Thiên Long Bát Bộ (Bản Mới)

Chương 79 - Khước Thí Vấn Kỷ Thời Bả Si Tâm Đoạn

trước
tiếp

Ai ơi tự hỏi lòng mình,

Bao giờ mới dứt nợ tình được đây?

*

**

Cưu Ma Trí biết rằng ra tay đấu vơi chú tiểu này, thắng cũng chẳng hay ho gì mà thua thì thiên hạ cười chê nhưng ở vào tình thế bắt buộc, không thể nào tránh né được, lập tức múa chưởng đánh ra, chưởng phong có tiếng vụt vụt véo véo, tư thế thủ pháp, chính là công phu thượng thừa của Bát Nhã chưởng.

Vi Đà Chưởng là võ công căn bản của phái Thiếu Lâm, đệ tử bái sư nhập môn, bài đầu tiên học là La Hán Quyền, bài thứ hai là Vi Đà Chưởng. Bát Nhã chưởng là chưởng pháp tối tinh áo, từ Vi Đà Chưởng học lên đến Bát Nhã chưởng, tuần tự nhi tiến, thông thường cũng phải mất ba bốn chục năm công phu. Bát Nhã chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, luyện rồi sẽ không bao giờ hết, chưởng lực càng luyện càng mạnh mẽ, chiêu số càng luyện càng tinh thuần, quả đúng là không bờ không bến.

Từ khi phái Thiếu Lâm thành môn lập phái, lấy Vi Đà Chưởng đấu với Bát Nhã chưởng thực chưa từng có bao giờ. Hai bên nông sâu tinh thô, đúng là hai thái cực của phái Thiếu Lâm, một nhà sư bậc tiền bối không bao giờ lại dùng Bát Nhã chưởng để đấu với một đệ tử mới học Vi Đà Chưởng, dù cho thầy trò mớm chiêu dạy dỗ, nếu sư phụ đã dùng Bát Nhã chưởng thì đệ tử ít lắm cũng phải dùng các loại Đạt Ma chưởng, Phục Hổ chưởng hay Như Lai Thiên Thủ Pháp… ra hầu tiếp.

Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương ào tới, hơi nghiêng người tránh qua, song chưởng tống ra chính là một chiêu trong Vi Đà Chưởng, tên gọi Sơn Môn Hộ Pháp, chiêu thức tuy bình bình nhưng nội lực cực kỳ hồn hậu.

Cưu Ma Trí thân hình lưu chuyển, sử dụng hai môn Tụ Lý Càn Khôn, Vô Tướng Kiếp Chỉ nhắm đối phương điểm tới. Hư Trúc vừa lách qua, Cưu Ma Trí đã đoán trước được vị trí y di động, Đại Kim Cương quyền đánh ra, nghe bình một tiếng trúng ngay vai đối phương, Hư Trúc loạng choạng lùi về sau hai bước. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

-Tiểu sư phụ đã phục chưa?

Y liệu rằng chưởng đó có sức vỡ bia tan đá, ắt đánh gãy vụn xương vai của Hư Trúc rồi, ngờ đâu Hư Trúc có Bắc Minh Thần Công hộ thể nên chỉ cảm thấy đầu vai đau ê ẩm rồi lại tiến lên, song chưởng vung ra từ trái sang phải đánh chéo xuống một chiêu tên gọi Hằng Hà Nhập Hải, hai tay chứa đầy chân khí, thật chẳng khác gì một trận hồng thủy dâng tràn, cuồn cuộn đổ vào biển cả.

Cưu Ma Trí thấy y chịu mình đấm một quyền mà như không hay biết, song chưởng đánh tới lực đạo hồn hậu như thế, trong lòng không khỏi kinh dị ngầm, vung chưởng gạt qua, thân hình đi theo, hai chân đá liên hoàn, trong nháy mắt đã đá luôn sáu cái đều trúng ngực Hư Trúc. Đó chính là một trong các tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Như Ảnh Tùy Hình Thoái, đá một cái thì chân sau như bóng với hình cũng ra theo, cú đá thứ hai vừa từ ảnh biến thành hình, chân bên kia lại như ảnh tiếp tục đá tới, đến cái thứ sáu Hư Trúc mới bật ngửa ra.

Cưu Ma Trí không để cho y kịp thở, liên tiếp tung ra hai chỉ, vụt vụt hai tiếng, chính là Đa La chỉ pháp. Hư Trúc xoạc cẳng xuống tấn đấm lại một cái, sử dụng chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền. Chiêu đó quyền pháp cực kỳ thô thiển, thế nhưng có Tiểu Vô Tướng Công phụ vào khiến cho ngón Đa La chỉ có sức xuyên kim phá thạch kia phải tiêu giải giữa chừng.

Cưu Ma Trí có ý phô trương, sử dụng Đa La chỉ xong, lập tức biến chiêu, một tay chém xuống, tuy chỉ tay không nhưng sử dụng chính là Nhiên Mộc Đao Pháp. Lộ đao pháp này khi luyện thành rồi, nếu chém vào một khúc gỗ khô chín chín tám mươi mốt đao liền, đao không làm khúc gỗ tổn hại nhưng phát xuất hơi nóng, có thể làm gỗ bốc cháy được. Năm xưa, sư phụ của Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư luyện được công phu này, từ khi ông viên tịch rồi, trong chùa không còn ai biết nữa. Nhiên Mộc đao pháp là phép sử đơn đao, khác hẳn với Hỏa Diễm đao pháp dùng lăng hư chưởng lực mà Cưu Ma Trí sử dụng ở Thiên Long tự.

Hiện giờ y dùng chưởng lực thay giới đao, hung hăng chém chặt, toàn là võ công của phái Thiếu Lâm. Một đao của y bổ xuống, nghe bộp một tiếng, tay phải Hư Trúc trúng chiêu, kêu lên:

-Nhanh thật!

Quyền bên phải liền đánh ra, vừa đến giữa chừng thì cánh tay đã trúng đòn. Chân lực Cưu Ma Trí dồn vào cạnh bàn tay nên y chặt xuống không khác gì đao thép, có thể đứt đầu đứt tay, thế nhưng tay phải Hư Trúc trúng liên tiếp hai lần mà vẫn như không, còn dội lại khiến tay y ngâm ngẩm đau.

Cưu Ma Trí kinh ngạc hết sức, trong lòng nghĩ ngay: “Gã tiểu hòa thượng này dù cho có luyện được Kim Chung Tráo, Thiết Bố Sam thì cũng không thể nào chịu nổi trọng thủ của ta, như thế là cớ gì? À, đúng rồi, chắc là bên trong tăng y gã có mặc bảo giáp hộ thân”. Y nghĩ đến việc đó, ra chiêu chỉ tấn công vào mặt, Đại Trí Vô Định Chỉ, Khứ Phiền Não Chỉ, Tịch Diệt Trảo, Nhân Đà La Trảo, liên tiếp sáu bảy môn công phu Thiếu Lâm, chộp vào mắt vào cổ họng Hư Trúc.

Cưu Ma Trí tấn công một loạt cực kỳ nhanh nhẹn như thế khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống, không sao chống đỡ được, chỉ còn nước thoái lui liên tiếp, đến Vi Đà Chưởng cũng không còn sử dụng nổi, chỉ đấm ra hết quyền nọ đến quyền kia duy nhất một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm, nhưng mỗi quyền đều ép cho Cưu Ma Trí phải lùi lại nửa thước, nhưng chính vì cách xa nửa thước đó mà những chiêu số kỳ diệu của Cưu Ma Trí không trúng vào người y được.

Chỉ trong khoảnh khắc, Cưu Ma Trí đã sử dụng mười sáu môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm, quần tăng xem mà hoa cả mắt, nghĩ thầm: “Người này tự xưng kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ bản phái, quả nhiên không phải là nói khoác”. Thế nhưng Hư Trúc chỉ dùng một môn La Hán Quyền để ứng phó, đối phương tấn công nhanh như điện nhưng cũng không biết cách nào biến chiêu, cứ Hắc Hổ Thâu Tâm rồi lại Hắc Hổ Thâu Tâm, trước sau có một chiêu cứ đánh ra mãi, quyền pháp vụng về, dẫu bọn võ sư đầu đường xó chợ trông thấy cũng phải bật cười.

Thế nhưng kình lực chứa trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm không ngừng gia tăng, hai người mỗi lúc một rời xa thêm, thủ chỉ thủ trảo của Cưu Ma Trí giờ đây đã cách Hư Trúc đến một thước.

