Chữ danh gắn với chữ tham,
Sân si ràng buộc cởi làm sao đây?
*
* *
Sáng hôm sau, Hư Trúc tỉnh lại, thấy mình nằm ngủ trên một chiếc
giường êm ấm, mở mắt nhìn ra ngoài trướng là một căn phòng cực rộng,
trống trải chẳng khác gì thiền phòng nơi chùa Thiếu Lâm, trần thiết cổ
kính thanh nhã, đỉnh đồng bình sứ, cũng na ná như chuông đồng lò hương
nơi bản tự. Y lúc ấy còn mơ mơ màng màng, chẳng biết mình đang ở nơi
đâu.
Một thiếu nữ bưng một chiếc đĩa sứ đến bên giường, chính là Lan
Kiếm, nói:
– Chủ nhân tỉnh dậy rồi? Mời chủ nhân súc miệng.
Hư Trúc chưa hoàn toàn rã rượu, thấy miệng đắng ngắt, cổ khô ran,
thấy trong chén đựng nước trà màu vàng ánh, cầm lấy đưa lên miệng
uống ngay, trong ngọt có đắng, không thấy mùi trà, liền ực một cái nuốt
ngay vào bụng. Y trong đời đã bao giờ được nếm mùi sâm thang, thành ra
chẳng biết đây là loại trà đắng gì, ngượng nghịu mỉm cười nói:
– Đa tạ tỉ tỉ! Ta… ta muốn trở dậy, xin tỉ tỉ bước ra ngoài giùm.Lan Kiếm chưa kịp trả lời, ngoài phòng lại tiến vào một thiếu nữ
khác, chính là Cúc Kiếm, mỉm cười nói:
– Chị em tiểu tì hai người xin giúp chủ nhân thay áo.
Nói rồi lấy từ trên bàn ở đầu giường một bộ nội y nội khố màu xanh
nhạt luồn vào trong chăn cho Hư Trúc. Hư Trúc cuống quá, mặt đỏ gay
nói:
– Không! Không! Ta… ta không cần tỉ tỉ phục thị. Ta nào có bị
thương bệnh hoạn gì đâu, chẳng qua chỉ quá chén một chút, ôi, nước này
cả đến tửu giới cũng phạm rồi. Kinh có nói rằng: uống rượu có ba mươi
sáu điều thất thố, từ rày nhất định không uống nữa. Còn tam đệ thì sao?
Đoàn công tử đâu? Y đâu rồi?
Lan Kiếm nhếch mép cười nói:
– Đoàn công tử đã hạ sơn. Khi ra đi có dặn tì tử bẩm với chủ nhân,
khi nào mọi việc nơi Linh Thứu cung xong xuôi, mời chủ nhân đến Trung
Nguyên gặp lại.
Hư Trúc bàng hoàng kêu lên một tiếng hỏi:
– Ta còn việc phải hỏi y, sao y đã đi mất rồi?
Y trong lòng thảng thốt, từ trên giường nhảy ngay xuống, định đuổi
theo Đoàn Dự, cốt hỏi cho ra tên tuổi và chỗ ở của “người trong mộng”,
đột nhiên thấy trên người chỉ mặc đơn sơ có một chiếc áo lót màu trắng,
“A” lên một tiếng lại chui tọt vào trong chăn, nghĩ thầm: “Chết chửa,
không biết ai thay quần áo cho mình thế này?⬙.
Y từ chùa Thiếu Lâm đi ra trong người chỉ mặc có mỗi một bộ quần
áo lót bằng vải thô, luôn nửa năm nay, cực kỳ rách nát hôi hám, thế mà
bây giờ trên người là loại vải mềm, chẳng biết bằng tơ hay gấm, nhưng
biết là loại hàng sang trọng lắm.Cúc Kiếm cười nói:
– Chủ nhân tối hôm qua say mèm, bốn chị em tì tử phục thị chủ nhân
tắm rửa thay áo, chủ nhân không biết gì hay sao?
Hư Trúc lại càng kinh hãi, ngửng đầu lên thấy Lan Kiếm, Cúc Kiếm
người nào cũng đẹp như ngọc, tươi như hoa, tim bỗng đập thình thình, vừa
đưa tay ra, áo ngắn liền tuột lên để lộ làn da ẩn ẩn sắc hồng, quả nhiên
bao nhiêu cáu ghét bẩn thỉu trên người đã được kỳ cọ sạch sẽ. Y cố vớt
vát thêm một câu, vừa cười vừa nói:
– Ta say quả là không biết trời trăng gì nữa, vậy mà may sao cũng
còn biết tự mình tắm rửa.
Lan Kiếm cũng cười:
– Đêm hôm qua chủ nhân đâu có còn cử động gì được, đó là bốn chị
em tiểu tì tắm cho chủ nhân đó.
Hư Trúc “A” lên một tiếng to, tưởng chừng muốn ngất đi, nằm vật
xuống kêu luôn mồm:
– Chết rồi! Chết rồi!
Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng sợ đến nhảy dựng lên, cùng hỏi:
– Chủ nhân, có chuyện gì không phải thế?
Hư Trúc cười gượng nói:
– Ta là một nam nhân, lẽ nào lại ở trước mặt bốn vị tỉ tỉ… xích thân
lộ thể, chẳng là… chẳng là hỡi ơi lắm sao? Huống chi ta toàn thân cáu
ghét, vừa hôi vừa bẩn, ai lại để các tỉ tỉ làm cái việc dơ dáy đó?
Lan Kiếm đáp:- Bốn chị em tiểu tì là nô lệ của chủ nhân, dù có phải tan xương nát
thịt vì chủ nhân cũng làm, nô tì sai lầm xin chủ nhân trách phạt.
Nói xong cô ta cùng Cúc Kiếm đều quì phục xuống lạy. Hư Trúc
thấy hai nàng hết sức sợ hãi, nghĩ đến Dư bà, Thạch tẩu những người kia,
mỗi khi mình dùng lễ để đãi họ thì đều sợ đến mất cả hồn vía, chắc hẳn
Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng đã quen với tính nết như thế của Đồng Mỗ
rồi, mỗi khi ăn nói dịu ngọt là kế đó sẽ ra sát thủ ngay, liền sẵng giọng:
– Hai vị cô… ôi, các ngươi đứng dậy, ra khỏi đây ngay, để tự ta mặc
áo, không cần các ngươi phục thị.
Lan Cúc hai người vội đứng lên, nước mắt rưng rưng, lui ra ngoài. Hư
Trúc trong lòng thật lạ lùng, hỏi thêm:
– Ta… có phải ta đắc tội với các cô không? Sao các cô không vui,
nước mắt rưng rưng là thế nào? Hay là ta nói gì sai, cái đó…
Cúc Kiếm đáp:
– Chủ nhân đuổi chị em tì nữ ra, không cho hầu hạ chủ nhân thay áo,
rửa mặt, chắc hẳn chán ghét chúng tôi rồi…
Nói chưa dứt câu, nước mắt đã ròng ròng chảy xuống. Hư Trúc xua
tay liên tiếp nói:
– Không! Không đâu. Ồ, ta không biết ăn nói thành ra không rõ ràng.
Ta là đàn ông, các cô là con gái, lẽ nào… cái đó bất tiện lắm… chứ ta
không có ý… có đức Phật ở trên, người tu hành không ăn gian nói dối, ta
không khi nào đánh lừa các cô đâu.
Lan Kiếm, Cúc Kiếm thấy y hoa chân múa tay, rất là cuống quít, ý
thật thành tâm, không khỏi bật cười, cùng nói:- Xin chủ nhân đừng trách. Trong cung Linh Thứu trước nay không
có đàn ông, chúng tì nữ chưa từng gặp con trai bao giờ. Chủ nhân như
trời, chúng nô tì như đất, đâu có gì mà phân biệt nam hay nữ?
Hai nàng uyển chuyển đi tới, hầu hạ Hư Trúc thay áo đi giày. Chẳng
mấy chốc, Mai Kiếm và Trúc Kiếm cũng vào, người thì chải đầu, người
thì rửa mặt cho y. Hư Trúc ngượng đến không dám nói năng gì, mặt trắng
bệch, tim đập thình thình, đành mặc cho bốn cô tì nữ làm gì thì làm, cũng
không dám bảo rằng mình không thích họ phục thị.
Y nghĩ chắc Đoàn Dự hẳn đi cũng xa rồi, đuổi không kịp, lại nghĩ
đến quần hào các động, các đảo chưa trừ được Sinh Tử Phù, không tiện
rời cung, ăn điểm tâm xong, liền đi đến đại sảnh gặp mọi người, giải lá
bùa Sinh Tử cho hai người đau đớn nhất.
