Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói đêm hôm qua Mộc Uyển Thanh đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi hai người Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi thì họ cũng đã lên đường ngược bắc từ sớm. Đoàn Chính Thuần xuất lĩnh Tam công, Tứ hộ vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu, Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.
Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng đọc kinh thì một tên thái giám vào bẩm: “Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma ám, đã thỉnh thái y đến chẩn bệnh.” Bảo Định Đế lo quá, nghĩ rằng Đoàn Dự bị trúng độc của thái tử Diên Khánh chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng, lập tức sai hai người đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo: “Thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.”
Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng, vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài phòng ngủ của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi, toàn là các loại ấm chén bị đổ vỡ. Gã nội thị ở bên ngoài thấy nhà vua liên quì xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng.
Bảo Định Đế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Đoàn Dự đang khoa chân múa tay. Bao nhiêu bàn ghế cùng các loại đồ dùng trần thiết bị chàng vứt tung tóe. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Bảo Định Đế tiến lại cất tiếng hỏi: “Dự nhi! Cháu làm sao vậy?”
Đoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài, có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to: “Bá phụ ơi! Cháu chết mất!” Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.
Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói: “Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường, sau khi tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên” Bảo Định Đế an ủi: “Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.” Ông quay sang hỏi Đoàn Dự: “Cháu thấy trong người thế nào?”
Đoàn Dự dậm chân thình thịch kêu lên: “Toàn thân điệt nhi chỗ nào cũng căng phồng lên, thật là khó chịu.” Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.
Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được dẫn lối nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, luyện Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh, chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.
Một tên thái y nói: “Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vị thần trích huyết cho ra bớt đi, không biết có được hay không?” Bảo Định Đế nghĩ bụng: “Cứ thử xem sao?” bèn gật đầu nói: “Ngươi thử lấy bớt máu ra!” Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Đỉa là vật chuyên hút máu, dùng để hút máu ứ rất tiện, người bệnh lại không đau đớn gì. Y cầm chặt tay Đoàn Dự, đặt miệng con đỉa vào đúng chỗ huyết quản. Con đỉa này đặt vào tay Đoàn Dự lập tức cựa quậy không chịu nằm yên, làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan thái y rất lấy làm lạ, phải dùng sức đè nó xuống. Nhưng chỉ được một lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bẽ mặt trước nhà Vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.
Vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng, tâu rằng: “Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.” Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, bất luận rắn rết hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi con đỉa tầm thường.
Bảo Định Đế lại càng nóng ruột, phán hỏi: “Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?” Một tên thái y nói: “Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải chất độc cực nhiệt, đó là … đó là … vị thần ngu dốt.” Tên thái y kia cãi lại: “Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hòa.” Trong cơ thể Đoàn Dự một bên chứa nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu, một bên lại chứa nội lực âm nhu của Diệp Nhị Nương. Hai tên thái y mỗi người một phách không ai nói được thực sự nó là cái gì.
Bảo Định Đế thấy hai danh y giỏi nhất nước Đại Lý tranh luận, quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản, liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.
Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói: “Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử, ba vị đều có phản quan mạch.” Tên thái y kia liền cãi: “Ba vị đại phú đại quí nào phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên.” Người kia nói: “Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.” Gã kia không phục nghĩ thầm: “Con cháu nhà đại phú đại quí tưởng không chết non à?”. Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.
Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được Thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.
Đoàn Dự rùng mình kêu lên: “Chao ôi!” Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy.
Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi: “Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải chăng?” Đoàn Dự lắp bắp: “Đinh … Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.” Bảo Định Đế nói: “Nghe nói y là một ông già tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.” Đoàn Dự đáp: “Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.” Bảo Định Đế nói: “Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công Đại Pháp, có thể phế trừ được nội công cả đời tu luyện của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao … sao lại học được tà môn đó?” Đoàn Dự vội đáp: “Điệt nhi chưa … chưa từng học bao giờ. Hóa Công Đại Pháp cùng Đinh Xuân Thu, đây là lần đầu tiên cháu được nghe nói tới.”
Bảo Định Đế xem chừng chàng không nói dối nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: “Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học môn công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó vô ý làm hại ta và Thuần đệ. Người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền”.
Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy vết máu, gắng gượng lắm mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con: “Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.” Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh thị”. Ông liền bảo: “Dự nhi, ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.” Đoàn Dự vâng lời. Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.
Chùa Thiên Long nằm ở ngọn phía bắc dãy núi Điểm Thương bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: “Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo”. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo.
Từ xưa tới nay các vị vua họ Đoàn bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của hoàng gia nước Đại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long được tôn vinh hơn cả. Một khi nhà vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn, cấu trúc tinh kỳ; so với danh thắng ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở mãi miền biên giới xa xăm nên không được nổi tiếng bằng.
Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu, lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.
Theo vai vế ngoài trần tục thì đại sư là thúc phụ nhà vua. Các người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.
Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói: “Theo ta đến Mâu Ni Đường ra mắt ba vị sư huynh, sự đệ.” Bảo Định Đế đáp: “Phiền nhiễu đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng, thực là lỗi lớn.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này, thân thế y có quan hệ đến hạnh phúc của trăm họ, Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc mà phải đến đây hỏi, tất là một việc rất khó giải quyết. Một mình ta không thể quyết định, phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.”
Hai chú tiểu đi trước dẫn đường, đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài, đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.
Bản Nhân phương trường vẻ mặt trịnh trọng chắp hai tay nói: “A Di Đà Phật! Bản Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh sư đệ đây.” Trong nhà có tiếng đáp vọng ra: “Xin mời phương trượng vào trong này!” Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ biết ngày thường ít ai lui tới. Đoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào. Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị, mà trong căn nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng, mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba vị ngôi quay mặt ra ngoài thì hai vị gầy đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.
Bảo Đinh Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của Bản Nhân phương trượng, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, ba nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni có nghĩa là trầm lặng vắng vẻ, vậy ngồi trong Mâu Ni Đường ít nói chừng nào hay chừng ấy. Nhà vua tóm tắt bệnh trạng Đoàn Dự rồi kết luận: “Cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho đường sáng!”
Bản Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Đoàn Dự hồi lâu rồi hỏi: “Nhị vị sư đệ nghĩ sao?” Bản Tham nói: “Nếu bị tổn thất nội lực e rằng phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.” Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm bất giác giật mình nghĩ thầm: “Hồi mình còn nhỏ, nghe gia gia ngẫu nhiên nói đến tổ tiên họ Đoàn ta có môn Lục Mạch Thần Kiếm uy mãnh vô cùng. Gia gia còn bảo môn này chỉ nghe truyền miệng thế thôi chứ chưa nghe nói vị nào luyện được, môn đó thần kỳ ra sao cũng chưa bậc cao nhân nào hay biết. Bản Tham đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi.” Ông chợt nghĩ: “Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không trông vào lực lượng của các vị đây thì làm sao mà trị được?”. Nhà vua nghĩ vậy, tuy trong lòng áy náy nhưng cũng không mở miệng khước từ.
Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu, đôi lông mày rủ xuống, tiến vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí, Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói: “Thiện tai! Thiện tai!”
Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Bốn vị trưởng lão không ngại tổn hao công lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!” Đoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết việc này cực kỳ nghiêm trọng, lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Để nói: “Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không dụng lực, nếu như đau đớn hay ngứa ngáy chỉ là hiện tượng bình thường, đừng có hoảng hốt.” Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.
Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng thần một chút rồi đặt lên huyện Phong Phú sau gáy Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phú nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch, Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.
Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực suýt soát như nhau, chỉ nghe tiếng vù vù, năm nguồn thuần dương nội lực cùng dốc vào cơ thể Đoàn Dự. Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng, trong người ấm áp thư thái vô cùng. Bảo Định Đế cùng bốn nhà sư thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào, người chàng không còn cách nào khác, nội lực mỗi khi truyền tới khí hải nơi huyệt Đản Trung thì lập tức tích vào đó. Năm người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc.
Bất thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, tại người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng trấn áp kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói: “Cường địch nội nhật hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long mấy trăm năm lung lay muốn đổ. Thằng nhỏ miệng còn hôi sữa trúng tà trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?” Mấy câu nói đó đầy vẻ uy nghiêm.
Bản Nhân phương trượng bẩm: “Sư thúc dạy rất phải.” Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau.
Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sự thúc vội vàng cáo lỗi: “Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nghiệt thâm trọng.” Thì ra Khô Vinh trưởng lão là vị tiền bối vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tên chứ trước nay chưa hề bái kiến, nghe nói ông ta tu khô thiền một mình trong Song Thụ Viện, hơn mười năm qua không ai nhắc đến, lại tưởng là đã viên tịch rồi.
Khô Vinh trưởng lão nói: “Việc có khinh trọng, có hoãn cấp, lời ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là đến. Chính Minh, người cũng nên biết việc này.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng.” Ông ngạc nhiên nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương trên Đại Tuyết Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, nhưng có dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?”
Bản Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao vào tay Bảo Định Đế. Nhà vua đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ Phạn: “Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì”. Ông mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý viết: “Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, cùng nhau kết nối thâm giao, đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm ao ước. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, rất đỗi xót thương. Để báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Bần tăng xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám đến tay không.” Dưới thư thụ danh là “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy”. Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế, phải là tay thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết và thời gian mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là bảo vật hiếm có, đủ biết Đại Luân Minh Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mức nào.
Bảo Định Đế vốn biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn, nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp. Cứ năm năm một lần Đại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh, thuyết pháp. Các vị cao tăng đại đức Thiên Trúc, Tây Vực đều đến chùa Đại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp để nghiên cứu kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỉ ca tụng Minh Vương, chính Bảo Định Đế cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư có nói y cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương cũng là một tay cao thủ võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.
Bản Nhân phương trượng nói: “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh! Công phu tột đỉnh của họ Đoàn hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người thế tục thì dù là con cháu trong nhà, cũng không thể tiết lộ cho ngươi biết những điều bí ẩn này được.” Bảo Định Đế đáp: “Thưa vâng! Điều đó vãn bối đã biết rồi.” Bản Quan nói: “Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?”
Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng, nơi Lang Hoàn Phúc Địa, trên những giá sách trống rỗng kia trên thẻ “Đại Lý Đoàn Thị” có đề “Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu”, “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu” bèn nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được”. Chàng trong bụng đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ không được vui lòng.
Bản Tham tức giận nói: “Đại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại không thông tình lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó. Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất không đến, mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Đây là một việc trong đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.”
Bản Nhân nói: “Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra lại thêm xấu hổ. Bọn ta đây không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong kinh, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết. Không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?”
Khô Vinh lạnh lùng đáp: “Y không dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng. Đại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật là uổng phí.”
Bản Tham lớn tiếng nói: “Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn mượn về xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì có phải tử tế không. Đằng này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?”
Bản Tướng thở dài nói: “Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Đại Luân Minh Vương không phải là hạng người càn rỡ đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa, đủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh, Hỡi ôi! Bạn hiền đã qua đời, không còn bao giờ được thấy mặt cố nhân…” Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế hỏi: “Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?” Bản Tướng lại lắc đầu đáp: “Ta không biết, song cứ suy Đại Luân Minh Vương là nhân vật thế nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh phải là bậc phi thường.” Nói xong ông lặng người đi.
Bản Nhân phương trượng nói: “Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng không chừng bị người ta đoạt mất bảo kinh, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói, Khổ một điều là luyện môn thần kiếm này chủ chốt ở nội lực, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính Minh, không phải bọn ta thấy Dự nhi bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?”.
Bảo Định Đế tuy rất lo cho bệnh tình Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Đoàn nước Đại Lý, mỗi khi hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện, chuyển nguy thành yên. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi, trung thần Cao Trí Thăng nhờ vào chùa Thiên Long hợp sức mới dẹp yên. Họ Đoàn Đại Lý lập quốc từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long giữ vững kinh kỳ. Hôm nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà vua nghĩ vậy liền đáp: “Phương trượng thực là nhân đức, vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Đại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp được chút lực nào chăng?”
Bản Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp: “Kể ra thì ngươi là tay cao thủ đệ nhất trong những người họ Đoàn còn ở ngoài đời. Thêm người vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có điều ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn thì không khỏi bị Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long ta không có người.”
Khô Vinh bỗng nói: “Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu cứ riêng biệt từng người thì chúng ta đây không ai đủ nội lực làm nổi. Ta đã nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ, nhưng chúng ta đâu phải tỉ võ tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ bản lĩnh tương đương nhau. Chính Minh, ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc tăng y vào mới được.” Trưởng lão càng nói càng nhanh, tựa hồ trong lòng người phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.
Bảo Định Đế thưa: “Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều thần kiếm bí ảo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng …”
Bản Tham nói: “Công phu cơ bản của kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.” Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại: “Mong phương trượng chỉ điểm.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Ngươi ngồi xuống đây.” Bảo Định Đế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn.
Bản Nhân tiếp: “Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ biến hóa thành kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình kiếm khí. Lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.” Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục.
Bản Tham cầm lấy mở ra treo lên tường, mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch vẽ màu đen, đỏ, Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này lại lấy Nhất Dương Chỉ làm căn bản nên ông chỉ xem qua đã hiểu ngay.
Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên trục gấm vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: “Kinh mạch huyệt đạo trên con người nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ hình đàn bà khỏa thân, mà lại vẽ tướng mạo của mình là sao?”. Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.
Bản Nhân nói: “Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Đại Lý, việc cải trang chỉ là quyền nghi nhất thời, nếu để đối phương khám phá ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Được bề nọ mất bề kia, nhà ngươi tự quyết định. Đến cửa Phật, đặt cho nhà ngươi pháp hiệu Bản Trần.” Bảo Định Để chắp tay đáp: “Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.” Trong Phật môn không kể đến vai vế ngoài đời. Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị cao tăng.
Khô Vinh đại sư lại nói: “Không chừng hôm nay Đại Luân Minh Vương sẽ đến. Bản Nhân, ngươi đem những bí ảo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.” Bản Nhẫn đáp: “Vâng!” Ông chỉ vào đồ hình về kinh mạch treo trên tường nói: “Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khuỷu tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.”
