bà lao xao:
– Tôn chủ, thuộc hạ đi tìm đến trễ, quả là đáng chết.
Mấy chục con lạc đà tới gần, Hư Trúc thấy những người cưỡi đều là
đàn bà, áo choàng trước ngực đều thêu một con đại bàng đen, dáng điệu
hung dữ. Những người đó vừa thấy Đồng Mỗ lập tức nhảy xuống, vội vã
chạy đến, lạy phục xuống trước mặt bà ta. Hư Trúc thấy người đi đầu
trong quần nữ là một bà già, cũng phải đến năm sáu chục tuổi, còn lại thì
từ trên bốn mươi xuống đến mười bảy mười tám, ai nấy đối với Đồng Mỗ
vừa kính trọng vừa sợ hãi, phủ phục trên mặt đất không dám ngửng lên.
Đồng Mỗ hừ một tiếng giận dữ nói:
– Các ngươi nghĩ chắc ta chết rồi, có phải chăng? Chẳng đứa nào
còn coi lão bà này vào đâu, không ai quản thúc các ngươi nên chúng bay
tiêu dao tự tại, vô pháp vô thiên chứ gì?
Bà ta nói một câu, bà già kia lại rập đầu xuống đất nghe cốp cốp nói:
– Không dám.
Đồng Mỗ hỏi lại:
– Có gì mà không dám? Các ngươi nếu quả thực nghĩ đến mỗ mỗ,
sao chỉ có một dúm… một dúm người đến đây là sao?
Người lão phụ đáp:
– Khải bẩm tôn chủ, từ buổi tôn chủ rời cung, bọn thuộc hạ ai nấy
đều hết sức băn khoăn…
Đồng Mỗ quát lên:
– Thối lắm! Thối lắm!
Bà lão kia đáp:
– Vâng! Vâng!
Đồng Mỗ lại càng bực tức, quát lên:
– Ngươi đã biết là thối lắm, sao còn dám… còn dám đánh rắm
trước mặt ta?
Bà già kia không dám trả lời chỉ liên tiếp rập đầu. Đồng Mỗ nói:
– Các ngươi băn khoăn, rồi sao nữa? Sao không mau mau xuống
núi đi kiếm ta?
Bà lão kia đáp:
– Dạ! Thuộc hạ chín bộ Cửu Thiên lập tức hạ sơn, chia nhau ra
khắp nơi đi tìm tôn chủ. Thuộc hạ Hạo Thiên Bộ đi về hướng đông cung
nghinh tôn chủ, Dương Thiên Bộ đi về hướng đông nam, Xích Thiên Bộ đi
về hướng nam, Chu Thiên Bộ đi về hướng tây nam, Thành Thiên Bộ đi về
hướng tây, U Thiên Bộ đi về hướng tây bắc, Huyền Thiên Bộ đi về hướng
bắc, Loan Thiên Bộ đi về hướng đông bắc, còn Quân Thiên Bộ ở lại giữ
bản cung. Thuộc hạ vô năng nên đi kiếm có trễ tràng, thật đáng chết, thật
đáng chết!
Nói xong liên tiếp rập đầu. Đồng Mỗ nói:
– Các ngươi người nào người nấy áo quần rách rưới, trong ba tháng
qua, đường đi chắc cũng chịu nhiều gian khổ, phải không?
Người lão phụ nghe giọng Đồng Mỗ có chiều khen ngợi, vẻ mặt đổi
qua mừng rỡ nói:
– Nếu được vì tôn chủ mà ra sức, dẫu phải nhảy vào lửa cháy nước
sôi, cũng xin cam nguyện. Chút công lao nhỏ bé này, chỉ là bổn phận của
chúng thuộc hạ mà thôi.
Đồng Mỗ nói:
– Ta luyện công chưa thành, đột nhiên gặp phải con tặc tiện nhân,
bị y chặt mất một chân, tưởng tính mạng không còn, may thay được sư điệt
của ta là Hư Trúc cứu thoát, những nguy nan trải qua một lời không sao
hết được.
Cả bọn đàn bà áo xanh liền quay qua quì xuống tạ ơn Hư Trúc nói:
– Đại ân đại đức của tiên sinh, dù tiểu nữ tử có tan xương nát thịt
cũng chưa báo đáp được một trong vạn phần.
Đột nhiên tất cả cùng lạy phục xuống khiến cho Hư Trúc luống cuống
luôn mồm:
– Không dám đâu! Không dám đâu!
Vội vàng quì xuống hoàn lễ. Đồng Mỗ quát lên:
– Hư Trúc, đứng lên! Bọn chúng là nô tì của ta, sao ngươi lại làm
mất thân phận thế?
Hư Trúc lại nói thêm mấy câu: “Không dám” rồi mới đứng dậy. Đồng
Mỗ nói với Hư Trúc:
– Cái bảo thạch chỉ hoàn của chúng ta bị con tặc tiện nhân kia
cướp mất rồi, ngươi mau ra lấy lại.
Hư Trúc đáp:
– Vâng!
Y đi đến bên xác Lý Thu Thủy, tháo chiếc nhẫn từ ngón tay giữa của
bà ta. Chiếc nhẫn đó vốn do Tiêu Dao Tử đưa cho y, nay lấy lại từ tay Lý
Thu Thủy nên cũng không có gì phải áy náy. Đồng Mỗ nói:
– Ngươi là chưởng môn phái Tiêu Dao, ta cũng đã đem Sinh Tử
Phù, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng các môn
công phu truyền cho ngươi rồi, từ hôm nay trở đi, ngươi là chủ nhân của
cung Linh Thứu núi Phiêu Miểu. Tất cả các nô tì trong chín bộ Cửu Thiên
cung Linh Thứu… sống chết tùy ngươi định đoạt.
