Hư Trúc cả kinh tiến lên hai bước, Đồng Mỗ cũng vừa hô hoán vừa tiến về phía y. Bóng trắng khẽ cất tiếng hỏi: “Sư tỉ ở đây có mạnh giỏi chăng?”, thanh âm nữ nhân êm ái uyển chuyển rất dễ nghe. Hư Trúc lại tiến thêm hai bước, thấy nữ nhân áo trắng thân hình tha thướt, nhưng mặt được che bằng tấm lụa trắng nên không trông rõ tướng mạo. Hư Trúc nghe bà ta gọi Đồng Mỗ bằng sư tỉ, liền nghĩ rằng Đồng Mỗ đã có người nhà đến hộ vệ, sẽ không bắt mình ở lại nữa. Nhà sư mừng thầm, nhưng nhìn qua Đồng Mỗ thì thấy vẻ mặt mụ ta rất kỳ quái, nửa như kinh hãi nửa như căm hận, rõ ràng không hoan hỉ chút nào.
Đồng Mỗ lạng người đến bên Hư Trúc la hoảng: “Cõng ta lên núi cho mau!” Hư Trúc vẫn ngập ngừng: “Cái đó… tiểu tăng đã nói là không tiện mà!…” Đồng Mỗ cả giận, tát một phát vào mặt nhà sư rồi la lên: “Con tiện nhân đã đuổi tới nơi định làm hại ta. Ngươi không trông thấy hay sao?” Mụ ra tay không nhẹ, Hư Trúc mắt nổ đom đóm rồi nửa mặt sưng vù.
Người áo trắng nói: “Sư tỉ già rồi mà vẫn còn hay giận dữ ư? Người ta đã không muốn mà sư tỉ cứ ép buộc, nào đánh nào mắng là nghĩa lý gì? Tiểu muội khuyên sư tỉ, đối xử với người ta nên tử tế là hơn.” Hư Trúc xiết bao cảm kích, nghĩ thầm: “Bà này đồng môn cùng Đồng Mỗ và Vô Nhai Tử, mà sao tính tình chẳng giống Đồng Mỗ chút nào, nhã nhặn ôn hòa, thấu tình đạt lý.”
Đồng Mỗ vẫn không ngớt giục Hư Trúc: “Mau mau cõng ta chạy đi, trốn khỏi con tiện nhân này càng xa càng tốt. Ta nhất định không quên lòng tốt của ngươi, sẽ có ngày báo đáp.”
Nữ nhân áo trắng vẫn nhàn nhã bình thản, đứng yên một bên. Làn gió nhẹ nhàng lay động xiêm áo, trông bà phiêu diêu như một vị tiên. Hư Trúc tự hỏi: “Vị này hiền hòa văn nhã là thế, mà sao Đồng Mỗ lại có vẻ chán ghét sợ hãi?” Nữ nhân áo trắng lại hỏi: “Sư tỉ! Tỉ muội ta đã mấy chục năm trời chưa được gặp nhau, hôm nay mới được tái ngộ. Sư tỉ chẳng hân hoan, lại còn hốt hoảng bỏ đi là nghĩa làm sao? Tiểu muội tính ra mấy bữa nay là dịp sư tỉ phản lão hoàn đồng, trong lòng chỉ sợ bọn yêu ma quỷ quái thủ hạ của sư tỉ nhân cơ hội này làm phản, bèn đến cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu tìm sư tỉ để giúp một tay, nhưng lại không thấy sư tỉ ở đó.”
Đồng Mỗ thấy Hư Trúc không chịu cõng mình chạy trốn thì chẳng biết làm thế nào, hằn học đáp: “Ngươi tính đúng vào thời kỳ ta phải tán công mà tìm đến núi Phiêu Diểu có phải vì lòng tốt đâu? Phải chăng là để trả mối hận ngày trước? Nhưng ngươi không tính đến chuyện ông trời xui khiến cho có người đem ta xuống núi. Ngươi một phen uổng công, lại cố truy tìm đến đây phải chăng? Lý Thu Thủy! Hôm nay ngươi đến đây thì đã chậm mất mấy ngày. Tuy ta không địch lại ngươi, nhưng ngươi đừng tưởng là không mất hơi sức mà hại được thần công một đời của ta.”
Nữ nhân áo trắng đáp: “Sao sư tỉ lại nói thế? Tiểu muội lúc nào cũng nhớ sư tỉ, ngày nào cũng muốn đến cung Linh Thứu để vấn an. Nhưng mấy chục năm trước kia sư tỉ hiểu lầm tiểu muội rồi sinh dạ hoài nghi, lần nào gặp nhau sư tỉ cũng chưa kịp hỏi gì đã buông lời trách mắng. Tiểu muội một là sợ sư tỉ nổi nóng, hai là sợ sư tỉ đánh đập, nên chần chờ không dám đến thăm. Nếu sư tỉ cho rằng tiểu muội có ý bất lương, thì thật là quá đa nghi rồi.” Bà nói năng vừa giữ lễ vừa thân mật.
Hư Trúc Vốn biết tính tình Đồng Mỗ ngang ngược, bèn nghĩ rằng hai bà này một thiện một ác, chuyện hiềm khích năm xưa rõ ràng Đồng Mỗ là người sai trái.
Đồng Mỗ tức giận nói: “Lý Thu Thủy! Sự tình đã đến thế này, bữa nay ngươi đến đây hoa ngôn xảo ngữ châm chọc ta cũng chẳng ích gì! Ngươi hãy xem cái gì đây?” Nói xong mụ giơ tay trái lên, chìa cái nhẫn bảo thạch ra. Nữ nhân áo trắng tức là Lý Thu Thủy bỗng run lên, lạc giọng hỏi: “Đây là cái nhẫn thất bảo của chưởng môn… Sư tỉ lấy ở đâu ra?” Đồng Mỗ lại cười đáp: “Dĩ nhiên là chưởng môn trao lại cho ta… Ngươi đã biết rồi, còn hỏi làm gì?” Lý Thu Thủy chưng hửng một lát rồi hỏi: “Hừ! Y… y sao lại giao nhẫn cho sư tỉ? Nếu sư tỉ không ăn cắp, thì hẳn là cướp giật của y.”
Đồng Mỗ lớn tiếng nói: “Lý Thu Thủy! Chưởng môn phái Tiêu Dao truyền cho ngươi phải quì xuống nghe lệnh.”
Lý Thu Thủy nói: “Sư tỉ tự phong cho mình chức chưởng môn hay sao? Chắc là… chắc là sư tỉ đã ám hại y để cướp nhẫn thất bảo rồi.” Bà vốn là người hòa nhã, nhưng từ lúc trông thấy cái nhẫn thất bảo, không khỏi xúc động, lời nói đã ra chiều nóng nảy.
Đồng Mỗ nghiêm giọng hỏi: “Ngươi không chịu tuân theo mệnh lệnh của chưởng môn, muốn phản nghịch sư môn, có phải thế không?”
Đột nhiên một làn bạch quang lóe lên, thân hình Đồng Mỗ tung lên không rồi văng đi xa. Hư Trúc thất kinh hỏi: “Sao vậy?”, rồi bỗng thấy trên mặt tuyết có vết máu loang, một ngón tay của Đồng Mỗ bị chặt rớt xuống, cái nhẫn đã bị Lý Thu Thủy lấy được cầm trong tay. Thì ra Lý Thu Thủy dùng thủ pháp mau lẹ tuyệt luân chặt đứt ngón tay của Đồng Mỗ để đoạt chiếc nhẫn, rồi lại phóng chưởng hất mụ ra xa. Bà dùng thứ khí giới gì để chặt ngón tay Đồng Mỗ thì Hư Trúc không nhìn rõ được vì bà ra tay lẹ quá!
Bỗng nghe Lý Thu Thủy nói: “Sư tỉ đã ám hại y cách nào, nói thật cho tiểu muội nghe đi! Tiểu muội đối với sư tỉ tình nghĩa thâm trọng, quyết không làm khó sư tỉ đâu.” Bây giờ Lý Thu Thủy lấy được chiếc nhẫn bảo thạch rồi, giọng nói của bà ta trở lại ôn tồn.
Hư Trúc thấy bất nhẫn, lên tiếng nói: “Lý thí chủ! Hai vị là sư tỉ muội đồng môn, sao lại ra tay ác độc đến thế? Vô Nhai Tử lão tiên sinh không phải bị Đồng Mỗ gia hại đâu. Người xuất gia không biết nói dối, tiểu tăng không gạt thí chủ đâu.”
Lý Thu Thủy quay sang hỏi Hư Trúc: “Xin hỏi tiểu sư phụ pháp hiệu là gì? Xuất gia ở bảo tự nào? Tại sao lại biết danh hiệu sư huynh của ta?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng pháp danh là Hư Trúc, đệ tử chùa Thiếu Lâm. Vô Nhai Tử lão tiên sinh là… Ôi, chuyện này nói ra dài quá…” Đột nhiên Lý Thu Thủy phất tay áo một cái, hai đầu gối nhà sư chùn lại rồi cảm thấy tê nhức, khí huyết bỗng chạy ngược đường. Nhà sư ngã lăn ra kêu lên: “Ôi chao! Thí chủ làm gì thế? Tiểu tăng có làm gì đắc tội với thí chủ đâu, sao lại đả thương tiểu tăng?”
Lý Thu Thủy mỉm cười đáp: “Tiểu sư phụ đã là cao tăng phái Thiếu Lâm, tại hạ chỉ muốn thử công lực một chút mà thôi! Ôi! Tiếng tăm phái Thiếu Lâm lừng lẫy là thế, mà võ công phái này chỉ có thế thôi ư?”
Hư Trúc nằm dưới đất nhìn lên, thấy dung mạo Lý Thu Thủy sau tấm mạng che mặt tựa như một thiếu phụ ngoài bốn mươi tuổi, đôi mày rất xinh đẹp, nhưng trên má dường như có mấy ngấn máu, lại hình như có mấy vết sẹo to. Nhà sư sợ hãi đáp: “Tiểu tăng chỉ là một hòa thượng hạng bét tại chùa Thiếu Lâm. Tiền bối chẳng nên vì tiểu tăng bất tài mà mạt sát cả tệ phái.”
Lý Thu Thủy không lý gì đến y nữa, từ từ đến bên Đồng Mỗ, dịu dàng nói: “Sư tỉ ơi! Mấy năm nay tiểu muội nhớ sư tỉ biết chừng nào, may mà ông trời còn có mắt, tỉ muội ta còn được gặp nhau. Trước kia sư tỉ đối đãi cực kỳ tử tế, tiểu muội vẫn ghi nhớ ngày đêm…”
Đột nhiên một làn bạch quang lóe ra, Đồng Mỗ rú lên một tiếng bi thảm. Máu chảy thành vũng trên mặt tuyết, chân trái Đồng Mỗ đã bị chặt đứt lìa ra. Hư Trúc kinh hãi không sao nói hết, giận dữ quát hỏi: “Tỉ muội đồng môn mà thí chủ hạ thủ nhẫn tâm đến thế ư? Thí chủ… thí thủ thật là dã man không bằng cầm thú.”
Lý Thu Thủy từ từ quay đầu lại, kéo tấm khăn lên, để lộ bộ mặt trái xoan trắng nõn nà. Hư Trúc vừa nhìn thấy đã la lên một tiếng kinh ngạc, mặt bà bị kiếm rạch hai nét ngang hai nét dọc thành hình chữ “Tĩnh”. Vết thương đã làm cho mắt bên phải bà lồi ra ngoài, miệng méo xệch sang bên trái, bộ mặt xinh đẹp biến thành xấu xa khủng khiếp. Lý Thu Thủy nói: “Nhiều năm trước, có kẻ đã dùng mũi kiếm vạch vào mặt ta đến thế này. Tiểu sư phụ chùa Thiếu Lâm thử nghĩ xem có nên trả thù hay không?” Mụ nói xong lại từ từ kéo khăn xuống che mặt, Hư Trúc hỏi lại: “Là… là Đồng Mỗ đã hại thí chủ ư?” Lý Thu Thủy đáp: “Tiểu sư phụ hỏi y thử xem.”
Đồng Mỗ tuy máu chảy ra như suối mà vẫn không ngất xỉu, lên tiếng đáp: “Đúng rồi! Chính ta đã vạch vào mặt nó. Năm ta hai mươi sáu tuổi, luyện công sắp đến ngày thành tựu, thân thể có thể phát triển như một thiếu nữ bình thường. Nhưng lúc đó nó hại ta tẩu hóa nhập ma, thân thể vĩnh viễn thế này. Theo ngươi thì mối thù này có nên báo hay không?”
Hư Trúc ngước lên nhìn Lý Thu Thủy, nghĩ thầm: “Nếu Đồng Mỗ nói đúng sự thực, thì Lý Thu Thủy là người gây ác nghiệt trước.”
Đồng Mỗ lại nói: “Hôm nay ta đã lọt vào tay mi, nói nhiều cũng vô ích. Còn vị tiểu hòa thượng này là bạn vong niên với Vô Nhai Tử, mi không được động đến một sợi tóc. Nếu mi càn rỡ thì y không tha mi đâu.” Mụ nói xong, nhắm nghiền mắt lại, mặc cho địch nhân muốn giết muốn mổ thế nào cũng được.
Lý Thu Thủy thở dài đáp: “Sư tỉ đã lớn tuổi hơn mà cũng thông minh hơn, nhưng hôm nay muốn gạt tiểu muội thì không phải là chuyện dễ đâu. Sư tỉ đã nói y… y hiện nay hãy còn trên thế gian thì cái nhẫn thất bảo này sao lại lọt vào tay sư tỉ được? Vị tiểu sư phụ này với tiểu muội không thù không oán, vả lại tiểu muội vốn nhát gan, chẳng dám gây thù với phái Thiếu Lâm là núi Thái Sơn là sao Bắc Đẩu trong võ lâm. Tiểu muội không đả thương y đâu, sư tỉ đừng ngại gì hết. Tiểu muội có mang theo hai viên Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn, xin sư tỉ uống vào cho vết thương đừng chảy máu nữa.”
Hư Trúc nghe bà gọi một điều tỉ tỉ, hai điều tỉ tỉ, giọng nói cực kỳ thân thiết, nhưng nhớ lại lúc nãy Đồng Mỗ cũng bắt Ô Lão Đại uống hai viên Cửu Chuyển Hàng Xà Hoàn, bất giác trên lưng toát mồ hôi lạnh.
