Thiên Thủ Song Tôn

Chương 4 - Hoàng Sơn Tầm Địch Song Hổ Tương Đấu

trước
tiếp

Sáu người vội tản sang hai bên, ngưng thần vận khí, định xuất thủ, thì bóng đen đã đáp xuống trước mặt, chính là Vạn Sự Thông Tang Bác Cổ.

Mấy người chưa kịp hỏi, lão nhân đã nói :

– Thua rồi!

Đoạn phất tay áo bước vào phòng.

Mấy người cũng vào theo và ngồi xuống. Tang Bác Cổ cau mày, lim dim mắt, lộ vẻ buồn bã chán chường.

Bốn hòa thượng Vân, Tiêu, Lôi, Chấn thấy vậy đã đoán được sáu, bảy phần, nên không tiện lên tiếng hỏi.

Tử Vi cô nương nào quản ngại điều đó, liền nói :

– Vừa rồi cao hứng như thế, sao lúc này lại im như thóc? Hay là bị người ta dán miệng lại rồi…

Nàng có ý trêu chọc, nhưng Tang Bác Cổ đâu còn bụng dạ để cười, ngước mắt lên trần, gằn giọng :

– Con nha đầu mất nết này nói năng xằng bậy, lão phu phải cho ngươi một bài học mới được.

Đường Chấn Anh hỏi :

– Tiền bối có nhìn thấy người ngoài song hay không?

Tang Bác Cổ thở dài, giậm chân nói :

– Đừng nhắc chuyện đó nữa. Lão phu suốt đời săn nhạn, lần này bị nhạn mổ mắt, đừng nói là người, ngay đến quỷ ảnh của hắn cũng không thấy đâu. Thân pháp của hắn quá mau lẹ, thật bình sinh ta chưa hề gặp, nhưng mà…

Lão nhân ngừng một chút, mới lẩm bẩm tiếp :

– Nghe thanh âm hoàn toàn quen thuộc, có điều chưa nhớ ra là ai?

Hư Chấn nói :

– Thân pháp như thế, võ nghệ hẳn cao minh lắm?

Tang Bác Cổ nói :

– Dĩ nhiên, lão phu đoán hắn là một ẩn sĩ ít lộ diện phong trần, nếu không thì trong đương kim võ lâm có ai lại dám công nhiên hí lộng Vạn Sự Thông ta như vậy? Hơn nữa, thân pháp lại thần tốc, phải nói là độc nhất vô nhị…

Chữ “nhị” vừa dứt, ngoài song lại vang lên tiếng nói :

– Thật vậy ư? Thế thì có tội gì đâu…

Vẫn là thanh âm của người ban nãy.

– Hai lần hý lộng. Ngươi chạy đằng trời.

Cái đầu hói loang loáng, Tang Bác Cổ đã lao mình đi đâu mất tăm, sáu người ngây cả ra, rồi cũng lao ra khỏi tịnh xá, vọt lên nóc thất mà nhìn tứ phía. Chỉ thấy Tang Bác Cổ đang dõi nhìn về phía tây, lúc này trăng nhạt sao mờ, mây mỏng gió nhẹ, không gian trầm tịch, nào thấy bóng dáng một ai.

Bỗng một vật nhỏ đen đen bay tới, phát ra tiếng rít gió se sẽ, không biết từ chỗ nào phóng ra.

– Khá khen!

Tang Bác Cổ miệng thốt, tay đã chộp được vật kia bằng hai ngón. Lão nhân giật mình, thì ra đây là một mẩu giấy viên tròn mà người kia có thể từ xa búng tới, đủ hiểu võ công đạt tới cảnh giới tối cao.

Tang Bác Cổ mở mẩu giấy ra, thấy có một hàng chữ nhỏ li ti: “Lão mà đoán được ta là ai, chỉ e vỡ đôi cái đầu hói mất đó. Nực cười!”.

Không có chữ ký. Ở góc bên trái có vẽ một lão nhân râu dài không phải tăng đạo, cũng chẳng giống thường dân.

Tang Bác Cổ xem xong, lập tức tỉnh ngộ, ngửa mặt cười ha hả một trận, chỉ nghe núi rừng vang vọng. Đoạn lão nhân cao giọng nói :

– Ta hỏi ai dám hý lộng ta, hóa ra là lão quỷ ngươi. Bốn chục năm không gặp nhau, hai ta kẻ nam người bắc, hôm nay hạnh hội, lão quỷ nhà ngươi vẫn y như xưa. Còn chưa chịu lộ diện, cứ ăn sương nằm gió, lấy thiên hạ làm nhà như thế ư? Thứ cho ta không thể phụng bồi. Ta trở vào trong đây.

Đoạn lão chắp tay vái dài và bước vào trong tịnh xá.

Sáu người không hiểu Tang Bác Cổ nói và vái ai, càng thấy buồn cười, muốn hỏi cho minh bạch, liền theo cả vào phòng, ngồi xuống chỗ cũ.

Đường Chấn Anh và Tử Vi muốn xem mẩu giấy. Tang Bác Cổ cũng chẳng giấu, ném nó xuống bàn rồi nói :

– Cho các ngươi xem, các ngươi cũng chẳng hiểu đâu.

Mấy người nổi tính hiếu kỳ, đều muốn nhặt mẩu giấy lên xem, nào ngờ vừa định cầm lên, thì mẩu giấy đột nhiên tự bay ra ngoài cửa như có lực hấp từ phía đó hút ra.

Đường Chấn Anh và Tử Vi cùng chạy tới chộp theo mẩu giấy. Bốn hòa thượng cũng định chạy ra, nhưng Tang Bác Cổ giơ tay ngăn lại :

– Các ngươi trở về chỗ ngồi đi, đuổi chẳng kịp đâu.

Đường Chấn Anh và Tử Vi không chịu, cứ lao ra. Cả hai đều có cảm giác bị chộp ở sau lưng và nhấc bổng cả lên, hết bề né tránh. Cả hai cố giãy giụa, bỗng nghe có tiếng nói vo ve bên tai, chắc là theo phép Truyền Âm Nhập Mật :

– Đừng sợ, đừng cựa quậy. Không được nói một lời về lão phu với bất cứ ai, kể cả với hai vị sư phụ của các ngươi. Hãy mang ra cho ta hai vò rượu, đặt ở trên mái nhà, lão phu sẽ tự đến lấy.

Nói đoạn, người kia thả Tử Vi và Đường Chấn Anh xuống đất.

Hai người tuy không nhìn thấy mặt người kia, nhưng nghe thanh âm thì đã nhận ra chính là vị quái lão đã dùng Bát Nhã thần công của Phật môn mà phong bế ba mươi sáu yếu huyệt sinh tử cho hai người bữa trước.

Họ đặt chân xuống đất, ngoảnh nhìn lại đã chẳng thấy ai, bèn chắp tay vái dài, rồi cũng bước vào phòng. Không đợi người khác hỏi, Đường Chấn Anh đã hớn hở nói với Hư Vân :

– Thỉnh đại sư huynh thưởng cho tiểu đệ một vò rượu.

Tử Vi cũng giơ tay nói :

– Đại sư huynh cho tiểu muội một vò với.

Vạn Sự Thông Tang Bác Cổ quả không hổ danh Thông Thiên Hiểu Địa, thấy đôi trẻ đòi rượu, đã đoán ra tám, chín phần rằng lão quỷ nọ xưa nay như thần long vốn chỉ lộ đuôi mà giấu đầu, cuối cùng lại phá lệ cũ, lộ diện mà sai đôi trẻ mang rượu ra cho lão ta. Biết vậy, nhưng Vạn Sự Thông chỉ mỉm cười nói :

– Vòi rượu có phải là để thết đãi lão phu hay không đó?

Tử Vi bĩu môi :

– Tiền bối đã uống hết cả vò rồi, còn đòi gì nữa?

Hư Vân hòa thượng chưa hiểu dụng ý xin thưởng rượu của đôi trẻ, cười hỏi :

– Rượu bách quả tuy là vật quý trong tự, nhưng nếu sư đệ và sư muội muốn uống thì cũng không cần phải khách khí. Huynh bảo họ mang lại là được thôi. Song tại sao lại phải mỗi người một vò?

Đôi trẻ thật khó trả lời, nói ra thì làm trái lời dặn của quái lão, không nói thì đại sư huynh sẽ nghĩ sao? Thế là cứ ấp a ấp úng như gà mắc tóc.