Hư Trúc kinh hoảng vội vàng nói:
– Sư bá, sư bá, chuyện đó không thể nào được đâu.
Đồng Mỗ giận dữ hỏi lại:
– Cái gì không thể được? Các nô tì chín bộ Cửu Thiên biện sự
chẳng ra gì, không sớm nghinh giá, để đến nỗi ta bị bỏ vào túi vải, lại bị
bọn cẩu tặc Ô Lão Đại hành hạ nhục mạ, để rồi sau cùng cụt chân táng
mạng…
Đám đàn bà con gái kia ai nấy run như cầy sấy, rập đầu van xin:
– Nô tì đáng chết, tôn chủ khai ân.
Đồng Mỗ nói với Hư Trúc:
– Chư tì Hạo Thiên Bộ ít ra cũng còn kiếm được ta, hình phạt bọn
chúng có thể giảm khinh một chút, tất cả tám bộ còn lại, chặt tay cắt chân,
mọi việc tùy ngươi làm gì thì làm.
Những nữ tử kia vội vàng quì xuống:
– Đa tạ tôn chủ.
Đồng Mỗ quát lên:
– Sao không khấu tạ tân chủ nhân?
Chúng nữ vội vàng rập đầu tạ ơn Hư Trúc. Hư Trúc hai tay xua loạn
cả lên nói:
– Thôi, thôi! Ta làm chủ nhân các vị sao được?
Đồng Mỗ nói:
– Ta tuy mạng sống chỉ còn giây lát, nhưng chính mắt trông thấy
con tặc tiện nhân kia chết trước ta, sinh bình võ học cũng có truyền nhân
rồi, có thể nói là chết nhắm mắt được, sao ngươi lại còn chưa chịu nhận?
Hư Trúc ấp úng:
– Cái đó… tiểu điệt không đảm đương nổi.
Đồng Mỗ cười ha hả nói:
– Thế còn cô nương trong mộng, ngươi có tính chuyện gặp lại
không? Ngươi có nghe lời ta làm chủ nhân cung Linh Thứu không thì bảo?
Hư Trúc vừa nghe đến “mộng trung cô nương” là run bắn người,
không còn cách gì từ chối được nữa, mặt đỏ tía tai sẽ gật đầu. Đồng Mỗ
vui mừng nói:
– Thế thì hay lắm! Ngươi đem bức tranh lại đây cho ta, để chính
tay ta xé nát. Ta không còn gì vướng mắc, sẽ chỉ đường cho ngươi đi tìm
người trong mộng.
Hư Trúc đem bức tranh lại, Đồng Mỗ giơ tay tiếp lấy, nhìn xem, nhịn
không nổi kêu lên một tiếng, vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa vui sướng, xem
kỹ lần nữa, đột nhiên cười khanh khách kêu lên:
– Không phải nó! Không phải nó! Không phải nó! Ha ha! Ha ha!
Ha ha!
Trong tiếng cười, hai hàng lệ chảy ròng ròng trên gò má dăn deo, đột
nhiên đầu ngoẹo đi, gục xuống rồi không còn tiếng gì nữa. Hư Trúc kinh
hãi, đưa tay ra đỡ, thấy toàn thân bà ta mềm nhũn như bông, rúm lại một
cục, đã chết rồi.
Cả bọn áo xanh liền xúm đến, khóc vang cả lên, nghe thật bi thiết.
Những người đàn bà đó đều được Đồng Mỗ cứu thoát trong hoàn cảnh cực
kỳ gian nan, thành thử tuy bà ta cai trị họ thật nghiêm nhặt nhưng ai ai
cũng vẫn cảm kích ân đức.
Hư Trúc cũng nghĩ đến ba tháng qua cùng Đồng Mỗ không rời một
bước, lại được bà ta truyền thụ bao nhiêu là võ công, mặc dù tính tình gay
gắt nhưng đối với mình phải nói là thật tử tế, lúc này cười xong rồi chết
trong lòng y thật xót xa, nên cũng phục xuống khóc òa lên.
Bỗng nghe sau lưng có tiếng nói lạnh lẽo:
– Ha ha! Sư tỉ ơi, sau cùng chị cũng chết trước em, thế thì là chị
thắng hay là em thắng?
Hư Trúc nghe tiếng, giật mình hoảng hốt nghĩ thầm: “Làm sao người
chết có thể sống lại được?”. Y vội đứng lên, quay người lại thấy Lý Thu
Thủy đã ngồi dậy, tựa lưng vào gốc cây nói:
– Hiền điệt, ngươi đem bức họa lại cho ta xem, tại sau tỉ tỉ lại đề
tiếu giai phi, lúc khóc lúc cười về cõi tây phương?
Hư Trúc gỡ nhẹ tay Đồng Mỗ, lấy bức tranh ra thấy mực đã khô
nhưng nét bút cũng có chiều nhòe nhoẹt, hình người trong tranh cực giống
Vương Ngữ Yên mặc cung trang, mắt đăm đăm mỉm cười, xinh đẹp không
sao nói hết được, trong lòng không khỏi bàng hoàng: “Người đẹp trong
tranh, đầu mày cuối mắt xem ra tương tự sư thúc”. Y đi đến bên Lý Thu
Thủy giao cho bà ta bức tranh.
Lý Thu Thủy cầm bức họa, liếc nhìn đám đàn bà mỉm cười nói:
– Chủ nhân các ngươi cùng ta một phen ác đấu, sau cùng cũng
không địch lại, các ngươi chẳng qua chỉ như đom đóm, lại muốn tranh huy
cùng nhật nguyệt hay sao?