Bảo Định Đế y theo lời giảng, vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ huyệt Quan Xung vọt ra mãnh liệt.
Khô Vinh đại sư vui mừng nói: “Nội lực của ngươi không phải tầm thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tùy ý mà vận dụng.”
Bản Nhân nói: “Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sự cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón cái, ta luyện Thương Dương Kiếm ở ngón trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể trì hoãn được nữa, chúng ta bắt đầu luyện ngay là vừa.”
Phương trượng nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Trên đồ hình nào cũng vẽ vô số đường ngang đường dọc cắt nhau, đường vòng tròn, đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà chăm chú luyện đường kiếm khí của mình, giơ ngón tay nào điểm nào vạch lên không.
Đoàn Dự len lén ngồi lên, lại thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn tệ hại hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long lại đem một lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Nhưng chàng thấy bá phụ và những người khác đang định thần, dụng công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người. Chàng ngồi ngơ ngẩn một lúc lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.
Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân, nhưng phương hướng thì không giống. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, toàn thân chàng đang bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái. Chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đản Trung.
Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như ở người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đản Trung. Một hồi sau chàng không chịu nối được nữa phải kêu lên mấy tiếng “Ôi chao!”. Bảo Định Đế chợt nghe tiếng la cấp bách vội hỏi: “Dự nhi! Con làm sao vậy?” Đoàn Dự đáp: “Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu luồng chân khi đang chạy nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sự bá để đưa khí về huyệt Đản Trung, nhưng chao ôi… huyệt Đản Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu … cháu … huyệt Đản Trung của cháu muốn nổ tung ra.”
Cái cảm giác đó chỉ có tự mình mình biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi, còn người ngoài trông chẳng thấy chi khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những cảm giác lạ lùng, nhưng thấy huyệt Đản Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì nội lực phải hùng hậu vô cùng, ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm. Còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, trạng thái này xuất hiện thì hẳn là do tà độc trong người đến lúc phát động. Bảo Định Đế kinh hoảng nghĩ thầm, nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ, nhưng lại e đưa tà khí vào sâu nội phủ sau này trục xuất còn khó khăn vạn lần. Nhà vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau lẹ, song đứng trước mối họa phúc một đời của Đoàn Dự, chỉ sai một chút là lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nên không khỏi do dự. Ông thấy Đoàn Dự hai mắt hào quang tán loạn dường như sắp nối cơn điên, không còn đủ thì giờ nghĩ tới nghĩ lui được nữa, bèn quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt rồi sẽ liệu. Ông bèn nói: “Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.” Ông liền truyền thụ phương pháp đạo khí qui hư này cho chàng.
Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Bí quyết nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả tinh diệu hơn đời, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền tích chứa vào trong tạng phủ. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói trên đời ít ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, cảm thấy thân thể thư thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không.
Bảo Định Đế thấy Đoàn Dự mặt tươi như hoa nở, trong lòng vẫn không khỏi lo ngại, chỉ sợ tà khí từ đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ tuyệt diệt mang lụy suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.
Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo: “Bản Trần! Việc đời do tiền định, họa phúc bởi lòng người. Ngươi bất tất quá lo cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng!” Bảo Định Đế cố gắng trấn định tâm thần rồi tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp.
Trong thân thể Đoàn Dự chân khí cực kỳ sung mãn, đầy rẫy khắp nơi không thể chốc lát thu về hết ngay được, song chàng đã biết phương pháp, thực hành mỗi lúc một thuần thục, về sau càng thu càng nhanh. Trong thiền phòng bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã tờ mờ sáng.
Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong người mình không còn chân khí loạn động, bèn đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng chuyên tâm luyện kiếm. Chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn, chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn đồ hình Thiếu Dương Kiếm. Tuy chàng đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này mình làm sao học nổi, có xem cũng chỉ xem chơi cho biết. Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông đến cánh tay, thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan Xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra, chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu, lại nghĩ thầm: “Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được”. Chàng vừa nghĩ vậy, lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.
Đoàn Dự biết đâu mình vừa vô ý học được một phương pháp hành công thượng thừa, chỉ cảm thấy chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường, chàng thấy Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn đồ hình Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới khuỷu, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ, tự nhiên thấy một luồng chân khí theo kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp không như ý, có khi thì được, có lúc lại không, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.
Mất nửa ngày nghiền ngẫm, Đoàn Dự đã thông suốt được hết kinh mạch trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của sáu đường kiếm pháp Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa, đầu mối thật khó mà dò, nghĩ thầm: “Những điểm chiêu rắc rối thế này thì làm sao mà nhớ được? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà”. Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói lại nghĩ: “Sao mãi không thấy mấy chú tiểu mang cơm chay đến? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho đỡ đói.” Ngay lúc đó mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng tụng niệm văng vắng bằng Phạn ngữ, từ xa truyền tới tiếng được tiếng mất.
Khô Vinh đại sư buồn rầu nói: “Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm pháp kết quả ra sao?” Bản Tham đáp: “Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch.” Khô Vinh đại sư lại bảo Bản Nhân: “Ta không đi được! Ngươi ra mời Đại Luân Minh Vương vào Mâu Ni Đường nói chuyện.” Bản Nhân vâng lời đi ra.
Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác, rồi chính mình ngồi vào chiếc đầu, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư, để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm. Đoàn Dự không được ngồi, đứng phía sau Bảo Định Đế. Mọi người ôn lại đổ hình một lần cuối rồi mới cuộn lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư.
Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí tung hoành khắp nơi rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con được. Con đi ra ngoài chơi thì hơn.” Đoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: “Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, mà bá phụ mình bữa nay mới luyện Quan Xung kiếm pháp lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?”. Nghĩ vậy chàng đáp: “Bá bá ơi! Cháu… cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu kiếm với họ, cháu chẳng… yên tâm chút nào.” Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế cũng động lòng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả là có hiếu”.
Khô Vinh đại sư gọi: “Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! Đại Luân Minh Vương có lợi hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.” Giọng nói đại sự lạnh như băng, song ngữ khí có vẻ ngạo nghễ.
Đoàn Dự vâng lời, khom lưng đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn, chỉ quay mặt vào vách. Thân hình Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi. Bảo Định Đế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà vua nghĩ mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.
Sau đó Mâu Ni Đường yên lặng như tờ.
Lát sau nghe tiếng Bản Nhân phương trượng mời: “Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời quá bộ lại Mâu Ni Đường.” Rồi thấy tiếng người khác đáp: “Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.” Đoàn Dự nghe giọng nói có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ, tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Lại nghe tiếng chân có đến chục người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói: “Xin mời Minh Vương.”
Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường, nói: “Xin phép.” Ông ta hướng về phía Khô Vinh chắp tay thi lễ nói: “Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại sư. “ Đoạn đọc luôn bốn câu kệ: “Hữu thường vô thường, Cây héo cây không, Nam Bắc Tây Đông, Không có không không.”