Bốn vị sư huynh thấy thế càng khó hiểu, cứ nhìn đôi trẻ chăm chăm, khiến đôi trẻ càng lúng túng hơn. May sao, Tang Bác Cổ đã đỡ lời cho họ :

– Hư Vân, hai oa nhi này đã không nói được thì ngươi cũng đừng căn vặn nữa, để rồi sẽ hỏi lão quỷ Biệt Tử Ngưu sau vậy. Mau đem rượu ra đi.

Bốn vị sư huynh đã ngoại ngũ tuần, nghe vậy thì đoán việc này hẳn có nguyên do, nên cũng không hỏi thêm, bèn lệnh cho mang rượu tới. Lát sau, chú tiểu bưng hai vò rượu lại, đôi trẻ mừng rỡ, mỗi người tiếp lấy một vò, cúi mình cảm tạ đại sư huynh, rồi quay sang gật gật đầu với Vạn Sự Thông Tang Bác Cổ, đoạn sánh vai nhau bước ra cửa.

Vừa ra ngoài, bỗng kỳ quái thay, hai hũ rượu tuột khỏi tay bay lên trên mái, bên tai vo ve tiếng nói :

– Các ngươi trở vào đi.

Đường Chấn Anh và Tử Vi tuy muốn búng người nhảy lên, nhưng không dám vi phạm, đành vái dài rồi quay mình trở vào phòng.

Đôi trẻ bưng vò rượu ra ngoài, bốn vị sư huynh đã ngơ ngác khó hiểu, nay lại thấy họ tay không trở vào ngay thì càng ngạc nhiên, song cũng chẳng tiện hỏi.

Tang Bác Cổ chờ đôi trẻ ngồi xuống, cười hỏi :

– Xem ra hai đứa ngươi rất thảo, vậy có thể cho lão phu một vò rượu nữa được chăng?

Tử Vi bỗng chợt nhớ, nói :

– Khoan đã, khoan đã, tiền bối uống hết cả vò rượu, nhưng chưa trả lời xong câu hỏi.

Tang Bác Cổ nói :

– Có gì chưa xong?

Tử Vi đáp :

– Tiền bối bảo thế gian có hai người chế tạo được Thần Tiên Sầu, nhưng tiền bối mới kể có một vị là Càn Khôn Nhất Mẫi, còn người thứ hai là ai?

Tang Bác Cổ vỗ tay xuống bàn, nói :

– Cái con nha đầu ế chồng này, sao mà nhớ dai thế không biết?

Mấy người cùng cười ồ lên, Tử Vi thì vừa tức vừa thẹn, nhưng chưa biết đối đáp thế nào.

Tang Bác Cổ nói tiếp :

– Người thứ hai biết vận dụng Thần Tiên Sầu mà không đoán ra được ư? Đã bảo nó là độc môn ám khí của Càn Khôn Nhất Mẫu, thì ngoài đệ tử của lão bà ấy ra, vậy còn ai vào đấy nữa?

Hư Vân hỏi :

– Càn Khôn Nhất Mẫu cũng thu nạp đệ tử ư?

Tang Bác Cổ cười :

– Các ngươi thật không biết gì hết, mấy năm nay trong võ lâm nổi lên nhiều cao thủ võ nghệ siêu quần.

Hư Vân đáp :

– Người khác không hiểu đã đành, Vạn Sự Thông hẳn phải biết rằng từ hồi sư phụ của chúng vãn bối đến Lư Sơn bế quan, ba năm nay chúng vãn bối không rời Kim Đỉnh một bước, vậy làm sao mà biết được tin tức gì của võ lâm kia chứ?

Hư Chấn không nhịn được, bèn nói :

– Thỉnh lão tiền bối mau nói xem, đệ tử của Càn Khôn Nhất Mẫu là ai vậy?

Mọi người đồng thanh khen phải, Tang Bác Cổ thong thả nói :

– Nữ oa nhi ấy không ai biết tính danh là gì, chỉ biết nàng được sư phụ chân truyền, lại đẹp như tiên sa, chưa hạ sơn đã hạ thủ giết chết tươi mấy tên đại ma đầu trong giang hồ, nên danh sĩ võ lâm bất kể lớn nhỏ đều lấy làm vinh hạnh nếu được kết giao với nàng, mọi người tặng nàng nhã hiệu là Lăng Ba Nhất Yến, danh tiếng lẫy lừng trong võ lâm, giang hồ.

Tử Vi rúng động, vội hỏi :

– Lão tiền bối đã gặp nàng ta hay chưa?

Tang Bác Cổ gật đầu, chòm râu dê đung đưa :

– Không gặp thì sao dám nói!

Tử Vi lại hỏi tiếp :

– Đã gặp, vậy tiền bối thử nói xem, tướng mạo và trang phục của nàng ta như thế nào?

Tang Bác Cổ thấy Tử Vi hỏi là tất có ẩn ý, bèn cười ha hả :

– Cùng giới với nhau có khác, ta vừa bảo nàng ta đẹp như tiên, danh tiếng lẫy lừng, thì con nha đầu đáo để này đã truy vấn dồn dập ngay rồi. Nói về tướng mạo của Lăng Ba Nhất Yến, thì thứ cho lão phu nhiều tuổi tác này không thể dùng lời để miêu tả, chỉ có thể nói là đẹp đến mức… khó tả nổi.

Ngừng một chút, bỗng lão nhân như chợt nghĩ ra, nói tiếp :

– Lăng Ba Nhất Yến đẹp tới mức nào thì ngươi cũng khỏi cần hỏi, ngươi cứ tự ngắm mình là biết nàng ta… hai người đẹp như nhau đó.

Lời này đã vui vẻ lại tinh quái, không rõ là thật hay giả, nhưng mấy người nghe cùng cười ồ cả lên.

Tử Vi đỏ mặt :

– Vãn bối hỏi tướng mạo của Lăng Ba Nhất Yến, ai cần lão tiền bối đem ra so sánh, vãn bối không chơi với tiền bối nữa…

Tang Bác Cổ nói :

– Ngươi đừng có hờn dỗi như trẻ lên ba. Ai trêu chọc ngươi làm gì? Nói cho cùng, trên trán Lăng Ba Nhất Yến, ngay chính giữa có một đường gân xanh, lúc bình thường không lộ rõ, nhưng khi đường gân ấy nổi rõ, tất nàng ta phải giết người mới xong. Bởi tính khí nàng ta nóng như lửa, rất dễ bị kích động, do đó, hai phái chính tà trong võ lâm tuy ngưỡng mộ tài sắc của nàng, nhưng chẳng mấy ai dám gặp nàng.

Hư Tiêu ngạc nhiên nói :

– Sách viết Hoàng Sào đời Đường sinh ra có ba đường gân xanh trên trán, phạm sát giới, nên về sau tạo phản giết hàng vạn người. Nay lại xuất hiện Lăng Ba Nhất Yến có một đường gân xanh, chỉ e võ lâm lâu nay thái bình sắp bước vào một đại kiếp nạn.

Nói đoạn, chắp hai bàn tay mà niệm Phật hiệu.

Tử Vi lẩm bẩm một mình :

– Lăng Ba Nhất Yến… Yến… Yến… Yến…

Bỗng nàng kêu “ối” một tiếng, tựa hồ chợt nhớ ra điều gì, hỏi Tang Bác Cổ :

– Có phải nàng ta mặc võ phục màu đen, đầu mặt đều bịt vải đen phải không?

Tang Bác Cổ sững người, nói :

– Thì ra ngươi cũng đã gặp nàng ta? Vậy sao còn hỏi lão phu?

Tử Vi thấy mình đoán trúng thì rất cao hứng, nhưng nhớ đến cảnh Đường Chấn Anh săn sóc Hắc Y Nữ trong rừng sáng nay thì uất ức, không tiện bộc lộ, chỉ nói :

– Gặp thì có gặp, lão tiền bối thấy hai cây châm kia chính là Thần Tiên Sầu mà nàng ta phóng vào người chúng vãn bối đó. Mười tám người của tệ phái chắc đều chết bởi tay nàng ta, có điều là…

Nàng liếc sang phía Đường Chấn Anh, rồi mới nói tiếp :

– Nàng ta đã được một vị chính nhân quân tử tha cho đi rồi.

Đường Chấn Anh thấy Tử Vi quả thật nghi ngờ chàng, thì không nhịn được, vội phân trần :

– Sư muội, nói thì nói, cười thì cười, sư muội bảo ngu huynh tha cho Hắc Y Nữ chỉ có trời hiểu được. Việc này liên quan đến thanh danh của sư môn, sư muội nên phát ngôn thận trọng. Bảo ngu huynh tha cho địch nhân đi, liệu rằng ngu huynh có ngăn cản được nàng ta chăng? Huống hồ khi ấy đâu đã biết nàng ta là ai?