Hư Trúc quay đầu nhìn lại, thấy những người đàn bà ai nấy đều để
tay lên cán kiếm, thần sắc bi phẫn, hiển nhiên toan cùng xông lên, giết Lý
Thu Thủy báo thù cho Đồng Mỗ, có điều chưa được lệnh của tân chủ nhân
nên không dám tự tiện ra tay.
Hư Trúc ấp úng:
– Sư thúc, sư thúc…
Lý Thu Thủy đáp:
– Sư bá ngươi võ công thật giỏi, nhưng có điều không được tinh tế.
Cứu binh của bà ta đến rồi, ta còn cách nào đề ngự được nữa, dĩ nhiên
phải trá tử. Ha ha, sau cùng sư tỉ cũng chết trước ta. Y toàn thân gân cốt
nát nhừ, thổ khí tán công, cái đó không thể nào giả được.
Hư Trúc nói:
– Khi ác đấu trong hầm băng, sư bá cũng đã giả chết, đánh lừa
được sư thúc một phen, hai bên thật chẳng bên nào kém bên nào.
Lý Thu Thủy thở dài nói:
– Trong bụng ngươi vẫn nghiêng về bên sư bá một chút.
Bà ta vừa nói vừa mở bức tranh ra, mới nhìn một chút, gương mặt đã
biến đổi mãnh liệt, hai tay run rẩy, khiến cho cả bức tranh cũng rung theo.
Lý Thu Thủy nói nhỏ:
– Chính là nó! Chính là nó! Chính là nó! Ha ha! Ha ha! Ha ha!
Trong tiếng cười chứa đầu sầu khổ đau thương. Hư Trúc không khỏi
thương thầm cho bà ta hỏi lại:
– Sư thúc, thế là sao?
Y trong bụng nghĩ thầm: “Một người thì không phải nó, một người thì
chính là nó, không biết đây là ai?”.
Lý Thu Thủy chăm chăm nhìn người trong bức tranh nói:
– Ngươi thử xem, người này bên cạnh miệng có núm đồng tiền,
bên cạnh mắt phải lại có một nốt ruồi đen, phải không nào?
Hư Trúc nhìn mỹ nữ trong tranh, gật đầu:
– Quả đúng thế!
Lý Thu Thủy thê thảm nói:
– Đây chính là em gái ta.
Hư Trúc lại càng lạ lùng hỏi:
– Em gái của sư thúc ư?
Lý Thu Thủy nói:
– Em gái ta mặt giống ta như hệt, có điều y thêm má núm đồng
tiền mà ta không có, bên cạnh khóe mắt phải lại có một nốt ruồi đen nho
nhỏ, ta cũng không có.
Hư Trúc ồ lên một tiếng. Lý Thu Thủy lại tiếp:
– Sư tỉ bảo là sư ca vẽ tiếu tượng của y, ngày đêm không rời, ta
vốn không tin, có… có… có điều… không ngờ lại là em gái ta. Quả thực…
quả thực… bức tranh này ở đâu ra?
Hư Trúc nhắc lại khi lâm tử Tiêu Dao Tử giao cho y bức tranh này
như thế nào, bảo y đến núi Vô Lượng nước Đại Lý tìm người truyền thụ
võ nghệ ra sao, Đồng Mỗ nhìn thấy bức tranh vì sao nổi giận, kể hết một
lượt.
Lý Thu Thủy thở dài một tiếng nói:
– Sư tỉ khi vừa mới coi bức tranh, nghĩ rằng người trong tranh chính
là ta, một là tướng mạo giống hệt, hai nữa sư ca vốn rất sủng ái, huống
chi… huống chi khi ta và sư tỉ tương tranh, em gái ta chỉ mới mười một
tuổi, sư tỉ chẳng thể nào nghi cho nó được nên không để ý đến núm đồng
tiền và nốt ruồi trong hình. Mãi đến khi sắp chết, sư tỉ mới phát giác người
trong tranh là em gái ta chứ không phải ta, nên mới kêu lên ba lần “không
phải nó”. Ôi, tiểu muội tử, ngươi giỏi thật, giỏi thật!
Nói xong bà ta thẫn thờ, ròng ròng nước mắt. Hư Trúc nghĩ thầm:
“Thì ra cả sư bá lẫn sư thúc đối với sư phụ ta một mối thâm tình, nhưng
trong lòng sư phụ ta lại để ý đến người khác. Thế nhưng không biết người
em gái của sư thúc có còn ở nhân gian không? Sư phụ sai ta cầm bức tranh
này tìm người học võ, không lẽ người em gái của sư thúc đang sống ở núi
Vô Lượng, nước Đại Lý chăng?”. Y bèn hỏi:
– Sư thúc, bà… bà em gái của sư thúc, có phải đang ở núi Vô
Lượng nước Đại Lý không?
Lý Thu Thủy lắc đầu, mắt mơ màng nhìn về khoảng xa xăm, dường
như để nhớ lại chuyện cũ, chậm rãi nói:
– Năm xưa ta cùng sư phụ ngươi ở tại thạch động bên bờ Kiếm Hồ
nơi núi Vô Lượng, nước Đại Lý, tiêu dao khoái hoạt, thật còn hơn thần
tiên. Ta sinh cho y được một đứa con gái thật kháu khỉnh. Hai người chúng
ta sưu tầm các loại võ công bí cấp mọi môn phái, mong sáng tạo ra một kỳ
công bao trùm mọi nhà.