Giải trừ Sinh Tử Phù cần phải dùng chân lực sử dụng Thiên Sơn Lục
Dương Chưởng, Hư Trúc chân khí sung túc, dù có giúp cho mươi người
cũng không đến nỗi mệt nhọc, có điều Đồng Mỗ mỗi người lại cấy bùa
một nơi khác nhau, Hư Trúc muốn bạt trừ những lá bùa đó cũng thật khó
khăn.
Sở học về kinh mạch, huyệt đạo của y rất nông cạn, cũng không dám
tùy tiện ra tay, sợ có gì sơ sót sẽ càng làm cho bệnh nhân bị nặng thêm
thành thử đến trưa cũng mới trị được bốn người. Ăn xong cũng phải nghỉ
ngơi một lát.
Mai Kiếm thấy y nhíu mày suy nghĩ phương pháp bạt trừ Sinh Tử
Phù có vẻ khó nhọc liền nói:
– Chủ nhân, hậu điện Linh Thứu Cung mấy trăm năm trước những vị
chủ cũ có để lại các hình vẽ trên vách đá, tì tử từng nghe mỗ mỗ nói
rằng, những hình vẽ đó có liên quan đến Sinh Tử Phù, sao chủ nhân
không đến xem qua một chút?
Hư Trúc vui mừng nói:- Thế thì tốt lắm!
Thế là Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng dẫn đường cho Hư Trúc tới hoa
viên, đẩy một tòa giả sơn dưới đó có một cửa vào địa đạo. Mai Kiếm giơ
đuốc lên đi trước dẫn đường, năm người đi thành một hàng. Trên đường
đi, mỗi khi đến chỗ kín đáo, Mai Kiếm đều phải án động cơ quan để khóa
các ám khí bố trí sẵn nơi đó. Cái hầm đó cực kỳ ngoằn ngoèo, đi sâu
xuống dưới, có chỗ rộng rãi thành một cái hang đá đủ biết người xưa cứ
theo hình dáng thiên nhiên trong núi mà kiến tạo.
Trúc Kiếm nói:
– Khi bọn nô tài kia tấn công vào cung, các tỉ tỉ trong Quân Thiên Bộ
đều bị bắt cả, bốn chị em chúng tôi thấy địch không lại, chạy xuống trốn
ở dưới đây, định chờ đến khi trời tối sẽ chui ra tìm cách cứu người.
Lan Kiếm nói:
– Thực ra bọn tiểu tì chỉ cốt là báo đáp tấm lòng của mỗ mỗ. Chủ
nhân nếu không tới kịp, chúng tôi cả bọn thể nào cũng bỏ mạng dưới tay
lũ nô tài.
Đi phải đến hơn hai dặm, Mai Kiếm giơ tay đẩy một tảng đá ở phía
bên trái rồi tránh sang một bên nói:
– Xin mời chủ nhân, bên trong là thạch thất, bọn tì tử không vào
được.
Hư Trúc hỏi:
– Sao lại không vào được? Bên trong có gì nguy hiểm chăng?
Mai Kiếm đáp:
– Không phải có nguy hiểm. Đây là trọng địa của bản cung, bọn tì tử
không được phép vào.Hư Trúc nói:
– Tất cả cùng vào một lượt, có gì quan trọng đâu? Bên ngoài này hẹp
lắm, đứng không thoải mái.
Bốn nàng nhìn nhau, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa vui sướng. Mai
Kiếm nói:
– Chủ nhân, trước khi mỗ mỗ tiên du đã từng dặn chị em tiểu tì là
nếu bốn đứa trung thành hầu hạ, không làm gì sai trái, lại dụng tâm luyện
công thì kể từ năm bốn mươi tuổi sẽ cho vào thạch thất mỗi năm một
ngày, tham nghiên võ công trên thạch bích. Nếu như chủ nhân ân đức
không bãi bỏ lời hứa của mỗ mỗ thì hai mươi hai năm nữa mới được vào.
Hư Trúc nói:
– Đợi đến hai mươi hai năm nữa thì chán ngấy? Lúc đó các cô chẳng
già rồi ư, học võ làm gì nữa? Thôi cùng vào một lượt.
Bốn nàng mừng quá, lập tức sụp xuống lạy. Hư Trúc nói:
– Thôi đứng lên, đứng lên đi! Chỗ này đất hẹp, nếu như ta cũng quì
xuống hoàn lễ e rằng cả bọn ngã chồng lên nhau.
Vào bên trong gian nhà đá, bốn bức tường đá được bào nhẵn, trên đó
khắc vô số những vòng tròn đường kính chừng một thước, bên trong vòng
tròn khắc các loại đồ hình, có cái hình người, có cái hình thú, có chỗ là
văn tự sứt mẻ không toàn vẹn, có chỗ lại chỉ là những vạch ký hiệu lằng
ngoằng, bên cạnh các vòng tròn có đánh dấu “giáp nhất”, “giáp nhị”, “tí
nhất”, “tí nhị”… các số mục, những vòng đó nếu không hàng nghìn thì
cũng phải đến tám chín trăm, một lúc làm sao xem cho hết được?
Trúc Kiếm nói:
– Mình xem hình “giáp nhất” trước, chủ nhân nghĩ có nên không?
Hư Trúc gật đầu khen phải. Năm người liền cầm đuốc giơ lên đi tìm
hình có số “giáp nhất”, Hư Trúc vừa xem thấy ngay đây là khởi thủ thức
của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ liền nói:
– Đây là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.
Xem đến “giáp nhị” quả nhiên là chiêu thứ hai, cứ thuận chiều xem
tiếp, hết các hình Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì đến Thiên Sơn Lục Dương
Chưởng, bao nhiêu những chỗ áo bí ca quyết đều có ghi rõ trong những
vòng tròn này.
Các võ công chiêu số theo sau Thiên Sơn Lục Dương Chưởng khắc
trong thạch thất Hư Trúc chưa từng học qua. Y cứ theo những hình vẽ,
vận chân khí lên, chỉ mới học vài chiêu đã thấy thân thể nhẹ nhàng như
muốn bay lên, có điều dường như có chỗ nào còn khiếm khuyết một chút
nên chưa rời khỏi mặt đất được.
Y đang ngưng thần vận tức, tập trung hết tinh thần không còn tơ
vương chuyện gì, bỗng nghe “A, A” hai tiếng kinh hoàng, Hư Trúc hoảng
hốt quay đầu lại thấy Lan Trúc nhị nữ loạng choạng, rồi ngã lăn đùng ra
đất, còn Mai Cúc hai nàng tay vịn lên tường đá, sắc mặt nhợt nhạt, lảo
đảo như muốn té. Hư Trúc vội vàng đỡ Lan Trúc dậy, kinh ngạc hỏi:
– Chuyện gì thế?
Mai Kiếm nói:
– Chủ… chủ nhân, bọn tì nữ công lực kém cỏi, không nên xem những
hình vẽ… ở trong này… chúng tôi… ra ngoài kia đợi vậy…
Bốn nàng lần theo vách đá, chầm chậm đi ra khỏi thạch thất. Hư
Trúc đứng ngẩn ngơ một hồi, rồi cũng đi ra, thấy bốn cô gái ngồi xếp
bằng trên lối đi vận công, thân hình run rẩy, vẻ mặt đau đớn. Hư Trúc
biết họ bị nội thương khá nặng, lập tức sử dụng Thiên Sơn Lục DươngChưởng, vỗ nhẹ lên các huyệt đạo trên lưng họ vài cái. Một luồng lực
đạo dương hòa liền truyền vào bốn thiếu nữ, mặt các cô gái trở lại bình
thường, chẳng bao lâu trán nhỏ mồ hôi, kẻ trước người sau mở mắt kêu
lên:
– Đa tạ chủ nhân hao phí công lực trị thương cho tì tử.
Cả bọn phục xuống lạy tạ ân đức. Hư Trúc vội vàng đưa tay đỡ lên
nói:
– Chẳng hay… chẳng hay có chuyện gì thế? Đang khỏe mạnh lại bị
thương muốn ngất đi là sao?
Mai Kiếm thở hắt ra đáp:
– Chủ nhân, trước đây mỗ mỗ bảo bọn tiểu tì phải đến bốn mươi tuổi
mới được vào trong này mỗi năm một ngày để xem đồ hình, thì ra cũng
có thâm ý. Những võ công trên đồ phổ này quá sức thâm áo, bọn tì tử
không lượng sức mình, theo hình “giáp nhất” luyện theo, chân khí chưa
đủ, kinh mạch lập tức rối loạn. Nếu không được chủ nhân giải cứu, không
chừng bốn chị em chúng tôi đã bị tàn phế, tê liệt suốt đời.