Bốn vị sư huynh sợ đôi trẻ nổi nóng mà khó bề cứu vãn, vội ngăn lại. Tang Bác Cổ nhân đó bảo Hư Vân kể lại tóm tắt những sự việc phát sinh gần một tháng nay ở Không Tĩnh tự. Nghe xong, lão nhân thở dài :

– Ta ở Lư Sơn Hương Lô phong nghe sư phụ của các ngươi bảo, nếu căn cứ vào chữ số đánh dấu trên mặt nạn nhân, kẻ địch đã sát hại mười lăm người, nào ngờ ta vội tới đây ngay, mà trong ba ngày qua lại thêm ba người nữa mất mạng. Ngộ Huyền thoát chết quả là số hắn được cát tinh chiếu rọi. Anh nhi và Vi nhi lại được Bát Nhã thần công phong bế huyệt mạch nên mới không chết vì Thần Tiên Sầu. Người cứu giúp các ngươi chính là vị cao nhân vừa rồi đó…

– Còn chưa chịu im đi!

Cánh cửa sổ không gió mà tự mở, vang vọng câu nói và hai vệt đen như hai trái cầu bay thẳng tới cái đầu hói nhẵn thín của Tang Bác Cổ.

Tang Bác Cổ cười ha hả, giơ tay tiếp lấy hai vật đó, chính là hai cái vò rượu, và nói vọng ra :

– Ta tốn bao nhiêu nước bọt mới kiếm được một vò rượu, lão quái vật nhà ngươi chẳng phí công sức gì lại được gấp đôi, chiếm tiện nghi quá đáng đó.

Mọi người lại cười ồ, nhưng lần này không ai lao ra ngoài vì biết có ra cũng chỉ vô ích.

Hư Vân bỗng hỏi Tang Bác Cổ :

– Càn Khôn Nhất Mẫu là một lão quái bà lang thang góc biển chân trời, hành tung bất định, không quan tâm đến thế sự thị phi. Vậy tại sao đệ tử của lão quái bà là Lăng Ba Nhất Yến lại liên thủ với Mai Chưởng Tản Nhân Lã Chí Viễn để đến đây chống đối tệ phái, những mong lão tiền bối chỉ giáo tỏ tường.

Tang Bác Cổ trầm ngâm, tựa hồ khó nói, nhưng rồi cũng thong thả đáp :

– Việc này chắc có ẩn tình vô cùng phức tạp, chính lão phu đang muốn xác minh điều này, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. Vì vậy, lão phu chưa thể nói cho các ngươi biết được.

Hư Chấn nôn nóng nhìn Tang Bác Cổ nói :

– Đã vậy thì không hỏi nữa, nhưng xin tiền bối cho biết Lã Chí Viễn hiện ở nơi nào?

Tang Bác Cổ đáp :

– Sau khi bị bại dưới tay sư phụ các ngươi, Lã Chí Viễn tức giận bỏ đi, ra mãi ngoài biên cương, ngày đêm khổ luyện để báo cừu, thề sẽ trở lại đoạt cho bằng được sư thúc Mai Phụng Quyên của các ngươi. Thấm thoát đã ngót ba mươi năm, hắn bèn trở lại Trung Nguyên, đến Nga Mi Kim Đỉnh tìm sư phụ các ngươi thanh toán món nợ, vì không gặp, hắn bèn định rằng ba năm sau sẽ quay lại, nhưng hắn không trở về nơi biên cương xa xăm, mà đem đệ tử đến ẩn cư trong dãy Hoàng Sơn, kiến trúc trang viện, nhưng đó là ta chỉ nghe đồn, chứ chưa tận mắt chứng kiến.

Đường Chấn Anh từ nãy giờ không nói gì, nhưng vừa nghe bảo Lã Chí Viễn đang ở Hoàng Sơn, vội hỏi :

– Trang viện của Lã Chí Viễn ở đâu, Vạn Sự Thông ắt phải biết chứ?

Tang Bác Cổ nghe giọng nói của Đường Chấn Anh, đoán có ẩn ý, lắc đầu đáp :

– Quả thật điều này cả Vạn Sự Thông ta cũng đành chịu.

Đường Chấn Anh nói :

– Thế thì không còn xứng với ngoại hiệu Vạn Sự Thông…

Tang Bác Cổ đáp :

– Khổng Tử dạy: biết nói là biết, không biết nói là không biết, chính là biết vậy. Tiểu oa nhi nhà ngươi đòi ta nói xàm nói bậy hay sao?

Đường Chấn Anh từ nhỏ sống ở Nga Mi Kim Đỉnh, không rời sư phụ nửa bước, chưa ra giang hồ, cho đến khi theo sư phụ đến Lư Sơn. Có thể nói đó là lần đầu tiên đi xa, đâu biết địa lý Trung Nguyên, ngay địa danh Hoàng Sơn mà chàng cũng chỉ hiểu đại khái mà thôi.

Cho đây là cơ hội hiếm có, chàng vội hỏi :

– Hoàng Sơn có phải là ở vùng hạ lưu Trường Giang, thuộc vùng Hoàn Nam, cách Lư Sơn không bao xa chăng?

Tang Bác Cổ thấy chàng hỏi cặn kẽ, chỉ gật đầu không đáp.

Tử Vi cô nương thấy Đường Chấn Anh cứ hỏi xoáy vào địa danh Hoàng Sơn, thì bất giác chột dạ, không hiểu vì sao tim cứ đập dồn dập, mặt lộ vẻ buồn buồn.

Lúc này đêm đã khuya, gió thu lạnh thổi từng cơn, mọi người đã hết hứng thú trò chuyện, bèn sai dọn dẹp chén đũa, rồi ai nấy tự tìm chỗ nghỉ ngơi ở trong Vô Tướng tịnh xá, hoặc ngồi thiền, hoặc nửa nằm nửa ngồi trên ghế tựa tùy ý muốn.

Tang Bác Cổ tính tình khoáng đạt, không chút câu nệ, đã tựa vào chiếc kỷ lớn ở gian ngoài mà ngủ.

Bốn vị hòa thượng đều là cao tăng đắc đạo, vừa nhập định đã ở cảnh giới phiêu diêu vô ngã.

Đường Chấn Anh thấy năm vị kia đã nghỉ ngơi, chỉ còn Tử Vi đứng tựa cửa, chàng định bước tới gọi nàng, nhưng lại thôi, để tránh sự đấu khẩu, chàng bước sang bên cạnh.

Cử chỉ của chàng, Tử Vi đều biết rõ, tâm ý của chàng, nàng cũng hoàn toàn minh bạch. Có điều là nàng nổi tính tự ái trẻ con, nếu nàng làm lành với chàng trước, hóa ra là thua chàng, thế là đứng im, tưởng rằng chàng nhất định sẽ tới bên cạnh nàng.

Đường Chấn Anh thì lại ngượng nghịu, thật thà, đâu có hiểu tâm lý thiếu nữ. Tử Vi thấy chàng đi sang gian phòng khác, khó tránh khỏi thất vọng, nhưng cũng không tiện đi sang đó, bèn vào góc phòng ngồi xuống một chiếc ghế dựa.

Người có tâm sự thường khó ngủ, Tử Vi nhắm mắt hồi lâu vẫn không ngủ được, càng nghĩ ngợi lung tung, bèn ngồi tĩnh tọa ngay ngắn, muốn vận khí điều tức, nhưng vẫn không rũ bỏ được tạp niệm để nhập định. Bao nhiêu ý nghĩ cứ dồn dập kép đến. Hôm nay nàng cứ liên tục lườm nguýt, giận dỗi với Đường Chấn Anh, hoàn toàn là vô ý thức, ngay bản thân nàng cũng không hiểu tại sao mình lại như thế.

Bảo là nàng giận ư? Căn bản không phải vậy.

Bảo là nàng đố kỵ ư? Nàng đâu phải hạng thiếu nữ như vậy…

Huống hồ nàng đã thấy rõ chân tướng của việc Đường Chấn Anh tương cứu cho Hắc Y Nữ kia.

Vậy tại sao nàng lại như thế?