Đồng Mỗ nổi giận nói: “Ngươi muốn giết ta thì cứ việc động thủ, còn muốn ép ta uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn để hành hạ sỉ nhục thì đừng có nằm mơ.” Lý Thu Thủy dịu dàng đáp: “Tiểu muội một lòng kính ái mà tỉ tỉ cứ hiểu lầm hoài. Vết thương trên chân tỉ tỉ chảy máu nhiều quá xem chừng bất ổn, tỉ tỉ uống hai viên thuốc này là hơn.” Hư Trúc nhìn tay bà ta, những ngón tay tháp bút trắng như ngọc đang cầm hai viên thuốc màu vàng, giống hệt như thuốc mà Ô Lão Đại uống lúc trước. Nhà sư nghĩ thầm: “Đồng Mỗ vừa tác ác, nghiệp báo đã nhỡn tiền thật là mau lẹ.”
Đồng Mỗ la lên: “Tiểu hòa thượng! Ngươi phóng chưởng đánh vào đỉnh đầu cho ta chết đi, đừng để con tiện nhân này bắt ta phải chịu đau đớn nhục nhã nữa.” Lý Thu Thủy cười nói: “Tiểu sư phụ mệt lắm rồi, bây giờ phải nằm nghỉ một chút.” Đồng Mỗ tức quá, trong ngực đau nhói lên, thổ ra một búng máu. Lý Thu Thủy lại nói: “Sư tỉ chân dài chân ngắn, nếu để y trông thấy thì thật khó coi. Một vị mỹ nhân như sư tỉ mà bên cao bên thấp thì hóa ra lệch lạc, tất y không khỏi chán ghét. Để tiểu muội giúp sư tỉ cân đối cho hai chân bằng nhau.” Bà vừa dứt lời, ánh bạch quang lóe lên, trong tay đã cầm khí giới.
Lần này Hư Trúc nhìn rõ bà ta cầm một lưỡi trủy thủ trong suốt, dường như chế bằng thủy tinh, Lý Thu Thủy cố kéo dài cuộc hành hạ Đồng Mỗ cho thêm khủng khiếp bõ ghét, nên không ra tay mau lẹ, cứ cầm lưỡi trủy thủ nhắp lên nhắp xuống trước chân phải Đồng Mỗ.
Hư Trúc cả giận nghĩ thầm: “Mụ này thật là tàn nhẫn.” Trong lòng y khích động mãnh liệt, Bắc Minh Chân Khí trong thân thể cuồn cuộn xông lên, lập tức y cảm thấy hai chân mình tự giải khai huyệt đạo, hành động không bị trở ngại gì nữa. Hư Trúc không nghĩ gì nhiều, xông lại ẵm Đồng Mỗ lên, hướng về phía đỉnh núi mà chạy.
Lúc Lý Thu Thủy dùng kỹ thuật Hàn Tụ Phất Huyệt hất ngã Hư Trúc, bà đã biết võ công nhà sư rất tầm thường nên chẳng coi vào đâu, rồi bỏ mặc nhà sư nằm đó để quay lại hành hạ Đồng Mỗ. Lý Thu Thủy cho rằng có thêm người chứng kiến thì sự hành hạ của mình lại thêm mấy phần hứng thú, định bụng chờ đến sau cùng mới hạ sát nhà sư để diệt khẩu. Ngờ đâu nhà sư tự giải khai được huyệt đạo, bất thình lình ôm Đồng Mỗ, chạy xa tới năm sáu trượng. Lý Thu Thủy rảo bước đuổi theo, cười nói: “Tiểu sư phụ đã bị sư tỉ của ta làm cho mê mẩn tâm thần rồi chăng? Sư tỉ của ta tuy là nguyệt thẹn hoa nhường, nhưng đã chín mươi sáu tuổi rồi, không phải là một vị cô nương mười bảy mười tám đâu nhé!” Bà ỷ mình có bản lĩnh cao cường, cho là chỉ trong khoảnh khắc sẽ đuổi kịp. Bà ta vừa đuổi vừa nghĩ: “Thằng trọc con này mà có luyện công từ lúc còn trong bụng mẹ, thì cũng có hơn hai chục năm công lực là cùng.” Ngờ đâu khoảng cách chỉ chừng năm sáu trượng mà Lý Thu Thủy đuổi mãi vẫn không kịp. Bà vừa kinh ngạc vừa tức giận gọi: “Tiểu sư phụ! Nếu tiểu sư phụ không chịu dừng lại thì ta sẽ phóng chưởng đánh cho bị thương.”
Đồng Mỗ biết sư muội mình võ công biến ảo khôn lường, chỉ phóng vài phát chưởng là lấy mạng Hư Trúc ngay, rồi mình cũng lọt vào tay hắn. Mụ liền nói: “Tiểu sư phụ! Đa tạ ngươi có lòng tốt cứu ta, nhưng chúng ta không địch nổi con tiện nhân kia đâu. Ngươi quẳng ta xuống núi cho rồi, không chừng hắn không sát hại ngươi nữa.”
Hư Trúc đáp: “Không… thể nào thế được.” Nhà sư chỉ nói mấy tiếng mà chân khí đã tiết ra, chạy chậm lại một chút, nên Lý Thu Thủy đuổi đến nơi. Đột nhiên nhà sư thấy từ sau lưng thổi tới một luồng gió lạnh buốt như một khối băng áp vào da thịt, rồi lao đi không gượng được, thân thể rớt xuống khe núi. Y biết mình đã bị Lý Thu Thủy dùng chưởng lực âm hàn đánh trúng, nhưng hai tay vẫn ôm chặt Đồng Mỗ, để người rớt xuống, nghĩ thầm: “Rớt xuống đây thì xương thịt sẽ tan nát ra như một đống bùn.”
Hư Trúc còn văng vẳng nghe tiếng Lý Thu Thủy vọng từ trên núi xuống: “Chao ôi! Ta xuất thủ nặng quá, thế là khoan hồng cho mụ mất rồi.” Thì ra ngọn núi này có một cái khe, nhưng tuyết phủ lấp nên không nhìn thấy. Lý Thu Thủy chỉ dự định phóng chưởng cho Hư Trúc ngã ra, rồi bắt lấy Đồng Mỗ, dùng những phương pháp cực kỳ tàn ác để hành hạ. Không ngờ Hư Trúc trượt chân trên mặt tuyết, rồi cùng Đồng Mỗ rớt xuống khe núi.
Hư Trúc chỉ thấy người mình chơi vơi, không tự chủ được, đành để cho rơi thẳng xuống, bên tai nghe tiếng gió vù vù. Tuy khoảng thời gian này chỉ trong chớp nhoáng mà nhà sư tưởng chừng như dài vô tận, vĩnh viễn không tới nơi. Trước mắt y chỉ thấy làn tuyết trắng xóa trên sườn núi như vù vù xô tới mình nhanh đến chóng mặt, nhưng mắt y bỗng hoa lên, thấy trong đám tuyết có mấy chấm đen đang chuyển động. Nhà sư chưa kịp nhìn kỹ thì đã rơi gần đến đất.
Bất thình lình có tiếng người hỏi: “Ai đó?”, rồi một đạo kình lực chạm vào lưng Hư Trúc, đẩy ngang ra. Hư Trúc chưa chạm đất đã bắn chênh chếch ra, giật mình liếc thấy người vừa ra tay đẩy mình là Mộ Dung Phục. Hư Trúc cả mừng, toan liệng Đồng Mỗ ra cho Mộ Dung Phục nhận lấy, cứu được một mạng.
Thì ra Mộ Dung Phục thấy hai người từ trên ngọn núi té nhào xuống không biết là ai, liền xuất tuyệt kỹ gia truyền Đẩu Chuyển Tinh Di, đổi chiều đà rớt xuỗng thành tạt ngang ra. Chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di này y vẫn chưa hết kình lực, mà lực đạo của hai người rơi xuống lại quá mãnh liệt, Mộ Dung Phục tức thì choáng váng hoa mắt, muốn ngồi thụp xuống.
Hư Trúc tuy muốn tung Đồng Mỗ ra, nhưng bị lực đạo quá mạnh đè ép nên không thể tung ra được, bay ra mười mấy trượng rồi lại rớt xuống. Đột nhiên chân nhà sư đáp vào một vật gì vừa mềm nhũn vừa đàn hồi nghe “bịch” một tiếng, thân thể lại bắn lên không. Trong nháy mắt, y nhìn thấy một người thấp lủn thủn mà béo tròn như quả bóng nằm lăn ra đó, rõ ràng là Tang Thổ Công. Chuyện ngẫu nhiên này thật là kỳ lạ! Hư Trúc lúc rớt xuống đáp hai chân vào bụng y, y lập tức vỡ bụng lòi ruột chết liền, nhưng cũng nhờ thế mà hai chân Hư Trúc không đến nỗi bị gãy nát. Hư Trúc bị hất văng ra không tự chủ được, bay ngang đi, xông vào một người lờ mờ trông như Đoàn Dự. Hư Trúc la lên: “Đoàn tướng công! Mau mau tránh ra, tiểu tăng đang bay tới đó.”
Đoàn Dự thấy Hư Trúc bay tới rất gấp, chắc mình không đỡ nổi, nhưng cũng la lên: “Để ta đỡ ngươi” rồi quay lưng lại hứng lấy, đồng thời chuyển thân sử dụng phép Lăng Ba Vi Bộ chạy về phía trước. Trong giây lát, Đoàn Dự cảm thấy trên lưng bị đè ép cơ hồ nghẹt thở, nhưng mỗi lần cất bước chân, luồng lực đạo trên lưng lại giảm bớt đi một chút, bèn cứ thế chạy hơn ba chục bước. Hư Trúc từ trên lưng Đoàn Dự nhẹ nhàng tuột xuống.
Hai người từ trên cao mấy trăm trượng rớt xuống, đầu tiên được Mộ Dung Phục ra chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di lái chếch đi đã giảm sức mạnh được một phần, kế đó được da bụng Tang Thổ Công hất lên, cuối cùng được Đoàn Dự cõng trên lưng chạy vòng vèo, qua ba lần chuyển tiếp mới hạ xuống đất nên chẳng bị thương chút nào. Hư Trúc đứng thẳng người lên nói: “A Di Đà Phật! Đa tạ các vị đã cứu cho!” Y không biết mình vừa đạp chết Tang Thổ Công, nếu không chắc sẽ áy náy vô cùng. Bỗng thấy có tiếng la từ trên sườn núi vọng xuống. Đồng Mỗ từ lúc bị chặt chân, tuy mất máu nhiều, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, kinh hãi nói: “Nguy rồi! Con tiện nhân lại đuổi tới nơi. Chạy mau đi! Chạy mau đi!” Hư Trúc nghĩ đến Lý Thu Thủy lòng dạ độc ác, thủ đoạn tàn nhẫn, thì bất giác rùng mình, vội ôm xốc Đồng Mỗ lên chạy vào trong rừng.
Lý Thu Thủy theo sườn núi chạy xuống, dù khinh công bà mau lẹ vô cùng, nhưng so với Hư Trúc rớt thẳng xuống thì dĩ nhiên không bằng được. Thực ra bà còn cách rất xa, nhưng Hư Trúc sợ hãi quá, chạy như bay như biến không dám dừng lại chút nào. Chạy hơn một trăm dặm nữa, Đồng Mỗ đột nhiên lên tiếng: “Ngươi buông ta xuống, xé áo buộc vết thương lại, dừng để vết máu cho địch nhân biết đường mà đuổi. Ngươi lại điểm vào hai huyệt đạo Hoàn Khiêu và Thừa Môn cho máu ngưng chảy.” Hư Trúc đáp: “Vâng”, rồi làm theo lời mụ, vẫn nơm nớp lắng tai nghe xem Lý Thu Thủy có động tĩnh gì không. Đồng Mỗ móc trong bọc ra một viên thuốc sắc vàng uống ngay rồi nói: “Con tiện nhân kia đối với ta có một mối thù sâu tựa bể, thể nào hắn cũng không chịu buông tha đâu. Ta còn phải bảy mươi chín ngày nữa mới hoàn nguyên được, lúc đó thì không sợ gì hắn. Nhưng trong bảy mươi chín ngày này, ta trốn đâu cho được bây giờ?”.
Hư Trúc cũng gãi đầu, nghĩ: “Biết trốn ở đâu được bảy mươi chín ngày?” Bỗng nhiên Đồng Mỗ lẩm bẩm: “Chùa Thiếu Lâm là nơi ẩn náu tuyệt diệu hơn hết.” Hư Trúc nghe vậy sợ quá, giật bắn người lên. Đồng Mô tức giận nói: “Gã hòa thượng chết đâm này, sao ngươi phải sợ đến thế? Từ đây đến chùa Thiếu Lâm đường xa ngàn dặm, làm sao tới đó được?” Rồi mụ nghiêng đầu đi nói: “Từ đây đi thẳng về phía Tây, chỉ hơn trăm dặm nữa là đến nước Tây Hạ. Con tiện nhân kia có mối quan hệ sâu xa với nước này, nếu hắn quay về ra lệnh cho bọn cao thủ trong Nhất Phẩm Đường chia nhau đi lùng bọn ta, thì khó mà tránh khỏi độc thủ của chúng. Tiểu hòa thượng! Ngươi tính chúng ta trốn đi đâu cho phải?” Hư Trúc đáp: “Chúng ta tìm những sơn động nơi rừng sâu núi thẳm mà trốn thì trong vòng bảy tám chục ngày vị tất lệnh sư muội đã tìm được đến nơi.” Đồng Mỗ nói: “Ngươi chẳng có kiến thức chút nào. Con tiện nhân đó mà không tìm được chúng ta, nhất định quay về Tây Hạ gọi đàn chó săn, hơn bảy ngàn con chó ngao thính mũi vô cùng, bất luận chúng ta nấp ở đâu thì chúng cũng tìm được lôi về.” Hư Trúc nói: “Vậy thì chúng ta chạy về hướng Đông Nam, càng xa nước Tây Hạ chừng nào càng tốt chừng ấy.”
Đồng Mỗ hắng giọng nói: “Con tiện nhân kia rất nhiều tai mắt. Hướng Đông Nam chắc thị đã bố trí vô số nhân mã.” Mụ trầm ngâm một chút, đột nhiên vỗ tay nói tiếp: “Được rồi! Thế Trân Lung bí hiểm bữa trước ngươi phá được đó, nước đầu tiên tuyệt diệu ở chỗ nào?” Hư Trúc đang gặp lúc vô cùng nguy ngập, còn đầu óc nào mà nghĩ đến cách bình luận thế cờ. Nhà sư liền đáp: “Tiểu tăng nhắm mắt đặt liều con cờ xuống, lấp mất lối thoát của bên mình, tự giết mất một số lớn quân.”