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết bốn câu kệ này có ngụ ý gì?” Còn Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả nhiên danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt lần đầu đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta”.
Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn giữa mấy cây bà la tại thành Câu Thi Na thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là “tứ khô tứ vinh”. Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Những cây tươi tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; những cây khô héo tượng trưng cho thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhập diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô, phi vinh, phi giả, phi không.
Khô Vinh đại sư trên mười năm trời tu luyện khô thiền mới được đến cảnh giới “bán khô, bán vinh” chứ chưa được đến cảnh giới cao hơn là “phi khô phi vinh” hay “diệc khô diệc vinh”, nên vừa nghe mấy câu kệ của Đại Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp: “Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không ra đón được, xin mở lượng từ bi.”
Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp: “Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.”
Bản Nhân phương trượng nói: “Xin mời Minh Vương ngồi.” Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?”. Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy một nhà sự mặc tăng bào màu vàng ngồi trên chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như minh châu bảo ngọc tự phát hào quang. Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày hung dữ ghê sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những người tùy tùng mà Minh Vương đem từ Thổ Phồn qua.
Cưu Ma Trí chắp tay nói: “Tuy đức Phật có dạy rằng: không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa thông suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết. Bình sinh tiểu tăng có một người bạn tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không môn nào không am tường, không chỗ nào không tinh thông. Tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ nghi ngờ đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khảng khái tặng cho bí kíp thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Không ngờ bậc đại anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc. Tiểu tăng có điều thỉnh nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.”
Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên một lúc mà thôi. Nay duyên phận đã hết thì thôi, hà tất phải miễn cưỡng làm gì. Mộ Dung tiên sinh đã về cực lạc, lễ Phật nơi tòa sen, còn để ý đâu đến chuyện võ học chốn nhân gian? Minh Vương làm việc này chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chấn?”
Cưu Ma Trí đáp: “Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao quên được người tri kỷ. Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đứng vào bậc nhất, tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.”
Bản Nhân nói: “Tệ tự ở tận thiên nam hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh quá yêu quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không thân hành tới đây mượn kiếm kinh về xem qua cho biết?”
Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói: “Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo trấn tự, dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Đoàn Đại Lý tuy phú quí đến cực điểm mà không quên nghĩa khí giang hồ, có lòng yêu thương trăm họ, nhân đức thấm khắp lê dân, tiên sinh không tiện đến trao đổi hay cưỡng đoạt.” Bản Nhân tạ rằng: “Đa tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã để họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào mắt xanh như thế, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh tưởng cũng nên nghĩ tới di chí của người đã khuất.”
Cưu Ma Trí đáp: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng: Tiểu tăng là quốc sư nước Thổ Phồn chưa từng quen biết họ Đoàn Đại Lý, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.” Y nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp ánh hoàng kim chói lọi. Y cúi xuống, cầm cái hộp lên tay.
Bản Nhân nghĩ thầm: “Bọn ta đã là người thoát vòng tục lụy không lẽ còn tham lam những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Đoàn làm vua một nước đã hơn trăm rưỡi năm nay, thiếu gì kim ngân châu báu?” Cưu Ma Trị mở nắp hộp ra, chỉ có ba quyển sách cũ, Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách thốt nhiên nước mắt đầm đìa ướt cả bầu áo, nét mặt sầu thảm vô cùng. Bọn Bản Nhân đều lấy làm lạ.
Khô Vinh đại sư nói: “Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn thuở xưa, trần duyên chưa sạch, há không thẹn với hai chữ cao tăng?
Đại Luân Minh Vương cúi đầu đáp: “Đại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng bì thế nào được? Ba quyển võ công yếu quyết này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, ghi rõ cách tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.”
Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống kiêm được hai mươi ba môn, còn chưa có người thứ hai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ. Nói Mộ Dung tiên sinh thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào nghĩ tới.”
Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp: “Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba cuốn kỳ thư này, tiểu tăng nghiên cứu quả thật ích lợi rất nhiều. Nay xin đưa sang đây đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí tự. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới hoàn thành được lời ước hẹn năm xưa, lòng cảm kích nói sao cho xiết!”
Bản Nhân phương trượng không nói gì, nghĩ thầm: “Nếu quả nhiên ba cuốn sách này ghi chép đầy đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên Long này sau khi học được, võ công không chỉ ngang hàng với phái Thiếu Lâm mà còn có phần cao hơn. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long?”.
Cưu Ma Tí nói tiếp: “Trước khi quí tự ban cho bảo kinh vẫn có thể để lại bản sao không thiệt hại gì, mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ. Đó là một điều lợi. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết không xem trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phần hóa. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các vị đại sư trong quá tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cần đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó. Trong đó có Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quý tự đây có thể bồi bổ cho nhau. Đó là ba điều lợi.”
Bọn Bản Nhân khi nhận được lá thư viết bằng vàng là của y thoạt nghĩ rằng Cưu Ma Trị mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính dễ dãi nhất, trong bụng đã có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc, về địa vị phải nhường phương trượng nên không dám nói ra.
Cưu Ma Trí nói tiếp: “Tiểu tăng hãy còn ít tuổi, kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng các vị đại sư. Vậy xin đem ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ra mà vụng về phô trương trước mặt quý vị.” Ý nói xong đứng lên rào đón: “Năm xưa tiểu tăng chẳng qua nhân lúc cao hứng nên tập thử, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.” Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần vào nhau, tựa hồ đang cầm một đóa hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa những ngón tay trái ra búng nhẹ qua bên phải.
Trong Mâu Ni Đường trừ Đoàn Dự ra, còn toàn là những tay đại hành gia về chỉ pháp, thấy lối xuất thủ của Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy những hạt sương đọng trên hoa, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh hoa rụng xuống, miệng vẫn ung dung mỉm cười thật là từ hòa sảng khoái. Nguyên kinh Phật Thiền tông có chép rằng: Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa ba la sắc vàng đưa lên, mọi người lặng thinh không nói, chỉ có Ca Diếp cười rạng rỡ. Đức Thích Ca biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ được tâm pháp liền nói: “Ta có Chính Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Pháp Môn, Thực Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn không chép vào sách, nay truyền cho Ca Diếp.” Tâm truyền đốn ngộ là yếu chỉ của Thiền Tông. Phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền Tông nên môn Niêm Hoa Chỉ này lại càng nghiên cứu tinh vi.
Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn lớn bằng con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì ra lúc lão bùng ngón tay là dùng Niêm Hoa Chỉ điểm vào tay áo cho thủng rồi. Kinh lực âm nhu cực độ, thoạt nhìn không ai biết, lúc thổi vào những mảnh áo bay tung, công lực mới lộ ra.
Bọn Bản Nhân và Bảo Định Đế thấy vậy đều lấy làm kinh dị nghĩ thầm: “Ta dùng Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo thì chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại, nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình không làm được. Môn Niêm Hoa Chỉ này kình lực âm nhu, quả thực có chỗ độc đáo đáng học hỏi.”