Nên biết Tử Vi tính tình cao ngạo, được sư phụ Tuyệt Trần thần ni sủng ái như hài nhi, hơn hẳn hàng trăm nữ đệ tử khác, đến khi gặp Đường Chấn Anh ở Lư Sơn, đúng là hữu duyên tương phùng, từ đó nàng đã dành hết mọi tâm ý cho chàng. Hôm nay thấy chàng tiếp cứu Hắc Y Nữ, tuy thừa biết là không có tình ý gì, nhưng dường như từ trong tiềm thức có điều gì đó cứ muốn phát tác mà chính nàng cũng không hiểu nổi.

Nghĩ đi nghĩ lại, nàng cảm thấy đối với chàng, nàng có chút quá đáng, bèn hối hận nghĩ thầm: “Anh ca là người thực tâm, chàng khổ tâm như vậy là tốt đó!”.

Bỗng nhớ đến vừa rồi chàng có hỏi Tang Bác Cổ về địa điểm của Hoàng Sơn, không chừng chàng có ý đi Hoàng Sơn cũng nên?

Người ta bảo “tâm nữ nhi sáng như sao, sắc như kim”, Tử Vi vừa nghĩ thế bỗng thấy lạnh sống lưng, không ngại ngần ý tứ gì nữa, chạy vụt ngay sang phòng bên. Ngọn đèn trên bàn chỉ còn bằng hạt đậu, trong phòng tối mờ mờ, nào thấy bóng ai?

Tử Vi giật mình, nhìn kỹ trên bàn thấy một mẫu giấy bằng ba ngón tay, trong đó viết:

“Đi rồi về thôi, không cần phải lo.

Đường Chấn Anh”.

Tử Vi nhặt mẫu giấy, nóng lòng sốt ruột, mở cửa sổ nhìn ra, thấy trời gần sáng, nghĩ rằng nếu không đuổi theo chàng ngay lúc này, chờ khi mọi người tỉnh giấc thì hết bề đi được, bèn nhặt cây bút lên, viết thêm hai chữ Tử Vi vào mẫu giấy, đặt xuống cạnh đĩa đèn, đoạn băng mình qua cửa sổ, chọn những chỗ kín đáo mà lẻn đi, chẳng mấy chốc đã rời khỏi Không Tĩnh tự.

Tiểu cô nương nóng lòng sốt ruột, chỉ hận không có cánh mà bay cho kịp ý trung nhân. Nàng thắt chặt dây lưng, buộc túm ống quần mà lao đi như hổ đói chồm tới con mồi. Chỉ thấy chim chóc, khỉ vượn trong rừng giật mình kinh hoảng bay nhảy loạn xạ mỗi khi nàng vọt qua. Chẳng mấy chốc, nàng xuống tới sơn khẩu thì vầng dương vừa mọc đỏ ối ở chân trời.

Buổi sớm mai, đường lớn còn vắng tanh, Tử Vi lập tức thi triển khinh công thân pháp mà lao đi như tên bắn về phía trước. Chưa đầy một giờ đã tới bến sông Lạc Sơn, cách Nga Mi Kim Đỉnh ngót trăm dặm.

Nàng đứng trên bờ, nhìn dòng sông chảy cuồn cuộn về phía đông, chần chừ suy tính. Nguyên từ đây tới Ba huyện, nếu đi tắt đường bộ thì nhanh, còn theo đường thủy phải vòng vèo xa hơn hai ba lần, nàng muốn theo đường bộ, nhưng sẽ rất khó đi, nếu tìm mua ngựa, sợ tốn thời gian. Còn thuê thuyền tuy đỡ tốn sức, nhưng chỉ e Đường Chấn Anh đi theo đường bộ thì làm sao đuổi kịp chàng?

Đang do dự, bỗng nàng thấy có một chiếc thuyền đang băng băng lao tới, cửa sổ khoang thuyền mở rộng, từ trong có tiếng người liên tiếp gọi tên nàng.

Tử Vi lấy làm kỳ quái, chưa hiểu tại sao lại có người biết nàng, nhìn và nghe kỹ, bỗng giật mình.

Thì ra người kia chính là Vạn Sự Thông Tang Bác Cổ.

Tử Vi ngạc nhiên hỏi :

– Tiền bối sao đến đây nhanh vậy?

Tang Bác Cổ vuốt râu đáp :

– Ta đã ngủ được một giấc trên thuyền, tiểu nha đầu nhà ngươi mới tới.

Đoạn lão nhân nhe răng tựa hồ như cười.

Tử Vi thầm thán phục thân pháp thần tốc của lão nhân, nghĩ: “Lúc mình đi, lão còn ngủ, vậy mà lão lại đến đón đầu ở đây…”

Tang Bác Cổ giục nàng :

– Còn đứng ngây ra đó, mau xuống thuyền đi.

Tử Vi nhảy xuống thuyền, chui vào khoang rồi hỏi :

– Đi đâu bây giờ?

Tang Bác Cổ đáp :

– Ta tưởng phải hỏi ngươi câu đó.

Tử Vi nói :

– Đi đường thủy chậm quá, nếu sư huynh của vãn bối đi đường bộ thì đuổi sao cho kịp?

Tang Bác Cổ cười :

– Chúng ta đi chuyến này không phải là đuổi theo, mà là để tiếp ứng.

Tử Vi chưa hiểu ý, hỏi :

– Nghĩa là thế nào?

Tang Bác Cổ cười :

– Ngươi tinh ma như quỷ, thử nghĩ một chút coi.

Tử Vi chợt hiểu, nói :

– Có phải tiền bối cho rằng Đường Chấn Anh đã quyết chí đến Hoàng Sơn, thì dù có đuổi kịp, chàng cũng chẳng chịu quay về?

Tang Bác Cổ gật đầu, nói :

– Chính thế, cho nên chúng ta không cần đuổi gấp, cứ xuôi thuyền đến Hoàng Sơn, bảo đảm ngươi tìm thấy gã sư huynh của ngươi là được…

Tử Vi lại hỏi :

– Tiền bối đã nhận lời ủy thác của sư bá tiện nữ, giúp cho tệ phái trấn thủ Không Tĩnh tự, đề phòng bất trắc kia mà? Nay tiền bối đi Hoàng Sơn, há chẳng…

Nên biết Tang Bác Cổ sau khi ngủ, không phát hiện Đường Chấn Anh bỏ đi, nhưng lúc Tử Vi ra đi thì lão nhân đã biết. Lão nhân sang phòng bên, thấy mẫu giấy thì nghĩ: “Anh nhi hẳn là đến Hoàng Sơn tìm Lã Chí Viễn và Lăng Ba Nhất Yến để báo cừu, thật chẳng khác gì con thiêu thân lao vào lửa. Mà để lộ tin tức khiến hắn đi Hoàng Sơn lại là ta, lỡ hắn có bề nào thì ta còn mặt mũi đâu mà gặp Vô Tướng thiền sư? Hơn nữa, Không Tĩnh tự đã có lão quái quỷ kia ngầm bảo hộ, khỏi cần lo”.

Do đó, Tang Bác Cổ cũng viết một câu trên mẫu giấy, rồi lập tức lên đường. Lão nhân đã là bậc quái kiệt, có thuật phi hành thần tốc, lại gặp thuyền, nên vừa rồi đã đuổi kịp Tử Vi, nay nghe Tử Vi nhắc đến chuyện ủy thác, liền ngắt lời nàng :

– Ngươi nói đúng, nhưng khỏi cần lo. Ở Không Tĩnh tự đã có lão quái vật nọ, bảo đảm bình an vô sự.

Tử Vi gật đầu, thế là chủ thuyền nhổ sào, cho thuyền chạy ra giữa dòng, kéo buồm lên rồi thuận giòng theo gió trôi đi vùn vụt. Tử Vi có được Tang Bác Cổ cùng đi thì vô cùng hoan hỷ.

Lại nói Đường Chấn Anh sau khi đi khỏi Không Tĩnh tự, cứ một mạch mà chạy, đến bên Lạc Sơn thì trời sắp sáng. Chàng muốn vượt sông mua ngựa mà đi, đến huyện Ba sẽ lại đáp thuyền, nhưng thấy trời còn sớm, sợ không mua ngay được ngựa, vừa hay lại có thuyền ghé bến sẵn sàng chờ thuê, chàng bèn xuống thuyền cho đỡ vất vả.