Cưu Ma Trí cũng đã thấy được nội lực trong quyền của Hư Trúc có ngầm chứa Tiểu Vô Tướng Công mà xem ra còn cao hơn mình nhiều, có điều không biết sử dụng nên uy lực không phát huy được. Lại thấy Hư Trúc đánh ra một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, đột nhiên thủ chưởng trầm xuống hai tay chộp ra đã nắm được quyền của Hư Trúc, chính là tuyệt kỹ Long Trảo Công của phái Thiếu Lâm, tay trái nắm ngón tay út của Hư Trúc, tay phải cầm ngón tay cái, vận lực bẻ ngược lên, toan bẻ gãy hai ngón tay của Hư Trúc.

Hư Trúc bị nắm hai ngón tay rồi, không còn có thể đánh ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, ngón tay đau nhói lên, tự nhiên sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, cổ tay xoay một vòng, lật ngược tay lại nắm luôn cổ tay Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí vừa chộp trúng, đang mừng thầm, không ngờ tay đối phương lại sinh ra một luồng lực đạo quái dị, bắt ngược lại tay mình. Hiểu biết về võ học của y cực kỳ uyên bác nhưng lại không biết lai lịch của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trong bụng chột dạ, thấy cổ tay mình như bị giữ trong hai gọng kềm không cách nào giằng ra được nữa. Cũng may Hư Trúc hoảng hốt chỉ mong tự cứu mình không biết phản công, thành thử cứ khư khư giữ lấy cổ tay Cưu Ma Trí, chỉ mong sao y không còn bắt tay mình được nên không biết nắm vào mạch môn. Chỉ trong khoảnh khắc, nội lực Cưu Ma Trí đã phát sinh, y hơi giựt tay về rồi nhả tới, toan đánh rách hổ khẩu của Hư Trúc.

Bàn tay Hư Trúc tê đi, sợ đối phương thoát ra được rồi sẽ lại giở những thủ pháp lợi hại khác, vội vàng vận kình, Bắc Minh chân khí trong người như sóng triều dâng lên. Võ công y và Đoàn Dự vốn cùng một gốc nhưng chưa từng học cách hút nội lực người khác, thành thử tuy đã nắm được cổ tay Cưu Ma Trí rồi nhưng không hút được nội lực của y. Dẫu thế, Cưu Ma Trí ba lần vận kình vẫn không thoát ra được, trong bụng sợ hãi, tay phải thành chưởng phạt xéo xuống cổ Hư Trúc. Y trong cơn nguy cấp không còn nghĩ mình phải sử dụng võ công phái Thiếu Lâm, cú chặt ngang này là võ học của Thổ Phồn.

Hư Trúc vội vàng dùng tay trái sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải, chưởng kế tiếp của Cưu Ma Trí vừa tới, Hư Trúc liên tiếp sử dụng lục dương chưởng chặn đứng thế đánh ào ào như gió táp mưa sa đối phương.

Lúc này hai người đứng sát nhau, đến tiếng thở của nhau cũng còn nghe thấy, khi đánh ra phải cong tay thu chỏ, mỗi chưởng chỉ ra chừng bảy tám tấc. Thế nhưng tuy gần thật, chưởng lực cũng vẫn mạnh phi thường. Cưu Ma Trí chưởng thanh vù vù, quần tăng ai cũng thấy lực tạt vào buốt như dao, khí lạnh phả vào người tưởng như đang ở trên đỉnh núi cao, gió bốn bề thổi tới. Những nhà sư bối phận tương đối thấp của chùa Thiếu Lâm dần dần cảm thấy chịu không nổi, ai nấy lùi lại sau, đứng sát vào tường. Những cao tăng hàng chữ Huyền không sợ chưởng lực tấn công nhưng cũng phải vận nội lực để chống lại.

Hư Trúc từ khi giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng rất nhiều, bao nhiêu biến hóa đều thuộc như cháo chảy, lại thêm xem những đồ phổ trong thạch thất dưới hầm cung Linh Thứu nên đã hiểu hết những áo diệu trong đó. Có điều y chưa từng vận dụng để cùng người khác quá chiêu đối sách, lại ít tập luyện, vừa ra tay đã gặp ngay một cao thủ số một số hai trên đời, chưởng pháp tuy cao, nội lực tuy mạnh nhưng sử dụng chỉ được một hai thành mà thôi.

Cưu Ma Trí chưởng lực mỗi lúc một sát phạt, còn Hư Trúc thì chỉ mong tự bảo lấy thân nên chiêu nào cũng đều thế thủ. Y không có ý định bắt giữ Cưu Ma Trí, thấy đối phương võ công gấp mười mình, đơn chưởng tấn công đã lợi hại như thế, nếu để y dùng cả hai tay thì mình thể nào cũng táng mạng ngay tại chỗ thành ra sống chết nhất định giữ cổ tay Cưu Ma Trí không chịu buông để y không thể nào xuất chiêu bằng tay trái được.

Ý niệm đó của Hư Trúc tuy ngớ ngẩn thật nhưng lại thật hữu ích. Tay trái Cưu Ma Trí bị nắm rồi, y không còn có thể sử dụng song chưởng liên hoàn biến hóa, chiêu số hỗ tương đắp đổi. Chưởng pháp Hư Trúc vốn dĩ không thuần thục thành ra dùng một tay lại thấy thuận hơn dùng cả hai tay. Một người hai tay mất một, mười thành chỉ còn được năm, còn người kia công phu chỉ hai ba nay lại lên được thành bốn năm. Thời gian đốt một nén hương rồi, hai người trao đổi đã mấy trăm chiêu nhưng vẫn vào thế ngang ngửa.

Huyền Từ, Huyền Độ, Thần Sơn, Quán Tâm, Triết La Tinh… các cao tăng thấy Cưu Ma Trí tay trái bị nắm chặt, dãy dụa không thoát được, còn Hư Trúc dùng tay trái nên ở vào thế yếu, chỉ còn đỡ gạt, không cách gì đánh trả, hai người đều ở vào thế bên phải mạnh, bên trái yếu.

Lối đánh như thế, các cao tăng tuy biết nhiều hiểu rộng nhưng trong đời cũng chưa từng thấy bao giờ. Các cao tăng Thiếu Lâm lại càng vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, Hư Trúc từ nhỏ lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, hạ sơn mới nửa năm, không biết học ở đâu ra những tài nghệ kinh người như thế đem về, thấy y nắm được kẻ địch rồi nhưng không chế ngự được, chưởng nào chưởng nấy của Cưu Ma Trí đều có thể đứt gân gãy xương, chứa đầy uy lực nội gia chân khí, nếu trúng phải thể nào cũng tắt thở chết ngay.

Lúc này trong chùa Thiếu Lâm, dù bất cứ ai nếu muốn giúp đỡ Hư Trúc, chỉ cần dùng một ngón tay đã có thể giết chết Cưu Ma Trí được rồi, thế nhưng cuộc đấu vốn không phải để giết chết đối phương, mà là để bảo vệ thanh danh phái Thiếu Lâm, nếu có ai tiến lên giết Cưu Ma Trí thì ắt sẽ tổn hại lớn đến tiếng tăm của ngôi chùa. Quần tăng ai nấy thấp thỏm lo âu, lòng bàn tay toát mồ hôi chăm chú quan sát hai người.

Lại trao đổi thêm trên trăm chiêu nữa, nỗi sợ trong lòng Hư Trúc lắng xuống dần, chỗ tinh diệu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng càng lúc càng nhiều, mười chiêu thì thủ ngự chín nhưng cũng trả lại được một. Y tấn công một chiêu, Cưu Ma Trí dĩ nhiên phải chống đỡ, thế công không khỏi hơi lúng túng. Tuy chênh lệch chỉ một chút đỉnh nhưng kẻ đi lên, người đi xuống, càng lúc càng có lợi cho Hư Trúc. Lại thêm thời gian ăn một bữa cơm nữa, Hư Trúc đã có thể mười chiêu tấn công lại được ba, quần tăng Thiếu Lâm thấy y dần dần ra khỏi khốn cảnh không khỏi mừng thầm.