Một ngày kia, sư ca tìm thấy một khối ngọc cực lớn ở trong núi, mới
theo hình dáng ta mà tạc thành một pho tượng. Sau khi điêu khắc rồi, ngày
ngày chỉ ngơ ngẩn xuất thần nhìn tác phẩm, từ đó chẳng còn nhìn nhõi gì
đến ta nữa.
Ta trò chuyện với y, hỏi một nơi y trả lời một nẻo, thậm chí nghe mà
không thấy, bao nhiêu tâm tư chỉ còn một pho tượng ngọc mà thôi. Sư phụ
ngươi quả là khéo tay, pho tượng ngọc kia tạc thật đẹp, thế nhưng dù là
tượng ngọc chăng nữa thì cũng là vật chết, huống chi pho tượng theo hình
dáng ta mà tạc thành, mà ta thì ở ngay bên cạnh y, sao y lại không lý gì
đến, cứ mê mê mẩn mẩn nhìn pho tượng, mắt đăm đăm đầy vẻ đắm đuối
là sao? Thế là cớ gì? Thế là cớ gì?
Bà ta lẩm bẩm tự hỏi mình, tưởng chừng quên mất Hư Trúc đang ở
bên cạnh. Một hồi sau, Lý Thu Thủy lại nhỏ nhẹ lẩm bẩm:
– Sư ca, chàng thông minh tuyệt đỉnh, mà cũng lại si mê tuyệt
đỉnh, sao lại đi yêu một pho tượng do chính mình tạc thành? Sao chàng
không yêu người sư muội biết nói, biết cười, biết cử động, biết yêu
thương? Trong tim chàng đã nhìn pho tượng kia thành đứa em của thiếp
rồi, phải vậy chăng? Thiếp ghen với pho tượng kia nên gây gỗ với chàng
một trận, rồi ra ngoài kiếm những chàng trai tuấn tú đem về làm chồng,
tình tự ngay trước mặt chàng, khiến chàng giận quá bỏ đi, không bao giờ
quay trở lại. Sư ca, thực ra chàng chẳng nên bực bội, những thanh niên mỹ
mạo kia đều bị thiếp giết cả, vùi dưới đáy hồ, chàng có biết chăng?
Bà ta cầm bức tranh lên ngắm nghía một hồi nói tiếp:
– Sư ca ơi! Bức tranh này chàng vẽ hồi nào? Hẳn là chàng nghĩ
đến thiếp nên mới bảo đứa đồ nhi đem đi tìm tiểu muội nơi Đại Lý. Thế
nhưng chàng bất tri bất giác lại vẽ thành đứa em gái của thiếp, chàng có
biết chăng? Chàng vẫn tưởng người trong tranh là em. Sư ca, trong tim
chàng người yêu thương thực sự chính là đứa em gái của tiểu muội, vậy
sao lại chỉ si mê một khối ngọc kia thôi? Thế là sao? Thế là sao? Bây giờ
thì thiếp hiểu ra rồi.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Đức Phật có nói rằng, con người ta ở trên đời,
khó mà qua khỏi được tham sân si tam độc. Sư bá, sư thúc, sư phụ đều là
những nhân vật phi phàm, nhưng vì vướng mắc trong ba món độc này, dù
cho võ công trác tuyệt nhưng trong lòng vẫn phiền não đau khổ, chẳng
khác gì bọn người phàm phu tục tử”.
Lý Thu Thủy quay đầu lại nhìn Hư Trúc nói:
– Hiền điệt, ta có một đứa con gái cùng với sư phụ ngươi mà sinh
ra, xuất giá nhà họ Vương đất Tô Châu, khi nào ngươi có rảnh…
Đột nhiên bà ta lắc đầu thở dài:
– Không được rồi, cũng chẳng biết hiện giờ nó có còn sống hay
không, việc ai người ấy lo người khác chẳng thể nào…
Lý Thu Thủy bất ngờ rít lên:
– Sư tỉ ơi, hai chị em mình đều đáng thương, đều… đều… bị kẻ vô
lương tâm kia đánh lừa thôi! Ha ha! Ha ha! Ha ha!
Bà ta cười lớn ba tiếng, thân người lật ngửa, ngã gục xuống. Hư Trúc
cúi xuống xem thấy máu miệng máu mũi đổ ra, tắt thở chết rồi, lần này
không thể nào giả được nữa. Y ngơ ngẩn nhìn hai cái xác, không biết phải
làm sao.
Bà già đứng đầu Hạo Thiên Bộ nói:
– Tôn chủ, mình có đem di thể lão tôn chủ về Linh Thứu Cung
long trọng an táng hay không? Kính mong tôn chủ chỉ thị.
Hư Trúc đáp:
– Thế là phải lắm.
Y chỉ vào Lý Thu Thủy nói:
– Vị này… vị này là đồng môn sư muội của tôn chủ các vị, tuy hai
người khi sống thù ghét nhau, nhưng… nhưng chết rồi cừu hận cũng xóa
hết, ta xem… ta xem… cũng nên đem về an táng, các vị nghĩ sao?
Lão phụ đó khom lưng đáp:
– Cẩn tuân những lời sai bảo.
Hư Trúc nhẹ cả người, y chỉ sợ những người áo xanh này thù hận Lý
Thu Thủy sẽ không bằng lòng đem thi thể bà ta về chôn cất, không chừng
còn hủy hoại cái xác cho thỏa lòng, không ngờ bọn họ chẳng hề nửa lời dị
nghị. Y nào biết Đồng Mỗ huấn luyện nô tì cực kỳ kính sợ, không dám trái
ý nửa câu, Hư Trúc nay là tân chủ nhân của họ nên nói ra là tuân theo
ngay, bảo gì làm nấy.