Lan Kiếm nói:
– Mỗ mỗ thương yêu nên đặt kỳ hạn gần như thế, mong mỏi khi chị
em tì tử bốn mươi tuổi sẽ có thể tập luyện thượng thừa võ công, thế
nhưng… thế nhưng bọn tì tử tư chất kém cỏi, dẫu có luyện thêm hai mươi
hai năm nữa, chưa chắc đã dám trở lại thạch thất này.
Hư Trúc đáp:
– Thì ra là thế! Vậy là tại ta sai quấy, đúng ra chẳng nên để các cô
vào đây.
Tứ kiếm lại quì xuống chịu tội, cùng nói:- Chủ nhân sao lại nói thế? Đó là ân đức của chủ nhân, đều do bọn tì
tử cuồng vọng làm chuyện không phải mà ra nông nỗi.
Cúc Kiếm nói:
– Chủ nhân công lực thâm hậu, luyện những môn võ học cao thâm
này cực kỳ ích lợi. Mỗ mỗ ở trong thạch thất có khi hàng tháng không ra,
chính là để nghiền ngẫm các đồ phổ trên thạch bích này.
Mai Kiếm lại thêm:
– Bọn nô tài ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo tra vấn các tỉ tỉ
Quân Thiên Bộ muốn tìm nơi cất giấu bảo vật của mỗ mỗ. Các tỉ tỉ đó thà
chết không khai, bốn chị em tì tử cũng định dụ cho họ vào sau đó phát
động cơ quan tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ở trong đường hầm, nhưng lại
sợ trong bọn nô tài kia có kẻ khéo tay biết cách phá giải máy móc vào
được thạch thất thấy được những đồ hình trên vách thì di họa vô cùng.
Nếu biết như thế này, cứ để bọn chúng vào đây lại hóa hay.
Hư Trúc gật đầu:
– Quả là như thế, những hình vẽ này nếu người chưa đủ công lực mà
coi thấy thì còn ghê gớm hơn cả độc dược gươm đao, cũng may bọn họ
chưa vào tới.
Lan Kiếm mỉm cười:
– Chủ nhân thực là tốt bụng, theo như tiểu tì ư, cứ để cho bọn chúng
luyện công rồi từng đứa từng đứa lăn ra chết, có phải thích không?
Hư Trúc nói:
– Ta mới luyện vài chiêu đã thấy tinh thần bừng bừng, nội lực sung
túc, đang định đi ra giúp họ bạt trừ Sinh Tử Phù. Các cô cũng đi ngủ một
lát, nghỉ ngơi cho khỏe.Năm người từ địa đạo chui ra, Hư Trúc quay về đại sảnh, gỡ bùa
Sinh Tử cho ba người. Từ đó ngày ngày Hư Trúc bạt trừ Sinh Tử Phù cho
quần hào, mỗi khi thấy mỏi mệt, lại đi xuống dưới thạch thất luyện
thượng thừa võ công. Bốn cô gái đợi ở bên ngoài, không dám bước vào
một bước. Hàng ngày khi rảnh rỗi, Hư Trúc lại chỉ dạy võ công cho bốn
nàng và chư nữ trong chín bộ.
Phải tốn đến hơn hai chục ngày mới bạt trừ được hết Sinh Tử Phù
cho mọi người nhưng Hư Trúc ngày ngày nghiên cứu đồ phổ trên vách đá,
võ công cũng đại tiến, so với khi mới bước chân lên Phiêu Miểu Phong
thật khác xa.
Quần hào trước kia thần phục Đồng Mỗ chẳng qua chỉ vì bị Sinh Tử
Phù chế ngự, không chịu cũng không xong, bây giờ Linh Thứu Cung đã
đổi chủ, Hư Trúc thành tâm đãi mọi người, lấy lễ mà xử với họ, tuy toàn
là những kẻ kiệt hiệt, ngược ngạo trên giang hồ nhưng cũng cảm ân hoài
đức, vui lòng qui thuận, ai nấy bái tạ ra đi.
Đến khi các động chủ, đảo chủ hạ sơn hết rồi, trên núi chỉ còn mình
Hư Trúc là đàn ông. Y tính toán thầm trong bụng: “Ta từ bé là đứa trẻ mồ
côi mồ cút, toàn nhờ các sư phụ trong chùa nuôi dưỡng tới lúc lớn khôn,
nếu như từ nay không trở về chùa Thiếu Lâm thì quả là đồ vong ân phụ
nghĩa. Ta phải quay về chùa chịu tội cùng phương trượng và sư phụ, có
thế mới hợp đạo lý”. Y liền nói rõ đầu đuôi cho bốn cô gái và chư nữ chín
bộ, ngay hôm đó lập tức xuống núi, mọi việc trên cung Linh Thứu do Dư
bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi… cùng nhau trông coi.
Bốn cô gái ý muốn đi theo hầu hạ, Hư Trúc nói:
– Ta quay về chùa Thiếu Lâm, trở lại làm hòa thượng. Trên đời làm
gì có nhà sư nào lại đem tì nữ đi theo bao giờ?
Nói đi nói lại mãi mà những cô gái không tin. Hư Trúc cầm thế đao
lên cạo đầu sạch bóng, để lộ giới điểm trên đỉnh đầu. Bốn thiếu nữ không
còn biết sao hơn, đành phải cùng chư nữ chín bộ tiễn y xuống núi, gạt lệ
từ biệt.Hư Trúc thay bộ tăng y cũ, hăng hái tiến bước theo hướng đông về
phía Tung Sơn. Người tính nết như y, trên đường chẳng gây chuyện với ai,
cũng lại nhìn vào một nhà sư áo quần rách rưới, đến đạo tặc cũng không
để ý đến. Thành thử đi đường bình an một mạch về đến chùa Thiếu Lâm.
Y nhìn thấy mái ngói vàng của ngôi chùa cổ, trong lòng vừa cảm
khái, vừa hổ thẹn, mới đi ra ngoài có vài tháng mà mình đã vi phạm biết
bao nhiêu điều thanh qui giới luật, nào sát giới, nào dâm giới, nào huân
giới, nào tửu giới, trong bao nhiêu Ba La Diđại giới, giới nào cũng
phạm, không biết phương trượng và sư phụ có tha thứ cho mình quay về
cửa Phật hay không?
Y trong bụng phập phồng, vào cửa chùa rồi liền đi ngay đến bái kiến
sư phụ Tuệ Luân. Tuệ Luân thấy y trở vè, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ hỏi
ngay:
– Phương trượng sai ngươi ra ngoài đưa thư, sao mãi đến bây giờ mới
quay trở về?
Hư Trúc nằm phục xuống, hết sức hối tiếc, khóc òa lên nói:
– Sư phụ, đệ tử… đệ tử quả là đáng chết, sau khi hạ sơn, không trì thủ
nổi, bao nhiêu… bao nhiêu giới luật sư phụ dạy dỗ, đều… đều chẳng giữ
gìn gì cả.
Tuệ Luân mặt biến sắc, lắp bắp:
– Cái… cái gì? Ngươi nếm phải thịt cá rồi ư?
Hư Trúc đáp:
– Vâng, nhưng đâu có chỉ là ăn đồ mặn mà thôi đâu.
Tuệ Luân mắng liền:
– Chết thật, chết thật! Chắc… chắc ngươi lại còn uống rượu nữa chứ
gì?
Hư Trúc đáp:
– Đệ tử chẳng những uống rượu mà còn uống đến túy lúy say mèm.
Tuệ Luân thở dài một tiếng, hai giòng lệ chảy ròng ròng trên gò má
nghẹn ngào:
– Ta thấy ngươi từ tấm bé trung hậu thực thà, ngờ đâu vừa bước chân
vào cõi hồng trần hoa lệ, lại sa ngã đến thế, khục… khục…
Hư Trúc thấy sư phụ đau lòng, lại càng kinh hãi nói:
– Sư phụ ở trên, đệ tử phạm vào giới luật, đâu có phải chỉ bấy nhiêu,
còn… còn phạm phải…
Y định nói còn phạm cả sát giới, dâm giới, bỗng nghe tiếng chuông
đánh boong boong, cứ hai tiếng ngắn lại ngừng một chút, ấy là hiệu lệnh
triệu tập đệ tử hàng chữ Tuệ. Tuệ Luân vội vàng đứng lên, lau nước mắt
nói:
– Ngươi phạm giới nhiều quá, ta chẳng còn cách nào che chở cho
ngươi được nữa rồi. Ngươi… ngươi… tự mình đến Giới Luật Viện chịu tôi
đi thôi! Chuyện này đến cả ta cũng tội vạ lây. Ôi! Thôi… thôi…
Ông ta vừa nói vừa hấp tấp chạy ra. Hư Trúc đến Giới Luật Viện,
khom lưng bẩm:
– Đệ tử Hư Trúc, vi phạm giới luật Phật môn, cung kính khẩn cầu
chưởng luật trưởng lão tứ phạt.