Từ khi Cưu Ma Trí xuất hiện, Thần Sơn thượng nhân trong lòng nảy sinh hai tâm tình đối nghịch, một mặt muốn cho Cưu Ma Trí tiêu diệt uy phong phái Thiếu Lâm, mặt khác lại không muốn phiên tăng dị bang đến Trung Thổ hoành hành như chỗ không người, nhưng khổ nỗi chính mình cũng không đủ sức chế phục y. Đến khi Cưu Ma Trí cùng Hư Trúc hai người vào thế giằng co không ai thắng, y lại mong hai người lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận, tuy ông ta không còn hi vọng có được tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm từ Ba La Tinh nhưng bí quyết Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền đã nhớ trong lòng rồi, trở về chùa sẽ nghiên cứu thêm, một người thông minh trí tuệ như y sẽ có thể thêm thắt biến hóa, yếu chỉ tuy giống nhưng chiêu thức bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, biến thành tuyệt kỹ của chùa Thanh Lương, mà mình thì sẽ thành tị tổ sáng tạo ra ba môn này.

Về phần Ba La Tinh cũng có một ý nghĩ khác. Trong thời gian qua, y nghiên tập Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền, thấy bên trong vô cùng áo diệu. Hôm nay sư huynh Triết La Tinh đến đây đón y ra khỏi chùa, nghĩ những gì mình nhớ được chưa đầy một nửa thành võ công phái Thiếu Lâm, trở về cố hương tuy vui mừng thật nhưng thấy trong chùa cất giữ nhiều đồ quí giá như thế, một khi đã ra khỏi sơn môn rồi từ nay sẽ không còn bao giờ được quay trở lại lòng không khỏi bùi ngùi. Đến sau y lại thấy Hư Trúc đấu với Cưu Ma Trí, hai người nội lực hùng mạnh, chiêu số lạ kỳ, hoàn toàn không mò ra được chút đầu mối nào. Y có biết đâu Hư Trúc sử dụng không phải võ công phái Thiếu Lâm, lại tưởng một thanh niên tăng nhân trong chùa mà đã ghê gớm đến thế, mình vạn lý bôn ba, có cái duyên may được ra vào Tàng Kinh Các, thế mà chỉ nhớ được có vài bộ kinh thư đem về, tuy chẳng đến nỗi vào trong núi ngọc mà về tay không nhưng những gì mình lấy được không phải là thứ quí trọng thực sự, rồi đây e rằng cả đời sẽ ngày đêm âu sầu tiếc nuối.

Võ học cũng không khác gì cầm kỳ thư họa, Phật học, Dịch lý là những công phu phức tạp áo diệu, càng đi sâu vào nghiên cứu, càng thích thú, nếu đã thấy trên đời có người hơn mình một mức thì bằng trăm mưu ngàn kế nhất định phải xem cho bằng được. Ba La Tinh là một cao tăng Thiên Trúc rất có tài trí, khi mới đến chùa Thiếu Lâm thì chỉ có ý trộm võ kinh để đem về làm rạng rỡ cho võ học Thiên Trúc, đến khi thấy võ học chùa Thiếu Lâm bao la như trời như biển, đâm ra lưu luyến không muốn rời, chẳng còn tính chuyện về nước nữa.

Đến lúc này Hư Trúc đã tăng lên được thế công bốn phần, tuy vẫn còn phải chống đỡ nhiều, tấn công ít nhưng vì nội lực đã phát huy, những chiêu số độc địa của phái Tiêu Dao cũng hùng hổ đem ra sử dụng. Những người đứng xem chung quanh ai nấy không khỏi lạnh người, nghĩ thầm: “Nếu như ta trúng phải một đòn ắt sẽ chết một cách cực kỳ thảm khốc”. Xưa nay chưa bao giờ trong đệ tử tăng tục chùa Thiếu Lâm có một người đàn bà nào, bao nhiêu đời đều chỉ có một đường dương cương, nhưng vì là Phật môn võ công, ra tay chỉ nhằm chế địch chứ không phải để giết người, hoàn toàn tương phản với chiêu số của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Huyền Từ và những cao tăng Thiếu Lâm thấy Hư Trúc sử dụng võ công đi dần vào chỗ âm hiểm độc địa, không khỏi cau mày.

Cưu Ma Trí liên tiếp vận cường kình ba lần, muốn thoát ra khỏi bàn tay phải của Hư Trúc, để sử dụng tuyệt kỹ Hỏa Diễm Đao, thế nhưng bên mình càng mạnh bao nhiêu thì chỉ lực của đối phương cũng tăng chừng ấy, trong cơn gấp gáp, sát ý nổi lên, tay trái vù vù vù đánh ra ba chưởng, Hư Trúc vung tay hóa giải, Cưu Ma Trí rụt tay về, khom người xuống, rút phắt trong vớ ra một con dao găm, đâm thẳng vào đầu vai Hư Trúc.

Sở học của Hư Trúc toàn là tay không sách chiêu, đột nhiên ánh sáng lóe lên, chủy thủ đã đâm tới, không biết cách nào chống đỡ được, vội vàng vung tay toan chộp luôn cổ tay phải Cưu Ma Trí. Chảo đó chính là cầm nã thủ pháp trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, vừa nhanh vừa chuẩn, ba ngón tay vừa chạm vào cổ tay y, ngón tay cái và ngón tay út đã cụp lại. Ngay lúc đó nội lực từ chưởng tâm Cưu Ma Trí nhả ra, chiếc dao găm liền phóng tới. Hư Trúc hai tay đang bận nắm hai cổ tay y, xoẹt một tiếng chủy thủ đã cắm ngập vào đầu vai, suốt đến tận cán.

Những nhà sư đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu lên, bọn Quán Tâm không nhịn được lắc đầu, nghĩ bụng: “Với thân phận như Cưu Ma Trí, đấu không thắng được một thanh niên tăng nhân của chùa Thiếu Lâm thì thanh danh cũng đã đổ xuống sông xuống biển rồi, huống hồ lại dùng binh khí đánh lén nữa thì còn ra thể thống gì?”.

Đột nhiên từ trong đám đông vọt ra bốn nhà sư, thanh quang lấp loáng, bốn thanh trường kiếm cùng đâm vào yết hầu Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư cùng nhảy ra, cùng xuất thủ, cả bốn thanh kiếm cũng cùng một phương vị, kiếm pháp cực nhanh lại cực kỳ độc địa. Cưu Ma Trí vận lực vào hai chân muốn nhảy ngược trở lại nhưng nhún mình rồi mà Hư Trúc vẫn đứng trơ trơ không chuyển động chút nào, lại thấy cổ họng đau nhói, bốn mũi kiếm đã đụng vào da thịt. Chỉ nghe bốn nhà sư cùng quát lên:

-Đồ mặt dầy không biết thẹn, mau nạp mạng đi.

Thanh âm trong trẻo, dường như tiếng đàn bà. Hư Trúc quay đầu nhìn, thì ra tứ tăng chính là Mai Lan Cúc Trúc, mặc tăng y chùa Thiếu Lâm đầu đội tăng mạo chùm hết làn tóc xanh, nên kinh ngạc vạn phần, kêu lên:

-Đừng hại mạng y!

Bốn cô gái cùng đáp:

-Vâng!

Tuy nhiên mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

-Phái Thiếu Lâm không chỉ cậy đông thắng ít mà còn ám tàng xuân sắc, mấy trăm năm thanh danh, hóa ra là thế, hôm nay ta mới được biết đến.

Hư Trúc trong lòng hoảng hốt, không biết phải làm sao bèn buông tay Cưu Ma Trí. Cúc Kiếm liền rút con dao cắm trên vai y, máu tươi vọt ra. Cô gái vội vàng bỏ kiếm xuống lấy trong túi ra chiếc khăn tay buộc vết thương cho Hư Trúc, còn mũi kiếm ba nàng Mai Lan Trúc vẫn kề vào yết hầu Cưu Ma Trí. Hư Trúc bàng hoàng hỏi:

-Các… các cô đấy ư? Sao lại đến đây?

Cưu Ma Trí chưởng bên phải vòng một vòng, thần công Hỏa Diễm Đao tung ra, keng keng keng ba tiếng, ba thanh trường kiếm gãy ra làm đôi. Ba cô gái kinh hãi nhảy vọt về sau một trượng, nhìn lại trên tay, trường kiếm người nào cũng chỉ còn một khúc. Cưu Ma Trí ngẩng mặt lên cười một hồi dài, quay sang nói với Huyền Từ:

-Phương trượng đại sư có còn nói gì được nữa hay không?

Huyền Từ mặt xám ngoét nói:

-Nguyên do ở bên trong, lão nạp quả không biết gì cả, để rồi sẽ tra hỏi ngọn ngành, theo giới luật bản tự mà xét xử. Quốc sư và chúng vị sư huynh đường xa mệt nhọc, xin mời vào khách xá dùng cơm chay.

Cưu Ma Trí đáp:

-Đã vậy thì xin phiền một bữa.