Bà lão đó chỉ huy những người kia, dùng chăn lông quấn chặt hai cái
xác lại, để lên lưng lạc đà, rồi mới cung kính mời Hư Trúc lên yên. Hư
Trúc khiêm tốn mấy câu, nghĩ thầm chuyện đã đến nước này cũng cần
chính mắt thấy di thể hai người được chôn cất chu đáo rồi mới có thể về
chùa Thiếu Lâm chịu tội. Y hỏi lão phụ đó tên tuổi ra sao, bà ta đáp:
– Phu quân nô tì họ Dư nên lão tôn chủ gọi là Tiểu Dư, tôn chủ
muốn gọi thế nào cũng được.
Đồng Mỗ đã trên chín chục tuổi, dĩ nhiên gọi Tiểu Dư thì không sao,
Hư Trúc đâu có thể gọi thế được bèn nói:
– Dư bà bà, ta pháp hiệu là Hư Trúc, tất cả cứ coi bằng vai với
nhau là đủ chứ tôn chủ dài, tôn chủ vắn không khỏi làm ta ngượng muốn
chết hay sao?
Dư bà lạy phục xuống đất, chảy nước mắt nói:
– Tôn chủ khai ân! Tôn chủ muốn đánh muốn giết gì nô tì cũng
cam chịu, cầu khẩn tôn chủ đừng trục xuất nô tì ra khỏi Linh Thứu Cung.
Hư Trúc ngạc nhiên nói:
– Mau đứng lên, ta đời nào lại muốn đánh, muốn giết bà bà?
Y vội vàng đỡ bà ta lên. Những người còn lại cũng nhất loạt quì
xuống van xin:
– Tôn chủ khai ân.
Hư Trúc lại càng kinh ngạc vội hỏi nguyên do, mới hay mỗi khi Đồng
Mỗ nổi giận thì lại nói ngược lại thành thử nếu như lời lẽ khách sáo thì ắt
là đối phương sẽ phải chịu thảm họa, khổ sở không sao kể xiết. Cũng vì lẽ
đó, các động chủ, đảo chủ mỗi khi thấy có sứ giả của Đồng Mỗ đến mắng
chửi nhục mạ, thì lại mở tiệc ăn mừng, biết rằng sẽ được bình yên. Lúc
này Hư Trúc đối với Dư bà khiêm tốn lễ phép, chúng nữ lại tưởng y định
trách phạt nặng khiến cho Hư Trúc phải nói đi nói lại, hết lời an ủi vậy mà
những người đó vẫn khép nép, thấp thỏm không an tâm.
Hư Trúc lên yên rồi, nói sao chúng nữ cũng không dám lên cưỡi mà
chỉ dắt lạc đà, còn lại đi bộ theo sau. Hư Trúc nói:
– Chúng ta phải trở về Linh Thứu Cung cho nhanh, nếu không thời
tiết nóng nực, e rằng… e rằng di thể của tôn chủ đi đường sẽ biến đổi.
Những người đó bấy giờ mới tuân lệnh nhưng ai nấy chỉ dám cưỡi ở
sau xa xa tùy hành. Hư Trúc định hỏi chuyện trên cung Linh Thứu, nhưng
cảm thấy không tiện nên lại thôi.
Cả đoàn người đi về hướng tây, đến ngày thứ năm thì gặp được tiêu
kỵ5 của Chu Thiên Bộ. Dư bà bà liền đưa tin, tiêu kỵ kia liền quay về báo,
chẳng mấy chốc chư nữ Chu Thiên Bộ đã bôn bả chạy tới, tất cả đều mặc
áo choàng tím, trước hết khóc lạy di thể Đồng Mỗ sau đó tham kiến tân
chủ nhân.
Thủ lãnh Chu Thiên Bộ họ Thạch, chừng trên dưới ba mươi nên Hư
Trúc gọi bà ta là Thạch tẩu. Y sợ các bộ thuộc nghi ngại nên lời lẽ không
còn dám khách sáo, chỉ nhẹ nhàng an ủi là đi đường phải chịu nhiều gian
khổ mấy câu. Chúng nữ mừng lắm, cùng phục xuống lạy tạ. Hư Trúc cũng
không dám đề nghị “mọi người coi nhau như bằng vai”, chỉ nói không
thích ai gọi mình bằng “tôn chủ”, chỉ cần gọi là “chủ nhân” cũng đủ rồi.
Mọi người khom lưng tuân lệnh.
Cứ như thế tiếp tục đi về hướng tây, những người Hạo Thiên Bộ, Chu
Thiên Bộ cử đi liên lạc đã gọi được các bọn Xích Thiên, Dương Thiên,
Huyền Thiên, U Thiên, Thành Thiên đến, chỉ có Loan Thiên ở cực tây
vẫn đi tìm Đồng Mỗ không có tin tức.
Trong cung Linh Thứu không có đàn ông, Hư Trúc ở trong đám mấy
trăm đàn bà con gái thật là ngượng ngập, cũng may mọi người đối với y
5
hết sức cung kính nếu Hư Trúc không lên tiếng hỏi thì không ai dám nói
chuyện nên cũng khiến y khỏi bị ngỡ ngàng.
Hôm đó đang đi trên đường đột nhiên một thiếu nữ mặc áo xanh phi
ngựa chạy đến, là người của Dương Thiên Bộ đi trước thám thính tay cầm
cờ xanh vẫy vẫy, ý cho hay trên đường phía trước có chuyện, rồi chạy tới
bản bộ thủ lãnh bẩm báo.