Đồng Mỗ cả mừng nói: “Phải rồi! Mấy chục năm nay biết bao nhiêu bậc thông minh tài trí gấp trăm ngươi mà chẳng ai phá nổi thế cờ bí hiểm, chỉ vì chẳng ai dám lẩn vào đường chết. Tiểu hòa thượng! Ngươi cõng ta nhảy lên ngọn cây; mau mau chạy về phía Tây, thế là tuyệt diệu.” Hư Trúc hỏi: “Tiền bối định chạy tới đâu?” Đồng Mỗ đáp: “Chúng ta đi đến nơi cực kỳ nguy hiểm mà không ai ngờ tới. Phải đặt mình vào tuyệt địa thì mới sống được, cần phải mạo hiểm một phen.”
Hư Trúc nhìn chân mụ, buông một tiếng thở dài rồi lẩm bẩm: “Mụ đã không đi được nữa, mình chẳng mạo hiểm thì cũng không còn cách nào khác.” Nhà sư thấy Đồng Mỗ bị trọng thương, nên chẳng nghĩ gì đến “nam nữ thọ thọ bất thân” nữa, bèn cõng mụ nhắm hướng Tây mà chạy.
Nhà sư chạy một hơi mười dặm, chợt nghe có thanh âm uyển chuyển từ xa vọng lại: “Tiểu hòa thượng! Tiểu hòa thượng ngã xuống đã chết chưa? Sư tỉ ơi! Sư tỉ ở chỗ nào? Tiểu muội nhớ sư tỉ vô cùng! Mau mau ra đây với tiểu muội!” Hư Trúc nhận ra thanh âm Lý Thu Thủy thì sợ hãi quá, hai chân nhũn ra, suýt nữa từ trên ngọn cây té xuống.
Đồng Mỗ cất tiếng mắng: “Thằng trọc ngu ngốc vô dụng này, có gì đáng sợ đâu? Ngươi phải nghe thấy tiếng con tiện nhân mỗi lúc một xa, như vậy có phải hắn đang rượt về phía Đông mà mình đang chạy về phía Tây không?”
Hư Trúc để ý nghe kỹ, quả nhiên tiếng gọi của Lý Thu Thủy mỗi lúc một xa dần, lại càng bội phục Đồng Mỗ là người khôn ngoan tinh tế. Y ngập ngừng hỏi: “Bà ấy… sao bà ấy biết chúng ta trên sườn núi cao rớt xuống vực thẳm sâu hàng trăm trượng mà chưa chết?” Đồng Mỗ đáp: “Dĩ nhiên là hắn hỏi những người ở đó.” Mụ ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Mấy chục năm nay, mỗ mỗ chỉ ở trên núi Phiêu Diểu, không hạ sơn lần nào, thành ra không biết võ học trên đời ngày nay tiến triển mau lẹ đến thế? Gã thanh niên công tử kia biết cách hóa giải thế mạnh của chúng ta từ trên cao rớt xuống, dùng phép tá lực đả lực phóng chưởng ra mượn sức người để hất đi, đã đến độ xuất thần nhập hóa. Thế rồi lại còn một thằng lỏi nữa không hiểu là ai mà lại biết phép Lăng Ba Vi Bộ…” Mụ tự hỏi mình, chứ không hỏi gì đến Hư Trúc. Hư Trúc cũng sợ Lý Thu Thủy đuổi kịp, nên chỉ đề khí cắm đầu cắm cổ chạy, chẳng buồn để lọt tai những lời bình luận của Đồng Mỗ.
Hư Trúc đã chạy dưới đất rồi, nhưng vẫn phải tìm những lối đi nhỏ hẹp. Đêm đến hai người chui vào bụi rậm mà ngủ, sáng hôm sau lại đi sớm. Đồng Mỗ vẫn chỉ về phía Tây mà chạy. Hư Trúc chợt nhớ ra, hỏi: “Tiền bối! Mình cứ chạy về phía Tây, chẳng bao lâu nữa sẽ chạy vào địa phận nước Tây Hạ thì làm thế nào? Tiểu tăng nghĩ rằng chúng ta đừng chạy về phía Tây nữa.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi: “Tại sao chúng ta không nên chạy về phía Tây?” Hư Trúc đáp: “Chẳng may mình chạy vào địa phận nước Tây Hạ, chẳng phải là tự chui đầu vào bẫy hay sao? Đồng Mỗ nói: “Chỗ ngươi đang chạy đây cũng là bờ cõi nước Tây Hạ rồi đó…”
Hư Trúc thất kinh la hoảng: “Sao? Chỗ này là đất Tây Hạ rồi ư? Tiền bối đã… đã nói lệnh sư muội có thế lực rất lớn ở nước Tây Hạ kia mà?” Đồng Mỗ cười đáp: “Phải rồi! Tây Hạ là nơi con tiện nhân đó mặc sức hoành hành, muốn làm mưa làm gió thế nào cũng được. Chúng ta xông thẳng vào nơi trọng địa của hắn mới là diệu kế. Không khi nào hắn đoán ra được mình ngồi yên ổn trong sào huyệt của hắn để tu luyện, hắn cứ việc đi khắp nơi mà tìm mà kiếm.” Mụ lấy làm đắc ý, bật lên một tràng cười khanh khách, rồi nói tiếp: “Tiểu hòa thượng! Đây là ta đã học được ngươi, một nước cờ ngu ngốc chẳng hợp lý chút nào mà lại thành ra nước cờ tuyệt diệu.”
Hư Trúc trong lòng bội phục, cất tiếng khen: “Tiền bối liệu việc như thần, quả nhiên không ai biết đâu mà lường được. Có điều…” Đồng Mỗ hỏi: “Có điều làm sao?” Hư Trúc đáp: “Nơi trong địa của Lý Thu Thủy chỉ sợ còn nhiều người khác. Nếu bọn họ khám phá ra hành tung của mình thì…” Đồng Mỗ đằng hắng ngắt lời: “Hừ! Nếu là chỗ không có ai thì sao gọi là mạo hiểm được? Có dấn thân vào chỗ cực kỳ nguy hiểm mới đáng mặt anh hùng hảo hán.” Hư Trúc lẩm bẩm: “Giả tỉ vì việc cứu nhân độ thế thì có dấn thân vào nơi nguy hiểm cũng chẳng sao. Nhưng mụ này cùng Lý Thu Thủy kẻ tám lạng người nửa cân, chẳng ai là người tốt. Mình mạo hiểm vì mụ thì thật là phí công vô ích!”.
Đồng Mỗ thấy vẻ mặt Hư Trúc phân vân dường như có ý hối tiếc, đoán ra ý nghĩ của y liền nói: “Ta bảo ngươi mạo hiểm cho ta, thì sẽ đền bồi cho ngươi, không để ngươi khó nhọc vô ích đâu. Ta sẽ dạy cho ngươi ba đường chưởng pháp, ba đường cầm nã thủ pháp. Hai lộ công phu này gọi chung là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.”
Hư Trúc nói: “Tiền bối trọng thương chưa khỏi, chẳng nên phí sức nhọc lòng, hãy nghỉ ngơi ít lâu là hơn.” Đồng Mỗ đảo mắt nhìn nhà sư rồi nói: “Ngươi chê bai công phu của ta thuộc bàng môn tả đạo nên không muốn học phải chăng?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó… tiểu tăng không có ý nghĩ như vậy đâu. Tiền bối đừng hiểu lầm!” Đồng Mỗ nói: “Ngươi là người đích truyền của phái Tiêu Dao, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là võ công thượng thừa của bản môn, sao ngươi không học?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối là đệ tử Thiếu Lâm, không có can hệ gì đến phái Tiêu Dao hết.”
Đồng Mỗ nói: “Hừ! Nội lực trong người ngươi là của phái Tiêu Dao, còn nói là không liên can gì ư? Thật là ăn nói hồ đồ. Thiên Sơn Đồng Mỗ từ xưa đến nay không làm những việc lợi cho người mà không lợi cho mình. Ta dạy võ công cho ngươi là vì muốn mượn tay ngươi kháng cự cường địch. Ngươi mà không học sáu chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì chắc chắn bỏ mạng ở Tây Hạ”. Hư Trúc đáp: “Vâng.” Y thấy mụ này tuy chẳng lương thiện gì, nhưng quang minh lỗi lạc có sao nói vậy, có thể nói là chân tiểu nhân.
Đồng Mỗ bèn đem khẩu quyết của chiêu đầu tiên trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ ra dạy cho Hư Trúc. Khẩu quyết này có mười hai câu, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng là tám mươi tư chữ. Hư Trúc có trí nhớ rất tốt, Đồng Mỗ chỉ đọc ba lượt là y đã nhớ hết. Nhưng tám mươi tư chữ này âm vận rất khó đọc, bảy chữ bình thanh lại kế đến bảy chữ trắc thanh, tựa như những bài vè để đố nhau đọc nhanh. May mà Hư Trúc đã quen đọc những câu đại loại như “Thích Bản đa, bát đản la”, “Kiết đế, kiết đế, ma ha táng kiết đế” trơn như cháo chảy nên cũng thuận lợi phần nào.
Đồng Mỗ nói: “Ngươi cõng ta nhằm phía Tây mà chạy, vừa chạy vừa đọc lại khấu quyết.” Hư Trúc làm theo lời mụ, không ngờ chỉ đọc được ba chữ đầu, đến chữ thứ tư là chữ “Phù” thì không sao thốt ra, phải dừng bước lấy hơi mới đọc lên được. Đồng Mỗ giơ tay lên vỗ vào đỉnh đầu y rồi mắng: “Hòa thượng nhóc vô dụng! Mới câu đầu mà đã đọc không ra.” Mụ vỗ không mạnh lắm nhưng trúng ngay huyệt Bách Hội, Hư Trúc lạng người đi một cái, đầu óc choáng váng. Y đọc lại khẩu quyết, lại đến chữ thứ tư thì bị vấp. Đồng Mỗ lại đập nhà sư một chưởng nữa.
Hư Trúc kinh ngạc tự hỏi: “Sao mình cứ đọc đến chữ Phù là bị vấp không nói ra được?” Y đề tụ chân khí đầy đủ, lại đọc lần thứ ba, chữ “Phù” bật ra khỏi miệng. Đồng Mỗ cười nói: “Tốt lắm! Qua được một cửa rồi!” Thì ra bài khẩu quyết này gồm toàn những cấu trúc trắc khó đọc, không nhịp nhàng theo sự hô hấp bình thường. Ngay lúc ngồi yên đã khó đọc lên, huống chi nhà sư vừa chạy vừa đọc nên càng khó phát âm hơn nữa. Học bài khẩu quyết này cũng là một phương pháp để điều hòa chân khí.
Đến giờ ngọ, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc đặt mụ xuống. Mụ nhặt một viên đá nhỏ, bật ngón tay trỏ đánh véo một cái, bắn lên không trung trúng một con quạ rớt xuống. Mụ bắt lấy, hút máu tươi, rồi ngồi luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn. Đồng Mỗ lúc này đã khôi phục công lực bằng lúc mười bảy tuổi, so với Lý Thu Thủy thì chưa vào đâu, nhưng đã đủ sức bật ngón tay bắn con quạ rơi xuống một cách dễ dàng.
Đồng Mỗ luyện công xong, lại bảo Hư Trúc cõng mình lên đọc khẩu quyết. Lúc y đọc được trôi chảy rồi, mụ bảo y đọc ngược lại. Bài khẩu quyết này đọc xuôi vốn đã khó khăn, đọc ngược lại càng không phải chuyện dễ dàng. Nhưng Hư Trúc là người nghị lực có thừa, học chưa đến tối đã xong, đọc bài khẩu quyết này bất luận xuôi hay ngược đều rõ ràng minh bạch.
Đồng Mỗ cả mừng nói: “Tiểu hòa thượng! Thế là được rồi…” Đột nhiên giọng mụ lạc đi, hai tay túm chặt lấy đầu Hư Trúc vừa lắc vừa đánh, miệng quát mắng om sòm: “Thằng giặc vô lương tâm này! Ngươi… ngươi… đã làm trò đồi bại với con tiện nhân kia rồi. Quân tiểu tặc còn định che mắt ta, lừa gạt ta ư?”
Hư Trúc cả kinh vội buông mụ xuống hỏi: “Tiền bối! Tiền bối… bảo sao?” Mặt Đồng Mỗ tím bầm lại, hét lên: “Mi đã tư thông với con tiện nhân Lý Thu Thủy rồi phải không? Mi còn cãi nữa thôi? Mi đã chịu thừa nhận chưa? Nếu không thế thì sao nó lại đem Tiểu Vô Tướng Công truyền cho mi? Đồ tiểu tặc! Mi… mi làm cho ta đau khổ biết chừng nào.” Hư Trúc không hiểu gì hết, xoa đầu hỏi lại: “Tiền bối! Tiểu Vô Tướng Công là cái gì?” Đồng Mỗ thộn mặt ra rồi định thần lại, lau ráo nước mắt, thở dài nói: “Không có gì. Sư phụ ngươi đối với ta không tốt.”
Thì ra Hư Trúc đọc bài khẩu quyết khó khăn này lưu loát khác thường, lúc tập đọc ngược lại càng trôi chảy. Đồng Mỗ bất giác tưởng y đã luyện môn Tiểu Vô Tướng Công. Tuy mụ cùng Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy ba người cùng học một thầy, nhưng mỗi người có một tuyệt nghệ riêng, sở học có nhiều điểm không giống nhau. Sư phụ chỉ truyền môn Tiểu Vô Tướng Công cho một mình Lý Thu Thủy. Đó là một môn thần công lợi hại vô cùng, Đồng Mỗ đã mấy lần ám hại, nhưng Lý Thu Thủy nhờ môn Tiểu Vô Tướng Công mà giữ được mạng. Đồng Mỗ tuy không hiểu môn này, nhưng chỗ diệu dụng của nó thế nào mụ đã biết hết. Bây giờ mụ phát giác ra trong người Hư Trúc chẳng những có thần công này mà công lực lại rất thâm hậu, bèn tưởng Hư Trúc là Vô Nhai Tử đã phản bội mình, tư thông với Lý Thu Thủy nên mới biết Tiểu Vô Tướng Công, bèn đánh mắng y một chặp. Lúc Đồng Mỗ tỉnh ra thì vừa căm giận, vừa tự thương thân mình.
Đêm hôm ấy Đồng Mỗ nặng lời thóa mạ Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy suốt đêm. Hư Trúc tuy nghe mụ chửi rủa độc mồm độc miệng, nhưng y thấy tình cảnh của mụ cũng vô cùng thống khổ nên rất thông cảm, lại đâm ra thương hại. Hư Trúc bèn kiếm lời khuyên can Đồng Mỗ: “Tiền bối! Nhân sinh vô thường, vô thường thị khổ. Người ta chịu khổ phần nhiều là do ba cái độc tham, sân, si mà ra. Giả tỉ tiền bối cố gắng tự tiêu trừ ba cái độc này, đừng nhớ đừng hận sư đệ sư muội của tiền bối nữa, thì trong lòng sẽ thấy dễ chịu hơn.” Đồng Mỗ cả giận mắng: “Ta phải nhớ đến tên sư phụ vô lương tâm của ngươi, phải hận đến tên sư thúc ti tiện không biết xấu hổ của ngươi. Ta càng nhớ càng hận thì càng phiền não, càng thấy nhẹ lòng hơn.” Hư Trúc lắc đầu, không dám nói thêm nữa.