Nói xong y chắp tay cảm tạ, Huyền Từ cũng đáp lại một lễ. Cưu Ma Trí hai tay tạt sang hai bên, ám vận Hỏa Diễm Đao thần công, xoẹt xoẹt xoẹt xoẹt bốn tiếng, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc cùng hoảng hốt kêu lên, tăng mạo trên đầu không có gió mà rơi xuống, để lộ làn tóc mượt đen nhánh, mấy trăm sợi tóc theo mũ bay lả tả xuống.

Cưu Ma Trí hiển thị một chút công phu, vừa để khoe tài cắt đứt tóc mà không đả thương người, lại muốn cho mọi người thấy rõ bốn người là con gái khiến cho tăng chúng chùa Thiếu Lâm không còn cãi vào đâu được.

Huyền Từ mặt mày lại càng khó coi, chỉ nói:

-Chúng vị sư huynh, xin mời!

Thần Sơn, Quán Tâm, Dương Thiên, Dung Trí… các nhà sư thấy trong chùa Thiếu Lâm đột nhiên có nữ tử mặc tăng trang, ai nấy hết sức kinh ngạc, không nói gì Thiếu Lâm tự là một danh sơn cổ sát trước nay tiếng tăm danh vọng, mà dù chỉ là một cái miếu nhỏ cũng không đâu lại bỏ qua một hành vi phạm giới trầm trọng đến thế, bây giờ nghe Huyền Từ mời, đều đứng dậy. Tri khách tăng phân biệt đưa vào khách xá, dọn đồ chay lên.

Những khách ngoài chưa ra khỏi đại điện, Mai Kiếm đã nói:

-Chủ nhân, chị em tiểu tì tự ý hạ sơn đến đây hầu hạ, chủ nhân đừng trách nhé!

Lan Kiếm cũng nói:

-Gã thầy chùa Duyên Căn vô lễ với chủ nhân, chị em tiểu tì đã tẩn cho y một trận đích đáng, có thế y mới biết phải quấy, ôi, có ngờ đâu gã sư Tây Vực kia lại đả thương chủ nhân.

Hư Trúc “A” lên một tiếng, bấy giờ mới hiểu ra, Duyên Căn trước phách lối sau sun xoe, thì ra đã bị bốn chị em này bức bách, nếu như thế bọn họ giả làm sư, ẩn thân trong chùa cũng đã lâu, nhịn không nổi giậm chân nói:

-Phá rối thật! Phá rối thật!

Y quì xuống trước tượng Phật Như Lai nói:

-Đệ tử kiếp trước tội nghiệt thâm trọng, kiếp này lại không giữ được thanh qui giới luật, gây cho bản tự họa hoạn vô cùng, cúi xin phương trượng trách phạt thật nặng.

Cúc Kiếm nói:

-Chủ nhân đi tu làm gì cho khổ, tất cả bọn mình quay về Phiêu Miểu Phong đi, ở đây ăn toàn rau đậu, chẳng có chút mỡ màng, lại bị người ta quản thúc, chẳng thú vị chút nào!

Trúc Kiếm chỉ vào Huyền Từ:

-Này ông sư già kia, nếu ông mà nói gì đắc tội với chủ nhân thì bốn chị em ta không nể nang đâu nhé, ông khôn hồn thì phải biết giữ gìn.

Hư Trúc liên tiếp quát tháo chặn lại:

-Các ngươi không được vô lễ, sao lại vào trong chùa mà phá rối? Thôi! Im ngay.

Bốn chị em vẫn mỗi người một câu, ríu ra ríu rít, coi những vị cao tăng chẳng vào đâu. Quần tăng Thiếu Lâm lại càng kinh ngạc, thấy bốn cô gái giống hệt nhau, xinh đẹp vui tươi, hoạt bát lanh lợi lại vô pháp vô thiên không biết họ gốc gác ra thế nào.

Thì ra bốn cô gái là con của một nhà nghèo dưới chân Đại Tuyết Sơn, bà mẹ trước đã có bảy đứa con, lại mang thai sinh tư, không cách gì nuôi nổi, khi đẻ xong đem bỏ ngoài tuyết. Khi đó Đồng Mỗ xuống núi hái thuốc nghe tiếng trẻ khóc, gặp bốn đứa hài nhi mặt mũi giống hệt nhau, thấy thú vị liền đem về cung Linh Thứu nuôi cho khôn lớn, dạy cho võ công.

Bốn cô gái trước nay chưa hề xuống Phiêu Miểu Phong nên đâu có biết gì về nhân tình thế thái, vai vế lớn nhỏ? Cả đời họ chỉ nghe lời một mình Đồng Mỗ, đến khi Hư Trúc lên làm chủ nhân cung Linh Thứu thì họ lại hết tâm hết sức hầu hạ. Có điều Hư Trúc tính tình ôn hòa khiêm tốn, không như Đồng Mỗ đối xử với thuộc hạ dùng uy quyền thành thử họ không sợ Hư Trúc mà chỉ nghĩ rằng miễn sao trung thành tận lực với chủ nhân, chứ không hiểu làm náo loạn như thế có gì là không phải.

Huyền Từ nói:

-Ngoại trừ huynh đệ hàng chữ Huyền ra, tất cả lui về tăng phòng. Tuệ Luân ở lại.

Chúng tăng đồng thanh đáp ứng, theo thứ tự trên dưới một hàng đi xuống. Chỉ trong chốc lát, trong Đại Hùng Bảo Điện chỉ còn hơn ba chục lão tăng hàng chữ Huyền, sư phụ Hư Trúc Tuệ Luân, thêm Hư Trúc và tứ nữ Linh Thứu Cung.

Tuệ Luân quì ngay xuống trước Phật đài nói:

-Đệ tử giáo huấn không có phương pháp đến nỗi tọa hạ có một đứa nghiệt đồ như thế này, xin phương trượng phạt nặng.

Trúc Kiếm cười khúc khích nói:

-Cái thứ tài nghệ dở òm như ông mà đòi làm sư phụ chủ nhân ta ư? Đêm hôm trước ở trong rừng tùng, người bịt mặt khoèo chân ông ngã tám lần chính là nhị tỉ của ta đó. Ta bảo nè, công phu ông dở ơi là dở.

Hư Trúc kêu khổ ngầm: “Chết rồi! Chết rồi! Đến cả sư phụ ta mà bọn họ cũng còn chọc ghẹo nữa”. Lại nghe Lan Kiếm tiếp:

-Ta nghe Duyên Căn nói ông là sư phụ của chủ nhân nên đến thử ông chơi đấy thôi. Tam muội hôm nay không nói ra chắc là suốt đời ông chẳng biết người đã đẩy mình ngã bổ chững tám lần là ai đâu! Ha ha! Hi hi! Thích thật! Thích thật!

Huyền Từ nói:

-Huyền Tiệm, Huyền Quí, Huyền Niệm, Huyền Tịnh bốn vị sư đệ, xin đứng ra bảo bốn nữ thí chủ không được vọng ngôn vọng động.

Bốn lão tăng khom lưng đáp:

-Vâng!

Quay sang nói với bốn cô gái:

-Phương trượng pháp chỉ, xin bốn vị không được nói bậy làm càn.

Mai Kiếm cười nói:

-Bọn ta cứ muốn nói bậy làm càn, ông làm gì được nào?

Bốn nhà sư cùng nói:

-Vậy xin đắc tội!

Tăng bào vung lên, hai tay mỗi người chia ra chộp vào cổ tay bốn cô gái, Huyền Tiệm sử dụng Long Trảo Công, Huyền Quí sử dụng Hổ Trảo Thủ, Huyền Niệm sử dụng Ưng Trảo Công còn Huyền Tịnh thì dùng Thiếu Lâm Cầm Nã Thập Bát Đả, chiêu số tuy có khác nhưng đều là võ công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Trong bốn nàng ngoài Cúc Kiếm ra, trường kiếm đều đã bị Cưu Ma Trí đánh gãy rồi. Cúc Kiếm múa trường kiếm hộ vệ ba người chị em, Mai Lan Trúc ba nàng cũng múa kiếm gãy, theo kiếm quang của Cúc Kiếm tấn công ra.

Hư Trúc kêu lên:

-Vứt kiếm mau! Vứt kiếm mau! Không được động thủ!