Y nói đến hai lần mới có một tăng nhân trung niên từ trong viện đi
ra, lạnh lùng nói:- Thủ tọa và chưởng luật sư thúc đang bận, không có thì giờ đâu đến
nghe ngươi nói, ngươi quì đó đợi đi.
Hư Trúc đáp:
– Vâng!
Y quì từ giữa trưa đến chiều tối cũng không thấy ai đến hỏi han.
Cũng may Hư Trúc nội công thâm hậu, tuy không ăn uống gì mà quì đã
nửa ngày nhưng vẫn thản nhiên như không, không có gì tỏ ra mỏi mệt.
Nghe tiếng trống chiều đã điểm, đã đến khóa tụng kinh, Hư Trúc cúi
đầu đọc kinh sám hối những sai trái đã phạm. Nhà sư trung niên lại đi ra
nói:
– Này Hư Trúc, mấy hôm nay nhà chùa đang có việc lớn, các trưởng
lão không rảnh rổi để xét xử chuyện của ngươi. Ta thấy ngươi quì đó đọc
kinh, quả là có thành tâm sám hối tội lỗi. Thôi ngươi đi qua bên vườn rau
gánh phân tưới cây để đợi khi dạy bảo. Đợi khi nào các trưởng lão xong
việc lúc đó sẽ đòi ngươi lên hỏi rõ ngọn ngành, theo tình tiết mà định tội
nặng nhẹ.
Hư Trúc cung kính đáp:
– Dạ, đa tạ từ bi.
Y chắp tay hành lễ, lúc đó mới đứng lên, nghĩ thầm: “Mình khôn bị
trục xuất ra khỏi chùa ngay, xem ra cũng còn có hi vọng”, trong lòng thấy
đỡ áy náy một chút.
Y đi qua vườn rau nói với nhà sư coi vườn:
– Sư huynh, tiểu tăng Hư Trúc phạm phải tự môn giới luật, sư thúc
bên Giới Luật Viện sai qua đây gánh phân tưới rau.
Nhà sư đó tên là Duyên Căn không phải là người xuất gia từ chùa
Thiếu Lâm, thành ra không theo thứ tự Huyền Tuệ Hư Không mà đặt tên.Y tư chất tầm thường, không thể lãnh hội được Thiền nghĩa đã đành mà
luyện võ cũng chẳng đi đến đâu, bình thường chỉ lo những việc lặt vặt.
Vườn rau đó rộng đến hai trăm mẫu, có đến ba bốn chục nhân công, y
thống lãnh tất cả nên cũng ra vẻ ta đây lắm, mỗi khi có tăng nhân bị Giới
Luật Viện gửi qua tưới rau thì lại càng lên mặt. Y vừa nghe Hư Trúc nói
thế, trong bụng mừng thầm, hỏi:
– Ngươi phạm phải giới gì?
Hư Trúc đáp:
– Phạm giới nhiều lắm, một lời không thể hết được.
Duyên Căn hầm hầm hỏi lại:
– Cái gì mà một lời không thể hết. Ta bảo ngươi thực thà nói minh
bạch cho ta nghe. Không nói gì ngươi chỉ là một chú tiểu không chức
phận, ví như thủ tọa La Hán Đường, Đại Ma Đường mà phạm giới, nếu
đã bị gửi xuống vườn rau, ta đều phải hỏi cho ra lẽ, có ai dám không trả
lời? Ta nhìn bản mặt ngươi, mặt mũi hồng hào thế kia, chắc là ăn vụng
đồ mặn chứ gì?
Hư Trúc đáp:
– Chính thế!
Duyên Căn nói:
– Đó ngươi coi, ta đoán là trúng liền. Xem chừng ngươi lại còn lén
uống tí rượu nữa, phải không? Nói gì thì nói, đừng có chối, qua mặt ta
không phải dễ à nghen!
Hư Trúc đáp:
– Quả có thế. Có một bữa tiểu tăng quá chén say túy lúy càn khôn,
không còn biết trời trăng gì nữa.Duyên Căn cười hềnh hệch:
– Chậc chậc chậc, mi quả là lớn mật. Hà hà, ăn uống no say, hẳn là
lòng hươu dạ vượn, tám chữ “sắc tức thị không, không tức thị sắc”ngươi
quên mất tiêu luôn, trong bụng thể nào chẳng nghĩ tới gái gẩm, phải
không nào? Chẳng phải chỉ một lần, mà phải bảy tám lần là ít, ngươi có
dám nhận không hả?
Y lên giọng hạnh họe đầy vẻ gay gắt. Hư Trúc thở dài đáp:
– Tiểu tăng đâu dám nói láo với sư huynh? Không những nghĩ tới mà
còn phạm vào dâm giới nữa kìa.
Duyên Căn vừa kinh ngạc vừa thích thú, chỉ tay chửi toáng lên:
– Chà chú tiểu này thiệt là to gan, làm bại hoại thanh danh chùa
Thiếu Lâm. Ngoài giới dâm ra ngươi còn phạm giới nào nữa? Ăn cắp ăn
trộm nữa chăng? Lấy đồ của người ta hả? Có đánh lộn với ai không? Có
cự lộn với ai không?
Hư Trúc gục đầu nói:
– Tiểu tăng lỡ giết người, mà đâu phải chỉ một người.
Duyên Căn hết sức kinh hãi, mặt biến sắc, lật đật lùi lại ba bước,
nghe nói Hư Trúc đã lỡ tay giết người, mà lại không phải chỉ một người,
trong bụng phập phồng, chỉ sợ y nổi hung lên giở quẻ với mình, chắc
không phải là địch thủ của y, cố gắng định thần, nở một nụ cười cầu tài
nói:
– Bản tự vốn dĩ võ công số một trên đời, nếu đã luyện võ, khó mà
không lỡ tay đả thương người khác được, công phu của sư đệ chắc hẳn
cũng có hạng lắm.
Hư Trúc đáp:
– Nói ra thì quả là hổ thẹn, công phu bản môn của tiểu tăng, đã hoàn
toàn bị phế rồi, hiện nay không còn chút nào nữa.
Duyên Căn mừng quá cỡ, nói luôn mồm:
– Vậy thì hay lắm, hay lắm! Thiệt là hay, thiệt là hay!
Y nghe nói bản môn công phu hoàn toàn mất hết, chắc mẩm vì y
phạm quá nhiều đại giới nên bị các trưởng lão trong chùa phế hết võ
công, liền trở mặt ngay. Y nghĩ thầm: “Dẫu y võ công bị phế thật, nhưng
biết đâu cũng còn được đôi ba phần cũng chưa dễ gì đối phó” bèn nói:
– Sư đệ, ngươi tới vườn rau làm công quả sám hối thì thiệt là hay. Có
điều qui củ nơi đây, hễ ai phạm phải giới luật, tăng nhân nào tay từng
nhuốm máu, khi làm việc thì phải xiềng chân khóa tay. Đó là qui củ từ
liệt tổ tông truyền xuống, không biết sư đệ có chịu mang không? Nếu
không chịu mang thì để ta vào bẩm với Giới Luật Viện.
Hư Trúc đáp:
– Nếu đã có qui củ như thế, tiểu tăng cũng xin tuân theo.
Duyên Căn trong bụng mừng thầm, lập tức lấy xích lấy khóa bằng
thép ra, đeo vào cho y. Chùa Thiếu Lâm mấy trăm năm nay tập luyện võ
công, không thiếu gì những nhà sư làm điều sằng bậy, mà những tăng
nhân phạm giới thường thường võ công cực cao không dễ gì chế phục.
Thành thử các nơi Giới Luật Viện, Sám Hối Đường cho chí Thái Viên Tử
đâu đâu cũng có sẵn xích khóa bằng thép. Duyên Căn thấy Hư Trúc đã
mang xiếng xích rồi, lúc đó mới yên bụng cất tiếng chửi:
– Đồ giặc con kia, xem ngươi mới ba tuổi ranh, vậy mà lớn mật làm
càn, giới luật nào cũng phạm hết ráo. Hôm nay ta không trừng trị ngươi
một phen cho ra trò thì làm sao hả tức được?Y liền bẻ một cành cây, mắm môi mắm cổ vụt Hư Trúc túi bụi. Hư
Trúc thu liễm chân khí không dám dùng nội lực đề ngự, nhường cho y
đánh, chỉ trong giây lát đầu mặt đã đầy máu tươi. Y chỉ chăm chú niệm
Phật, trên mặt không lộ vẻ gì buồn bã. Duyên Căn thấy y không tránh né,
cũng không cãi lại, nghĩ thầm: “Nhà sư này quả nhiên võ công mất hết
thật rồi, ta phải hành hạ y một trận cho đã nư mới được”.