Cưu Ma Trí tươi cười nói: “Xấu hổ, xấu hổ! Môn Niệm Hoa Chỉ của tiểu tăng quả vụng về, còn kém Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Đến môn Đa La Diệp Chỉ, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.” Dứt lời Cưu Ma Trí chuyển thân đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất, mười đầu ngón tay liên tiếp điểm ra, những miếng gỗ tung lên không ngớt tựa như lá rụng hoa bay. Chớp mắt cái rương đã nát vụn, rơi xuống thành một đống.
Bọn Bảo Định Đế coi việc phá nát cái rương gỗ chẳng có chi kỳ dị, nhưng cả những đai sắt, bản lề đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy vụn được thì không khỏi kinh hãi.
Cưu Ma Trí cười nói: “Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu luyện tập hãy còn thiển cận.” Y vừa nói vừa thủ tay vào trong áo, thế mà thốt nhiên mấy mảnh gỗ vỡ tự nhiên bay lên, tựa hồ có một cái gậy vô hình khuấy động. Nét mặt Cưu Ma Tí vẫn ôn hòa tươi cười, tăng bào rộng thùng thình vẫn không lay động mảy may. Thần tình chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra, tuyệt không lộ hình tích. Bản Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ: “Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!” Cưu Ma Trí lễ phép đáp: “Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu muốn cho thực hợp với danh, luyện đến mức vô hình vô tướng thì phải hết đời chưa chắc thành tựu.” Bản Tướng đại sư hỏi: “Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?” Cưu Ma Trí đáp: “Có chứ! Phép phá giải cũng có tên giống như pháp danh của đại sư.” Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói: “Ô, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.”
Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Tí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có nên đem Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ. Ai nấy đều trù trừ.
Bản Nhân nói: “Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây quả có lòng thành. Ý kiến sư thúc thế nào xin chỉ thị cho!”
Khô Vinh đại sư hỏi: “Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì?” Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, không khỏi ngạc nhiên đáp: “Cốt yếu là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ quốc gia.” Khô Vinh lại hỏi: “Nếu như ngoại ma đến mà đạo pháp mình hãy còn thiển cận không đủ điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng cách gì?” Bản Nhân đáp: “Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.” Khô Vinh đại sư hỏi tiếp: “Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?” Bản Nhân toát mồ hôi trán đáp: “Đệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ tư.” Khô Vinh đại sư lại hỏi: “Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chi, Đa La Diệp Chi, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm ai hơn ai kém?” Bản Nhân đáp: “Chỉ pháp không có hơn kém, công phu rèn luyện có kẻ cao người thấp.” Khô Vinh đại sư nói: “Đúng lắm. Giả tỉ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?” Bản Nhân đáp: “Đến mức đó thì uyên thâm như biển cả khôn lường. Đệ tử không dám nói càn.” Khô Vinh đại sư nói: “Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc thứ mấy?” Bản Nhân mồ hôi trán rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp: “Đệ tử không biết.” Khô Vinh đại sự hỏi thêm: “Liệu có đến tuyệt đỉnh chăng?” Bản Nhân đáp: “Quyết không thể được.” Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa.
Bản Nhân nói: “Sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưa luyện được đến nơi đến chốn thì mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương đường xa cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay khoản đãi.” Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt.
Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí thở dài sườn sượt nói: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng trót lỡ miệng một câu, không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, việc cầu Lục Mạch Thần Kiếm Kinh có được hay không cũng chẳng quan hệ gì. Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này thật là vô lễ: Lục Mạch Thần Kiếm nếu quả thực tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã tinh diệu như tiên sinh tưởng tượng”
Khô Vinh đại sư nói: “Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ điểm.” Cưu Ma Trí đáp: “Không dám!” Khô Vinh đại sư nói: “Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết. Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?” Cưu Ma Trí đáp: “Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn cũng không hiểu bằng Mộ Dung tiên sinh. Cái thuật gậy ông đập lưng ông chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.”
Khô Vinh đại sư “hừ” một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: “Nếu như y biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn”.
Bản Nhân phương trượng nói: “Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không gặp người ngoài. Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.” Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.
Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói: “Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không có thực dụng, quý tự hà tất phải coi trọng như thế, để đến nỗi tổn thương hòa khí giữa Thiên Long tự và Đại Luân tự, lại tổn thương cả đến bang giao giữa hai nước Đại Lý cùng Thổ Phồn?”
Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại: “Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?” Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh đồn trú nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế càng hết sức lắng tai nghe.
Cưu Ma Trí đáp: “Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh Đại Lý đã lâu, từng đòi mở cuộc săn bắn với hoàng thượng quý quốc, song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá nhiều, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.”
Bọn Bản Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp. Nước Thổ Phồn cũng như nước Đại Lý, từ quốc vương trở xuống ai ai cũng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, rất được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì một pho kinh mà để nhân dân hai nước phải lầm than thì thật không nên. Nhưng người ngoài mới dọa một câu đã phải hai tay mang bảo kinh trấn tự đem dâng thì còn ra thể thống gì?
Khô Vinh đại sư nói: “Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bạn lão nạp không dám tiếc sức. Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám nhận. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại kiêm cả võ công Đại Tuyết Sơn Đại Luân tự thì hẳn là trên đời không ai địch nổi.”
Cưu Ma Trí chắp tay hỏi: “Theo ý đại sư, phải chẳng muốn tiểu tăng phô trương bản lãnh kém cỏi của mình?” Khô Vinh đại sư đáp: “Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh không có thực dụng. Bọn lão tăng xin đem môn Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo mấy cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, kiếm pháp này không dùng được vào đâu thì có chi là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.”
Cưu Ma Trí không khỏi chột dạ. Năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm, biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, kiếm pháp thần kỳ cao minh, nhưng dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi. Bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì không những ông ta biết sử dụng, mà dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi danh hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái Cưu Ma Trí vốn đã cung kính, nay càng nghiêm cẩn hơn, lão nghiêng mình nói: “Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở rộng tầm mắt thì may mắn nào bằng?”
Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin lấy ra.”
Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên, gã kia liền gật đầu vâng lệnh, ra mở rương lấy một nắm hương đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.
Ai cũng lấy làm kỳ. Những cây hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm khí giới được ? Chỉ thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm lên một nén hương, tay phải vun gỗ vụn dưới đất thành một đống nhỏ cắm lên. Cứ như thế y cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén kia vào khoảng một thước. Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương cháy sáng. Thoạt tiên mọi người kinh hãi, tưởng lão nội lực hùng mạnh đến mức không tưởng tượng được. Thế nhưng lát sau bọn Bản Nhân cùng Bảo Định Đế ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hóa dược, Cưu Ma Trí không phải dùng nội lực đốt hương, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược ở đầu hương cho cháy. Việc đó tuy cũng khó khăn nhưng bọn Bảo Định Đế cũng có thể miễn cưỡng làm.
Sáu nén hương cháy, sáu làn khói xanh biếc bốc thắng lên như sáu sợi dây. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thế chưởng của y gọi là Hỏa Diệm Đao, tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn đoạt kinh không cố ý giết người, cho nên mới thắp sáu cây hương để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra cậy tài chẳng sợ hãi gì, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.
Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều kinh dị. Dùng nội công để thúc đẩy luồng khói đi là việc bình thường, nhưng làm thế nào cho luồng hơi vô định kia ngưng đọng, đứng nguyên một chỗ trên không thì phải nói là khó gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một đường kiếm khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói trước mặt. Luồng khói đó lập tức bị đẩy hất ngược trở lại, bay vụt đến còn cách Cưu Ma Trí chừng hai thước, lão liền vận thêm nội lực vào thế Hỏa Diệm Đao để chặn đứng. Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm: “Người ta bảo Lục Mạch Thần Kiếm có đường Thiếu Xung Kiếm, quả nhiên không sai.” Hai bên thúc đẩy nội lực giằng co vài hiệp nữa, Bản Tham đại sư nhận thấy nếu mình cứ ngồi lì một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực kiếm pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái. Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.
Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên: “Phải lắm! Quả có Trung Xung kiếm pháp.” Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.
Đoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, nghé cổ nghiêng đầu, chăm chú theo dõi cuộc đấu kiếm nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm. Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song cũng biết cuộc đấu kiếm bằng nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng gươm đao thực sự còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều. May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Đoàn Dự mới căn cứ vào những luồng khói phất phơ bay đi bay lại mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người. Chàng xem được độ mươi chiêu, trong bụng chợt nghĩ: “Đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sự giống hệt như nét vẽ trong đồ hình.” Đoàn Dự khẽ mở đồ hình Trung Xung Kiếm xem lại, đối chiếu những luồng khói đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức hiểu ngay, không còn điểm nào nan giải cả. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng vậy, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm thì phóng ra thu về rộng lớn, khí thế hùng mạnh, Thiếu Trạch Kiếm thì chợt qua chợt lại, biến hóa tinh vi.
Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ mà vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, nghĩ thầm: “Kiếm pháp bên mình luyện chưa thành thục, kiếm chiếu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết. Vậy sáu người phải sớm đồng thời xuất thủ là hơn. Gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt đỉnh, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa đưa toàn lực ra công thủ.” Bản Nhân nghĩ vậy liền hô: “Bản Tướng, Bản Trần nhị vị sư đệ, chúng ta nhất tề động thủ.” Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động. Kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.
Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu bên tây một chiêu, đem đối chiếu với đồ hình tuy cũng hiểu, nhưng thấy rối loạn không mạch lạc nên không nhớ được. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết lên trên đồ hình: “Chỉ học một thế kiếm, học xong hãy đổi qua thế khác”. Đoàn Dự hiểu ngay Khô Vinh đại sự chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười tỏ ý tạ ơn.
Chàng vừa nhìn ông, nụ cười liền tắt ngóm. Khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũm mĩm như đứa trẻ, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại chỉ có làn da vàng héo bọc ngoài xương, những đầu xương nhô cả ra, trông như nửa cái đầu lâu người chết phơi khô. Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khổ Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, ai đã nhìn thấy cũng không thể bình tĩnh được.
Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: “Dịp may đừng bỏ lỡ, chú ý xem kiếm pháp. Tự xem, tự học, khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên.”
Đoàn Dự hiểu ngay: “Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, bá phụ xuống tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Thái sư bá viết tự quan tự học, bất vi tổ huấn ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn tự nghiên cứu.” Chàng gật đầu, chú ý xem Quan Xung Kiếm của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Trong năm ngón tay của con người, ngón vô danh là vụng về nhất, còn ngón trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm thủ thắng ở chỗ vụng về chất phác, còn Thương Dương Kiếm thủ thắng ở chỗ xảo diệu, linh hoạt, biến hóa khôn lường. Thiếu Xung kiếm pháp với Thiếu Trạch kiếm pháp đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc vụng, mau hay chậm. Thế nhưng vụng mà vẫn được việc, chậm mà không giảm uy lực, còn phải phân biệt đang đánh bất ngờ hay thẳng thắn.
Đoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy, nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi xem đèn đoán chữ, nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò, chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi Đoàn Dự xem rõ ba lộ kiếm pháp cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Đoàn Dự không cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đường khói mà đem những đường kiếm đã thuộc lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói đi đi lại lại linh động biến hóa vô cùng, có phần phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.
Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại sư búng ngón tay út, ra chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng hai kiếm chiêu đã dùng. Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng “vu vu” phát ra, uy thế Hỏa Diệm Đao mạnh lên gấp bội, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.
Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem xét hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm rồi mới phản kích. Đang thế thủ đổi sang thế công, năm luồng khói bay lượn tung hoành linh hoạt vô song, còn luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn thước, đứng im không động đậy. Khô Vinh đại sư để ý nhận xét tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng “năm ngả công một ngả dừng” này được đến bao giờ. Quả nhiên lão không kéo dài được nữa, vì muốn giữ cho luồng khói thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực, phải di động cho nó tiến dần từng tấc một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.
Đoàn Dự kinh hãi nói: “Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.” Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy đồ hình này thật chẳng khác gì một bức tranh vẽ theo lối vẩy mực, nét tung hoành mạnh mẽ tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng tỏ ra thế kiếm mãnh liệt như phong ba bão táp, đất lở trời long. Chàng tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh, vừa quay đầu lại thấy luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu: “Coi chừng!”
Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào trước ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ, vì tin chắc rằng Cưu Ma Trí đang kìm hãm lực đạo Hỏa Diệm Đao, có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là đối phương không kịp trở tay.
Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, tính toán chu đáo đã dự bị sẵn một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực. Tuy nhiên lão chỉ đề phòng một thế công ác liệt của Thiếu Thương Kiếm, không ngờ Khô Vinh lại đồng thời xuất phát hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên chặn được đường kiếm tấn công vào ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy chăng nữa vẫn không nhanh bằng kiếm khí. Nghe xoẹt một tiếng nhẹ, vai trái tăng bào đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh quay tròn một vòng, kiếm khí thu về, sáu nén hương của Cưu Ma Trí đều bị đứt ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Những người đó ra sức đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thấy yên lòng.
Cưu Ma Trí rảo bước lại vào trong nhà, mỉm cười nói: “Thần công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng lấy làm bội phục. Còn pho Lục Mạch Thần Kiếm quả chỉ có hư danh.” Bản Nhân phương trượng hỏi lại: “Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.” Cưu Ma Trí đáp: “Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm là ngưỡng mộ kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ kiếm trận. Kiếm trận này của Thiên Long tự quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là thiên hạ vô song được.” Y nói là “kiếm trận” mà không phải là “kiếm pháp” là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử Lục Mạch Thần Kiếm như y đơn độc sử Hỏa Diệm Đao.
Bản Nhân phương trượng thấy Cưu Ma Trí nói có lý, chưa tìm được câu trả lời thì Bản Tham đã cười nhạt, hỏi lại: “Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận, những cuộc tỷ đao luận kiếm vừa đây thì Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?”
Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén trà rồi mở to mắt ra đáp: “Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng nắm chắc phần thắng.” Bản Nhân kinh ngạc hỏi: “Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã hứa với Mộ Dung tiên sinh, đâu có thể ngại khó mà rút lui được?” Bản Nhân hỏi tiếp: “Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?”