Hôm sau Thiên Sơn Đồng Mỗ lại truyền thụ cho Hư Trúc khẩu quyết về chưởng pháp thứ hai. Đến buổi chiều ngày thứ năm, hai người bỗng thấy phía trước có một tòa thành lớn. Đồng Mỗ nói: “Đây là Linh Châu, thành đô nước Tây Hạ. Ngươi còn mấy khẩu quyết về phép cầm nã chưa thuộc hết. Đêm nay chúng ta phải tạm trú ngoài cửa Tây thành Linh Châu, sáng mai đi tiếp hai trăm dặm nữa rồi mới quay lại thành.” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Sao chúng ta phải quay lại Linh Châu?” Đồng Mỗ đáp: “Đương nhiên phải đến Linh Châu, không thì sao gọi là vào nơi hiểm địa được?”
Lại một ngày nữa, Hư Trúc đã thuộc hết khẩu quyết về sáu chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ. Đồng Mỗ nhân lúc ở ngoài cánh đồng rộng, lại dạy cho y cách áp dụng những khẩu quyết đó, vì mụ bị đứt một chân nên phải ngồi bệt xuống đất để chỉ điểm. Thiên Sơn Chiết Mai Thủ tuy chỉ có sáu chiêu nhưng bao hàm hết tinh túy về võ học của phái Tiêu Dao. Trong chưởng pháp và cầm nã thủ lại bao gồm cách phá giải những tuyệt chiêu về kiếm pháp, đao pháp, tiên pháp, chưởng pháp, trảo pháp, cùng những binh khí khác. Vì môn này biến hóa thâm diệu rất là phức tạp nên Hư Trúc không thể trong một lúc mà học quá nhiều. Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Vĩnh viễn không có ai học được hoàn toàn môn Thiên Sơn Chiết Mai Thủ của ta. Sau này nội công ngươi càng cao thì hiểu biết càng rộng, bất luận là những chiêu thức võ công nào trong thiên hạ, ngươi chỉ dùng sáu chiêu Chiết Mai Thủ là hóa giải được hết. Khẩu quyết thì ngươi đã thuộc lòng cả rồi. Từ nay trở đi, đạt tới trình độ nào là tùy ở ngươi.”
Hư Trúc đáp: “Sở dĩ vãn bối học mấy chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là vì lý do bảo vệ cho tiền bối mà thôi. Đến khi tiền bối phục hồi toàn bộ võ công, vãn bối sẽ quay về chùa, cố gắng quên hết võ công của tiền bối dạy cho, tập luyện võ công Thiếu Lâm lại từ đầu.”
Thiên Sơn Đồng Mỗ ngó qua ngó lại khuôn mặt Hư Trúc, tựa hồ như đang thấy một quái vật gì hiếm thấy trên đời, nét mặt ra chiều kinh dị. Hồi lâu mụ mới thở dài nói: “Thiên Sơn Chiết Mai Thủ của ta so với võ công phái Thiếu Lâm còn cao thâm ảo diệu hơn nhiều. Ngươi cố gắng ghi nhớ những khẩu quyết mà ta đã dạy, sau này sẽ luyện thành vô địch thiên hạ, còn cứ khư khư giữ lấy phái Thiếu Lâm thì chẳng khác gì bỏ ngọc quý để giữ lấy một mảnh ngói tầm thường, thật là ngu dốt hết chỗ nói! Ngươi quả không phải là một tên tiểu hòa thượng vong bản, dễ dàng quên nguồn gốc. Bây giờ hãy nhắm mắt nghỉ ngơi một chút, chờ tối hẳn sẽ vào thành Linh Châu.”
Vào khoảng canh hai đêm ấy, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc cõng mình lên vai, chạy thẳng tới thành Linh Châu. Đến nơi, nhà sư liền nhảy lên tường thành, từ từ hạ mình xuống. Trong ngoài thành đều phòng bị rất nghiêm mật, từng đội kỵ binh thiết giáp cầm đuốc đi lại tuần tiễu. Quân đội nước Tây Hạ binh cường mã tráng, uy thế cực thịnh. Chuyến này Hư Trúc ra khỏi chùa xuống núi, dọc đường đã gặp quân Tống nhan nhản, nhưng so với quân đội Tây Hạ thì thấy còn kém xa.
Đồng Mỗ thì thầm chỉ điểm, bảo y nhắm hướng tây bắc mà đi sát vào chân tường. Hư Trúc đi chừng được hơn ba dặm, bỗng thấy lầu viện cao ngất trời, nhà cửa san sát, kiến trúc cực kỳ hùng vĩ. Trên nóc nhà lợp bằng ngói lưu ly, ánh sáng chói lọi. Hư Trúc thấy những tòa nhà này cũng tương tự như những lầu viện trong chùa Thiếu Lâm nhưng rực rỡ xa hoa hơn nhiều. Y khẽ nói: “A di đà Phật! Thì ra nơi đây cũng có một ngôi chùa lớn.” Đồng Mỗ không nhịn được, bật cười nói: “Tiểu hòa thượng thật không có kiến thức chi hết. Đây là hoàng cung nước Tây Hạ, chùa ở đâu ra?” Hư Trúc giật mình hỏi lại: “Đây là hoàng cung ư? Chúng ta vào đây làm chi?”
Đồng Mỗ đáp: “Để nhờ Hoàng đế che chở cho. Lý Thu Thủy không tìm thấy thi thể ta, biết ta chưa chết, chắc sẽ tìm kiếm khắp nơi. Trong vòng hai ngàn dặm vuông, chỉ có một nơi hắn không sục đến, chính là nhà hắn.” Hư Trúc nói: “Tiền bối thật là thông minh cao kiến. Chúng ta trốn được một ngày là công lực tiền bối lại tăng thêm được một năm. Vậy chúng ta cứ tìm nhà Lý Thu Thủy mà ẩn.” Đồng Mỗ đáp: “Đây chính là nhà y… Cẩn thận, có người tới!”
Hư Trúc rút người lại, nấp vào góc tường, bỗng thấy bốn bóng người từ hướng đông đi tới, rồi hướng tây cũng có bốn người. Lúc tám người gặp nhau, họ khẽ vỗ tay một cái rồi quay trở lại, thân pháp rất mau lẹ, chắc chắn võ công không phải tầm thường. Đồng Mỗ nói: “Bọn ngự tiền thị vệ đi khỏi rồi, ngươi mau mau nhảy vào phía trong bức tường này. Lát nữa lại có bọn khác đến tuần tiễu ngay.” Hư Trúc thấy thanh thế quá lớn thì bất giác khiếp sợ, run giọng nói: “Trong hoàng cung có rất nhiều cao thủ, không chừng họ đã phát giác ra chúng ta vào đây rồi. Thật là nguy hiểm! Chúng ta mau tìm nhà Lý Thu Thủy để trốn đi thôi.” Đồng Mỗ tức giận nói: “Ta đã nói rồi, đây chính là nhà Lý Thu Thủy.” Hư Trúc hỏi: “Sao lúc nãy tiền bối lại bảo đây là hoàng cung?”
Đồng Mỗ mắng: “Hòa thượng ngu dốt! Con tiện nhân đó là Hoàng thái phi, nhà hắn chính là hoàng cung này chứ còn ở đâu nữa?” Chuyện này thật là ra ngoài dự liệu của Hư Trúc, y còn đang ngơ ngẩn thì lại thấy bốn bóng người từ phía Bắc đi tới. Hư Trúc chờ cho bọn này đi qua, liền nói: “Tiền…”, mới được một chữ thì Đồng Mỗ đã giơ tay ra bịt miệng y. Nhà sư còn đang ngơ ngác, bỗng thấy sau bức tường cao lại có bốn bóng người lặng lẽ đi tới, xuất hiện một cách đột ngột, tựa như đã nấp trong bóng tối từ lâu. Bốn người đi khỏi rồi, Đồng Mỗ vỗ lưng Hư Trúc nói: “Đi vào con đường nhỏ này!”
Hư Trúc thấy mười sáu người đi tuần vừa rồi, thì biết rằng mình đang ở chỗ cực kỳ nguy hiểm, nếu không có Đồng Mỗ chỉ điểm thì đã bị phát giác ra rối. Bây giờ nhà sư không nghĩ ngợi gì nữa, nhất nhất tuân theo lời Đồng Mỗ, cõng mụ đi vào đường hẻm. Hai bên đường hẻm này đều có tường cao, thực ra đây chỉ là khoảng trống giữa hai tòa lâu đài.
Hai người đi hết con đường nhỏ hẹp thì đến một khóm mẫu đơn, liền nấp một lúc chờ tám tên ngự tiền thị vệ đi khỏi, rồi lập tức băng qua một tòa giả sơn lớn. Tòa giả sơn này có lối đi quanh co khuất khúc dẫn về phía Bắc, dài đến năm sáu chục trượng. Hư Trúc nghe lời Đồng Mỗ chỉ điểm, mỗi lần chỉ đi mấy trượng rồi dừng bước chờ một lúc. Kỳ lạ thay, mỗi lần y dừng lại đều thấy bọn ngự tiền thị vệ đi tuần qua đó, tựa hồ như do Đồng Mỗ chỉ huy vậy. Chúng đi tuần những đâu, vào giờ nào mụ đều biết hết, không sai chút nào. Hư Trúc lúc ẩn lúc hiện đi chừng độ nửa giờ thì đến một khu toàn những gian nhà thấp bé sơ sài. Chỗ này không có bọn thị vệ tuần tiễu nữa.
Đồng Mỗ chỉ một căn nhà lớn ở bên trái phía trước, nói: “Vào đây!” Hư Trúc thấy trước căn nhà này có một khoảng đất trống khá rộng, trăng chiếu sáng tỏ, chung quanh chẳng có chỗ nào ấn núp được. Y liền hít mạnh một hơi chân khí rồi tung người nhảy về phía trước, thì thấy tòa nhà này xây bằng những phiến đá vuông đến năm thước, rất dày. Cửa tòa thạch thất này là tám cây tùng đều vuông vắn, ráp khít vào nhau. Đồng Mỗ nói: “Mau mau kéo cửa, vào trong đó đi!” Hư Trúc ngập ngừng hỏi: “Lệnh… lệnh sư muội ở đây ư?” Đồng Mỗ đáp: “Không phải! Kéo cửa vào đi!”
Hư Trúc nắm lấy cái vòng sắt đóng vào cửa kéo chệch ra một bên. Cửa mở ra, bên trong lại còn một tầng cửa nữa, hơi lạnh căm căm từ bên trong toát ra. Lúc này đã tháng ba, chỉ có đỉnh núi cao là còn tuyết đọng, dưới đất thì tuyết đã tan hết, trăm hoa đua nở trông tựa gấm thêu. Thế mà tầng cửa trong này vẫn còn đóng những mảng băng lớn. Đồng Mỗ nói: “Đẩy cửa vào trong!” Hư Trúc đưa tay đẩy. Cánh cửa từ từ mở ra, mới hở chừng một thước thì khí lạnh đã xông thẳng vào mặt hai người. Hư Trúc đẩy cánh cửa mở rộng thêm ra thì thấy bên trong chất đầy những bao vải cao đến nóc, tựa như một kho lương thực. Bên trái có lối đi vào.
Nhà sư ngạc nhiên hỏi: “Sao kho lương này lại lạnh đến thế?” Đồng Mỗ cười nói: “Đóng cửa lại đi. Chúng ta vào được trong kho nước đá này là yên ổn rồi!” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Đây là kho nước đá chứ không phải kho lương ư?” Y vừa hỏi vừa đóng hai cánh cửa lại. Đồng Mỗ vui vẻ mỉm cười nói: “Ngươi vào mà coi!”
Cánh cửa đóng lại rồi, trong kho tối mù mịt, giơ bàn tay không trông rõ ngón. Hư Trúc mò mẫm đi về bên trái, càng vào sâu khí lạnh lại càng ghê gớm. Tay trái Hư Trúc đưa ra chạm vào một khối đá lạnh ngắt, biết ngay là một phiến băng. Lúc đó Đồng Mỗ bật lửa lên, thật là một cảnh tượng chưa từng thấy. Bốn phía toàn là những khối nước đá lớn vuông vắn như những viên gạch to, ánh lửa lập lòe phản chiếu lại lúc xanh lúc vàng, trông thật là kỳ ảo.
Đồng Mỗ nói: “Chúng ta phải xuống dưới.” Mụ lấy tay vịn vào những tảng nước đá, nhảy lò cò bằng chân phải, đi trước dẫn đường, đến một góc nhà có một cửa động lớn thông xuống đường hầm. Hư Trúc đi theo mụ, thấy sau cửa động có bậc đá để đi xuống. Đi hết bậc đá thì tới một gian nhà lớn cũng chứa nước đá. Đồng Mỗ nói: “Kho nước đá này chắc còn một tầng nữa.” Quả nhiên bên dưới tầng thứ hai lại còn một tầng hầm lớn nữa, cũng chứa đầy những khối nước đá.
Đồng Mỗ thổi tắt lửa, ngồi xuống nói: “Chúng ta đã vào tới tầng hầm thứ ba này thì con tiện nhân kia có ranh ma quỷ quái đến đâu cũng chưa chắc đã tìm đến nơi được.” Nói xong mụ thở phào một cái. Mấy bữa nay tuy ngoài mặt mụ vẫn trấn tĩnh như thường mà trong lòng rất nao núng, ráng tránh tai mắt của bọn cao thủ đông như kiến ở nước Tây Hạ, nên lúc nào cũng phải vận khí đề phòng, đầu óc căng thẳng, đến lúc này mới hơi yên lòng.
Hư Trúc thở dài nói: “Lạ thật! Lạ thật!” Đồng Mỗ hỏi: “Có chi mà lạ?” Hư Trúc đáp: “Trong hoàng cung nước Tây Hạ chứa làm gì những khối nước đá vô giá trị này?” Đồng Mỗ cười đáp: “Những khối nước đá này về mùa đông thì chẳng đáng gì, nhưng đến mùa nóng thì quý lắm. Ngươi thử nghĩ mà coi, những khi nóng bức mồ hôi đầm đìa, nếu có một vài tảng nước đá để bên mình sẽ sung sướng biết bao! Thế rồi trà sen, chè đậu hay nước bạc hà, bách hợp mà bỏ mấy viên nước đá vào, mùi vị sẽ thơm ngon biết mấy.” Hư Trúc hiểu ra, nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Nhưng đem những tảng nước đá lớn thế này vào trong kho thì tốn công không ít. Chuyện này có đáng không?” Đồng Mỗ bật cười đáp: “Hoàng đế nhất hô bách ứng thì muốn làm gì mà chẳng được, tính toán làm gì đến chuyện hao phí nhân lực?”