Y nghĩ đến Hư Trúc ăn uống thịt cá ê hề, say sưa túy lúy, hoan lạc
mê tơi, còn mình đã hơn bốn chục tuổi vẫn nằm còng queo chưa được
nếm mùi trần tục bao giờ, lòng đố kỵ nổi lên bừng bừng, ra tay lại càng
thêm mạnh, đánh đến gãy ba cành cây, lúc đó mới ngừng, hầm hè nói:
– Mỗi bữa ngươi gánh đủ một trăm gánh phân tưới rau, thiếu một
gánh thì ta lấy đòn càn sắt đánh gãy cẳng, nghe chưa?
Hư Trúc bị đánh đập một trận, trong lòng lại thấy bình an, tự nhủ:
“Ta phạm nhiều giới luật như thế, quả là đáng tội, trách phạt càng nặng
thì tội nghiệt của ta càng bớt đi”. Nghĩ thế bèn cung kính đáp:
– Dạ!
Y đi đến cái chòi lấy thùng phân ra, gánh phân trộn với nước, đi dọc
theo những luống tưới rau. Việc tưới rau là một công phu cần chăm chú,
Hư Trúc không vội vàng hấp tấp, bình thản khoan thai tưới kỹ càng, đến
mãi tận khuya mới đủ một trăm thùng quay về đống củi nghẹo đầu nằm
ngủ.
Hôm sau trời chưa sáng hẳn, Duyên Căn đã đến tay đấm chân đá,
lay y tỉnh dậy, quát tháo:
– Thằng sư giặc, thằng trọc làm biếng kia! Sáng bảnh mắt mà còn
trốn nơi đây ngủ, có dậy bửa củi đi không nào?
Hư Trúc đáp:
– Dạ!Y không cãi lời, đứng lên đi chẻ củi. Cứ như thế sáu bảy ngày liền,
ban ngày bổ củi, ban đêm gánh phân, chịu biết bao nhiêu hành hạ dày
vò, trên người đầy những vết thương, còn roi thì không biết mấy trăm
mấy nghìn cái.
Sáng sớm ngày thứ tám, Hư Trúc đang bổ củi, Duyên Căn bỗng đến
gần cười hề hề nói:
– Sư huynh khổ quá nhỉ?
Y lấy chìa khóa ra mở xiếng xích cho y. Hư Trúc nói:
– Không có gì là khổ hết.
Y giơ búa lên định tiếp tục chẻ củi, Duyên Căn liền nói:
– Sư huynh không phải bửa củi nữa, mời sư huynh vô trong phòng
dùng cơm. Tiểu tăng mấy bữa rày đắc tội nhiều lắm, thiệt là đáng chết,
mong sư huynh rộng lòng cho.
Hư Trúc thấy giọng lưỡi y thay đổi hẳn, cũng hơi ngạc nhiên, ngửng
đầu nhìn lên thấy Duyên Căn mặt mày tím bầm, hiển nhiên đã bị ai đánh
cho một trận đích đáng, lại càng kỳ quái. Duyên Căn gượng cười ủ rũ nói:
– Tiểu tăng đúng là có mắt mà không biết núi Thái Sơn, đắc tội với
sư huynh, sư huynh nếu không tha thứ, tui… tui… tui chắc đại họa lâm đầu
mất.
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng mình làm mình chịu, sư huynh trừng phạt thế là phải lắm
rồi.
Duyên Căn mặt biến sắc, giơ tay lên, xoạc cẳng xuống tấn, bốp bốp
bốp bốp, vả luôn vào mặt mình bốn cái liền. Hư Trúc hết sức kinh ngạc,
hỏi lại:- Sư huynh làm thế là có ý gì đó?
Duyên Căn đột nhiên quì gập xuống, tay cầm vạt áo Hư Trúc, mếu
máo nói:
– Sư huynh nếu như không tha, tui… tui… hai mắt tui sẽ không còn
nữa.
Hư Trúc nói:
– Tôi thật không hiểu chuyện gì.
Duyên Căn đáp:
– Chỉ mong sư huynh tha thứ cho tui, không móc mắt tui ra, kiếp sau
tiểu tăng nguyện làm trâu làm ngựa, báo đáp ân đức của sư huynh.
Hư Trúc nói:
– Sư huynh nói thế là lẽ gì? Ta đòi móc mắt sư huynh hồi nào đâu?
Duyên Căn mặt mày xám ngoét nói:
– Nếu như sư huynh nhất định không tha cho tui, tiểu tăng có mắt
không tròng, thôi cũng đành tự mình làm lấy vậy.
Nói xong y giơ hai ngón tay, đâm vào mắt mình. Hư Trúc vội vàng
bắt lấy cổ tay y nói:
– Ai bức bách sư huynh phải móc mắt ra?
Duyên Căn trán tươm mồ hôi, run run nói:
– Tui… tui không dám nói, nếu nói ra, người ta… người ta giết tôi
ngay.
Hư Trúc hỏi:- Phải phương trượng chăng?
Duyên Căn đáp:
– Không phải.
Hư Trúc lại hỏi tiếp:
– Hay là thủ tọa Đạt Ma Đường? Thủ tọa La Hán Đường? Thủ tọa
Giới Luật Viện?
Tất cả Duyên Căn đều nói không phải, chỉ đáp:
– Sư huynh, tui… thiệt không dám nói, chỉ mong sư huynh tha tội cho.
Họ nói rằng, nếu tui muốn còn giữ được đôi mắt, thì chỉ cần xin sư huynh
chính miệng tha cho là được.
Nói xong lấm lét nhìn quanh, dáng điệu cực kỳ khiếp sợ. Hư Trúc
nhìn theo mắt y, thấy trong cái chòi có bốn nhà sư ngồi đó, người nào
cũng mặc tăng bào màu tro, đội mũ màu tro, quay mặt vào bên trong
không nhìn thấy mặt mũi ra sao. Hư Trúc nghĩ thầm: “Không lẽ là bốn vị
sư huynh này? Ắt hẳn họ được một nhân vật rất uy tín trong bản tự sai
đến, trừng phạt Duyên Căn về tội tác oai tác quái, hành hạ tăng nhân
phạm giới”. Y liền đáp:
– Ta không trách cứ gì sư huynh đâu, vốn đã tha thứ cho sư huynh rồi.
Duyên Căn mừng như chết đi sống lại, vội vàng quì xuống, rập đầu
bình bình. Hư Trúc cũng vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:
– Xin sư huynh đứng lên đi.
Duyên Căn đứng dậy, cung kính khép nép mời Hư Trúc vào phòng
ăn, tự tay châm trà dọn cơm, ân cần hầu hạ. Hư Trúc từ chối mãi không
xong, xem ra nếu không để cho y phục thị, Duyên Căn ắt sẽ gặp họa lớn,
đành phải để y làm gì thì làm.Duyên Căn hỏi nhỏ:
– Sư huynh có muốn uống tí rượu không? Có muốn ăn thịt chó
không? Để tiểu tăng đi kiếm cho sư huynh xơi.
Hư Trúc kinh hoảng đáp:
– A Di Đà Phật, tội thay! Tội thay! Ai lại làm thế?
Duyên Căn nháy mắt nói:
– Bao nhiêu tội nghiệt sẽ do tiểu tăng chịu hết. Cứ để mỗ sắp xếp
kiếm được cho sư huynh hưởng dụng.
Hư Trúc xua tay:
– Không được! Không được! Nhất định là không thể được.
Duyên Căn cười cầu tài nói:
– Nếu sư huynh hiềm là ở trong chùa ăn chơi không được thỏa thuê,
thì mình xuống núi một chuyến, Giới Luật Viện có hỏi đến, tiểu tăng sẽ
nói là sai sư huynh đi mua rau cỏ, che dấu mọi việc, không có chuyện gì
đâu.
Hư Trúc nghe y càng nói càng đổ đốn, lắc đầu nói:
– Tiểu tăng thành tâm sám hối những chuyện sai quấy trước kia, tuân
theo giới luật, không dám vi phạm nữa. Những lời đó sư huynh đừng bao
giờ đề cập nữa.
Duyên Căn đáp:
– Dạ!
Y trong bụng đầy vẻ hoài nghi, dường như muốn nói: “Cái thứ sư hổ
mang như ngươi lại còn làm bộ làm tịch, không biết còn tính chuyện gìnữa đây?”. Thế nhưng y không dám nhiều lời, hầu hạ đồ chay xong, lại
mời Hư Trúc đến thiền phòng của mình nằm nghỉ, luôn mấy hôm liền
ngày nào Duyên Căn cũng hết sức phục thị, cung kính không còn cách
nào hơn được nữa.