Cưu Ma Trí song chương từ từ đẩy ra, mỉm cười nói: “Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy đoán ra hay sao? Xin tiếp chiêu đây.” Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ kịp, ai nấy giương song chưởng đỡ hai luồng lực đạo kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn búng hai ngón tay cái, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.
Cưu Ma Trí vừa đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói: “Xin lỗi!”.
Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hiểu: “Một chưởng của y cùng lúc chia ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Còn bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diệm Đao của y”.
Chợt thấy trước mặt Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập kích. Cưu Ma Trí vốn cũng e ngại nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này. Bây giờ y thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương dụng ý ra sao, vẫn dùng Hỏa Diệm Đao chia ra bốn đường chống đỡ. Y không dám phản kích, vừa để phòng bị bọn Bản Nhân đánh ập tới, vừa để bình tĩnh quan sát xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.
Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: “Có câu Gió mạnh không qua buổi sáng, Mưa lớn không đổ trọn đêm. Đối phương dùng toàn lực ra đánh thì phỏng được mấy hơi? Khô Vinh là cao tăng đời nay lẽ nào không nghĩ đến? Lão dùng thủ đoạn gấp rút cương mãnh như thế tất phải có quỷ kế gì đây.” Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tùy cơ ứng biến. Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả mười sáu luồng ập vào tấn công Cưu Ma Trí cả bốn phương tám hướng. Cưu Ma Trí vẫn bình tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão cũng chia Hỏa Diệm Đao ra thành nhiều đạo để ngăn chặn đối phương. Mười sáu luồng khói đen của Khô Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía, chỉ trong giây lát khói tỏa ra mờ mịt khắp nhà. Cưu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động chân lực tới mức độ tối cao hộ vệ toàn thân.
Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung thấy năm nhà sư đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: “Hỏng rồi! Lão tặc Khô Vinh kia biết không địch nổi nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi!”
Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư không muốn để Lục Mạch Thần Kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất Dương Chỉ đốt cháy hết đồ hình, một mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống đỡ. Tới khi khói tan thì sách đã cháy hết. Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã hiểu rõ nguyên do, nghĩ bụng: Sư thúc ngọc nát còn hơn giữ ngói lành, đem bảo vật trấn tự hủy đi, không chịu để lọt vào tay kẻ địch”. Sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều đành phải hủy mất những đồ phổ tổ truyền.
Thế là từ đây giữa Thiên Long tự cùng Đại Luân Minh Vương đã kết nối oán thù, khó mà gỡ ra được nữa.
Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ mưu trí hơn người mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đã bị thiêu hủy hoàn toàn, thế là chuyến đi này chẳng những không thu hoạch được gì mà còn thêm mối thâm cừu. Y đứng dậy, chắp tay nói: “Khô Vinh đại sư hà tất phải cương cường đến thế. Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Vì tiểu tăng mà quí tự phải hủy bảo kinh, trong lòng quả thật áy náy. Nhưng xét cho cùng quyển kinh này không phải sức một người luyện được, hủy đi hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.”
Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói: “Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được gặp một lần, xin mời bệ hạ dời gót sang Thổ Phồn du lịch một phen.”
Sự biến bất ngờ, mọi người đều giật mình. Gã phiên tăng kia tấn công đột ngột, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay, vội vận nội lực chuyển đẩy sáu bảy lần vẫn không gỡ ra được. Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi, có thể bị giết bất cứ lúc nào. Bọn Bản Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành động như vậy là quá đê hèn, mất cả thân phận cao thủ tuyệt đỉnh, song chỉ căm phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.
Khô Vinh đại sư cười nói: “Đoàn Chính Minh đã bỏ ngôi xuất gia, trước là Bảo Định Đế, nay là Bản Trần. Bản Trần đệ tử, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.” Bảo Định Đế không biết cách nào hơn, đành đáp lời: “Vâng!” Ông biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Bảo Định Đế thấy mình là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là hóa phẩm trân kỳ. Đằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hòa thượng ở chùa Thiên Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão thả ra cũng nên.
Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ. Nhưng muốn sử dụng dù chỉ là một thế trong Lục Mạch Thần Kiếm cũng phải là tay cao thủ bậc nhất, nội lực tinh thuần mới được. Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, các danh gia họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính khí cùng bản lãnh từng người mười phần y cũng biết được đến tám chín. Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ hàng chữ Bản. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Bản Trần mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hòa thượng kia, dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão chẳng nhận ra là Bảo Định Đế. Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: “Ta từng nghe các đời vua họ Đoàn Đại Lý thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long cũng chẳng lấy gì làm lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ trọng thể toàn quốc, cúng sự lễ Phật, trùng tu tháp miếu cho nổi đình nổi đám mấy hôm, Có lý nào nhà vua lại xuất gia một cách không kèn không trống? Nước Thổ Phồn ta mà nghe được tin này thế nào cũng sai sứ sang chúc mừng tân quân kế vị. Việc này hẳn là có gì man trá.” Y bèn nói: “Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.” Lão vừa nói vừa dắt Bảo Định Đế ra ngoài.
Bản Nhân lên tiếng: “Hãy khoan!” Ông lắc mình một cái, cùng Bản Quan hai người đứng chắn trước cửa. Cưu Ma Trí nói: “Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia nhưng nếu các vị bức bách quá thì đành vậy thôi.” Tay phải y đưa hờ ra để ngay hậu tâm Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diệm Đao của y tối bích phá kiên, mà Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không còn sức phản kháng. Nếu mọi người hợp lực tấn công thì e ném chuột vỡ đồ, mà cũng chưa chắc nắm được phần thắng. Cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua Đại Lý, làm sao có thể để cho kẻ địch uy hiếp như thế được?
Cưu Ma Trí lớn tiếng nói: “Đã từng nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con nít. Xin nhường đường thôi!”
Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường đâu có sợ y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại đợi thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, giọng nói và nét mặt Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo, thần sắc bọn Bản Quan, Bản Nhân đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm gì được. Tới lúc Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế lôi ra ngoài cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên: “Mau buông bá phụ ta ra!” Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra.
Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi nhưng không đoán ra được là ai, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm chi. Bây giờ y thấy Đoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay lại hỏi: “Tôn giá là ai?”
Đoàn Dự đáp: “Đừng hỏi ta là ai vội! Buông bá phụ ta ra trước rồi nói chuyện sau!” Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế lật bàn tay lại, nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! Mau mau về giục phụ thân lên ngôi đại bảo, nắm việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, có gì phải quan tâm?”.
Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên: “Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào? Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, vừa ra sức Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra.
Cưu Ma Trí cũng đồng thời thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: “Sao họ Đoàn Đại Lý lại học được Hóa Công Đại Pháp thế này?”. Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.
Bỗng nhiên Bảo Định Đế cảm thấy hai tay đồng thời có mãnh lực giằng co liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho kháng cự lẫn nhau. Ông nhân lúc đó chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: “Kể cũng đáng hổ thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được”.