Thủ lãnh của Dương Thiên Bộ là một cô gái tuổi độ ngoài hai mươi
tên Phù Mẫn Nghi sau khi nghe bẩm báo rồi, lập tức nhảy xuống khỏi lạc
đà, rảo bước đến trước mặt Hư Trúc nói:
– Khải bẩm chủ nhân, tiêu kỵ của thuộc hạ do thám nghe tin chúng
nô tài của ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo thừa dịp lão tôn chủ bị nạn
nên đã làm phản, đang tấn công bản phong. Quân Thiên Bộ nghiêm thủ
các nẻo đi lên, các yêu nhân chưa lên được, có điều những tỉ muội được
sai hạ phong cầu cứu đều bị bọn yêu nhân sát hại.
Các động chủ đảo chủ nổi loạn thì Hư Trúc đã biết từ trước rồi, đoán
chừng bọn họ không bắt được Đồng Mỗ, Bất Bình đạo nhân lại chết dưới
tay mình, Ô Lão Đại bị thương nặng sống chết ra sao chưa biết, tưởng
chúng sẽ thấy khó mà rút lui, rồi giải tán, ngờ đâu đã qua bốn tháng trời
nay lại tụ tập đến tấn công núi Phiêu Miểu. Y trước nay sống trong chùa
Thiếu Lâm, chưa từng bước chân ra khỏi cổng chùa, nhân tình thế thái mọi
việc trên đời nào có biết gì đâu, gặp phải chuyện khó khăn thế này không
biết phải xoay trở ra sao, ngẫm nghĩ rồi nói:
– Cái này… cái này…
Lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, có hai người cưỡi ngựa chạy đến, đi
trước là một tiêu kỵ của Dương Thiên Bộ, còn ngựa phía sau có một người
đàn bà áo vàng nằm vắt ngang, người đầy máu, cánh tay đã bị chặt đứt
lìa. Phù Mẫn Nghi vẻ mặt bi phẫn hậm hực nói:
– Chủ nhân, đây là phó thủ lãnh Quân Thiên Bộ Trình tỉ tỉ, e rằng
tính mạng khó mà giữ được.
Người con gái họ Trình kia đã ngất đi, mọi người xúm lại giúp cô ta
cầm máu cứu chữa, thấy hơi thở thoi thóp, mệnh trong khoảnh khắc.
Hư Trúc thấy thương thế như vậy, nghĩ đến phương pháp trị thương
Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đã dạy cho y, vội giục lạc đà đến gần,
ngón tay giữa bên trái búng luôn mấy cái, phong bế tất cả các huyệt đạo
trên cánh tay bị đứt, máu đang chảy lập tức ngừng ngay. Lần thứ sáu y
búng ra đã sử dụng chiêu Tinh Hoàn Khiêu Trịch do Đồng Mỗ dạy, một
luồng Bắc Minh chân khí bắn vào huyệt Trung Phủ ở gần nách. Cô gái kia
kêu lên một tiếng, tỉnh ngay lập tức kêu lên:
– Chúng tỉ tỉ, mau mau lên Phiêu Miểu Phong tiếp ứng ngay,
chúng tôi… chúng tôi không chống cự nổi…
Hư Trúc lăng không điểm huyệt chẳng phải muốn khoe khoang thần
kỹ, chỉ vì đối phương là một cô gái thanh xuân, tuy y không còn là một
nhà sư nữa nhưng vẫn giữ giới luật Phật môn tránh xa đàn bà con gái,
không muốn tay mình chạm vào người cô ta, ngờ đâu chỉ mấy lần đàn chỉ
đã ứng nghiệm như thần. Y lúc này trong người đã tập trung nội lực của ba
đại cao thủ phái Tiêu Dao là Tiêu Dao Tử, Đồng Mỗ, và Lý Thu Thủy,
quả thực không phải tầm thường.
Quần nữ các bộ tuân theo di mệnh của Đồng Mỗ tôn Hư Trúc làm tân
chủ nhân nhưng thấy y tuổi đã trẻ, ăn nói hành vi xem ra có chiều ngờ
nghệch, dở dở ương ương nên trong lòng cũng không kính trọng cho lắm,
huống chi đàn bà trong cung Linh Thứu, mười người hết chín đã từng gặp
chuyện không hay với đàn ông, chẳng phải cảnh liễu chán hoa chê, vắt
chanh bỏ vỏ thì cũng bị kẻ thù làm cho nhà tan cửa nát, lại ở dưới trướng
Đồng Mỗ lúc nào cũng thù hằn, gay gắt nên ai nấy coi nam nhân chẳng
khác gì độc xà mãnh thú. Bây giờ thấy y vừa ra tay đã giở ngay bản môn
công phu của Linh Thứu Cung, công lực tinh thuần, xem ra còn có phần
trội hơn cả lão tôn chủ. Chúng nữ ai nấy kinh ngạc, reo hò vang dậy,
không nói mà tất cả cùng lạy phục xuống đất. Hư Trúc kinh hỏi:
– Làm cái gì thế? Mau mau đứng lên, đứng lên!
Có người cáo tri cho cô gái họ Trình, tôn chủ đã tiên du, thanh niên
này là ân nhân của tôn chủ, lại cũng là truyền nhân của Đồng Mỗ, là tân
chủ của bản cung. Cô gái đó tên là Trình Thanh Sương cố gắng xuống
ngựa, quì lạy ra mắt Hư Trúc nói:
– Đa tạ tôn chủ cứu mạng, xin… xin… xin tôn chủ cứu các vị tỉ tỉ
còn ở trên núi, tất cả chống đỡ bốn tháng nay, quả bất địch chúng, đến lúc
này đã nguy ngập… nguy ngập vạn phần.