Qua ngày thứ ba, hôm ấy Hư Trúc ăn cơm trưa xong, Duyên Căn
bưng một bình trà xanh nói:
– Mời sư huynh dùng trà.
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng là người có tội, sư huynh khách khí như thế, làm sao tiểu
tăng dám nhận?
Y đứng lên đưa hai tay ra nhận bình trà. Bỗng nghe tiếng chuông
chùa đánh boong boong, liên tục không dứt, ấy là tín hiệu truyền cho toàn
thể tăng chúng trong chùa tụ tập. Trừ ngày Phật Đản hay ngày đản sinh
của Đạt Ma tổ sư ra, trong chùa xưa nay ít khi nào triệu tập toàn thể tăng
chúng. Duyên Căn lấy làm lạ mới nói:
– Phương trượng đánh chuông tụ tập chúng tăng, chúng mình cũng
phải lên Đại Hùng Bảo Điện đi thôi.
Hư Trúc đáp:
– Chính thế.
Y cùng với khoảng chục nhà sư ở vườn rau, lật đật chạy lên Đại
Hùng Bảo Điện. Chỉ thấy trên điện đã có đến hơn hai trăm tăng nhân,
ngoài ra còn vô số người khác đang đi tới. Chỉ trong chốc lát, hơn một
nghìn sư sãi trong chùa đã đến điện, chia theo bối phận mà xếp hàng, tuy
đông như thế nhưng im phăng phắc, không một tiếng động.
Hư Trúc đứng ở hàng chữ Hư, thấy các vị trưởng bối ai nấy mặt mày
trịnh trọng, trong bụng phập phồng, nghĩ thầm: “Không lẽ vì mình phạmgiới quá nặng nên phương trượng phải tập hợp tăng chúng, trừng trị mình
một phen? Cứ xem tình hình này, chắc là sẽ trục xuất mình ra khỏi môn
phái, biết làm sao đây?”.
Y còn đang băn khoăn lo lắng, đã nghe ba tiếng chuông, chư tăng
đều niệm Phật hiệu:
– Nam mô Thích Ca Như Lai Phật!
Huyền Từ phương trượng và ba vị cao tăng chữ Huyền khác, cùng
với bảy tăng nhân, từ trong hậu điện chậm rãi đi ra. Các nhà sư trong điện
ai nấy khom lưng hành lễ, Huyền Từ và bảy nhà sư trước hết lễ Phật
trong điện, sau đó chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Hư Trúc nghển cổ lên
nhìn thấy bảy nhà sư kia tuổi không còn trẻ, phục sức không giống người
trong bản tự, là những khách tăng từ nơi khác đến, trong đó có một người
mũi cao mắt xanh, râu quăn tít, thân hình cực cao, là một vị Hồ tăng.
Người ngồi thủ vị ước chừng bảy mươi, thân hình bé nhỏ nhưng hai mắt
lấp lánh hữu thần, cung cách thật là oai nghiêm.
Huyền Từ quay sang cao giọng nói với toàn thể các nhà sư chùa
Thiếu Lâm:
– Vị này đây là phương trượng của chùa Thanh Lương Ngũ Đài Sơn,
tất cả cùng tham kiến.
Mọi người nghe nói thế ai nấy giật mình, hầu hết đều biết Thần Sơn
thượng nhân uy danh cực thịnh trong võ lâm, cùng với Huyền Từ đại sư
được gọi là Hàng Long, Phục Hổ hai vị La Hán. Cứ riêng võ công mà
luận thì dường như Thần Sơn thượng nhân còn cao hơn cả Huyền Từ
phương trượng, có điều chùa Thanh Lương tương đối nhỏ hơn, trong võ
lâm địa vị kém xa chùa Thiếu Lâm, nên tiếng tăm ông ta không bằng
Huyền Từ. Mọi người nghĩ thầm: “Nghe nói Thần Sơn thượng nhân tính
tình hết sức cao ngạo, từng nói rằng đã đi tu mà còn dây dưa vào chuyện
tục vụ của võ lâm thì không khỏi rơi vào hàng hạ thừa, trước nay không
hề lai vãng giao thiệp với bản tự, hôm nay đích thân đến đây, không biếtcó chuyện gì”. Nghĩ thế nên mọi người cung kính quay về Thần Sơn
thượng nhân hành lễ.
Huyền Từ lại đưa ta ra phía sáu nhà sư còn lại, giới thiệu từng người
nói:
– Vị này là Quán Tâm đại sư của chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai
Phong, vị này là Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ ở Giang Nam, vị này
là Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm ở Lư Sơn, vị này là Dung Trí đại sư
chùa Tĩnh Cảnh ở Trường An, vị này là Thần Âm đại sư chùa Thanh
Lương ở Ngũ Đài Sơn, là sư đệ của Thần Sơn thượng nhân.
Quán Tâm đại sư bốn người đều xuất phát từ các danh sơn, cổ sát,
có điều những chùa Đại Tướng Quốc, Phổ Độ trước nay nặng về Phật
pháp mà coi nhẹ võ công, những nhà sư này tuy trong võ lâm danh tiếng
như cồn nhưng trong các chùa chiền thì tên tuổi không mấy nổi. Chúng
tăng chùa Thiếu Lâm khom lưng hành lễ, bọn Quán Tâm đại sư cũng
đứng lên đáp lại.
Huyền Từ phương trượng lại chỉ vào nhà sư người Hồ nói:
– Còn vị đại sư đây đến từ thượng quốc nhà Phật Thiên Trúc, pháp
danh Triết La Tinh.
Mọi người cùng hành lễ, nhà sư Triết La Tinh kia hoàn lễ rồi nói:
– Chùa Thiếu Lâm lớn quá, bao nhiêu là… sư già, sư vừa vừa, sư bé
bé.
Giọng tiếng Hoa của y lơ lớ, những gì “sư vừa vừa, sư bé bé” thật
nghe chẳng đâu vào đâu. Huyền Từ nói:
– Bảy vị đại sư đều là những người hữu đạo đại đức nơi cửa Phật,
hôm nay cùng giáng lâm, thực là rạng rỡ cho bản tự nên ta chiêu tập tất
cả mọi người đến chào để nghe bảy vị đại sư đây khai đàn thuyết pháp,
hoằng dương Phật nghĩa ngõ hầu tăng chúng trong chùa ai ai cũng được
ích lợi.
Thần Sơn thượng nhân đáp:
– Không dám.
Ông ta thân hình bé nhỏ nhưng tiếng nói cực lớn, chúng tăng ai nấy
kinh hãi, thế nhưng rõ ràng không phải ông ta cố ý gầm thét, cũng không
sử vận nội công cố ý dọa người mà chỉ là bình thường trời sinh ra giọng
oang oang như thế. Ông ta lại tiếp:
– Thiếu Lâm trang nghiêm bảo sát, tiểu tăng vốn ngưỡng mộ đã lâu,
sáu mươi năm trước đã từng đến đây bái sơn cầu giới, nhưng bị cự tuyệt
từ ngoài cổng. Sáu mươi năm sau quay trở lại, chùa vẫn như xưa, người
không còn cũ, thật quả bùi ngùi.
Mọi người nghe nói thế ai nấy đều chột dạ, giọng lưỡi ông ta xem
chừng có ý thù nghịch, không lẽ đến để rửa hờn sinh sự gì chăng?
Huyền Từ nói:
– Thì ra sư huynh năm xưa đã từng xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Tự
viện trên đời đâu đâu cũng cùng một nhà, hôm nay sư huynh chủ trì
Thanh Lương tự, phàm đệ tử cửa Phật không ai là không sùng ngưỡng.
Năm xưa chùa Thiếu Lâm bỏ qua không tiếp nạp, đắc tội với sư huynh,
tiểu tăng cung cẩn tạ lỗi. Thế nhưng nếu như nhân vì chuyện đó mà sư
huynh khai mở riêng một cõi trời, hoằng pháp phổ độ, lập đại công đức
cho Phật môn thì chuyện năm xưa, há chẳng phải cũng là nhân duyên cho
chuyện ngày nay hay sao?
Nói xong hai tay chắp lại, vái một cái thật sâu. Thần Sơn thượng
nhân chắp tay đáp lễ nói:
– Tiểu tăng năm xưa đến cầu giới ở quí bảo sát, cũng vì ngưỡng mộ
cái tiếng chùa Thiếu Lâm là nơi võ học uyên nguyên, đứng đầu võ lâm,nhưng quan trọng hơn cả là giới luật tinh nghiêm, xử sự công bình, ngay
thẳng.
Nói đến đây đột nhiên ông ta đảo mắt, tinh quang tỏa ra bốn bề,
ngẩng lên nhìn vào kim tượng Phật tổ, lạnh lùng nói:
– Thế nhưng có biết đâu trên đời lắm khi danh bất phó kỳ thực, nếu
biết sớm, tiểu tăng năm xưa nào có đến chùa Thiếu Lâm làm gì?