Chàng sợ có người đuổi theo nên giục thuyền đi gấp, con thuyền căng buồm thuận gió xuôi dòng, trôi băng băng, qua Tam Môn hiệp, qua Động Đình, đến Võ Xương, chỉ mất một ngày. Tối hôm ấy đến bến Cửu Giang, chàng đứng ở mũi thuyền nhìn lên, thấy thế núi trùng điệp, xanh ngát một màu, chính là Lư Sơn Hương Lô phong, nơi sư phụ và sư thúc đang bế quan luyện công. Chàng vội vái một vái, lim dim mắt nói nhỏ :

– Anh nhi lỗ mãng và thiển cận, không thận trọng đã cứu lầm thích khách, phóng thích cừu nhân, nên vô cùng hổ thẹn và khó thấy yên lòng. Trộm nghĩ chỉ có cách đến Hoàng Sơn thâm nhập hang hổ, bắt sống Lã Chí Viễn và Lăng Ba Nhất Yến, lấy máu trả máu để tế vong linh các đồng môn bị chết oan và đền ơn sư phụ. Nay qua Lư Sơn, xin lượng thứ cho Anh nhi nóng lòng sốt ruột, không thể vấn an sư phụ, lại tự ý hành động. Những mong chuyến này đi Hoàng Sơn, dựa vào uy đức của sư phụ, dưới sự che chở của phái Nga Mi chúng ta mà tận diệt địch nhân, kết liễu oan nghiệt. Xin sư phụ hiểu cho thành tâm của Anh nhi.

Khấn xong, chàng mở mắt ra, thuyền đã đi được hàng dặm, Lư Sơn lùi dần về phía sau.

Gió thổi lồng lộng, thuyền trôi như tên bắn, không đầy một giờ đã đến Bành Hồ, chủ thuyền kêu Đường Chấn Anh. Chàng lên bờ tìm mua ngựa, hỏi kỹ đường, rồi phóng ngựa về phía Hoàng Sơn.

Từ Bành Hồ đến Hoàng Sơn hơn hai trăm dặm, chỉ thấy Đường Chấn Anh ra roi quất ngựa, bụi tung mù mịt dưới vó ngựa, sớm hôm sau đã tới chân dãy Hoàng Sơn.

Hoàng Sơn là dãy núi trùng điệp, cao ngàn trượng, có nhiều ngọn cao vút. Đường Chấn Anh ngẩng nhìn, thầm nghĩ đi tìm trang viện của Lã Chí Viễn ở đây thật chẳng khác nào mò kim đáy biển.

Chàng do dự giây lát, cuối cùng cũng chẳng nghĩ thêm, lại ra roi, con ngựa lập tức theo con đường mòn chạy lên núi.

Đường núi ngoằn ngoèo, đi chán một hồi lại nhìn thấy đoạn đường đã qua, gió thu se sắt, lá vàng rơi lả tả, vài ngôi am tự, nhưng lên đến lưng chừng núi, chỉ còn cây rừng dày đặc, chim chóc ríu rít, tuyệt không một bóng người.

Đừng nói tìm Lã Chí Viễn, ngay muốn tìm một người để hỏi đường cũng khó. Bước sang giờ ngọ, Đường Chấn Anh đã đi liên tục một đêm nửa ngày, bỗng thấy đói cồn cào, khát khô cổ, tự trách mình không mang theo chút lương khô. Giá có Tử Vi sư muội cùng đi, hẳn nàng đã lo liệu chu đáo.

Bỗng nghe có tiếng nước chảy từ phía sau một cánh rừng vọng lại, chàng nghĩ đã không được ăn, có nước uống cũng tốt, bèn cho ngựa xuyên rừng đi về phía đó.

Hết cánh rừng, trên vách núi đối diện có một con suối chảy từ trong núi ra, nước bắn thành màn tung tóe, tụ thành một cái hồ nhỏ, thông ra một khe suối.

Bỗng chàng nhìn thấy một hòa thượng đang cúi mình, hai tay vục hai chiếc hồ lô xuống hồ lấy nước. Chàng mừng rỡ, reo to và phi ngựa tới.

Nào ngờ vị hòa thượng kia ngẩng lên, thấy một chàng trai anh tuấn, lưng đeo binh khí thì tái mặt, vội vã xách hai chiếc hồ lô đầy nước mà chạy, chẳng nói chẳng rằng, cứ thế mà cắm đầu chạy xéo vào cánh rừng.

Đường Chấn Anh ngạc nhiên, nghĩ rằng vị hòa thượng này chắc là tà đạo, mình đâu phải là hổ mà lão ta sợ mình ăn thịt lão ta. Đã có hòa thượng, ắt phải có am tự, mình phải đuổi theo lão ta mới được.

Nghĩ vậy, chàng bèn giục ngựa lao theo.

Vị hòa thượng thấy chàng đuổi theo, dĩ nhiên càng chạy nhanh hơn, hết cánh rừng, vọt lên chỗ núi đá lởm chởm để ngựa không đi được.

Đường Chấn Anh thấy vị hòa thượng dùng thủ đoạn ấy, lập tức nghi ngờ, liền phi thân khỏi yên ngựa mà đuổi bộ. Được một lát, sườn núi vòng sang hướng khác, ở phía đó là bình địa, có một rừng trúc, cây lá rậm rạp, không thấy vị hòa thượng kia đâu nữa.

Đường Chấn Anh tìm một hồi, thấy rừng trúc cứ trải dài vô tận, không có đường ra, chẳng hiểu vị hòa thượng ấy biến đi đâu. Chàng chợt nghĩ ra cách vọt lên ngọn cây để quan sát tứ phía, thấy xung quanh rừng cây rậm rạp, nhưng mé bên hữu cách chỗ chàng chừng mười trượng, có một khuyết khẩu. Chàng bèn đề tụ chân khí vào Đan Điền, thi triển “Bát Bộ Đăng Không Thảo Thượng Phi” băng tới chỗ khuyết khẩu, thấy nơi đó đất bằng phẳng, sáng hẳn ra.

Dưới chân lá phong đỏ trải thảm, những cây phong xen với những cây cổ tùng xanh rì, thấp thoáng sau những tán lá cành cây là một bức tường màu hồng và ngói lục, thì ra là một tòa cổ tự.

Đường Chấn Anh nghĩ thầm: “Hóa ra lão hòa thượng ở đây!”.

Chàng men tới gần, thấy tòa cổ tự khá rộng, nhưng đã nhiều năm không được tu sửa, vôi vữa loang lổ hư hoại nhiều chỗ, cảnh tượng thê lương.

Trên cổng có đề ba chữ Phật Âm Tự, hai bên có hai cây cột đắp hình con rồng uốn lượn và một đôi liễn.

Phật cảnh tịnh thổ, phiến thảo thốn mộc ngộ thiền ngữ.

Âm Chấn mê hồn, lạp sa trích thủy phá trần duyên.

Đường Chấn Anh đọc xong, kinh ngạc nghĩ thầm: “Thì ra đây là đệ nhất đại tự ở Hoàng Sơn, từng nghe sư phụ kể vị hòa thượng trụ trì là một cao tăng võ nghệ cao cường ẩn cư, ít lộ diện trần thế, nên mọi người đặt cho ngoại hiệu là Thiên Ngoại Cô Tăng. Hôm nay vô tình đến đây, mình phải vào trong tự bái kiến”.

Thế là chàng phủi bụi bặm trên người tử tế, rồi mới bước vào trong tự.

Từ trên đại hùng bảo điện, có một vị hòa thượng tuổi ngoại tứ tuần diện mạo hiền từ hòa nhã, bước ra hỏi :

– Chắc hẳn tiểu thí chủ muốn vào thăm chùa?

Đường Chấn Anh tuy không tu hành, nhưng xuất thân Phật môn, nên rất tôn kính các vị tăng lữ, nghe vị hòa thượng hỏi, vội cúi mình vái và đáp :

– Tại hạ có việc đi ngang qua đây, nghe danh quý tự đã lâu, một lòng ngưỡng mộ, nên mới vào thăm để được đại khai nhãn giới.

Vị hòa thượng nói :

– Tiểu thí chủ quá khen, tệ tự không dám nhận. Vì đã lâu năm không tu sửa, tệ tự chẳng còn được như xưa, e không làm vừa lòng nhã ý của tiểu thí chủ.

Đường Chấn Anh thấy hòa thượng khiêm nhường, vội nói :

– Đại sư hà tất quá khiêm nhường, nếu vậy tại hạ không dám làm phiền.

Hòa thượng thấy Đường Chấn Anh nhã nhặn, lễ phép, bèn né sang bên, giơ tay mời vào. Chàng cũng không khách khí, liền mỉm cười gật đầu, theo hòa thượng vào nơi tọa định của phương trượng. Chủ hỏi khách :

– Tiểu thí chủ có lẽ hôm nay chưa dùng bữa?