Hư Trúc gật đầu đáp: “Làm hoàng đế sướng thật, nhưng càng sung sướng lại càng tổn âm đức, Tiền bối đã vào đây bao giờ chưa? Mỗi khi bọn ngự tiền thị vệ tuần tra đến khu vực nào thì tiền bối đều biết hết phải không?” Đồng Mỗ đáp: “Ta tìm con tiện nhân đó để rửa hận, dĩ nhiên đã tới hoàng cung này nhiều lần chứ không phải một. Còn bọn thị vệ, thì còn cách xa mười trượng ta đã nghe rõ hơi thở của chúng rồi, có chi là lạ?” Hư Trúc đáp: “Té ra là thế! Tiền bối được trời cho một đôi thần nhĩ, người thường không thể bì kịp.” Đồng Mỗ nói: “Có phải trời cho gì đâu? Đó là do công phu luyện tập mà ra.”
Hư Trúc nghe mụ nói đến mấy chữ “công phu luyện tập”, chợt nghĩ đến trong kho nước đá này chẳng có chim muông chi hết thì lấy đâu ra máu tươi cho mụ uống mà luyện công? Y lại nghĩ dù ngoài kia có nhiều lương thực, nhưng ở trong kho băng này không có cách nào đốt lửa nấu chín được, chẳng lẽ đành ăn gạo sống?
Đồng Mỗ thấy nhà sư im lặng hồi lâu, liền hỏi: “Ngươi nghĩ gì vậy?” Hư Trúc trả lời xong, Đồng Mỗ bật cười nói: “Ngươi tưởng trong những bao tải kia là lương thực ư? Không phải đâu, đó toàn là bông gòn để giữ hơi lạnh mà thôi. Ha ha! Ngươi có thể ăn bông gòn mà sống được không?” Hư Trúc nói: “Vậy thì chúng ta phải ra ngoài tìm kiếm thức ăn ư?” Đồng Mỗ đáp: “Trong nhà bếp thiếu gì gà vịt? Có điều máu gà vịt dê lợn không được tốt bằng máu dê rừng và hươu nai trên núi tuyết mà thôi. Vậy chúng ta phải vào ngự hoa viên để bắt chim hạc, chim công hay uyên ương, anh vũ, ta hút máu, ngươi ăn thịt, thế là được rồi.”
Hư Trúc vội nói: “Không được! Không được! Tiểu tăng nào dám sát sinh hay ăn mặn,” Y nghĩ rằng Đồng Mỗ đã đến chỗ an toàn rồi, chắc chẳng cần mình hộ vệ nữa, liền nói: “Tiền bối! Tiểu tăng là đệ tử nhà Phật, không thể nhìn tiền bối sát sinh được. Vậy tiểu tăng xin cáo từ.” Đồng Mỗ hỏi: “Ngươi định đi đâu?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng về chùa Thiếu Lâm.” Đồng Mỗ cả giận nói: “Ngươi không được đi mà phải ở lại đây giúp ta. Khi nào ta luyện thần công xong, giết được con tiện nhân đó rồi, bấy giờ ta sẽ cho ngươi đi.”
Hư Trúc nghe mụ dự định luyện công để giết Lý Thu Thủy, lại càng không muốn ở gần mụ cho thêm tội nghiệt, liền đứng dậy nói: “Tiền bối! Tiểu tăng muốn khuyên tiền bối nhưng tiền bối nhất định không chịu nghe. Tiểu tăng kiến thức hẹp hòi, miệng lưỡi vụng về, chẳng có cách gì khuyên giải, chỉ nghĩ rằng oán thù nên cởi không nên buộc, lúc nào tha được thì phải tha ngay.” Y vừa nói vừa đi về phía những bậc dá.
Đồng Mỗ quát lên: “Ngươi đứng lại! Ta không cho phép ngươi đi!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đi thôi…”, toan nói thêm: “Chúc tiền bối sớm luyện xong thần công”. Nhưng y lại nghĩ, khi mụ luyện thần công xong thì dĩ nhiên Lý Thu Thủy khó toàn tính mạng, mà cả bọn Ô Lão Đại ba mươi sáu động chúa, bảy mươi hai đảo chúa, cùng bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cũng khó thoát tai kiếp. Hư Trúc càng nghĩ càng lo sợ, không nói gì nữa, bước lên bậc đá.
Đột nhiên hai gối y nhũn ra, ngã lăn xuống đất không nhúc nhích được. Hư Trúc biết mình đã bị Đồng Mỗ điểm huyệt. Trong hầm tối mù mịt, mụ chỉ giơ tay lên không mà điểm trúng huyệt đạo. Hư Trúc biết rằng đứng trước những tay cao thủ như mụ thì mình đành chịu cho người ta an bài, chứ không tài nào kháng cự được. Y bình tĩnh trở lại, miệng đọc kinh: “Tu đạo cực khổ, Phải nghĩ kiếp trước, Bỏ gốc theo ngọn, Sinh lòng yêu ghét, Kiếp này không lỗi, Nhưng lỗi kiếp trước, Sao thì phải vậy, không nên oán trách, Gặp khổ chẳng buồn, Mới là đạt đạo.”
Đồng Mỗ cất tiếng hỏi: “Ngươi đọc kinh thổ tả gì thế?” Hư Trúc đáp: “A di đà Phật! Đó là Nhập Đạo Tứ Hành Kinh của đức Đạt Ma tổ sư.” Đồng Mỗ nói: “Đạt Ma là tổ sư phái Thiếu Lâm. Ta cứ tưởng y có tài thông thiên triệt địa, té ra chỉ là một nhà sư thối tha, tư cách đàn bà nông cạn.” Hư Trúc nói: “A di đà Phật! A di đà Phật! Tiền bối chớ nên nói càn mà mang thêm tội nghiệt vào thân.”
Đồng Mỗ đáp: “Theo cái kinh ma quỉ của ngươi vừa đọc đó, thì khi người ta chịu khổ đều là do tội ở kiếp trước, phải cam tâm chịu đựng không được oán trách. Thế thì ta có hành hạ ngươi thế nào, ngươi cũng cam tâm chịu đựng chứ chẳng oán trách phải không?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng Phật pháp hãy còn nông cạn, ngoại ma xâm lấn, nội ma cũng muốn bành trướng, chỉ lo mình không kháng cự nổi.” Đồng Mỗ nói: “Hiện nay trong mình ngươi đã mất sạch công phu Thiếu Lâm, chỉ còn một chút võ học của phái Tiêu Dao mà thôi. Thế là cái cũ mất đi, mới chưa đủ. Ngươi hãy nghe lời ta, tu luyện thần công của phái Tiêu Dao để trở thành thiên hạ vô địch, há chẳng vinh quang ư?”
Hư Trúc chắp tay trước ngực, lại niệm kinh: “Chúng sinh vô ngã, Khổ sướng tùy duyên, Nếu hưởng vinh quang, Là nhờ kiếp trước, Hết duyên lại mất, Chẳng đáng mừng gì. Vậy dù ta được vinh quang hay chịu khổ sở, cũng phải tĩnh tâm mà tùy theo duyên kiếp.”
Đồng Mỗ quát lên: “Toàn là chuyện hồ đồ bậy bạ! Võ công thấp kém thì đi đâu cũng bị khinh khi. Ngươi yếu hơn ta nên bị ta phong tỏa huyệt đạo, ta muốn đánh muốn chửi thì ngươi cũng không chống lại được. Vì thần công ta chưa luyện xong, nên phải trốn tránh trong này, để cho con tiện nhân Lý Thu Thủy ở ngoài làm mưa làm gió. Sư phụ ngươi bảo ngươi mang bức họa đồ đi tìm người để học võ công, cũng chỉ để đối phó với tên tiểu quỷ Đinh Xuân Thu. Trên đời thì kẻ mạnh áp bức, kẻ yếu chịu nhục. Ngươi muốn được an lạc, không luyện thành bản lĩnh thiên hạ vô địch thì không được.”
Hư Trúc lại niệm kinh: “Người trên thế nhân, Thường xuyên mê muội, Không bỏ tham lam, Cầu danh cầu lợi, Thiền sư giác ngộ, khác xa phàm nhân, An tịnh cõi lòng, Cảnh tùy tâm chuyển. Tam giới đều khổ, Chẳng ai được an. Kinh sách đã dạy rằng: Còn cầu cạnh thì còn khổ não, hết cầu cạnh mới được yên vui.”
Hư Trúc không có tài hùng biện, nhưng pho Nhập Đạo Tứ Hành Kinh của Huyện Lâm thiền sư chép ra thì y đọc trơn như cháo chảy. Huyện Lâm là đệ tử của Đạt Ma sư tổ, từ Nam Thiên Trúc đến. Kinh này là do Đạt Ma sư tổ dùng vi ngôn pháp ngữ đọc ra, chỉ có vài trăm chữ, tăng nhân ở chùa Thiếu Lâm ai cũng phải học. Bây giờ y thuận miệng đọc ra câu nào cũng bao hàm ý nghĩa phản bác lời nói của Đồng Mỗ.
Trời sinh Đồng Mỗ có tính ngang ngạnh hiếu thắng. Mấy chục năm nay, mụ đã mở miệng câu nào là ai cũng phải nghe, không một người nào đám cãi lại. Trong ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đầy dẫy kỳ nhân dị sĩ, thiếu gì tay ngang ngược kiêu ngạo, mà ai cũng coi mụ như một vị thiên thần. Thế mà hôm nay mụ bị một tên tiểu hòa thượng cãi lý cho cứng họng không biết nói sao. Mụ tức quá, giơ tay phải lên nhằm đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Hư Trúc. Nhưng tay mụ chưa đập tới nơi, đột nhiên lại nghĩ thầm: “Ta mà đập chết tên tiểu hòa thượng này, y chết đi cũng cho ta là thiếu lý lẽ. Ta phải làm cho y đuối lý mới được.” Mụ liền rút tay về, ngồi yên điều dưỡng công lực.
Một lúc sau, mụ bước lên bậc đá, đẩy cửa đi ra, bẻ một cành cây làm gậy chống rồi đi thẳng vào ngự viên. Hiện nay công lực Đồng Mỗ đã tiến bộ lắm rồi, tuy cụt một chân mà thân pháp vẫn nhẹ như chiếc lá, bọn ngự tiền thị vệ chẳng hề hay biết. Đồng Mỗ vào ngự viên bắt hai con hạc và hai con công, quay về kho chứa nước đá. Hư Trúc nghe rõ bước chân mụ ra đi, lúc mụ quay về lại có tiếng chim kêu. Hư Trúc không biết làm thế nào, chỉ niệm mấy câu A di đà Phật, rồi mặc kệ.
Trong kho nước đá tối om ngày cũng như đêm, nhưng lúc Đồng Mỗ thấy chân khí nhộn nhạo thì biết tới giờ luyện công, cắn cổ một con bạch hạc để hút máu. Mụ luyện xong, lại toan cắn cổ nốt con hạc kia. Hư Trúc nghe tiếng hạc kêu, liền cất tiếng: “Tiền bối! Để lại con chim này mai sẽ dùng, hà tất phải giết nhiều sinh mạng?” Đồng Mỗ cười đáp: “Ta có lòng tốt, muốn giết cho ngươi ăn.” Hư Trúc cả kinh nói:“Không, không! Tiểu tăng nhất quyết không ăn thịt.” Đồng Mỗ mặc kệ, giơ tay trái ra nắm lấy cằm y, Hư Trúc không kháng cự được đành phải há miệng ra, mụ liền dốc ngược con hạc lên cho máu chảy hết vào miệng y. Hư Trúc thấy một dòng máu nóng tuôn vào cổ mình, cố gắng không nuốt, nhưng đã bị điểm huyệt không làm gì được. Nhà sư vừa căm tức vừa bồn chồn, hai dòng lệ nóng hổi trào ra khóe mắt.
Đồng Mỗ dốc hết máu hạc vào miệng Hư Trúc rồi, liền để tay lên huyệt Linh Đài sau lưng nhà sư để giúp y vận chuyển chân khí. Mụ lại điểm hai huyệt Quan Nguyên và Thiên Đột để nhà sư không nôn ra được nữa. Mụ cười hì hì nói: “Tiểu hòa thượng! Giới luật của nhà Phật không được ăn mặn, thế là ngươi phá giới rồi phải không? Đã phá một giới rồi, thì phá luôn hai ba giới nữa cũng chẳng hề chi. Hừ! Trên đời ai đã chống lại ta, thì ta đối phó cho đến cùng. Ta quyết không cho nhà ngươi trở lại làm hòa thượng.” Hư Trúc vừa căm tức vừa đau khổ không nói lên lời.
Đồng Mỗ lại cười nói: “Kinh sách đã dạy rằng: Còn cầu cạnh thì còn khổ não, hết cầu cạnh mới được yên vui. Ngươi một lòng cố giữ Phật giới, thế là có cầu cạnh rồi đó, dĩ nhiên trong lòng đau khổ. Ngươi nên yên tâm mà chịu đựng tình thế xoay chiều, Phật giới theo được thì theo, không theo được thì thôi. Thế mới là tới chỗ vô cầu. Ha ha, ha ha!”
Lại hơn hai tháng đã trôi qua, Đồng Mỗ đã khôi phục lại được công lực như hồi năm chục tuổi, bây giờ mụ từ kho nước đá ra vào ngự hoa viên tựa hồ ma quỷ biến hình. Nếu mụ không còn úy kỵ Lý Thu Thủy thì đã rời khỏi hoàng cung nước Tây Hạ rồi. Hàng ngày, khi mụ hút máu luyện công xong đều điểm huyệt Hư Trúc, lấy thịt sống cùng màu tươi nhét vào miệng nhà sư, chờ hai giờ cho những thức đó tiêu hóa đi không nôn ra được nữa, mới giải khai huyệt đạo cho y. Hư Trúc ở trong kho nước đá tối thui bị Đồng Mỗ bức bách ăn thịt uống máu, trải qua bao nhiêu ngày không nhìn thấy mặt trời, nhà sư đau khổ đến cùng cực, miệng chỉ niệm kinh đọc kệ để cố tự an ủi.