Hơn nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm ai nấy biến sắc, có điều
chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm minh, tuy phẫn nộ nhưng không ai dám
nói câu nào. Huyền Từ phương trượng hỏi lại:
– Không hiểu sao sư huynh lại nói như thế? Người trên kẻ dưới trong
tệ tự nếu có ai làm điều gì không phải xin sư huynh cứ nói rõ ra. Có tội
thì phạt mà có lỗi thì sửa, sư huynh một lời mạt sát thanh dự mấy trăm
năm qua của chùa Thiếu Lâm, há chẳng thái quá hay sao?
Thần Sơn thượng nhân nói:
– Xin hỏi phương trượng sư huynh, Phật môn tự viện, có phải là phủ
nhà quan hay sơn trại đạo tặc không?
Huyền Từ đáp:
– Tiểu tăng không hiểu hàm nghĩa của sư huynh thế nào? Xin một lời
ban cho rõ ràng hơn.
Thần Sơn nói:
– Quan phủ bắt người giam cấm, đạo tặc giữ người vòi tiền cũng là
sự thường. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm đâu phải phủ quan, cũng không
phải sơn trại, sao lại nhốt người ngoài, không cho đi? Xin hỏi sư huynh,
chùa Thiếu Lâm làm những hành vi cường hung bá đạo như thế thì có còn
được gọi là “đất lành cửa Phật” nữa hay chăng?Huyền Từ đưa mắt nhìn nhà sư người Hồ Triết La Tinh, trong bụng
cũng đã hơi hiểu nguyên do của bảy nhà sư vì sao lại đến Thiếu Lâm Tự,
bèn đáp:
– Thượng nhân chỉ trích tệ tự là “cường hung bá đạo”, bốn chữ đó có
hơi nặng đó.
Thần Sơn lại nhìn tượng Phật Như Lai nói:
– Có đức Phật ở trên, vọng ngữ ấy là trọng giới cửa Phật.
Ông ta quay sang nhìn Huyền Từ:
– Thỉnh vấn sư huynh, quí tự có cầm giữ một cao tăng Thiên Trúc
hay không? Vị sư đệ của Triết La Tinh sư huynh đây là Ba La Tinh đại
sư, có phải bị chùa Thiếu Lâm giữ lại, mấy năm nay không cho rời chùa
hay không?
Ngữ khí ông ta gay gắt, lời nói lại dồn ép hậm hực. Huyền Từ quay
sang thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch đại sư nói:
– Huyền Tịch sư đệ, xin sư đệ nói cho bảy vị cao tăng nguyên do đầu
đuôi.
Huyền Tịch đáp lời tiến lên hai bước:
– Vâng!
Ông ta chấp chưởng giới luật, xưa nay thiết diện vô tư, tăng chúng
trong chùa ai gặp ông nem nép, Hư Trúc lại càng không dám nhìn thẳng
vào ông. Chỉ nghe Huyền Tịch đại sư cao giọng nói:
– Bảy năm trước, cao tăng Thiên Trúc là Ba La Tinh sư huynh quang
lâm tệ tự, tất cả tăng chúng trong chùa từ phương trượng sư huynh trở
xuống đều cực kỳ hoan hỉ, cung kính tiếp đãi. Ba La Tinh sư huynh nói
rằng, mấy trăm năm qua, nơi nước Thiên Trúc ngoại đạo thịnh hành, Phật
pháp suy vi, kinh Phật mất mát một phần lớn, thành thử sư huynh là TriếtLa Tinh đại sư mới sai qua Trung Hoa để tìm kinh. Phương trượng sư
huynh của tệ tự mới nói: Kinh Phật của tệ bang vốn là thỉnh được từ
Thiên Trúc, ngày nay thượng quốc lại qua Đông Thổ thu kinh, quả là một
nhân duyên rất lớn, chúng ta có dịp báo đáp Phật ân, thật vinh hạnh cho
chùa Thiếu Lâm.
Phương trượng sư huynh lập tức đích thân đi cùng với Ba La Tinh sư
huynh qua Tàng Kinh Lâu, cho biết bản tự chứa rất nhiều kinh sách, đủ
cả bản dịch ba tạngkinh luật luận từ Thiên Trúc truyền qua, thêm các
tuyển thuật của mọi cao tăng Đông Thổ, có đến hơn bảy nghìn quyển,
trong đó nguyên văn tiếng Phạn không phải là ít. Nếu như có quyển nào
trùng nhau, Ba La Tinh sư huynh có thể đem về một bản, còn như nếu chỉ
có duy nhất một bộ, bản tự sẽ sai ba chục tăng nhân giúp phần sao lục
phó bản. Phương trượng sư huynh còn nói rằng, khi đem về Thiên Trúc
đường sá xa xôi, rất là khó nhọc, e rằng dễ bị thất tán. Khi Ba La Tinh sư
huynh thu kinh trở về, tệ tự sẽ phái mười tăng nhân đi theo hộ tống để
chắc chắn toàn bộ kinh điển trở về nước Phật được bình an.
Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ chắp tay nói:
– Thiện tai! Thiện tai! Việc làm đó của phương trượng sư huynh quả
thực công đức to lớn nhường nào, huy hoàng chói lọi chẳng khác gì Cưu
Ma La Thập đại sư, Huyền Trangđại sư năm xưa.
Huyền Từ khom lưng đáp:
– Cử chỉ đó của tệ tự chẳng qua chỉ là vì nghĩa mà làm, lời tán tháncủa sư huynh, quả thực hổ thẹn không dám nhận.
Huyền Tịch lại tiếp:
– Vị Ba La Tinh sư huynh đó sau đó ở ngay tại Tàng Kinh Lâu phiên
duyệt kinh sách. Huyền Tiệm sư huynh của bản tự phụng mệnh phương
trượng, đốc thúc tăng chúng cùng sao chép kinh văn, không dám trì hoãn.
Ngờ đâu bốn tháng sau, Huyền Tiệm sư huynh mới phát giác, vị Ba La
Tinh sư huynh kia mỗi lúc canh khuya, lén lút lẻn vào Tàng Kinh Lâu bí
các, đọc trộm các võ công bí cập của bản tự cất giữ.
Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí bốn người không hẹn
mà cùng kêu lên kinh ngạc. Huyền Tịch kể tiếp:
– Huyền Tiệm sư huynh liền bẩm cáo phương trượng sư huynh,
phương trượng sư huynh liền khuyên nhủ Ba La Tinh sư huynh, nói rằng
những võ công bí cập đó là do cao tăng bản tự sáng tác không phải từ
Thiên Trúc truyền qua không liên hệ gì đến Phật pháp, qui củ của bản tự
mấy trăm năm qua, không tiết lộ cho người ngoài. Ba La Tinh sư huynh
đã xem qua một phần rồi, cái đó cũng không sao, nhưng từ nay về sau xin
đừng vào bí các. Ba La Tinh sư huynh liền bằng lòng, luôn mồm xin lỗi,
bảo là không biết qui củ chùa Thiếu Lâm, từ rày sẽ không coi lén võ học
bí cập nữa.
Ngờ đâu vài tháng sau, Ba La Tinh sư huynh giả vờ bị bệnh, lại lén
đào một địa đạo, chui vào bí các coi lén. Mấy năm sau Huyền Tiệm sư
huynh mới phát giác, Ba La Tinh sư huynh đã đọc được khá nhiều võ
công trân điển của bản tự, Huyền Tiệm sư huynh ra tay ngăn trở, hai bên
giao thủ, mới phát giác Ba La Tinh sư huynh không những thâu duyệt võ
công bí cập của chùa Thiếu Lâm mà còn luyện được ba trong số bảy
mươi hai tuyệt kỹ.
Bốn nhà sư bọn Quán Tâm cùng kêu lên một tiếng kinh ngạc, đồng
thời đưa mắt nhìn Triết La Tinh, lộ vẻ trách cứ. Huyền Tịch cũng nhìn
Thần Sơn, nói:
– Phương trượng sư huynh liền triệu tập chư vị huynh đệ hàng chữ
Huyền lại thương nghị, ai ai cũng nói, phái Thiếu Lâm chúng ta tuy võ
công bình thường chẳng có gì là ghê gớm nhưng qui của liệt tổ liệt tông,
không phải đệ tử bản phái thì không truyền. Qui củ võ lâm hàng trăm
hàng nghìn năm qua, học lén võ công phái khác là chuyện đại kỵ. Hơn
nữa nếu như võ công Trung Thổ truyền qua Thiên Trúc có thể gây ra hậu
hoạn vô cùng. Hành vi của Ba La Tinh sư huynh nhất định không phải là
hành vi thanh tĩnh của đệ tử nhà Phật, không chừng y còn chưa chắc đã là
tì khưu Thích gia mà là tà đồ ngoại đạo, không những bất lợi cho phái
Thiếu Lâm, mà còn nguy hiểm cho cả võ lâm Trung Thổ, cho cả Phật
môn Thiên Trúc.