Đường Chấn Anh nghe hỏi, bụng bỗng cồn cào, vội đáp :

– Thưa đúng vậy, tại hạ từ xa tới đây, quả rất đói bụng, nếu có thể phiền quý tự, thật vô cùng cảm kích.

Hòa thượng lui ra không lâu, có chú tiểu bưng đồ ăn và cả rượu vào. Đường Chấn Anh ăn ngốn ngấu hết sạch, vị hòa thượng lại bưng trà vào, nói :

– Tệ tự đạm bạc, không có của ngon vật lạ khoản đãi tiểu thí chủ, mong tiểu thí chủ lượng thứ cho.

Đoạn rót trà đầy chung.

Đường Chấn Anh cúi mình đáp :

– Đa tạ đại sư, tại hạ được khoản đãi thế này thật là áy náy.

Hòa thượng nói :

– Sắc diện của tiểu thí chủ dường như có chuyện gì, nếu muốn lên trên núi tiếp, e khó tìm đường, trộm hỏi thí chủ từ đâu tới đây?

Rõ ràng hòa thượng tỏ ý nghi ngờ.

Đường Chấn Anh hồi đáp thẳng thắn :

– Tại hạ từ xa tới đây là muốn tìm một người, nhưng chỉ biết y ở trong núi chứ chưa rõ ở chỗ nào…

Hòa thượng hỏi luôn :

– Thí chủ muốn tìm ai vậy?

Đường Chấn Anh đáp :

– Người ấy là một nhân vật lừng danh, là Mai Chưởng Tản Nhân Lã Chí Viễn, và thêm cả Lăng Ba Nhất Yến nữa…

Hòa thượng thốt lên kinh ngạc, chằm chặp nhìn Đường Chấn Anh, tựa hồ muốn xuyên thấu tâm can chàng.

Đường Chấn Anh thấy sắc diện nghi ngờ của hòa thượng, bèn hỏi :

– Đại sư có biết hai nhân vật đó ở đâu chăng?

Hòa thượng cười khẩy, đáp không vào câu hỏi :

– Bần tăng xin hỏi quý tánh cao danh của tiểu thí chủ, cùng với sinh quán và môn phái? Và tìm hai nhân vật kia để làm gì?

Hòa thượng tuy hỏi dồn dập, bất ngờ, ngưng Đường Chấn Anh nổi hào khí, sang sảng đáp :

– Tại hạ là Đường Chấn Anh, từ nhỏ sống ở Không Tĩnh tự trên Nga Mi Kim Đỉnh, Chưởng môn phái Nga Mi Vô Tướng thiền sư chính là ân sư của tại hạ. Lần này tại hạ đến đây tìm Lã Chí Viễn và Lăng Ba Nhất Yến là muốn báo cừu có các đồng môn đã bị họ giết hại. Nếu đại sư biết chỗ ở của họ, những mong chỉ đường cho biết.

Hòa thượng nghe Đường Chấn Anh nói rõ thân phận, sắc diện lập tức trở lại như thường, hơi hổ thẹn nói :

– May mà bần tăng hỏi thẳng, nếu không thì người trong bổn tự đã ngộ nhận thí chủ là đồng bọn của Lã Chí Viễn, vừa rồi bần tăng có điểm thất lễ, mong thí chủ lượng thứ.

Đoạn chắp tay vái dài.

Đường Chấn Anh chưa kịp đáp, hòa thượng đã nói tiếp :

– Phái Nga Mi danh chấn võ lâm, lệnh sư võ nghệ thông huyền, cổ nhân từng bảo “danh sư xuất cao đồ”, hôm nay được gặp thí chủ thật là cơ duyên hạnh ngộ, bần tăng biết đến đâu, xin thành thực phụng cáo.

Đường Chấn Anh nghe vậy, biết Phật Âm tự có tranh chấp với Mai Chưởng Tản Nhân Lã Chí Viễn, bèn hỏi :

– Chưởng môn của quý tự Thiên Ngoại lão phương trượng, tại hạ kính ngưỡng đã lâu, không biết có thể yết kiến được chăng? Thỉnh vấn pháp danh của đại sư?

Hòa thượng đã hết nghi ngờ, mới đáp :

– Pháp danh của bần tăng là Phục Hổ, hiện Chưởng môn và mấy vị sư huynh đều đi tứ phương mộ hóa (xin bố thí), thịnh ý của thí chủ, khi nào lão phương trượng trở về, bần tăng sẽ truyền đạt với người.

Lời nói có vẻ ấp úng, tựa hồ ngập ngừng và còn ẩn ý.

Đường Chấn Anh thấy vậy thì ngạc nhiên, lại hỏi :

– Vậy hiện tại ai là người trụ trì ở quý tự?

Phục Hổ La Hán đáp :

– Là sư thúc của bần tăng tạm thay Chưởng môn.

Đường Chấn Anh nghĩ một chút, nói :

– Lệnh sư thúc có phải là Tuệ Viễn đại sư, được võ lâm tôn xưng Bích Nhãn Tinh Phật hay chăng?

– Thí chủ đoán đúng đó.

– Lão thiền sư có trong tự chăng?

– Có!

– Tại hạ có thể bái kiến người được không?

– Điều này…

Phục Hổ La Hán định nói lại dừng, nghĩ một chút mới nói tiếp :

– Được, thí chủ đã có ý như vậy, xin hãy đi theo bần tăng.

Hai người qua thềm đại điện, bước vào một cái cửa hình bán nguyệt, tới một cái sân rộng. Trong sân cỏ mọc dày, trúc xanh từng bụi, lá rụng đầy không quét, cuối sân có hai gian thảo thất, treo đôi liễn:

Huệ nhãn thức phá tan thập giới,

Tĩnh tâm đối ngữ nhất lộ hương.

Một bức hoành phi đề ba chữ “Phiên Phù Lư”. Phục Hổ La Hán bảo Đường Chấn Anh chờ một chút, để hòa thượng vào trước thảo thất. Lát sau mới bước ra, vẫy tay cho chàng vén mành bước vào.

Bên trong trừ hai tấm bồ đoàn, một chiếc đỉnh đang thắp hương thì không có vật gì khác. Một vị cao tăng đang ngồi trên một tấm bồ đoàn, lông mày dài bạc như cước, diện mạo trẻ trung, đôi mắt sáng như sao phóng ra hai đạo lục quang đầy thần uy, nhìn thấy phát sợ.

Đường Chấn Anh định khấu đầu thi lễ, Bích Nhãn Kim Tinh Phật khẽ phẩy tay, một luồng tiềm lực ngăn trở thế định quỳ xuống của chàng, khẽ niệm Phật hiệu, nói :

– Miễn lễ cho hiền khế, bần tăng với lệnh sư ba mươi năm về trước đồng hành giang hồ, hỗ trợ cho nhau. Nay bần tăng rất mừng được gặp hiền khế.

Đường Chấn Anh đứng né sang một bên, cung thân đáp :

– Lão thiền sư là thế ngoại cao nhân, vãn bối thường nghe sư phụ kể chuyện, hôm nay được chiêm ngưỡng Phật nhan, thật đại hạnh một đời.

Bích Nhãn Kim Tinh Phật hài lòng, đã hết lạnh lùng, dịu giọng hỏi :

– Hiền khế đến Hoàng Sơn chuyến này ắt có yếu sự, nếu bần tăng đoán không sai, hẳn là muốn tìm Mai Chưởng Tản Nhân?

Đường Chấn Anh thấy lão thiền sư đoán đúng, vội đáp :

– Lão thiền sư quả có thần nhãn, vãn bối chính vì thế mà đến…

Bích Nhãn Kim Tinh Phật ngẩng mạnh đầu, chau mày hỏi :

– Có mấy người cùng đi?

Đường Chấn Anh đáp :

– Vãn bối có một mình thôi.

– Tìm Mai Chưởng Tản Nhân để làm gì?

– Bẩm, để báo cừu cho sư môn.

– Hiền khế có biết chỗ hạ lạc của Mai Chưởng Tản Nhân chưa?

– Vãn bối chưa biết, nên thỉnh cầu lão thiền sư chỉ dẫn.

Bích Nhãn Kim Tinh Phật bỗng hỏi :

– Hiền khế đến đây, lệnh sư có biết hay không?

Mục quang của lão thiền sư quắc lên như muốn soi thấu tâm can Đường Chấn Anh.