Bốn cô gái nghe chủ nhân quát tháo đều ngạc nhiên, binh khí trong tay không còn dám sử dụng toàn lực nữa. Võ công bốn nàng vốn dĩ kém xa các cao tăng hàng chữ Huyền, vừa mất tiên cơ, lập tức bị bốn nhà sư nắm được ngay. Mai Kiếm dãy mạnh một cái nhưng không thoát phụng phịu nói:

-Bọn ta nghe lời chủ nhân mới nể nang các ông đấy thôi! Ui da! Đau quá, sao ông nắm mạnh thế?

Lan Kiếm cũng kêu lên:

-Giặc trọc con, có bỏ ta ra không nào?

Người nắm được cô ta là Huyền Quí đại sư, râu tóc bạc phơ, đã ngoài bảy mươi rồi, vậy mà cô ta gọi là “giặc trọc con”. Trúc Kiếm cũng nói:

-Ông không buông ta ra, ta gọi vợ ông ra chửi đó!

Cúc Kiếm nói:

-Ta nhổ nước miếng đó!

Cô gái phun một bãi nước bọt vào Huyền Tịnh, Huyền Tịnh nghiêng qua tránh, tay bóp lại, Cúc Kiếm đau đến kêu “Ui da! Ui da” liên tiếp. Đại Hùng Bảo Điện vốn là cõi Phật trang nghiêm, bỗng chốc thành nơi oanh kêu yến réo ầm ỹ cả lên.

Huyền Từ nói:

-Bốn vị nữ thí chủ chớ có nóng nảy, nếu còn nói nữa, bốn vị sư đệ hãy điểm vào huyệt câm của họ.

Bốn nàng nghe nói điểm vào á huyệt đều cảm thấy không thú vị gì, dẩu môi không dám nói gì thêm. Bọn bốn vị đại sư Huyền Tiệm liền buông tay họ ra đứng ở một bên giám thị. Huyền Từ nói:

-Hư Trúc, ngươi đem mọi chuyện đã xảy ra, từ đầu chí cuối nói cho mọi người nghe, không được giấu giếm gì cả.

Hư Trúc đáp:

-Vâng! Đệ tử thành tâm bẩm cáo.

Y kể lại được phương trượng sai đi gửi thiếp ra sao, gặp được Huyền Nạn. Tuệ Phương chúng tăng như thế nào, rồi vô tình lạng quạng làm sao giải được ván cờ Trân Lung để thành chưởng môn phái Tiêu Dao, Huyền Nạn làm sao chết vì chất kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử đánh lừa cho phá giới ăn phải đồ mặn, đến khi gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ, vào trong hầm sâu hoàng cung nước Tây Hạ để rồi thành chủ nhân Linh Thứu Cung.

Y từng trải bao nhiêu chuyện rắc rối, mồm miệng lại vụng về, mất bao nhiêu là thời giờ, ấp a ấp úng mãi mới xong, tuy rằng lôi thôi dài dòng, nói không rõ ràng minh bạch nhưng không dấu một chút gì, kể cả chuyện cùng “người trong mộng” phạm vào dâm giới dưới hầm băng, cũng lắp bắp kể lại.

Các cao tăng càng nghe cành kinh ngạc, những gì gã tiểu đệ tử này gặp phải sao khéo léo lạ lùng, trong võ lâm trước nay chưa hề nghe thấy. Các nhà sư mới rồi chứng kiến y đấu với Cưu Ma Trí không còn hoài nghi gì những lời y vừa thuật lại, đều nghĩ thầm: “Nếu không phải y được ba đại cao thủ phái Tiêu Dao truyền thần công, lại không được học thần kỹ nơi vách núi cung Linh Thứu thì làm sao có thể chống trả được với tuyệt thế thần thông của quốc sư nước Thổ Phồn?”.

Hư Trúc kể xong, quay sang tượng Phật lạy phục xuống khấn:

-Đệ tử chướng ngại vô minh còn nặng, bụi trần chưa rửa sạch, vừa gặp phải ngoại ma thì đã không còn giữ nổi, liên tiếp phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, dâm giới, phản bội bản môn, học luyện võ công bàng môn ngoại đạo, lại khiến cho bốn vị cô nương vào trong chùa, làm bại hoại thanh danh bản tự, tội đại ác cực, chồng chất hết chuyện nọ chuyện kia, chỉ cầu xin lòng từ bi của Phật tổ, từ bi của phương trượng.

Y càng nghĩ càng đau lòng, nhịn không nổi khóc rống lên. Mai Kiếm và Cúc Kiếm cùng hứ hứ mấy tiếng, định lên tiếng khuyên y chẳng cần làm hòa thượng nữa. Huyền Tiệm, Huyền Tịnh hai người lập tức vươn tay, lẩn dưới ống tay áo nắm luôn cổ tay hai cô gái. Hai nàng không biết làm sao, lời đến cửa miệng lại rụt ngay về, lườm hai vị lão tăng, trong bụng chửi thầm: “Thầy chùa chết toi, đồ sư trọc thối”.

Huyền Từ trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:

-Chúng vị sư huynh, sư đệ, những gặp gỡ của Hư Trúc phen này quả không phải tầm thường, có liên quan đến thanh dự hàng nghìn năm của bản tự, một mình bản tọa không thể nào quyết định được, xin các vị cùng góp ý.

Huyền Sinh dõng dạc nói:

-Khải bẩm phương trượng, lỗi lầm của Hư Trúc tuy lớn thật nhưng công lao cũng không phải ít. Nếu trong lúc nguy cấp không có y ngăn chặn gã Phiên tăng thì bản tự còn mặt mũi nào mà đứng trong võ lâm? Tên Phiên tăng kia bảo chúng ta giải tán, chạy qua đầu nhập các chùa Thanh Lương, Phổ Độ, thật là kỳ sỉ đại nhục toàn do Hư Trúc cứu vãn. Cứ như ý kiến tiểu tăng, bắt y sám hối những sai quấy khi trước để tiêu trừ tội nghiệp, sau đó cho vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ kỹ, từ nay không ra khỏi chùa, cũng không tham gia ngoại vụ như thế là đủ.

Đưa vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ học là một chức vụ cực kỳ tôn vinh của chư tăng, nếu không đạt tới cảnh giới võ công cực cao thì không có tư cách. Trong số hơn ba chục cao tăng hàng chữ Huyền, được vào nơi đây chỉ có tám người, ngay cả Huyền Sinh cũng chưa được vào. Ông ta đề nghị đưa Hư Trúc vào Đạt Ma Viện thực sự không phải là trừng trị mà là tưởng thưởng rất cao.

Thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch nói:

-Cứ như trình độ võ công của y thì vào Đạt Ma Viện cũng được rồi. Thế nhưng sở học của y lại là võ công bàng môn, trong Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm có thể dung được bàng môn cao thủ hay không? Huyền Sinh sư đệ đã nghĩ tới chi tiết này hay chưa?

Câu đó nói ra, quần tăng đều thấy ý kiến của Huyền Sinh xem chừng không ổn. Huyền Sinh nói:

-Thế theo sư huynh thì phải làm sao?

Huyền Tịch nói:

-Hừm, của ta ư! Ta thực không biết phải làm sao. Hư Trúc có công mà cũng có lỗi, có công thì thưởng, có tội thì phạt. Bốn cô nương này vào trong bản tự, mặc giả làm sư, không phải do chủ ý của Hư Trúc, mình nên nói rõ cho Cưu Ma Trí, Thần Sơn các vị đó hay, thế là xong. Họ tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao, chúng ta không thẹn với lòng, dẫu người ngoài có nghĩ xằng đoán bậy, thì cũng chẳng cần phải phí lời. Thế nhưng Hư Trúc bỏ môn phái đi học võ công bàng môn, chùa Thiếu Lâm e rằng không thể nào còn dung chứa y được nữa.

Ông ta nói vậy là có ý trục xuất Hư Trúc ra khỏi chùa. “Phá môn xuất giáo” là cách trừng trị nặng nhất của cửa Phật, quần tăng nghe nói thế, ai nấy đều thảng thốt. Huyền Tịch lại tiếp:

-Hư Trúc đã liên tiếp phạm những giới luật như thế, đúng ra là phải phế hết công phu rồi trục xuất sơn môn. Thế nhưng võ công của y vốn đã bị người ta hóa tán hết rồi, trên người y hiện giờ không phải là công phu bản môn nữa, chúng ta không có quyền phế bỏ.

Hư Trúc mếu máo cầu khẩn:

-Phương trượng, các vị thái sư bá, thái sư thúc, xin vì chư Phật mà từ bi khai ân, cho đệ tử có được một phen cải quá tự tân. Dù trách phạt cách nào, đệ tử cũng cam tâm nhận chịu nhưng đừng đuổi đệ tử ra khỏi chùa.