Thành thử các vị sư huynh đệ mỗi người đưa ra một chủ trương,
phương trượng sư huynh nói rằng: “Đệ tử nhà Phật chúng ta từ bi làm gốc,
chân chính lai lịch của Ba La Tinh sư huynh chúng ta không làm sao tra
xét biết được, dẫu có là tà đồ ngoại đạo thì cũng không nên đối xử quá
nghiêm nhặt, thành thử mời y ở lại bản tự mong sao Phật pháp hun đúc,
trước là mong y rồi sẽ khai ngộ chứng đạo, sau là để khỏi gây hậu hoạn.
Mấy năm nay tệ tự đối với vị Ba La Tinh sư huynh này ân cần phụng
dưỡng chu đáo, ngoài việc thỉnh y đừng rời khỏi chùa ra, không gì là
không cung kính.
Bọn Quán Tâm bốn người gật gù khen phải. Thần Sơn lại nói:
– Lời của Huyền Tịch sư huynh đây, chỉ mới là nhất diện chi từ của
phái Thiếu Lâm, chân tướng hư thực thế nào, bọn ta không thể nào biết
được. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm đem một vị cao tăng Thiên Trúc cầm
giữ lại đây, bảy năm chưa thả ấy là chuyện thực. Lão nạp nghe vị Triết
La Tinh sư huynh đây nói rằng, y ở Thiên Trúc mấy năm không nghe tăm
hơi gì của sư đệ, trong bụng bồn chồn, đã sai hai đệ tử đến chùa ThiếuLâm dò hỏi, chùa Thiếu Lâm cũng không cho họ gặp Ba La Tinh sư
huynh, việc đó có hay không?
Huyền Từ gật đầu đáp:
– Quả đúng thế. Ba La Tinh sư huynh đã học trộm võ công của tệ tự,
tệ tự không thể nào để cho y chuyển giao võ công đó lại cho người khác
được.
Thần Sơn cười rộ lên một tiếng, vang động cả mái ngói, cả đến chiếc
đại hồng chung trong điện cũng vang lên u u, hồi lâu chưa dứt. Huyền Từ
tuy thấy y thần sắc ngạo mạn nhưng cũng không nổi giận, chỉ nói:
– Sư huynh, lão nạp có một chuyện không rõ, kính thỉnh sư huynh chỉ
giáo. Ví thử có người ngoài đến chùa Thanh Lương núi Ngũ Đài, xem
trộm quyền phổ Phục Hổ Quyền của quí tự, kiếm kinh năm mươi mốt
chiêu Phục Ma Kiếm, cùng những bí áo trong Tâm Ý Khí Hỗn Nguyên
Công và Phổ Môn Trượng Pháp, sư huynh sẽ xử trí ra thế nào?
Thần Sơn thượng nhân mỉm cười nói:
– Võ công cao thấp toàn do công phu tập luyện của mỗi người, các
loại quyền kinh kiếm phổ, chỉ là thứ yếu. Nếu như có một vị anh hùng
hảo hán nào đến chùa Thanh Lương ăn trộm quyền kinh kiếm phổ của
bản tự thì lão nạp ngoài việc nhận mình vô năng còn nói được gì nữa?
Không lẽ người ta nhìn thấy võ công pháp môn của mình một cái đã đòi
lấy mạng người ta hay sao? Giam cầm người ta suốt đời hay sao? Ha ha!
Lẽ nào lại như thế được.
Huyền Từ cũng mỉm cười nói:
– Nếu như võ công điển tịch bình thường thì không nói làm gì, có
công khai truyền ra bên ngoài cũng chẳng đáng ngại. Thế nhưng nếu như
quyền kinh kiếm phổ nội dung tinh vi của quí phái mà võ lâm đều khâm
phục kính ngưỡng lại bị người ta ăn trộm đem ra ngoài, để rơi vào taynhững kẻ cuồng vọng tự đại, bụng dạ hẹp hòi, thì hậu hoạn biết sao mà
lường được, đâu phải là phúc cho võ lâm.
Mấy câu đó tuy ngữ khí bình hòa, nhưng tám chữ “cuồng vọng tự
đại, bụng dạ hẹp hòi”, hiển nhiên nói đến Thần Sơn thượng nhân. Mọi
người ai cũng hiểu rằng Huyền Từ nói thẳng Thần Sơn thượng nhân có
bụng bất lương, sở dĩ đến đòi Ba La Tinh chẳng qua cũng chỉ là có ý dòm
dỏ võ công bí cập của phái Thiếu Lâm mà thôi. Thần Sơn nghe thế, mặt
biến sắc, mấy câu của Huyền Từ quả trúng tim đen của ông ta.
Năm xưa Thần Sơn thượng nhân đến chùa Thiếu Lâm cầu sư thì chỉ
mới mười bảy tuổi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm Linh Môn thiền sư
tiếp kiến xong, thấy ông ta tính tình phách lối, ra vẻ ta đây, cái tôi lớn
quá, khí lượng hẹp hòi cố chấp không thể là người truyền pháp được, còn
như nếu chỉ là một tăng nhân tầm thường ắt sẽ không chịu dưới ai, ngày
sau thể nào cũng gây ra hậu hoạn nên đã khéo léo từ chối. Thần Sơn mới
bỏ đi đầu nhập chùa Thanh Lương, chỉ mới ba mươi tuổi đã ăn đứt mọi
người, lên làm phương trượng. Thần Sơn thượng nhân thiên tư dĩnh ngộ,
kiến thức hơn người, quả là một kỳ tài trong võ lâm, có điều võ học uyên
nguyên chùa Thanh Lương kém xa chùa Thiếu Lâm, quyền kinh kiếm
phổ cũng như nội công các loại cất giữ trong chùa có hạn, phần lớn thô sơ
giản lậu, không phải là đệ nhất công phu. Bốn mươi năm qua, nội công
ông ta càng lúc càng thâm, đã sớm vượt qua mức độ võ học ghi trong điển
tịch các đời trước của chùa Thanh Lương truyền xuống, thế nhưng quyền
kiếm công phu xem ra dường như chưa đủ, mỗi khi nghĩ đến bảy mươi hai
tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trong lòng vừa ngưỡng mộ vừa căm tức.
Hôm đó việc khéo làm sao, sư đệ ông ta là Thần Âm đưa một nhà sư
người Hồ Thiên Trúc đến Thanh Lương tự, người đó chính là Triết La
Tinh. Triết La Tinh quả thực là đệ tử nhà Phật, tại Thiên Trúc thuộc loại
cao thủ đệ nhất, động thủ với người bị đánh bại, từng nghe chùa Thiếu
Lâm bên Đông Thổ có bảy mươi hai tuyệt kỹ liền nghĩ ra một kế, sai
người có trí nhớ cực tốt là sư đệ Ba La Tinh sang chùa Thiếu Lâm, mượn
tiếng xin kinh nhưng âm mưu ăn trộm võ công. Ngờ đâu hành tàng của
Ba La Tinh bị người ta biết được, chùa Thiếu Lâm giữ lại không cho về.Triết La Tinh sai đệ tử đến chùa Thiếu Lâm hỏi thăm nhưng cũng không
gặp được Ba La Tinh, thành thử Triết La Tinh đành phải tự mình đi qua,
mong được gặp sư đệ, tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm không ăn trộm được
thì cũng đành chịu vậy thôi.
Y qua Trung Thổ rồi đi thẳng tới chùa Thiếu Lâm, trên đường gặp
một lão tăng, tay cầm thiết trượng, đưa mắt nhìn y dò xét. Triết La Tinh
không hiểu tình trạng võ lâm Trung Nguyên, cử tưởng hễ nhà sư nào biết
võ đều là sư chùa Thiếu Lâm, vừa mới gặp đã thấy khó chịu, liền quát
cho nhà sư kia nhường đường, ngôn ngữ cực kỳ vô lễ. Lão tăng kia ăn
miếng trả miếng, nói qua nói lại, hai bên đánh nhau. Đấu đến hơn một
giờ sau, không phân cao thấp, nội công mỗi người đều có sở trường, binh
khí lại cũng khắc chế lẫn nhau, nên chẳng mèo nào cắn mỉu nào.
Lại đấu thêm một hồi nữa, trời đã sẩm tối, lão tăng kia liền đòi
ngưng lại nói:
– Này tên phiên tăng kia, ngươi võ công cao lắm, có điều tính nết
nóng nảy, thiếu hàm dưỡng.