Chàng hoàn toàn bất ngờ trước câu hỏi này, trả lời thì không ổn, mà không trả lời cũng chẳng ổn, nghĩ một chút, đành lúng túng đáp :

– Thực chẳng dám giấu, sư phụ của vãn bối đang bế quan ở Lư Sơn, còn vãn bối từ Nga Mi Kim Đỉnh tới đây…

Chàng chưa nói hết, lão thiền sư đã thở dài :

– Hiền khế thật quá khinh suất, không phải bần tăng muốn can ngăn hiền khế và đề cao uy phong của kẻ khác, nhưng Mai Chưởng Tản Nhân… hiền khế một mình không đối phó nổi đâu.

Ngừng một chút, đoạn hỏi :

– Ai nói cho hiền khế biết Mai Chưởng Tản Nhân ẩn phục ở Hoàng Sơn này?

Đường Chấn Anh đáp :

– Là lão tiền bối Tang Bác Cổ cho biết.

Bích Nhãn Kim Tinh Phật lắc đầu :

– Ồ, thì ra là lão quỷ hói, chuyện gì lão Tang cũng lắm lời.

Không khí trong thảo thất trầm tịch hẳn xuống, lát sau lão thiền sư nhìn Đường Chấn Anh, thở dài, chắp hai tay trước ngực, nói :

– Đức Phật từ bi, hiền khế trẻ người non dạ, rất dễ xung động, bần tăng có can ngăn chắc hiền khế chẳng chịu nghe. Nếu không nói cho biết nơi hạ lạc của Mai Chưởng Tản Nhân, hiền khế cứ đi tìm loạn lên thì càng không ổn, chi bằng bần tăng nói cho biết, có điều là…

Đường Chấn Anh mừng rơn, vội hỏi :

– Bẩm sao ạ?

Bích Nhãn Kim Tinh Phật nói :

– Có điều là Phật Âm tự của bần tăng không thể hiệp trợ, chẳng phải vì e sợ, mà là có lý do và ẩn tình mà bần tăng chưa thể nói ra. Hiện tại bần tăng có thể phái Phục Hổ dẫn đường một quãng, chỉ dẫn rõ ràng rồi quay về là được.

Đường Chấn Anh cúi mình cảm tạ :

– Oan có đầu, nợ có chủ, kiếp nạn của bổn phái há dám làm phiền đến quý tự. Vãn bối được chỉ dẫn đã cảm kích bất tận, không dám làm phiền Phục Hổ sư huynh tống tiễn.

Lão thiền sư nói :

– Hiền khế bất tất quá khiêm, Phật môn cùng một phái, nhưng bần tăng có vài lời mong hiền khế ghi nhớ.

Đường Chấn Anh nói :

– Vãn bối xin kính lãnh.

Bích Nhãn Kim Tinh Phật nói :

– Cần tiến thì tiến, nên lùi thì lùi, đạo tiến thoái phải suy xét kỹ.

Đoạn nhắm mắt lại.

Đường Chấn Anh chắp tay vái, cũng không nói thêm, quay người cùng Phục Hổ La Hán trở ra ngoài.

Trời đã xế chiều, ý của Phục Hổ La Hán là hãy nghỉ lại đêm nay, sớm mai lên đường, nhưng Đường Chấn Anh nóng lòng sốt ruột, hận không thể đến ngay nơi hạ lạc của Mai Chưởng Tản Nhân và Lăng Ba Nhất Yến.

Phục Hổ cũng không can ngăn, bèn thu xếp đưa chàng rời Phật Âm tự đi ngay.

Họ đi về hướng Tây bắc. Rừng núi nhấp nhô, đá nhọn lởm chởm, cỏ rậm mọc đầy. Đừng nói đường đi cho người, ngay cả dã thú cũng không thấy dấu chân.

Nhưng cả hai đều là cao đồ của danh sư, khinh công siêu quần, cứ như hai làn khói mỏng, lướt trên ngọn cây mà phi hành, khinh linh thần tốc.

Đi ngót hai giờ, vượt đèo qua suối không biết bao lần, Phục Hổ La Hán vẫn chưa dừng chân. Đường Chấn Anh thấy vầng dương sắp lặn non đoài, liền hỏi :

– Không biết trang viện của Mai Chưởng Tản Nhân còn bao xa?

Phục Hổ La Hán chỉ đỉnh núi phía trước, đáp :

– Ở lưng chừng ngọn núi kia.

Thêm vài lần búng mình phi thân, họ đã tới chân ngọn núi, ngẩng nhìn lên, thấy một con đường mòn ngoằn ngoèo kêu là đường ruột dê, tựa hồ tới tận đỉnh núi.

Phục Hổ dừng chân, nói với Đường Chấn Anh :

– Đây là đỉnh núi cao nhất của dãy Hoàng Sơn, gọi là Siêu Thiên phong. Theo đường mòn kia, đi chừng nửa giờ sẽ gặp một rừng tùng, đường chia làm hai ngã. Rẽ sang mé hữu sẽ đến thẳng trang viện của Mai Chưởng Tản Nhân. Đường sư đệ hãy nhớ cho kỹ, kẻo đi lầm sẽ rất khó tìm. Tiểu huynh theo lệnh sư thúc, không thể đi tiếp, hy vọng sư đệ thận trọng. Chúng ta chia tay ở đây vậy.

Đoạn chắp tay thi lễ.

Đường Chấn Anh vội đáp lễ :

– Đa tạ sư huynh, tiểu đệ ngày sau xin báo đáp.

Phục Hổ nói :

– Nếu vậy… những mong Đường sư đệ khi trở về thì ghé lại tệ tự vài hôm, ngu huynh sẵn sàng chờ đón.

Hai người thi lễ lần nữa, rồi Phục Hổ quay mình trở lại đường cũ.

Đường Chấn Anh thấy trời đã muộn, cũng không dám chần chừ, lập tức thi triển thuật phi đằng, theo đường mòn lên núi.

Siêu Thiên phong là rừng tùng bách um tùm, hầu như không dấu chân người. Đường Chấn Anh không có bụng dạ nào ngắm cảnh, chỉ cắm đầu lao nhanh theo đường mòn nọ. Càng lên cao càng dốc và hiểm trở, gió thu se sắt, âm khí nặng nề, chốc chốc vang lên tiếng quái điểu nghe như tiếng ma quỷ rợn tóc gáy.

Đường Chấn Anh tuy có võ nghệ và can đảm, nhưng còn trẻ, nhìn cảnh tượng này cũng sởn gai ốc, nghĩ: “Tại sao Mai Chưởng Tản Nhân ở dãy Hoàng Sơn mênh mông lại chọn chốn hoang vu này mà kiến trúc trang viện?”

Đồng thời, chàng nhớ lại lời nói của Bích Nhãn Kim Tinh Phật ở Phật Âm tự: “Phật Âm tự của bần tăng không thể hiệp trợ, chẳng phải vì e sợ, mà là có lý do và ẩn tình mà bần tăng chưa thể nói ra”. Đã không sợ, sao không dám hiệp trợ? Ẩn tình kia là chuyện gì vậy? Tại sao chưa thể nói rõ?

Chàng cũng nhớ lại sắc diện của vị hòa thượng đi lấy nước lúc nhìn thấy chàng. Hòa thượng ấy chẳng nói một lời, vẻ mặt vừa kinh sợ vừa phẫn nộ, bỏ chạy ngay về Phật Âm tự, sau Phục Hổ mới giải thích là vì ngộ nhận chàng là thuộc hạ của Lã Chí Viễn.

Chàng càng nghĩ càng thấy kỳ quái và khó hiểu, biết bao điều khả nghi nhưng biết hỏi ai đây?

Bỗng có tiếng nhạn kêu, Đường Chấn Anh ngẩng nhìn, thấy mặt trời đã lặn. Chàng giật mình, nghĩ: “Phục Hổ nói rằng chỉ đi nửa giờ sẽ gặp rừng tùng, đường sẽ chia làm hai ngã. Hiện tại trời tối rồi, mình đã đi hơn nửa giờ, tại sao không thấy chỗ đường rẽ? Chẳng lẽ mình lạc đường hay sao?”.

Kỳ thực chàng đã qua chỗ đường rẽ, nhưng vì mãi suy nghĩ nên không để ý.

Chàng chạy một chặng nữa, trời đã tối hẳn, vẫn chưa thấy chỗ đường rẽ, cho là mình đã lạc đường, đang tính quay trở lại, bỗng thấy cách đó không xa có một ánh đèn le lói.