Các vị lão tăng người nọ nhìn người kia, không biết phải làm thế nào, nghe Hư Trúc nói thế, biết y thực sự thành khẩn sám hối. Những gì gọi là “bỏ đao đồ tể xuống là sẽ có đường thành Phật” hay “bể khổ không bờ, quay đầu là bến”, cửa Phật rộng mở, phổ độ chúng sinh dẫu là kẻ cùng hung cực ác, chấp mê bất ngộ cũng còn phải trăm phương nghìn kế điểm hóa cho y, huống chi là kẻ biết mình lầm đường quay về, lại là đệ tử xuất gia từ tấm bé, không lẽ không cho y một đường hướng thiện hay sao?

Chùa Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, xưa nay giảng về “đốn ngộ”, dù cho chửi Phật mắng tổ cũng không cấm kỵ, không như bên Luật Tông lúc nào cũng nghiêm thủ giới luật. Hôm nay nếu như không có người ngoài ở đây, chúng tăng thấy y thành tâm sám hối cũng không nỡ nào đuổi ra khỏi sư môn. Thế nhưng việc trước mắt không những liên can đến bọn Hồ tăng Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, mà cao tăng nhiều chùa lớn của Trung Nguyên như Thanh Lương, Phổ Độ cũng có mặt, nếu đối với Hư Trúc trách phạt không nghiêm, thiên hạ sẽ nói rằng chùa Thiếu Lâm bênh nhau, coi trọng môn hộ, không phân phải trái, chỉ nói chuyện võ công mà không cần biết đến giới luật, những lời đàm tiếu đó lưu truyền ra bên ngoài thì bao nhiêu thanh danh của chùa Thiếu Lâm đều đổ xuống sông xuống biển.

Ngay lúc đó một vị lão tăng được hai đệ tử đỡ hai bên, từ hậu điện chậm rãi đi vào, chính là Huyền Độ. Ông ta bị chỉ lực của Cưu Ma Trí đả thương, quay về tăng phòng nghỉ ngơi nhưng vẫn quan tâm đến kết cục hai bên giao đấu ở ngoài đại điện nên sai đệ tử chạy đi chạy lại nghe ngóng, đến khi nghe Cưu Ma Trí đã tạm thời bị đẩy lui, quần tăng chất vấn Hư Trúc có chiều kết tội nên vội bảo người đỡ vào Đại Hùng Bảo Điện nói:

-Phương trượng, cái mạng già của ta là do Hư Trúc cứu. Ta có một câu không biết có nói được không?

Huyền Độ tuổi tác đã cao, phẩm đức vốn được cả chùa kính trọng, Huyền Từ liền đáp:

-Mời sư huynh ngồi xuống, rồi từ từ nói chuyện sau, để khỏi động đến vết thương.

Huyền Độ đáp:

-Cứu mạng ta thì chẳng nói làm gì. Thế nhưng trước mắt có sáu chuyện lớn còn chưa giải quyết xong, nếu giữ Hư Trúc trong chùa thì rất có lợi, còn như đuổi y ra khỏi môn phái, cái đó… đó.. thật… khó.

Huyền Tịch nói:

-Sư huynh nói đến sáu việc trọng đại, việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa đẩy lui xong, việc thứ hai là việc Ba La Tinh ăn trộm võ kinh của bản tự, việc thứ ba là việc tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đòi làm võ lâm minh chủ. Còn lại ba việc nữa xin sư huynh chỉ điểm cho.

Huyền Độ thở dài một tiếng nói:

-Tính mạng của Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn bốn vị sư đệ.

Ông vừa nhắc đến tên của bốn nhà sư, chúng tăng ai nấy chắp tay niệm Phật:

-A Di Đà Phật!

Mọi người nhận định rằng Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong, còn Huyền Thống, Huyền Nạn là do Đinh Xuân Thu làm hại, hai kẻ đối đầu này quá mạnh, đại cừu chưa báo xong mà kẻ giết Huyền Bi là ai thì vẫn chưa biết được. Ai nấy chỉ biết Huyền Bi bị trúng phải Vi Đà Chử nơi ngực mà chết, Vi Đà Chử là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, chính là công phu Huyền Bi khổ luyện mấy chục năm. Trước đây họ vẫn cho rằng do nhà Mộ Dung Cô Tô sử dụng “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” để hạ độc thủ, về sau bọn Tuệ Phương, Tuệ Kính thuật lại việc kết giao với đám Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên thì mới rõ họ Mộ Dung không có ý thù nghịch với võ lâm, mà bọn thủ hạ nhà Mộ Dung cũng không phải là phường gian hiểm.

Vừa rồi nhìn thấy thân thủ của Cưu Ma Trí, y biết sử dụng mọi tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm thì chiêu Vi Đà Chử kia dĩ nhiên có thể do y đánh, hoặc còn người khác cũng biết thì quả không có gì lạ.

Bốn vị cao tăng chết dưới tay ba kẻ đối đầu, chính thế mà Huyền Độ bảo là ba việc trọng đại. Huyền Từ nói:

-Lão nạp giữ chức phương trượng bản tự, thế nhưng trong cả sáu việc đại sự này, chẳng việc nào có thể giải quyết ổn thỏa, quả thực không còn mặt mũi nào. Có điều võ công trong người Hư Trúc, đều là võ công phái Tiêu Dao, không lẽ… không lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm…

Ông nói đến đây, lời nói ngập ngừng đứt quãng nhưng quần tăng ai ai cũng hiểu, Hư Trúc võ công tuy cao thật nhưng là của bàng môn lẽ nào lại sai y đi giải quyết đại sự, người hiểu biết đều thấy rằng chuyện phái Thiếu Lâm do người khác làm, không dựa vào sức phái Tiêu Dao thì không xong, chẳng hóa ra nhẹ thể phái Thiếu Lâm hay sao? Dẫu rằng mình có che dấu thật toàn vẹn, người ngoài không biết nhưng đây toàn là cao tăng, lẽ nào lại làm hành động lừa dối kẻ khác?

Trong nhất thời các nhà sư ai nấy đều yên lặng. Qua một hồi sau, Huyền Độ mới nói:

-Thế theo ý kiến phương trượng thì phải làm sao?

Huyền Từ đáp:

-A Di Đà Phật! Chúng ta tiếp thừa y bát của liệt tổ liệt tông, hôm nay gặp phải chuyện khó khăn vô cùng to lớn, theo ý lão nạp thì cứ theo chính đạo mà hành sự, thà làm hòn ngọc vỡ chứ không làm viên ngói lành. Nếu mọi người tận tâm tận lực bảo vệ được danh dự chùa Thiếu Lâm thì cũng là nhờ lòng từ bi của chư Phật, phúc ấm của tổ tông, còn như ma thịnh đạo suy, lão nạp cùng chư huynh đệ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự, miễn sao hỏi lòng không thẹn, không vi phạm chính lý của đạo Phật là đủ rồi. Chùa Thiếu Lâm trong nghìn năm qua tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít, thiện duyên thâm hậu, dẫu có nhất thời bị tỏa chiết thì cũng không đến nỗi một chốc thành tro, không bao giờ còn có ngày hưng phục.

Câu nói đó tuy thật là bình hòa nhưng đầy chính khí. Mọi người ai nấy khom lưng nói:

-Cao kiến của phương trượng, xin tuân theo pháp chỉ.

Huyền Từ quay sang Huyền Tịch nói:

-Sư đệ, xin sư đệ chấp hành giới luật của bản tự.

Huyền Tịch đáp:

-Tuân lệnh!

Ông quay sang nói với tri khách tăng:

-Ra mời quốc sư nước Thổ Phồn và các vị cao tăng.

Huyền Độ, Huyền Sinh mọi người đều ngậm ngùi, tuy có ý muốn bảo hộ Hư Trúc nhưng phương trượng đã nói vậy, phải coi đại nghĩa là trọng, không thể để quyền nghi nhất thời hủy đi tiếng tăm giới luật của nhà chùa. Mọi người ai nấy đều rõ ràng, nếu tha tội cho Hư Trúc thì tuy thắng mà là bại, còn như theo công đạo mà chấp pháp thì dẫu bại cũng còn vinh. Phương trượng đã nhắc đến ” dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự” ấy là ý đã quyết một trận mất còn, không còn cầu may, Hư Trúc chịu tội cách nào không còn là việc quan trọng nữa.