Cô ta nói được mấy câu rồi nằm phục xuống đến đầu cũng không
ngóc lên nổi. Hư Trúc vội nói:
– Thạch tẩu mau đỡ cô ta dậy. Dư bà bà nghĩ xem… nghĩ xem
mình phải làm sao?
Dư bà và vị chủ mới này đồng hành đã mươi ngày, đã biết y là người
trung hậu thật thà, không thông hiểu chuyện đời, liền đáp:
– Khải bẩm chủ nhân, từ đây đến Phiêu Miểu Phong còn đến hai
ngày đường, tốt nhất là chủ nhân cho phép nô tì tất lãnh bản bộ đến trước
cứu viện. Chủ nhân đưa tất cả mọi người đi sau, một khi đến nơi thì tất cả
yêu nhân đều bị dẹp tan, không còn gì phải sợ.
Hư Trúc gật đầu, lại thấy có điểm không ổn nhưng nhất thời không
nghĩ ra là chuyện gì. Dư bà quay sang nói với Phù Mẫn Nghi:
– Phù muội tử, chủ nhân lần đầu hiển chút thân thủ để trấn nhiếp
quần yêu, pháp y trên người xem chừng không đủ trang nghiêm. Ngươi là
“Cây Kim Thần” của bản cung, vậy hãy may cho chủ nhân một bộ quần
áo đi.
Phù Mẫn Nghi đáp:
– Đúng thế! Muội tử cũng đã nghĩ tới rồi.
Hư Trúc ngạc nhiên, nghĩ thầm trong lúc đang gấp gáp thế này, làm
gì còn thì giờ đâu mà may quần áo? Quả đúng là bụng dạ đàn bà. Mọi
người đưa mắt nhìn Hư Trúc, đợi y ra lệnh. Hư Trúc cúi đầu, nhìn thấy
tăng bào trên người rách bươm, bốn tháng nay không giặt, đến chính mình
cũng còn thấy hôi hám không chịu nổi. Y từ bé đã được sư phụ dạy rằng,
phải thường thường nghĩ đến ngũ uẩn đều chỉ là không, chớ nên quá trọng
miếng ăn thức mặc, thành ra việc đó không bao giờ để tâm, bây giờ Dư bà
đề cập đến, lại thấy các cô gái thuộc hạ ai nấy ăn mặc sang trọng, không
khỏi ngượng ngùng, huống chi mình đã không còn là sư nữa mà lại mặc
tăng y, thật không đâu vào đâu.
Thực ra mọi người đã coi y là chủ rồi, đâu có ai còn cười chê áo quần
đẹp hay không đẹp? Mọi người chăm chăm nhìn y nào phải xem y xấu
hay tốt, thế nhưng Hư Trúc thấy mình dơ dáy, tồi tàn nên hổ thẹn đấy thôi.
Dư bà đợi một hồi, hỏi lại:
– Chủ nhân, nô tì đi trước có được không?
Hư Trúc đáp:
– Thôi tất cả mình cùng đi một lượt, cứu người mới là quan trọng.
Quần áo của ta quả có dơ dáy thật, đợi tới khi… tới khi ta tắm rửa, để các
vị khỏi thấy quá hôi hám…
Y vừa nói vừa giục lạc đà, vọt lên trước. Chúng nữ cũng cùng mang
mối hận chung nên đều ra sức đuổi theo. Lạc đà rất dai sức, khi chạy
nhanh chẳng kém gì ngựa, mọi người chạy một mạch mấy chục dặm mới
dừng lại nghỉ ngơi, chụm lửa nấu ăn. Dư bà chỉ vào một ngọn núi chìm
vào trong mây mù ở phía tây bắc, nói với Hư Trúc:
– Chủ nhân, đó chính là Phiêu Miểu Phong. Ngọn núi đó quanh
năm lúc nào cũng đầy vân vụ, từ xa nhìn vào, như có như không, chính
vậy mới gọi là núi Phiêu Miểu.
Hư Trúc nói:
– Xem ra cũng còn xa lắm, mình đến sớm lúc nào hay lúc nấy, tất
cả mọi người cố đi suốt đêm.
Chúng nữ đồng thanh đáp lời:
– Tuân lệnh! Đa tạ chủ nhân quan hoài cho các nô tì Quân Thiên
Bộ.
Ăn cơm xong, cả bọn lại lên lạc đà đi tiếp. Vì phải đi gấp nên trên
đường chết mất vô số lạc đà, lúc tờ mờ sáng ngày thứ hai thì đến chân núi
Phiêu Miểu. Phù Mẫn Nghi hai tay bưng một vật gì ngũ sắc thật rực rỡ, đi
đến trước mặt Hư Trúc, khom lưng nói:
– Nô tì công phu thô lậu, xin chủ nhân mặc tạm.
Hư Trúc lạ lùng:
– Cái gì đây?
Y cầm lấy mở ra xem, thì ra là một trường bào, gồm nhiều mảnh gấm
may thành, xanh đỏ tím vàng đen miếng nọ xen lẫn miếng kia, trông vừa
quí giá lại vừa thanh nhã. Thì ra Phù Mẫn Nghi cắt từ những áo choàng
của mỗi người may thành một chiếc áo dài cho Hư Trúc.
Hư Trúc vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nói:
– Phù cô nương quả không hổ danh là Châm Thần, trên lưng lạc đà
chạy nhanh như vậy mà vẫn may được một chiếc áo đẹp thế này.
Y liền cởi bỏ tăng y, khoác trường bào lên, dài ngắn rộng hẹp ni tấc
thật là vừa vặn, riềm tay áo lót bằng da chồn màu xám cắt từ áo cừu của
các cô ra. Hư Trúc tuy xấu xí nhưng khi mặc chiếc áo quí giá đó, lập tức
oai nghi hẳn lên, chúng nữ người nào cũng suýt soa khen ngợi khiến anh
chàng thấy ngượng ngập, chân tay thừa thãi.