Một hôm Đồng Mỗ nghe thấy Hư Trúc lẩm nhẩm niệm những là “Tu đạo khổ hạnh, Phải nghĩ kiếp trước” rồi “Cam tâm chịu đựng, Không nên oán trách” gì gì, mụ cười nhạt hỏi: “Ngươi đã ăn đủ thứ thịt, nào thỏ, nào hươu, nào hạc, nào công thì còn thành hòa thượng thế nào được nữa, niệm kinh hoài làm chi?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng bị tiền bối bức bách chứ không phải tự ý mình, không thể gọi là phá giới.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi vặn: “Nếu ta không bức bách, ngươi quyết không phá giới phải chăng?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng quyết giữ mình cho trong sạch, không vi phạm giới luật của Phật môn.” Đồng Mỗ nói: “Được lắm, để ta thử xem.” Hôm ấy mụ không bức bách Hư Trúc uống máu ăn thịt, y cả mừng, cảm tạ luôn miệng.
Hôm sau Đồng Mỗ vẫn không cưỡng ép nhà sư uống máu ăn thịt. Hư Trúc đói quá, liền nói: “Tiền bối! Thần công tiền bối đã luyện thành rồi, chẳng cần tiểu tăng chầu chực nữa. Tiểu tăng xin cáo từ thôi.” Đồng Mỗ đáp: “Ta không cho ngươi đi!” Hư Trúc lại nói: “Tiểu tăng đói quá rồi, xin phiền tiền bối kiếm cho ít rau xanh để lót dạ.” Đồng Mỗ nói:“Chuyện đó thì được!” Mụ nói xong, liền điểm huyệt cho nhà sư không đào tẩu được, rồi vọt mình đi. Chẳng bao lâu mụ đã quay về kho nước đá.
Hư Trúc bỗng ngửi thấy mùi thơm sực nức. Bụng y lại đang đói meo, bất giác nước bọt tiết ra đầy miệng. Mấy tiếng lách cách vang lên, Đồng Mỗ đặt xuống trước mặt Hư Trúc ba cái bát lớn rồi nói: “Đây là một bát thịt quay, một bát canh gà và một bát cá chép hầm. Ngươi ăn đi!” Hư Trúc cả kinh đáp: “A di đà Phật! Tiểu tăng thà chết chứ không ăn!” Mùi thơm trong ba bát thịt cá không ngớt xông vào mũi Hư Trúc, nhưng y vẫn cố nhịn được. Đến sáng hôm sau, Đồng Mỗ gắp thịt cá ăn trước mặt y, lại còn luôn miệng khen ngon, Hư Trúc vẫn lâm râm niệm Phật không nói gì.
Sang ngày thứ ba, Đồng Mỗ lại đi lấy về mấy đĩa hải sâm, tay gấu, vịt quay… mùi thơm lại càng ngào ngạt. Hư Trúc đã đói đến lả người, nhưng thủy chung vẫn không chịu ăn. Đồng Mỗ nghĩ thầm: “Chắc thằng trọc con này thấy mình ngồi đấy mà nổi lòng hiếu thắng, không chịu ăn gì.” Mụ bèn bỏ đi hàng nửa ngày không trở về, chắc mẩm thế nào Hư Trúc cũng ăn vụng rồi. Ngờ đâu, mụ bật lửa lên coi thì một giọt nước canh nhà sư cũng không đụng tới.
Cứ thế đến ngày thứ chín, Hư Trúc chỉ niệm kinh rồi nhấp chút nước đá cho khỏi khát, nhất định không chịu đụng tới thịt cá ê hề trước mặt. Đồng Mỗ tức quá, túm lấy ngực y, nhét thịt vào miệng. Nhưng mụ biết rằng mình bắt ép nhà sư ăn mặn là chịu thua rồi, tức quá vung tay tát luôn ba bốn phát rồi quát mắng: “Thằng trọc chó chết này! Mi muốn đối phó với ta chăng? Mi phải biết Đồng Mỗ là tay lợi hại nhất thế gian, đừng ngoan cố với ta vô ích.” Hư Trúc không bực tức mà cũng không cãi lại, chỉ lâm râm niệm Phật. Mấy hôm sau đó, trừ những lúc bị Đồng Mỗ bắt nuốt mấy bát cá thịt, Hư Trúc chỉ niệm kinh rồi ngủ.
Một hôm Hư Trúc đang ngủ, thốt nhiên ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, không phải là mùi hương trước tượng Phật, cũng không phải là mùi thơm cá thịt, lại làm cho y thấy khoan khoái không sao tả xiết! Trong lúc Hư Trúc đang mơ màng, lại cảm thấy một vật gì mềm nhũn tựa vào ngực mình. Nhà sư giật mình chợt tỉnh, đưa tay sờ lên ngực thì thấy vật đó vừa êm dịu vừa mịn màng, đúng là thân thể một người không mặc quần áo, Hư Trúc thất kinh la lên: “Tiền bối!… Tiền bối làm gì thế này?”
Người đó hỏi lại: “Ta… ta đang ở đâu đây? Sao lại lạnh thế này?” Thanh âm thỏ thẻ, rõ ràng đây là một thiếu nữ chứ không phải Đồng Mỗ. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, lúng túng hỏi: “Cô.., cô là ai?” Thiếu nữ đáp: “Ta… ta… lạnh quá, còn ngươi là ai?” Cô vừa nói vừa tựa sát thêm vào người Hư Trúc.
Hư Trúc rút người lại tránh, nhưng thiếu nữ miệng vẫn ú ở như đang mơ ngủ, thân cứ áp lại gần thêm. Tâm ý nhà sư thì muốn đứng lên chạy trốn, mà tay trái bất giác lại nắm lấy vai thiếu nữ, tay phải quàng ra sau ôm lấy tấm lưng thon mềm mại. Năm nay Hư Trúc đã hai mươi bốn tuổi, trong đời chỉ mới nói chuyện với ba nữ nhân là A Tử, Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy.
Hai mươi bốn năm nay, nhà sư chỉ ở trong chùa Thiếu Lâm gõ mõ tụng kinh. Trời sinh ra con người, ai lại không thích cảnh đẹp cùng sắc đẹp? Tuy Hư Trúc nghiêm giữ thanh quy giới luật, nhưng mỗi năm khi xuân sang trăm hoa đua nở, nhà sư trẻ tuổi cũng không khỏi cảm thấy cõi lòng rào rạt, nghĩ đến tình yêu nam nữ. Nhưng y chưa biết nữ nhân ra sao, đôi khi tưởng tượng ra những cảnh quái đản ly kỳ, nhưng chẳng bao giờ dám hé miệng tâm sự cùng sư huynh sự đệ. Lúc này hai tay nhà sư chạm vào da thịt mịn màng của người thiếu nữ, trái tim y đập mạnh tựa như muốn văng lên tới miệng rồi rớt ra ngoài, thật là khó buông tay.
Thiếu nữ rên lên mấy tiếng ư ử, lại nhích vào sát thêm, hai tay ôm choàng lấy cổ nhà sư. Hư Trúc nghe hơi thở ai thơm như hoa lan, hòa vào mùi hương son phấn đưa lên từng đợt, tưởng chừng như trời đất quay cuồng, toàn thân run rẩy, miệng ấp ủng: “Cô… cô…” Thiếu nữ khe khẽ kêu lên: “Ta lạnh quá, mà sao trong lòng lại nóng bỏng.” Hư Trúc khó mà tự chủ, hai tay ôm ghì thiếu nữ vào lòng. Thiếu nữ ú ớ mấy tiếng rồi hé mở đôi môi, cả hai như lạc vào biển mộng.
Nội công phái Thiếu Lâm của Hư Trúc đã bị Vô Nhai Tử hóa giải sạch, định lực y hoàn toàn mất hết. Y là một chàng trai chưa hiểu sự đời, đây là lần thứ nhất gặp cảnh mê ly, thật là vô phương kháng cự. Lúc đó thiếu nữ ôm siết y càng chặt, tâm trí y tựa hồ như bốc hơi hết, cũng chẳng thèm biết thân xác mình đang ở xứ nào. Lửa tình thiếu nữ mỗi giây phút lại thêm nồng nhiệt, thiêu đốt luôn Hư Trúc theo mình.
Không biết bao nhiêu thời khắc trôi qua, lửa dục của Hư Trúc dần dần hạ xuống. Y kêu lên một tiếng: “Trời ơi!”, rồi toan nhảy vọt lên. Nhưng thiếu nữ vẫn siết chặt y vào lòng, nũng nịu nói: “Đừng… đừng bỏ tiểu muội mà đi!” Thần trí Hư Trúc chỉ quay về được một chút, rồi lại vụt đi. Y lại chìm vào cơn mê, ôm thiếu nữ vào lòng vuốt ve trìu mến.
Hai người quấn quít lấy nhau đến hơn nửa giờ nữa, thiếu nữ mới khẽ hỏi: “Hảo ca ca! Huynh là ai vậy?” Mỗi tiếng nàng gọi đều êm dịu ngọt ngào, nhưng vào tai Hư Trúc lại tựa như sấm nổ. thức tỉnh, run lên nói: “Ta… ta lầm lỗi mất rồi!” Thiếu nữ hỏi lại: “Huynh lầm lỗi chuyện gì?”
Hư Trúc ấp úng không biết đáp sao, chỉ nói: “Ta… ta…” Đột nhiên bên hông y tê chồn như bị người điểm huyệt, rồi một tấm chăn vứt lên người y. Thiếu nữ khỏa thân đã rời khỏi lòng nhà sư, Hư Trúc bỗng la lên: “Muội… muội đừng đi, đừng đi!” Trong bóng tối bỗng vang lên một tràng cười khanh khách, chính là tiếng Đồng Mỗ. Hư Trúc kinh hãi như muốn ngất đi, thân thể nhũn ra, đầu óc trống rỗng. Nhưng tai y vẫn nghe rõ tiếng chân Đồng Mỗ ôm thiếu nữ chạy ra ngoài kho nước đá.
Lát sau mụ trở về, cười hỏi: “Tiểu hòa thượng! Ta đã cho ngươi hưởng hết diễm phúc nhân gian, sao ngươi không cám ơn ta?” Hư Trúc ấp úng: “Tại hạ… tại hạ…” Nhà sư ruột rối tựa tơ vò, miệng thốt không nên lời. Đồng Mỗ giải huyệt cho y rồi hỏi: “Đệ tử nhà Phật có phải giữ sắc giới hay không? Vừa rồi là ngươi tự phạm giới, hay cũng tại mỗ mỗ bức bách? Ngươi thật là một gã tiểu hòa thượng phong lưu hiếu sắc, khẩu thị tâm phi. Bây giờ mỗ mỗ hỏi ngươi: ngươi thắng hay là ta thắng? Ha ha!” Giọng cười của mụ đầy vẻ đắc ý.
Dĩ nhiên Hư Trúc đã hiểu Đồng Mỗ giận mình ngoan cố thà chết chứ không chịu ăn mặn, nên đi bắt thiếu nữ về cho mình tự phạm vào sắc giới. Nhà sư vừa hối hận vừa hổ thẹn, liền đứng phắt dậy đập đầu vào một tảng nước đá đánh “binh” một tiếng rồi lăn ra đất.
Đồng Mỗ cả kinh, không ngờ nhà sư trẻ tuổi này lại cương cường đến thế, vừa tỉnh cơn xuân mộng đã toan tự tận. Mụ liền nâng y dậy, để tay lên mũi thì thấy hãy còn hơi thở thoi thóp, nhưng đầu thủng một lỗ máu chảy đầm đìa. Đồng Mỗ vội buộc vết thương, rồi cho y uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn. Đoạn mụ cất tiếng mắng: “Ngươi phát điên rồi ư? Nếu trong nội thể ngươi không có Bắc Minh chân khí thì chỉ đập đầu một cái như vậy là toi mất cái mạng nhỏ xíu.” Hư Trúc sa lệ nói: “Tiểu tăng tội nghiệt thâm trọng, hại người hại mình, còn làm người thế nào được nữa?” Đồng Mỗ nói: “Ha ha! Nếu tên hòa thượng nào phạm giới cũng tự sát, thì trong thiên hạ còn được mấy nhà sư nữa?”
Hư Trúc giật mình chợt nghĩ ra, nếu mình tự hủy hoại tính mệnh thì lại phạm vào một đại giới của Phật môn, mà nổi cơn tức giận cũng là phạm giới rồi.
Y ngồi lên một khối nước đá, không còn chú ý gì nữa, trong lòng vừa tự trách mình vừa lan man nghĩ tới thiếu nữ kia, cùng bao nhiêu cảm giác êm đềm khoan khoái. Đột nhiên nhà sư hỏi: “Vị… vị cô nương đó là ai?”
Đồng Mỗ ha hả cười đáp: “Cô nương đó năm nay mới mười bảy tuổi, thật là giai nhân tuyệt sắc thiên hạ vô song.”
Vừa rồi trong bóng tối đen, Hư Trúc không nhìn rõ mặt thiếu nữ, nhưng tay chạm đến da thịt mịn màng, tai nghe thanh âm uyển chuyển, y cũng chắc nàng là một tiểu mỹ nhân. Y nghe Đồng Mỗ nói nàng là một trang giai nhân tuyệt sắc thiên hạ vô song, bất giác buông tiếng thở dài. Đồng Mỗ tủm tỉm cười hỏi: “Ngươi có nhớ nàng không?” Hư Trúc không dám nói dối mà cũng không tiện thừa nhận, chỉ cúi đầu nhắm mắt thở dài.
Suốt mấy giờ sau đó, tâm trí Hư Trúc cứ mơ mơ hồ hồ. Lúc Đồng Mỗ đem vịt gà cá thịt vào bày đầy trước mặt, Hư Trúc đang tự thống trách: “Ta đã trở nên một tội nhân của Phật môn, đã gia nhập môn phái khác lại còn phạm phải sát giới, sắc giới, sao đáng là Phật môn đệ tử nữa?” Y nghĩ vậy, liền bưng thịt cá lên ăn, nhưng miệng đắng ngắt chẳng biết mùi vị chi hết, nước mắt đầm đìa trên mặt. Đồng Mỗ cười nói: “Hành động khoáng đạt như thế mới là người lớn, nếu không thì chỉ là đồ trẻ nít.”
Hai giờ sau, Đồng Mỗ lại quấn thiếu nữ khỏa thân trong chăn, đem đặt vào lòng Hư Trúc, rồi mụ bỏ lên tầng hầm thứ hai, để mặc hai người biến tầng hầm thứ ba thành đỉnh Vu sơn.
Bỗng thiếu nữ buông tiếng thở dài rồi nói: “Thật là một cơn ác mộng, khiến ta cực kỳ kinh hãi, mà lại… mà lại…”, Hư Trúc hỏi: “Mà lại làm sao?” Thiếu nữ ôm choàng lấy vai y, dịu dàng nói: “Mà lại sung sướng.” Nàng nói xong lại tựa cằm lên cổ y. Hư Trúc thấy máu dồn lên mặt nóng ran, bất giác lại động tình đưa tay ra ôm lấy lưng nàng. Thiếu nữ gọi: “Hảo ca ca? Có phải tiểu muội đang nằm mơ hay chăng? Nếu là nằm mơ thì sao tiểu muội lại biết đang được ca ca ôm trong lòng, lại sờ thấy má, thấy ngực, thấy chân tay ca ca?” Nàng nói tới đây, đưa tay sờ vào ngực Hư Trúc rồi nói tiếp: “Còn nếu không phải nằm mơ thì sao lúc nãy tiểu muội đang nằm trên giường, đột nhiên… đột nhiên lại mất sạch áo xiêm, chui vào nơi lạnh lẽo đen tối này? Mà sao nơi lạnh lẽo đen tối này lại có ca ca đang chờ đợi ta, thương yêu ta, làm ta sung sướng không sao nói hết?”
Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra nàng bị Đồng Mỗ điểm huyệt bắt về đây, thần trí vẫn mơ hồ nửa tỉnh nửa mê”. Bỗng nhiên thiếu nữ lại nói: “Thường ngày, ta chỉ nghe thanh âm một chàng trai lạ nào là nổi giận ngay, thế mà sao lúc này ta lại mê mẩn tâm thần, không tự chủ được nữa? Hỡi ôi! Bảo mộng thì không mộng, mà bảo là thực cũng không phải thực. Đêm qua ta đã thấy một giấc mơ ly kỳ, chẳng lẽ bây giờ lại chìm vào giấc mơ đó lại? Hay là muội cùng ca ca có duyên nợ kiếp trước chi đây? Ca ca ơi! Ca ca là ai vậy?” Hư Trúc mất cả hồn vía, ấp úng: “Ta… ta là…” Y không tài nào thốt nổi bốn chữ “Ta là hòa thượng” ra khỏi miệng.
Thiếu nữ đột nhiên giơ tay ra bịt miệng nhà sư, khẽ nói: “Ca ca đừng nói nữa. Muội, muội sợ lắm!” Hư Trúc lại ôm chặt lấy người nàng, vuốt ve rồi hỏi: “Nàng sợ cái gì?” Thiếu nữ đáp: “Muội sợ lời đáp của ca ca sẽ làm cho mình vỡ mộng! Ca ca là tình lang của muội trong giấc mộng, vậy muội kêu ca ca là Mộng Lang. Mộng Lang! Mộng Lang! Chàng có thích cái tên đó không?” Bàn tay thiếu nữ đang bịt miệng Hư Trúc liền đưa lên sờ mũi sờ mặt, dường như vuốt ve trìu mến, lại dường như dùng tay thay mắt để tìm hiểu tướng mạo nhà sư. Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại sờ dần dần lên lông mày, lên trán, rồi lên đến đầu.
Hư Trúc cả kinh nghĩ thầm: “Hỏng bét! Nàng sờ đến cái đầu trọc của mình rồi!” Không ngờ thiếu nữ sờ đến tóc của Hư Trúc, không phát hiện ra mình đang sờ đầu một tiểu hòa thượng. Thì ra Hư Trúc ở trong hầm nước đá đã hơn hai tháng, tóc trên đầu đã mọc dài được ba tấc. Thiếu nữ ngọt ngào hỏi: “Mộng Lang! Sao tim chàng đập mạnh thế? Sao chàng chẳng nói năng gì?”
Hư Trúc đáp: “Ta… ta cũng như nàng, vừa khoan khoái vừa sợ hãi. Ta đã làm bẩn tấm thân trong sạch của nàng, có chết đến ngàn lần cũng không đủ đền bù tội lỗi.” Thiếu nữ nói: “Mộng Lang! Chàng đừng nói vậy. Chúng ta chỉ đang nằm mộng thôi, chàng đừng sợ. Chàng kêu ta bằng gì?” Hư Trúc đáp: “Nàng là một cô tiên trong giấc mộng của ta. Vậy ta gọi nàng là Mộng Cô có được chăng?” Thiếu nữ vỗ tay nói: “Hay lắm! Hay lắm! Chàng là Mộng Lang của thiếp, thiếp là Mộng Cô của chàng. Ước gì đôi ta cứ vĩnh viễn nằm mộng như thế này, không bao giờ tỉnh lại.” Nói đến chỗ tình ái mặn nồng, hai người lại chìm đắm vào cơn say tình ái, chẳng hiểu là trong đời hay trong mộng, là ở trên trời hay ở cõi nhân gian?
Qua giấc mê ly, Đồng Mỗ lại dùng tấm chăn chiên bọc thiếu nữ đem ra. Hôm sau, Đồng Mỗ lại đưa thiếu nữ vào chỗ Hư Trúc. Hai người gặp nhau ba ngày, thần trí đã bớt hồ đồ, những gì ngại ngùng e thẹn cũng giảm đi. Hai người tận hưởng những cuộc mây mưa hoan lạc tuyệt trần, nhưng Hư Trúc vẫn không dám thổ lộ chân tướng. Thiếu nữ vẫn nghĩ là mình đang nằm mộng, cũng tuyệt không đả động gì đến những việc ngoài đời thực.
Ba ngày ân ái triền miên đủ khiến cho Hư Trúc cảm thấy thế giới cực lạc chính là hầm nước đá tối tăm lạnh lẽo này, hà tất phải quy y đầu Phật, cầu giải thoát để làm gì nữa? Đến ngày thứ tư, Đồng Mỗ lại đem cho nhà sư ăn tay gấu, thịt hươu, toàn những món cao lương mỹ vị. Ăn xong rồi, Hư Trúc tưởng mụ lại sắp đem thiếu nữ đến gặp mình, không ngờ y chờ mãi mà Đồng Mỗ vẫn ngồi yên một chỗ không nhúc nhích. Hư Trúc nóng nảy như con kiến bị rang trong chảo, ngồi đứng không yên. Đã ba lần y muốn lên tiếng hỏi, nhưng lại không dám.
Hai giờ trôi qua, Đồng Mỗ dĩ nhiên đã thấy Hư Trúc nóng nảy sốt ruột, song mụ vẫn lờ đi như không biết gì. Cuối cùng Hư Trúc không nhẫn nại được nữa, cất tiếng hỏi: “Tiền bối! Vị cô nương đó là… là cung nữ trong triều phải không?” Đồng Mỗ chỉ hừ một tiếng chứ không trả lời. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ngươi không thèm đáp thì ta cũng không thèm hỏi nữa.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng mỗi lần y nhớ tới thiếu nữ ôn nhu đằm thắm thì người cứ ngơ ngẩn bần thần. Nhà sư miễn cưỡng kìm hãm, nhưng rồi cũng không nhịn nổi, đành lên tiếng năn nỉ: “Tiền bối! Xin tiền bối mở lòng nhân đức nói chuyện với vãn bối.” Đồng Mỗ đáp: “Hôm nay ngươi đừng nói gì với ta, để đến mai sẽ hỏi.” Hư Trúc ruột nóng như thiêu, nhưng không dám hỏi nữa.
Cố nén một ngày, hôm sau vừa ăn cơm xong là Hư Trúc lại lên tiếng: “Tiền bối!…” Đồng Mỗ hỏi lại: “Ngươi muốn biết cô nương kia là ai, thì có khó gì? Giả tỉ ngươi muốn đoàn tụ với nàng suốt ngày suốt đêm, vĩnh viễn không rời một bước, thì cũng là chuyện dễ…” Hư Trúc cả mừng, chưa biết nói sao thì Đồng Mỗ lại hỏi: “Ngươi có muốn như vậy không?” Hư Trúc không dám trả lời thẳng, chỉ ấp úng đáp: “Vãn bối không biết lấy gì để báo đáp.”
Đồng Mỗ nói: “Ta chẳng cần người báo đáp chi hết. Nhưng môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn của ta còn mấy ngày nữa mới luyện xong. Mấy ngày này rất quan hệ, tình thế vô cùng nghiêm trọng, ta không thể lơ đãng một giây một phút nào. Ta không thể ra ngoài nên đã phải chuẩn bị thức ăn, đem vào hầm sẵn cả rồi. Giả tỉ ngươi muốn tái ngộ vị cô nương mỹ lệ đó, thì cũng ráng chờ cho đại công của ta thành tựu rồi mới được.”
Hư Trúc tuy thất vọng nhưng biết là mụ nói thực, cũng may là chỉ có mấy ngày, đành để cho bệnh tương tư hành hạ. Y liền đáp: “Vâng, cứ theo lời tiền bối.” Đồng Mỗ lại nói: “Ta luyện xong thần công thì phải lập tức đi tìm con tiện nhân Lý Thu Thủy để trả hận, một giây một phút cũng không thể hoãn được. Lúc đó thì lẽ ra con tiện nhân kia không tài nào địch nổi, nhưng chẳng may ta bị chặt đứt một chân, khí lực tổn thương rất nhiều. Mối thù này báo được hay không, ta vẫn chưa nắm chắc. Giả tỉ ta bị chết về tay hắn, thì không còn cách nào đem cô nương để lại cho ngươi nữa. Ý trời đã vậy thì đành chịu chứ biết làm sao? Trừ phi… trừ phi…” Hư Trúc nghe tim mình đập loạn lên, hỏi lại: “Trừ phi thế nào?” Đồng Mỗ đáp: “Trừ phi ngươi giúp ta một tay.” Hư Trúc hỏi: “Vãn bối võ công thấp kém, làm sao mà giúp được?”
Đồng Mỗ đáp: “Lúc ta cùng con tiện nhân kia quyết đấu thì thắng bại chỉ cách nhau một giây. Hắn muốn hại ta dĩ nhiên là việc khó, mà ta muốn giết hắn cũng chẳng dễ gì. Bắt đầu từ hôm nay, ta dạy cho ngươi môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, ngươi cố mà luyện. Nếu ta gặp nguy cấp, ngươi chỉ cần ấn vào người con tiện nhân một cái là lập tức chân khí hắn thất tán hết, nhất định hắn phải thất bại.”
HưTrúc thấy khó xử, nghĩ thầm: “Tuy ta đã phạm nhiều giới luật, không đáng thành đệ tử nhà Phật, nhưng giúp mụ giết người là chuyện đại ác trái với lương tâm, ta quyết không thể làm được.” Y liền nói: “Giả tỉ vãn bối giúp tiền bối giết được cừu nhân thì tội nghiệt càng thêm nghiêm trọng, sau này sẽ bị chìm đắm vào bể trầm luân, muôn kiếp không được siêu sinh.”
Đồng Mỗ tức giận nói: “Hừ! Nhà sư chết đâm kia! Ngươi đã phá hết giới luật mà còn ráng giữ bụng dạ của hòa thượng làm cái quái gì? Lý Thu Thủy là kẻ tàn ác, giết hắn thì có tội lỗi gì đâu?” Hư Trúc đáp: “Dù là người đại gian đại ác thì cũng phải tìm cách cảm hóa mà giác ngộ, không nên giết càn.” Đồng Mỗ lại càng giận dữ, cao giọng nói: “Ngươi không nghe lời ta, thì quên chuyện gặp lại cô nương kia đi. Tùy ý ngươi, nghĩ sao thì cứ làm vậy.” HưTrúc buồn rầu không nói gì, âm thầm niệm Phật.
Đồng Mỗ chờ một lúc không thấy Hư Trúc cãi lại, mừng thầm hỏi: “Phải chăng ngươi đang nhớ đến cô nương xinh đẹp đó?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối không thể giết người chỉ vì nỗi hoan lạc của riêng mình. Giả tỉ suốt đời vãn bối không được gặp lại vị cô nương đó, thì cũng là do nhân quả tiền định, túc duyên đã hết thì chẳng nên miễn cưỡng làm gì. Miễn cưỡng còn chẳng nên, huống chi làm chuyện ác để cầu cạnh?” Y nói xong, rồi lại tụng kinh: “Việc đời được mất, Chỉ tùy duyên số, Cố mà miễn cưỡng. Cũng chẳng ích gì.” Miệng thì tụng niệm, nhưng trong đầu lại nghĩ rằng từ đây không còn gặp thiếu nữ kia nữa, y không khỏi buồn phiền.
Đồng Mỗ nói: “Ta hỏi một lần nữa, ngươi có chịu luyện môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hay không?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối không thể tuân lệnh, xin tiền bối lượng thứ cho.” Đồng Mỗ tức giận nói: “Vậy ngươi cút đi, xa chừng nào tốt chừng nấy!” Hư Trúc đứng dậy khom lưng, lễ phép nói: “Xin tiền bối bảo trọng.” Lúc này Hư Trúc nhớ lại thời gian vừa rồi, tuy bị Đồng Mỗ dùng kế bắt mình phá giới không thể làm hòa thượng được nữa, nhưng nhờ đó mà y gặp Mộng Cô, nên trong thâm tâm thấy mụ có ơn với mình hơn là có oán. Hư Trúc không khỏi bịn rịn, lại nói: “Tiền bối cố gắng bảo trọng, vãn bối không thể phục dịch được nữa.” Rồi y quay người bước lên bậc đá.
Hư Trúc sợ Đồng Mỗ lại ra tay điểm huyệt ngăn trở, nên vừa đặt chân lên bậc đá, y liền lập tức đề tụ Bắc Minh Chân Khí phi thân nhảy vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lên đến tầng thứ hai của kho nước đá, rồi lại lên đến tầng thứ nhất, đưa tay toàn đẩy cửa ra. Hư Trúc vừa chạm vào cánh cửa gỗ, bỗng thấy hai vai đau nhói, biết ngay mình bị Đồng Mỗ ám toán. Y chỉ la được một tiếng “Úi chao!” đã lảo đảo, hai chân nhũn ra, rồi ngã lăn xuống đất.
Đồng Mỗ cất giọng âm hiểm hỏi: “Ngươi trúng ám khí của ta rồi, có biết không?” Hư Trúc thấy chỗ bị thương tê nhức, ngứa ngáy tựa như muôn ngàn con kiến đang bâu vào đốt, liền đáp: “Dĩ nhiên là biết.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi: “Ngươi có biết đó là ám khí gì không? Chính là Sinh Tử Phù.”
Hư Trúc nghe như sét đánh bên tai. Y đã biết Ô Lão Đại cùng hàng ngàn người khác đã sợ Sinh Tử Phù đến mất cả bản sắc anh hùng. Trước nay Hư Trúc vẫn tưởng Sinh Tử Phù là một loại bùa chú có ma lực, ngờ đâu lại là một thứ ám khí. Bọn Ô Lão Đại hung hãn tàn độc mà cũng bị Sinh Tử Phù kiềm chế đến nhũn như chi chi, thế thì loại ám khí này lợi hại ngoài sức tưởng tượng!