Hư Trúc cũng thấy việc đã xong không còn có thể thu hồi, có khóc lóc van xin cũng vô ích, nghĩ thầm: “Mọi người ai cũng lấy thanh danh bản tự làm trọng, ta mình làm mình chịu, không thể để trước mặt người ngoài tỏ ra hèn nhát, khiến cho họ coi thường sư sãi chùa Thiếu Lâm”.

Một hồi sau, Cưu Ma Trí, Thần Sơn, Triết La Tinh tất cả cùng vào đại điện. Chuông đánh lên, hàng chữ Tuệ, hàng chữ Hư, hàng chữ Không quần tăng theo vai vế đi vào, đứng ở hai bên. Huyền Từ chắp tay nói:

-Xin thưa với quốc sư nước Thổ Phồn và liệt vị sư huynh: hàng chữ Hư của chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc, thân phạm sát giới, dâm giới, huân giới, tửu giới tứ đại giới luật, lại đi học võ công phái khác, nhận làm chưởng môn bàng môn. Thủ tọa Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm Huyền Tịch, cứ theo đúng luật mà xét xử, không được nể nang.

Cưu Ma Trí và bọn Thần Sơn nghe nói thế ai nấy thật ngoài dự liệu, thấy Mai Lan Cúc Trúc mặc giả làm sư lại tưởng Hư Trúc chỉ lớn mật làm càn, oa tàng đàn bà con gái trong chùa, phạm vào dâm giới mà thôi, ngờ đâu phương trượng còn tuyên bố tội trạng còn nhiều hơn thế nữa. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ đến tuổi trung niên mới xuất gia nên rất thông đạt nhân tình thế thái, lại thêm tính tình hiền hòa, thích giúp đỡ người khác, liền nói:

-Phương trượng sư huynh, bốn vị cô nương đây eo thẳng mi cau, lưng nhô cổ nhỏ, rõ ràng là xử nữ giữ mình như ngọc, vừa rồi khi ra tay đấu với quốc sư lại sử dụng công phu Đồng Trinh Công, người học võ chúng ta thấy là biết ngay. Hư Trúc tiểu sư huynh hành vi không kiểm soát cũng có thể dung tha được, hai tiền “dâm giới” e rằng có nặng quá không?

Huyền Từ nói:

-Đa tạ sư huynh vạch rõ. Hư Trúc phạm vào dâm giới, không phải chỉ ở bốn cô đây. Hư Trúc gia nhập phái khác, làm chủ nhân cung Linh Thứu trên Thiên Sơn Phiêu Miểu Phong, bốn cô này là hộ chủ thị tì của cung Linh Thứu, lén vào bản tự, cốt ý phụng sự tân chủ, Hư Trúc không hề hay biết. Chùa Thiếu Lâm canh gác không kỹ càng, quả thật đáng xấu hổ, không thể vì thế mà bắt tội y.

Đồng Mỗ võ công cao cường nhưng xưa nay chưa hề đặt chân vào Trung Thổ, chỉ giao thiệp với bàng môn dị sĩ, chúa động chúa đảo nơi biên cương hải ngoại thành thử cái tên Linh Thứu Cung, quần tăng mới nghe thấy lần đầu. Chỉ có Cưu Ma Trí ở Thổ Phồn là đã từng nghe đến, nhưng cũng không biết rõ ngọn ngành. Đạo Thanh đại sư nói:

-Nếu đã như thế, người ngoài không tiện xen vào.

Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, và Thần Sơn thượng nhân vốn dĩ không có thiện cảm với chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy Huyền Từ xử sự công bằng, không hề lấp liếm, việc Hư Trúc phạm vào giới luật người ngoài vốn không hay biết nhưng ông vẩn nói toạc ra trước mặt mọi người, trong bụng không khỏi khâm phục.

Huyền Tịch tiến lên một bước dõng dạc hỏi:

-Hư Trúc, những tội phương trượng kể ra, ngươi có nhận không? Có gì biện bạch không?

Hư Trúc đáp:

-Đệ tử thừa nhận, tội nặng nghiệt lớn, không có gì để biện bạch, xin cam chịu thái sư thúc trừng phạt.

Quần tăng trong lòng hoang mang đưa mắt nhìn Huyền Tịch, không hiểu ông sẽ xử phạt thế nào. Huyền Tịch lại lớn tiếng nói:

-Hư Trúc phạm vào sát, dâm, huân, tửu tứ đại giới luật, phạt đánh một trăm côn ngay tại đây. Hư Trúc, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc nghe nói chỉ đánh một trăm gậy, so với những đại giới mình đã phạm thực không nặng chút nào, vội đáp:

-Đa tạ thái sư thúc từ bi, Hư Trúc tâm phục.

Huyền Tịch lại tiếp:

-Ngươi chưa được phương trượng và thụ nghiệp ân sư bằng lòng, dám học võ nghệ bàng môn, tội phạt phế hết võ công phái Thiếu Lâm, từ nay trở đi, không còn là đệ tử Thiếu Lâm nữa. Ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc lòng đau như cắt, biết rằng không còn có thể van xin gì được nữa đành nói:

-Đệ tử quả là đáng chết, thái sư thúc xử vậy thật là công chính.

Những nhà sư phái khác mới rồi thấy y kịch đấu với Cưu Ma Trí, dùng Vi Đà Chưởng và La Hán Quyền đại hiển thần uy, vì không ai biết võ công chân chính của y ra sao nên đâu biết rằng y sử dụng không phải chỉ của Thiếu Lâm mà thôi. Cưu Ma Trí tự xưng một thân tinh thông đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ, thực ra chỉ là chiêu thức bên ngoài, còn nội công chân chính của phái Thiếu Lâm y biết rất ít. Hư Trúc khi đấu với y sử dụng Tiểu Vô Tướng Công, y dĩ nhiên biết rõ, thế nhưng còn Bắc Minh chân khí, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ các loại cao thâm, y lại tưởng đó cũng là võ công phái Thiếu Lâm, nghe Huyền Tịch nói phế trừ võ công Thiếu Lâm của Hư Trúc, trong bụng khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng: “Các ngươi tự xô đổ bức trường thành, trừ cho ta cái mối lo tâm phúc, thực hay biết mấy”. Giác Hiền, Đạo Thanh mấy vị cao tăng thì lại suýt xoa trong lòng: “Tiếc quá! Tiếc quá!”.

Huyền Tịch lại tiếp:

-Ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao, làm chủ nhân cung Linh Thứu Phiêu Miểu Phong, thì phải xuất giáo hoàn tục, không còn là đệ tử cửa Phật nữa, từ nay trở đi ngươi không còn là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Ta xử như thế, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc không cha không mẹ, xuất gia từ khi ấu thơ, lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, yếu chỉ Phật pháp tuy lãnh ngộ không nhiều nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi duy nhất mà y từng an thân lập mệnh, nay bị trục xuất khỏi chùa, buồn bã không sao kể xiết nước mắt chảy như mưa, phục xuống nức nở, nghẹn ngào nói:

-Chùa Thiếu Lâm từ phương trượng đại sư trở xuống, chư vị thái sư bá, thái sư thúc, chư vị sư bá, sư thúc cho đến ân sư, ai ai cũng đối với đệ tử ân nghĩa thâm trọng, đệ tử chẳng ra gì, phụ lòng chư vị giáo huấn.

Đạo Thanh đại sư nhịn không nổi lại nói giúp:

-Phương trượng sư huynh, Huyền Tịch sư huynh, cứ như lão nạp thấy, vị tiểu Phất huynh này đi vào đường mê nhưng biết quay đầu lại, quả thực có bụng hối cải, sao không cho y một dịp đổi mới?

Huyền Từ đáp:

-Sư huynh chỉ điểm phải lắm. Thế nhưng cửa Phật rộng mở, nơi nào mà chẳng có chỗ dung thân? Hư Trúc, chúng ta phạt ngươi phá môn xuất tự nhưng không phải vì có ác ý muốn ngươi không còn theo đuổi việc tu hành. Trang nghiêm bảo sát trong thiên hạ, nào phải chỉ có hàng nghìn hàng vạn thôi đâu? Nếu quả ngươi vẫn có bụng qui y tam bảo, sau khi hoàn tục rồi vẫn còn có thể đến xin thế phát được cơ mà! Cũng mong ngươi được vào nơi danh tự, bái được cao tăng làm thầy, hoằng dương thệ nguyện, thanh tĩnh thân tâm sớm thành chính đẳng chính giác. Còn như sau này không xuất gia làm sư nữa, ở nhà làm một cư sĩ chuyên cần tu tập lục độ vạn hạnh thì cũng có thể chứng đạo, thành đại bồ tát, thành Phật được.