Còn Cưu Ma Trí kinh hoàng vô cùng, nghĩ thầm: “Sao trong võ lâm lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là con em họ Đoàn Đại Lý?” Y chậm rãi gật đầu nói mỉa: “Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn nước Đại Lý xưa nay chỉ chuyên về võ học tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, không ngờ hậu bối hiền tài lại đi kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên cứu kỳ môn võ học Hóa Công Đại Pháp. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!” Cưu Ma Trí tuy uyên bác nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công Đại Pháp. Có điều lão còn biết tự trọng không đưa lời thương tổn người khác, thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành Tinh Tú lão nhân. Nhân sĩ Võ lâm đều gọi Hóa Công Đại Pháp là yêu công tà thuật, y lại đổi thành kỳ môn võ học. Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được, thành thử mới dùng hai chữ kết giao.
Bảo Định Đế cũng cười nhạt nói móc: “Lâu nay bọn bần tăng vẫn ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ, kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn khi nào lại liên quan với hắ?”
Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ “chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa” chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi.
Đoàn Dự nói: “Đại Luân Minh Vương là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà cả gan xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy cũng là đệ tử nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, Minh Vương lại càng ngang ngược thêm. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như thế?”
Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng, chỉ sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại đột nhiên gia hại Đoàn Dự. Ngờ đâu Cưu Ma Trí sắc mặt vẫn điềm nhiên, nhã nhặn nói: “Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? Xin đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy chiêu, khiến tiểu tăng được thêm phần kiến thức.” Đoàn Dự đáp: “Ta không hiểu võ công, cũng chưa học võ bao giờ.” Cưu Ma Trí cười nói: “Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cao từ.” Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo, bàn tay từ bên trong đánh ra lập tức bốn đường Hỏa Diệm Đao phát xuất nhằm vào Đoàn Dự.
Đoàn Dự nào có hay biết gì, vẫn đứng ì ra. Bảo Định Đế và Bản Tướng cùng tung song chỉ đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diệm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng oẹ lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.
Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi: “Gã Phiên tăng kia! Mi thật không biết phải quấy là gì!” Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp.
Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc này ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đào kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa trỏ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe veo véo, một luồng nội hình cực kỳ hùng hậu vọt tới người Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí kinh hãi, vội vung chưởng lên dùng Hỏa Diệm Đao chặn lại.
Đoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến Khô Vinh cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu. Nhất là Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ. Chàng nghĩ thầm: “Việc này quả thực quái đản, ta chỉ tay quát mắng mà sao lão hòa thượng kia phải để hết tâm thần chống đỡ? Đúng rồi! Chắc là ta xuất chỉ đúng cách thức nên lão tưởng mình biết sử Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha! Đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Một chiêu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu? Để ta ra mấy đường Trung Xung Kiếm cho ngươi thêm phần kiến thức.” Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Chỉ pháp tuy đúng nhưng lần này không có kinh lực tiếp theo, thành ra chỉ là điểm hờ không hiệu quả chút nào.
Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế tiếp chiêu, ngờ đâu phát chỉ của đối phương không có kinh lực, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiếu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chi nữa vẫn rỗng tuếch như trước, trong bụng mừng thầm: “Trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người, làm mình sợ hết hồn.”
Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế, nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì đại danh Đại Luân Minh Vương bị tổn thương nhiều lắm, liền giơ tả chưởng chém trái chém phải luôn mấy cái để ngăn chặn Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự. Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diệm đao pháp, dường như Đoàn Dự phải cụt cánh tay phải. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt phóng chỉ điểm vào Cưu Ma Trí, đồng thời hoảng hốt kêu lên: “Coi chừng!”
Ba người xuất chiêu đều là những đòn thượng thừa, bắt buộc đối phương phải lui về tự cứu. Ngờ đâu Cưu Ma Trí đã vận nội kình phòng giữ những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết là nguy đến nơi rồi, chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ. Trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên phát xuất, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng đón tiếp Hỏa Diệm Đao. Dư kình vẫn còn phát ra những tiếng “vo vo”, phản kích lại Cưu Ma Trí. Lão hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, tay trái vung ra chặn đòn.
Đoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm, trong lòng đã hơi hiểu bí quyết, muốn ra chiêu phải có ý niệm trước, sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, chân khí mới vọt ra được. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, sau đường kiếm khí tung hoành liên miên bất tận.
Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, hết sức thúc đẩy nội kính chống đỡ. Trong gian phòng kiếm khí dọc ngang xen với đao kình bay lượn, xung kích chen lẫn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một mạnh, kiếm pháp cũng biến hóa khôn lường, Có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu, khiến y không biết đâu mà lần. Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không hết những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiến pháp, có lúc tùy ý vung loạn lên chứ nào có phải là tự chế ra chiêu mới? Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoàng hối hận, lão nghĩ thầm: “Không ngờ trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ trẻ tuổi như thế. Hôm nay Cưu Ma Trí này tự mình chuốc nhục vào thân”. Đột nhiên nghe “vu vu vu”, Cưu Ma Trí đánh liền ba đao kêu lên: “Hãy ngừng tay!”
Đoàn Dự chưa thể tùy ý thu phát chân khí. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay, chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ thẳng lên nóc nhà, bụng nghĩ thầm: “Ta khoan đánh tiếp, để xem y nói gì đã.”
Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.
Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn Lục Mạch Thần Kiếm tối cao thâm, nhưng công phu quyền cước binh khí thông thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí dù còn ẩn bảy tám chiêu biến hóa cao minh tiếp theo, nhưng so với Hỏa Diệm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bến nông sâu khó dễ không thể so được. Trên đời này không ai biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng Đoàn Dự là một biệt lệ trong võ học. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới với ngượng nghịu đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí lật bàn tay phải chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm nhũn, chân tay không cử động được nữa.
Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa luyện qua.
Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ công của Đoàn Dự nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng, nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Rủi thay, các huyệt đạo đó thuộc những kinh mạch Đoàn Dự chưa luyện tới.
Cưu Ma Trí lùi lại ba bước rồi nói: “Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh cũng như là đốt đồ hình.” Y giơ tả chưởng ra chém liền năm đao rồi thoáng một cái đã xách Đoàn Dự ra khỏi Mâu Ni Đường.
Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định rượt theo để cứu người đều bị ngũ đạo liên hoàn vây bọc, ngăn giữ không tiến lên được.
Cưu Ma Trí xách Đoàn Dự quăng ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn: “Mau đi thôi!” Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường chính mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh. Cưu Ma Trí liên tiếp huy động Hỏa Diệm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường.
Bọn Bảo Định Đế đều dùng Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn không sao phá vỡ lưới đao vô hình của đối phương.
Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, đắc ý cười một tràng dài nói: “Đốt đồ phổ chết sao bằng đốt đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh có bạn ở dưới suối vàng cũng dỡ tịch mịch.” Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cây cột của tòa Mâu Ni Đường. Lão thân hình hơi lắc một cái đã phi thân như một làn khói bay thoảng vào rừng, thoắt đã biệt dạng, không biết đi đằng nào.
Bảo Đinh Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất hút. Bảo Định Đế nói: “Đuổi theo mau!”. Gió lộng tăng bào phần phật, ông chưa nói xong đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi về hướng bắc.