Khi đó mọi người đã tới con đường đi lên núi. Trình Thanh Sương trên
đường đã cho mọi người hay khi cô ta hạ phong thì địch nhân đã tấn công
lên đến Đoạn Hồn Nhai, mười tám nơi hiểm yếu trên ngọn Phiêu Miểu đã
mất hết mười một vị trí, quần nữ trong Quân Thiên Bộ chết đã già nửa,
tình thế cực kỳ hung hiểm. Hư Trúc thấy chân núi lặng như tờ không một
bóng người, trong đám tuyết đóng khắp nơi cỏ non lú nhú, nếu không biết
trước, ai dám nghĩ rằng trong cảnh thanh tĩnh thế này lại chứa đầy nguy cơ
chết chóc. Mọi người ai nấy lo lắng ra mặt, không biết các chị em Quân
Thiên Bộ sống chết ra thế nào.
Thạch tẩu rút đao ra cầm tay, lớn tiếng nói:
– Trong Cửu Thiên núi Phiêu Miểu, tám Thiên Bộ hạ phong rồi,
chỉ một bộ ở lại giữ núi, bọn giặc thừa cơ đến tấn công, quả là vô sỉ. Chủ
nhân, xin mau hạ lệnh cho tất cả mọi người xông lên quyết với quần tặc
một trận tử chiến.
Thần tình bà ta cực kỳ hiên ngang. Dư bà nói:
– Thạch gia muội tử chớ có nóng, thế quân địch mạnh, Quân Thiên
Bộ chỉ trông cậy vào mười tám nơi hiểm trở trời sinh nên đã chống cự
được bấy lâu nay. Bây giờ bọn mình đang ở dưới chân núi, địch nhân phản
khách vi chủ, chiếm được thế từ cao đánh xuống…
Thạch tẩu nói:
– Thế theo ý bà bà thì phải làm sao?
Dư bà đáp:
– Chúng mình không nói năng gì cả, cứ lẳng lặng xông lên, làm
sao cho bọn địch biết trễ chừng nào hay chừng ấy.
Hư Trúc gật đầu khen:
– Dư bà nói phải lắm.
Y đã nói như thế thành thử không một ai dám có ý kiến gì thêm. Bát
bộ chia ra len lén trèo lên núi. Việc thượng phong này, khinh công ai hơn
ai kém biết ngay. Hư Trúc thấy Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi những
thủ lãnh tuy phận nữ nhi nhưng cước bộ cực kỳ nhanh nhẹn, nghĩ thầm:
“Quả nhiên dưới tay tướng mạnh không có quân yếu, bộ thuộc của sư bá
quả là giỏi thật”.
Các chỗ thiên hiểm đều qua được dễ dàng nhưng nơi nào cũng thấy
đầy đao vỡ kiếm gẫy, cây đổ đá tan, đủ biết khi địch nhân vượt qua được
nơi này, đều phải trải qua một trường ác đấu cực kỳ thảm khốc. Qua khỏi
Đoạn Hồn Nhai, Thất Túc Nham, Bách Trượng Giản, tới được Tiếp Thiên
Kiều, thấy chiếc cầu treo bằng xích sắt giữa hai vách núi đã bị ai dùng
bảo đao chặt đứt. Hai bên vách núi phải cách nhau phải đến năm trượng,
khó mà có thể nhảy qua.
Quần nữ ai nấy kinh hãi nghĩ thầm: “Không lẽ chúng tỉ muội Quân
Thiên Bộ đều tử nạn cả rồi sao?”. Ai nấy biết rằng Tiếp Thiên Kiều thông
liền với Bách Trượng Giản và Tiên Sầu Môn, là độc đạo giữ hai thiên
hiểm, tuy nói là cầu nhưng thực sự chỉ là một sợi dây xích, nối vắt ngang
hai vách núi dựng đứng, dưới là vực sâu đá tai mèo lởm chởm. Những ai
đến cung Linh Thứu đều võ nghệ cao cường, đi trên xích sắt mà qua
không phải là chuyện khó. Lần này Trình Thanh Sương xuống núi, địch
nhân chỉ mới tới Đoạn Hồn Nhai còn cách Tiếp Thiên Kiều khá xa, Quân
Thiên Bộ cũng đã dự bị, cho người canh cây cầu sắt, nếu địch nhân tấn
công tới thì sẽ mở khóa nối ở giữa, sợ xích sẽ tách làm hai, tuy cái vực
này chỉ năm trượng, rộng thì không rộng nhưng trên đời này không ai
khinh công có thể nhảy qua được. Bấy giờ chúng nữ thấy sợi xích bị chặt
đứt, có lẽ khi địch tấn công tới, người Quân Thiên Bộ vội quá nên không
kịp mở khóa nữa.
Thạch tẩu cầm liễu diệp đao múa lên nghe veo véo kêu to:
– Dư bà bà, mau nghĩ cách nào qua được đây mới xong.
Dư bà bà nói:
– Ồ, làm sao qua đây, cái này không phải dễ…
Nói chưa dứt câu, bỗng nghe từ phía sau núi giọng đàn bà truyền ra
hai tiếng “A, A” thảm thiết. Quần nữ nhiệt huyết xông lên, ai nấy biết
rằng chị em trong Quân Thiên Bộ bị địch nhân hạ độc thủ, hận không thể
chắp cánh bay sang để tử chiến một phen. Ai nấy nhao nhao chửi rủa
nhưng không có cách nào qua được nơi hiểm trở thiên nhiên này.