Ông nói đến khúc sau cùng, ngôn ngữ từ hòa khẩn thiết, có ý khuyên bảo ân cần. Hư Trúc lại càng đau lòng, hành lễ nói:

-Những điều giáo huấn của phương trượng thái sư bá, đệ tử không bao giờ dám quên.

Huyền Tịch lại nói:

-Tuệ Luân nghe đây!

Tuệ Luân tiến lên mấy bước, chắp tay quì xuống. Huyền Tịch nói:

-Tuệ Luân, ngươi thân là nghiệp sư của Hư Trúc, thường ngày dạy dỗ chểnh mảng, cái hại của tam độc lục căn không giảng giải cho kỹ càng, cho nên mới gây ra cái họa hôm nay. Tội ngươi đáng phạt ba mươi côn, vào diện bích sám hối trong Giới Luật Viện ba năm. Ngươi có tâm phục không?

Tuệ Luân run run đáp:

-Đệ tử… đệ tử tâm phục.

Hư Trúc vội nói:

-Thái sư bá, đệ tử xin được lãnh thay cho sư phụ ba mươi trượng đòn.

Huyền Tịch gật đầu nói:

-Nếu thế, Hư Trúc chịu tổng cộng cả thảy một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử, lấy côn ra đây. Lúc này Hư Trúc không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa, gia hình không được nhẹ tay. Sau khi ra khỏi chùa rồi, Hư Trúc là chưởng môn phái khác, không còn dính dấp gì với bản tự nữa, người trên kẻ dưới trong bản phái phải giữ lễ kính với y.

Bốn tên chưởng hình đệ tử nhận lệnh đi ra, không bao lâu quay về đại điện, mỗi người cầm trong tay một cây gậy bằng gỗ đàn. Huyền Tịch vừa toan ra lệnh trừng phạt, đột nhiên một nhà sư ở ngoài hấp tấp đi vào trong điện, trong tay cầm một xấp danh thiếp dày, hay tay dâng lên giao cho Huyền Từ nói:

-Khải bẩm phương trượng, quần hùng Hà Sóc bái sơn.

Huyền Từ liếc qua danh thiếp, phải đến trên ba chục chiếc, trên đó đều là những anh hùng hào kiệt thành danh phương Bắc, đột nhiên cùng đến một lượt, không hiểu có chuyện gì. Chỉ nghe bên ngoài chùa tiếng người nói xôn xao, quần hào đã đến cổng rồi. Huyền Từ bèn nói:

-Huyền Sinh sư đệ, xin hãy ra ngoài nghinh tiếp.

Ông lại tiếp:

-Liệt vị sư huynh, khách quí quang lâm, việc thanh lý môn hộ của bản phái thôi xin hoãn lại một chút để khỏi khinh mạn người từ xa đến.

Ông nói rồi đứng lên đi ra phía màn cửa ngoài đại điện. Chẳng bao lâu, mấy chục hào kiệt được Huyền Sinh và tri khách tăng dẫn đường đã đến trước đại điện. Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người tuy đều là những cao tăng cần tu Phật pháp, nhưng dẫu sao cũng là hảo thủ võ học, gặp được đồng đạo võ lâm, đều cảm thấy có sự gần gũi quyến luyến, lúc này gặp bao nhiêu là anh hùng hào kiệt đến đây, tuy đang gặp lúc thanh lý môn hộ, trong lòng buồn bực nhưng cũng cảm thấy phấn chấn tinh thần.

Quần tăng phái Thiếu Lâm ra ngoài hành đạo, bằng hữu bốn phương rất đông, những người đến đây không ít đã từng kết giao với những nhà sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ, chắp tay chào nhau, vui vẻ thăm hỏi chuyện cũ, nghênh đón vào trong đại điện, dẫn kiến với phía Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Thần Sơn, Quán Tâm… Những người đó đều có tiếng tăm, quần hào dẫu chưa quen biết nhưng cũng ngưỡng mộ từ lâu.

Huyền Từ đang định hỏi xem có chuyện gì mà đến đây, tri khách tăng lại tiến vào bẩm báo, có mấy chục nhân vật võ lâm ở Sơn Đông, Hoài Nam đến bái sơn. Huyền Tiệm liền đi ra ngoài đón vào đại điện. Một hán tử đen đủi dõng dạc nói:

-Bang chủ Cái Bang mời chúng tôi đến xem trò vui, thế chính ông ta chưa đến hay sao?

Một gã khác giọng nhừa nhựa nói:

-Lão huynh việc gì phải nóng ruột? Đã đến đây muốn xem trò vui không lẽ còn sợ mất phần hay sao? Đương nhiên bọn tép riu chúng mình phải đến trước, còn vai chính thì đến muộn muộn một chút đã sao.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

-Chư vị không hẹn mà cùng giá lâm tệ tự, chùa Thiếu Lâm quả thực vinh hạnh xiết bao. Có điều tiếp đãi không được chu đáo, xin rộng lòng tha thứ cho.

Quần hào cùng đáp:

-Không dám! Không dám! Phương trượng chẳng việc gì phải khách sáo.

Đến lúc đó những hào khách có giao hảo với quần tăng chùa Thiếu Lâm đã nói cho biết lý do tại sao họ lại đến. Ai nấy đều nhận được anh hùng thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền nói rằng Cái Bang và phái Thiếu Lâm trước nay cùng đứng đầu võ lâm Trung Nguyên, hiện nay Trang Tụ Hiền mới đảm nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, có ý muốn suy cử một vị võ lâm minh chủ, cùng lập ra những qui luật để tiện cho các đồng đạo tuân theo, định rằng ngày rằm tháng sáu sẽ đến chùa Thiếu Lâm để thương lượng cùng Huyền Từ phương trượng. Những người nhận được anh hùng thiếp thấy ngôn ngữ tuy khiêm tốn nhưng hầu như nói rõ ra rằng minh chủ võ lâm không phải là ta thì còn ai vào đây? Trang Tụ Hiền đến chùa Thiếu Lâm hiển nhiên muốn dùng võ công đánh bại quần tăng, áp đảo uy phong mấy trăm năm qua của ngôi chùa.

Trong thiếp cũng không mời quần hùng đến chùa Thiếu Lâm tham dự, thế nhưng nhân vật võ lâm nào chẳng hiếu động, đại sự Cái Bang và Thiếu Lâm tranh hùng á, ai ai chẳng muốn chính mắt được xem, đời nào chịu bỏ qua? Thành thử mọi người không hẹn mà cùng tấp nập đi tới. Khi đó trong điện câu cửa miệng của mọi người đều là:

-Trang Tụ Hiền là ai thế?

Ai cũng hỏi nhưng không ai có câu trả lời. Huyền Từ phương trượng và các sư huynh sư đệ đã hội thương mấy hôm liền, ai cũng đoán ngầm chắc Trang Tụ Hiền chính là Kiều Phong hóa danh, với võ công cơ mưu của y, muốn giết những trưỏng lão thù nghịch với y trong Cái Bang, đoạt lại chức vụ bang chủ không phải là khó khăn gì, nếu không Cái Bang và chùa Thiếu Lâm trước nay giao hảo, bỗng nhiên sao lại giở quẻ như thế này?

Kiều Phong đại chiến tại Tụ Hiền Trang thiên hạ ai ai cũng biết, y lại đổi tên thành Trang Tụ Hiền chính là ỡm ờ nói lên cái lai lịch của mình.

Chẳng bao lâu, anh hùng các vùng Lưỡng Hồ, Giang Nam cũng đều tới nơi, rồi tới Xuyên Thiểm, Lưỡng Quảng cũng lục tục kéo đến. Quần hùng Nam Bắc xa nhau hàng nghìn dặm, vậy mà chưa đầy một ngày cũng đều có đủ, hiển nhiên Cái Bang chuẩn bị kỹ càng, gửi anh hùng thiếp cả mấy tháng trước rồi.

Huyền Từ và chư tăng tuy miệng không nói ra nhưng trong bụng rất là bực bội, lại thêm lo lắng vì mấy hôm trước đã có người tự xưng là Trang Tụ Hiền bang chủ Cái Bang gửi thư đến nói muốn tuyển minh chủ võ lâm, lại nói nội trong ngày một ngày hai sẽ thân đến bái sơn để cung kính nghe lời giáo huấn của Huyền Từ nhưng trong thư không nói rõ ngày đó là ngày nào, cũng không đề cập đến việc có mời anh hùng thiên hạ, vậy mà đột nhiên quần hiền tụ tập khiến cho chùa Thiếu Lâm phải lúng túng không kịp trở tay.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.