Đồng Mỗ lại nói: “Sinh Tử Phù đã xâm nhập vào thân thể rồi thì vĩnh viễn không có thuốc nào giải được. Bọn súc sinh Ô Lão Đại ở núi Phiêu Diểu sinh lòng phản trắc, không cam tâm chịu ta vĩnh viễn kiềm chế, bàn nhau đến cung Linh Thứu cướp lấy phép phá giải Sinh Tử Phù. Nhưng bọn cẩu tặc ngu ngốc đó cũng chỉ ảo vọng mà thôi. Sinh Tử Phù của mỗ mỗ há để kẻ khác phá giải được ư?”
Hư Trúc cảm thấy vết thương mỗi lúc một ngứa ngày hơn, về sau ngứa lan cả vào nội thể. Thời gian chừng uống cạn tuần trà, Hư Trúc thấy lục phủ ngũ tạng đều ngứa ran lên không chịu được, chỉ muốn đập đầu vào tường chết quách đi còn hơn. Y không nhịn được nữa, nên buột miệng lớn tiếng rên la.
Đồng Mỗ hỏi: “Trong Sinh Tử Phù thì hai chữ Sinh Tử nghĩa là gì, ngươi đã hiểu chưa? Hư Trúc nghĩ thầm: “Hiểu rồi, hiểu rồi! Muốn sinh không được, muốn tử không xong.” Y nghĩ như vậy nhưng chỉ rên la, không còn đủ khí lực để mở miệng trả lời nữa. Đồng Mỗ không thấy Hư Trúc trả lời, lại nói tiếp: “Ngươi là một thằng lỏi bất lương, vừa rồi dám bỏ ra đi. Thế mà ta không ngờ ngươi lại hai lần ân cần dặn ta bảo trọng thân thể, ra chiều quan tâm thân thiết. Huống chi ngươi đã cứu mạng ta, mà mỗ mỗ là người ân oán phân minh, thưởng phạt hợp lý, coi ngươi khác hẳn với bọn Ô Lão Đại. Vừa rồi ta gieo Sinh Tử Phù vào mình ngươi là phạt ngươi, nhưng ta sẽ truyền cho ngươi phép giải trừ Sinh Tử Phù để thưởng công ngươi đã cứu ta.
Hư Trúc vừa rên vừa nói: “Vãn bối nói trước, giả tỉ tiền bối dùng cách này để kiềm chế, bắt vãn bối làm những việc thương luân bại lý, thì thà văn bối… chịu chết, quyết không…” Y định nói “chịu chết, quyết không khuất phục” nhưng không sao nói ra miệng.
Đồng Mỗ cười nhạt: “Hừ! Ngươi quả là ngang bướng. Nhưng sao ngươi cứ ấp úng mãi mà không nói ra? Ngươi có biết tại sao tên An động chúa kia lại nói lắp không?” Hư Trúc đáp: “Ngày trước chắc y bị trúng… Sinh Tử Phù của tiền bối… đau khổ qua rồi miệng… miệng…” Đồng Mỗ ngắt lời: “Ngươi biết vậy là tốt. Sinh Tử Phù một khi đã phát tác thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Lần đầu phải ngứa ngáy đau đớn hết chín lần chín là tám mươi mốt ngày, rồi giảm dần đi. Lại sau tám mươi mốt ngày thì lại bắt đầu đau đớn ngứa ngáy, còn khó hơn lần trước. Chu kỳ tám mươi mốt ngày tuần hoàn quanh đi quẩn lại không bao giờ hết. Mỗi năm ta đều phái người đến các đảo các động để phát thuốc ngăn ngừa đau đớn và ngứa ngáy, mỗi lần uống thuốc lại kiềm hãm Sinh Tử Phù được một năm không phát tác.”
Bây giờ Hư Trúc mới hiểu ra, bọn động chúa, đảo chúa phải kinh sợ Đồng Mỗ như bậc thần linh, chịu đánh đập hành hạ còn lấy làm sung sướng mở tiệc ăn mừng, là để được mụ phát thuốc ngăn ngừa Sinh Tử Phù phát tác trong một năm. Thế này thì mình cũng bị mụ kiềm chế suốt đời, cũng đem thân làm trâu làm ngựa cho mụ như bọn Ô Lão Đại hay sao?
Đồng Mỗ đã sống với Hư Trúc ba tháng, hiểu tính khí y bất khuất quật cường, liền nói: “Ta đã nói là không coi ngươi như bọn súc sinh Ô Lão Đại, không bắt người mỗi năm phải uống thuốc trấn áp Sinh Tử Phù. Ngươi đừng lo lắng thái quá mà ăn ngủ không yên. Ta đã gieo tới chín cái Sinh Tử Phù trong mình ngươi, nhưng chỉ cần phẩy tay một cái là trừ khử tận gốc, vĩnh viễn không để hại về sau.”
Hư Trúc lắp bắp: “Thế thì vãn bối… đa…. đa…” Y không sao nói nốt được chữ “tạ”. Đồng Mỗ cho Hư Trúc uống một viên thuốc, chỉ một lúc là hết đau đớn ngứa ngáy. Mụ lại nói: “Muốn trừ khử tận gốc Sinh Tử Phù thì phải dùng nội lực phóng chưởng. Nhưng ta còn phải luyện thần công mấy ngày nữa, lúc này không thể vì ngươi mà tiêu hao nguyên khí được. Vậy ta dạy ngươi cách vận công phát chưởng để ngươi tự hóa giải lấy.” Hư Trúc đáp: “Vâng!”
Đồng Mỗ liền truyền cho Hư Trúc cách vận Bắc Cư, Thiên Khu, Thái Ất, Long Môn, Thần Phong, Thần Tàng, rồi qua những huyệt Khúc Trì, Đại Lăng, Dương Khoái, cuối cùng ra đến lòng bàn tay. Mụ lại dạy các phép thu phát chân khí, Hư Trúc luyện trong hai ngày là thành thục hết.
Đồng Mỗ nói: “Bọn súc sinh Ô Lão Đại tuy phẩm hạnh chẳng ra gì, song võ công không phải tầm thường. Bọn hồ quần cẩu đảng giao kết với y nội lực đều khá tinh thâm, nhưng không tên nào dùng nội lực để hóa giải Sinh Tử Phù của ta được. Ngươi có biết vì sao không?” Mụ ngừng một lát, biết Hư Trúc không thể trả lời được, liền nói tiếp: “Ta gieo vào thân thể mỗi tên những đạo Sinh Tử Phù khác nhau, thủ pháp cũng không giống nhau. Giả tỉ tên nào toan dùng kình lực dương cương để hóa giải một đạo Sinh Tử Phù, thì những đạo phù chưa bị giải ở các kinh mạch Thái Dương, Thiếu Dương, Dương Minh lập tức bị lực đạo dương cương đó kích thích mà nhộn nhạo lên, xông vào đan điền rồi thâm nhập tạng phủ, lúc đó không thể cứu được nữa. Giả tỉ tên nào dùng kình lực âm nhu để hóa giải thì Sinh Tử Phù ở các mạch Thái Âm, Thiếu Âm, Khiết Âm lại phát tác. Lại còn những đạo Sinh Tử Phù có pha trộn thủ pháp âm dương phức tạp, làm sao người khác có thể hóa giải được? Chín đạo Sinh Tử Phù trong mình ngươi cũng phải có chín thủ pháp khác nhau mới hóa giải được.” Rồi mụ bèn truyền cho Hư Trúc một thứ thủ pháp, đợi y học thuộc rồi mới phân tích từng chiêu để Hư Trúc biết đường ứng phó với thứ thủ pháp phức tạp, âm độc và xảo quyệt này.
Đồng Mỗ lại dặn: “Sinh Tử Phù của núi Phiêu Diểu biến hóa vô cùng, lúc ngươi giải trừ cũng phải tùy cơ ứng biến, chỉ sai lầm một chút là lập tức bế khí mà chết, nếu may mắn thì cũng phải tàn tật suốt đời. Ngươi phải coi Sinh Tử Phù như đại dịch mà đem toàn lực ra đối phó, không thể coi thường được.”
Hư Trúc khổ công luyện tập, nhận ra pháp môn của Đồng Mỗ xảo diệu vô cùng. Bất luận thủ pháp thâm độc nào tấn công tới, pháp môn này cũng có thể biến hóa để không những giải trừ mà còn phản kích lại đối phương. Y càng luyện càng thêm bội phục, bây giờ mới hiểu Sinh Tử Phù đáng cho ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa phải kinh hồn táng đởm, quả nhiên có uy lực vô cùng. Nếu không được Đồng Mỗ đích thân truyền dạy thì trong thiên hạ chẳng ai tưởng tượng ra phép hóa giải thần diệu đến thế.
Hư Trúc luyện bốn ngày liền, cuối cùng đã thuộc hết chín pháp môn của mụ. Đồng Mỗ cả mừng nói: “Tiểu tử! Ngươi không ngu ngốc lắm đâu? Binh pháp có câu: Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Ngươi muốn chế phục được Sinh Tử Phù, thì cũng cần biết cách gieo Sinh Tử Phù. Ngươi đã hiểu Sinh Tử Phù là gì chưa?” Hư Trúc ngẩn ra đáp: “Đó là một thứ ám khí.” Đồng Mỗ nói: “Là ám khí thì dĩ nhiên rồi, nhưng ám khí gì mới được? Nó tròn như thiết liên tử, hay nhọn như phi tiêu?” Hư Trúc nghĩ thầm: “Ta trúng tới chín mũi ám khí, tuy đau nhức ngứa ngáy vô cùng mà sờ lên thì chẳng thấy gì, cũng không hiểu hình dạng nó ra sao.”
Đồng Mỗ nói: “Đây là một mũi Sinh Tử Phù, ngươi cầm lấy mà coi cho kỹ.” Nhà sư nghĩ đây là thứ ám khí tàn độc nhất thiên hạ, rón rén đưa tay ra đón lấy thì thấy nó lạnh buốt. Y nhìn kỹ, thứ ám khí này tròn trĩnh mà nhẹ như không, chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay, mỏng như giấy, cạnh sắc bén dị thường. Lòng bàn tay lạnh buốt, thoáng cái Sinh Tử Phù đã biến mất. Y không hề thấy Đồng Mỗ đưa tay ra lấy lại, bất giác cả kinh, không hiểu món ám khí đó đã đi đâu? Bất thần Hư Trúc nghĩ ra một chuyện ngoài sức tưởng tượng, la lên: “Trời ơi!” Y nghĩ thầm: “Hỏng bét! Chiếc Sinh Tử Phù này tự chui vào lòng bàn tay mình rồi.”
Đồng Mỗ hỏi: “Ngươi đã hiểu chưa?” Hư Trúc ấp úng: “Vãn bối…” Đồng Mỗ nói: “Sinh Tử Phù của ta chỉ là một miếng băng mỏng hình tròn,” Hư Trúc hiểu ra, “Ồ” lên một tiếng. Thì ra miếng băng mỏng này bị hơi ấm của lòng bàn tay làm tan ra nước. Vừa rồi Hư Trúc sợ quá nên vô tình vận nội lực vào bàn tay nóng như lửa, chút xíu nước kia cũng lập tức bốc hơi mất nên y không biết.
Đồng Mỗ nói: “Muốn học phép hóa giải Sinh Tử Phù thì cần phải biết cách phóng ra, muốn biết phóng ra thì phải học cách chế tạo trước. Chế ra miếng băng nhỏ xíu, mỏng như giấy mà xuyên thủng qua y phục chui vào nội thể người ta, không phải dễ dàng đâu. Ngươi đổ một chút nước vào lòng bàn tay, rồi vận nội lực cho phát ra hơi lạnh, làm đông cứng mấy giọt nước đó thành băng.” Rồi mụ dạy cho Hư Trúc cách vận khí ngược chiều để dương cương chuyển thành âm nhu. May mà Vô Nhai Tử đã truyền Bắc Minh chân khí cho y có cả âm lẫn dương. Trước nay Hư Trúc chỉ luyện theo hướng dương cương, nhưng bây giờ y chỉ vận chân khí theo chiều ngược lại thì thành âm nhu ngay, chẳng khó khăn gì.
Sinh Tử Phù đã chế luyện được rồi, Đồng Mỗ lại dạy cách vận thủ kình để phát xạ cho trúng huyệt đạo. Đồng Mỗ còn dạy cách pha trộn nội lực mấy phần dương cương, mấy phần âm nhu, tùy theo ý muốn của mình mà phóng ra những loại Sinh Tử Phù khác nhau. Hư Trúc lại mất thêm ba ngày mới học xong. Đồng Mỗ mở lời khen ngợi: “Ngộ tính ngươi rất tốt. Phép chế luyện và phát xạ Sinh Tử Phù của ta cực kỳ phức tạp mà ngươi học được dễ dàng như vậy. Sau này chỉ cần tập luyện thêm, để chế biến tinh vi hơn, nhận huyệt chuẩn xác hơn là được.”
Đến ngày thứ tư, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc điều dưỡng nội lực, ngưng tụ chân lực vào hai tay, rồi nói: “Đầu gối của ngươi trúng một miếng Sinh Tử Phù ngay chỗ huyệt Âm Lăng Tuyền. Ngươi vận nội lực dương cương vào hữu chưởng, dùng thủ pháp thứ hai vỗ nhanh ba cái. Sau đó lại vận nội lực âm nhu vào tả chưởng, dùng thủ pháp thứ bảy từ từ hút ra ba lần. Như thế có thể cùng lúc hóa giải được cả hàn độc lẫn nhiệt độc trong Sinh Tử Phù.” Hư Trúc cứ thế mà làm, quả nhiên hóa giải được chỗ bế tắc ở huyệt Âm Lăng Tuyền, khoan khoái vô cùng.
Đồng Mỗ cứ tiếp tục chỉ điểm, Hư Trúc cứ theo lời mụ mà hóa giải. Khi y hóa giải xong hết chín chiếc Sinh Tử Phù, cảm thấy hoan hỉ khôn xiết. Đồng Mỗ thở dài nói: “Đến giờ ngọ ngày mai thì thần công của ta luyện thành. Nhưng luyện công thì lúc tối hậu là nguy hiểm nhất. Hôm nay ta phải định thần tĩnh dưỡng, ngươi đừng mở miệng nói chuyện với ta nữa.” Hư Trúc “Vâng” một tiếng, nghĩ thầm: “Thời gian trôi vùn vụt, thật không ngờ nổi mình đã ở với mụ tới ba tháng rồi.”
Ngay lúc đó, Hư Trúc bỗng nghe thấy một thanh âm tựa như tiếng muỗi vo ve: “Sư tỉ! Sư tỉ! Sư tỉ ở đâu? Tiểu muội nhớ sư tỉ quá. Sao sư tỉ đã đến chơi nhà tiểu muội mà không cho gặp mặt? Sư tỉ xem tiểu muội như người ngoài ư?” .
Thanh âm nhỏ xíu, nhưng tiếng nào cũng lọt vào tai rất rõ ràng. Người nói chẳng phải Lý Thu Thủy thì còn ai nữa?