Chàng mừng rỡ: “Có đèn ắt có người”. Vội lao vút như tên tới chỗ phát ra ánh đèn.

Nơi ấy là một cánh rừng, trong rừng thấp thoáng hiện ra một tòa thạch thất rộng chừng nửa mẫu, cao khoảng ba trượng, tối mò mò, ánh đèn bằng hạt đậu kia chính là lộ ra từ trong một cửa sổ nhỏ của tòa thạch thất.

Trời tối gió lạnh, lá rơi xào xạc, không gian u tịch, âm khí trùng trùng, thạch thất im lìm, cửa đóng then cài kín mít càng tăng vẻ trầm tịch, thê lương kỳ dị, tựa hồ nơi đây đầy dẫy ma quỷ, gây cảm giác ớn lạnh.

Đường Chấn Anh nấp sau một gốc cây quan sát tứ bề, nhưng trời tối khó nhìn rõ vật gì. Bất giác chàng nghi vấn: “Thạch thất này là cái gì? Tại sao ở chốn cao sơn hoang lâm lại dựng lên một tòa thạch thất làm chi? Xem chừng chủ nhân của nó hoàn toàn không phải thường nhân. Càng kỳ dị là cả tòa thạch thất rộng thế kia mà lại chẳng thấy bóng người? Ta phải đến gần quan sát mới được”.

Bèn lao vút tới chỗ phát ra ánh đèn.

Cửa sổ nhỏ hình vuông, rộng chừng hai thước, ở rất cao bên trên, lại có lưới chắn và song sắt, chàng muốn nhìn vào bên trong, ắt phải tung mình lên cao.

“Người ta sống ở nơi sơn dã, làm gì phải nghiêm cẩn cửa nẻo thế này? Ta nhất định phải nhìn cho rõ”.

Đường Chấn Anh càng nghi ngờ, chàng định tung mình bay lên cửa sổ, bỗng nghe sau lưng một tiếng quát gằn :

– Kẻ nào lén lút tới đây là tự dấn thân vào chỗ chết.

Thanh âm tuy nhỏ, nhưng rành rọt từng tiếng phân mình, rõ ràng là của một người trẻ tuổi, nhưng có chân lực nội gia thâm hậu.

Đường Chấn Anh giật mình quay lại, thấy một người đứng cách chàng ba trượng.

Kỳ quái, người kia sau khi quát, lại đứng im, chẳng nói chẳng rằng, y hệt một tượng gỗ.

Đường Chấn Anh trấn tĩnh, nghĩ: “Ngươi không nói, ta cũng chẳng cần lên tiếng, để coi ngươi là ai?”

Đôi bên cứ đứng im như thế chừng một tuần trà, người kia hết nhẫn nại, lạnh lùng cất tiếng :

– Sao ngươi không tự kết liễu lấy mình đi, chẳng lẽ còn tiếc mạng sống hèn hạ hay sao?

Nói đến chuyện sinh tử mà giọng hắn quá ư khinh bạc, thật là cuồng ngạo.

Đường Chấn Anh nghe hai câu nói ngạo mạn của hắn thì hết nhịn nổi, bèn cười khẩy, đáp :

– Sống đến trăm tuổi rồi cũng chết, chi bằng sớm về Tây Thiên còn hơn. Ta muốn vậy lắm, hiềm một nỗi chưa có ai đoạt mạng. Thân thể là do phụ mẫu sinh thành, làm sao có thể tự kết liễu? Ngươi đã mở miệng đòi đoạt mạng, thì cứ thử coi.

Lời lẽ hiển nhiên ương ngạnh, có ý khiêu chiến.

Kẻ kia cười ngạo nghễ :

– Thật không ngờ lại gặp một gã miệng lưỡi sắc sảo như thế, song ta chẳng có thời gian đấu khẩu với ngươi…

Vừa nói hắn vừa tiến lại gần Đường Chấn Anh.

Chàng thấy hắn di động thân hình như long hành hổ bộ, không một tiếng động, còn cách chừng năm bước thì dừng lại, chỉ tay nói :

– Ngươi hãy mau xưng danh, để ta tiện cho ngươi sớm về chầu tiên tổ.

Đường Chấn Anh ngưng thần, chăm chăm nhìn hắn, thì ra là một thiếu niên anh tuấn, kiếm mi dài đến tận chân tóc, mắt sáng như sao, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, mặc áo dài, lưng đeo binh khí. Không ngờ ở chốn hoang sơn u ám này lại có một thiếu niên phi phàm như vậy.

Thiếu niên kia thấy Đường Chấn Anh hiên ngang đường hoàng, thì có vẻ kinh ngạc. Có câu “anh hùng ái anh hùng, thiếu niên cảm thiếu niên”, song phương tựa hồ cùng có cảm ứng, bất giác lại đứng im phăng phắc.

Đường Chấn Anh bỗng nhớ đối phương đã hỏi tính danh của chàng, mà chàng chưa đáp, bèn trầm giọng nói :

– Tại hạ là Đường Chấn Anh, bế quan đệ tử của Chưởng môn phái Nga Mi.

Thiếu niên ngạc nhiên hỏi :

– Vô Tướng thiền sư và Tuyệt Trần thần ni phải chăng là sư phụ, sư thúc của ngươi?

Đường Chấn Anh thấy hắn gọi đúng ngay sư thừa của chàng thì nghĩ rằng hắn có chút kiến thức, bèn đáp :

– Không sai, nhưng tên ngươi là gì? Sư phụ là ai?

Thiếu niên kia cười lạnh một tiếng, nói :

– Hãy khoan, để ta hỏi trước. Đêm hôm khuya khoắt, bọn ngươi có mấy người đến đây, và có mục đích gì?

Đường Chấn Anh thấy hắn không chịu xưng danh, chỉ đáp chung chung :

– Đường mỗ ta đến đây chẳng có mục đích gì…

Gã thiếu niên không đợi chàng nói hết, đã hỏi luôn :

– Ngươi có biết nơi đây là chốn nào không?

Đường Chấn Anh đáp :

– Hoàng Sơn Siêu Thiên phong, có gì mà không biết?

Gã thiếu niên nói :

– Phải, nhưng chốn này không dành cho ngoại nhân, đừng nói ngươi, dù là tiên đến đây cũng chớ hòng sống sót mà đi.

Đường Chấn Anh cả giận nói :

– Thì Đường mỗ đã tới đó, ngươi định làm gì ta?

Thiếu niên ngạo nghễ nói :

– Gia phụ có lệnh, phàm kẻ nào tới đây cũng phải giết chết tươi.

Đồng Chấn Anh gầm lên :

– Danh sơn thắng cảnh mà dám chiếm làm của riêng, chẳng hiểu phụ thân ngươi là ai vậy?

Thiếu niên trầm ngâm một lát, mới đáp :

– Cho ngươi biết cũng chẳng hại gì, đằng nào thì ngươi cũng sắp chết. Chắc ngươi đến đây cũng là để tìm gia phụ…

Đường Chấn Anh trong lòng máy động, hỏi :

– Ngươi nói gì?

Thiếu niên cao giọng, nghiêm trang đáp :

– Ta muốn nói đến Mai Chưởng Tản Nhân danh chấn võ lâm.

Đường Chấn Anh bước lên một bước, nói tiếp :

– Ngươi là…

Thiếu niên đáp luôn :

– Ta là Lã Mộng Long, trưởng tử của người.

Đường Chấn Anh hoàn toàn bất ngờ, ai dè gã thiếu niên trước mặt chàng lại là trưởng tử của Lã Chí Viễn, kẻ oan gia đối đầu mà chàng cần tìm. Điều bất ngờ hơn là Mai Chưởng Tản Nhân lại có thê tử! Lã Mộng Long ngó bộ đã mười bảy, mười tám tuổi, vậy Mai Chưởng Tản Nhân sớm đã kết hôn, hà tất còn truy cầu nhị sư thúc Tuyệt Trần thần ni làm gì? Chuyện Mai Chưởng Tản Nhân kết hôn, có thê tử, tại sao Vạn Sự Thông Tang Bác Cổ lại không hay biết chút nào?

Chàng đang suy nghĩ, bỗng nghe thiếu niên gằn giọng :

– Tiểu tử họ Đường kia, lời đã rõ ràng, còn chưa chịu nạp mạng? Hãy tiếp chưởng!

Trước phút giao đấu sanh tử, há có thể hoảng hốt? Vậy mà Đường Chấn Anh lại thất thần giật mình, Lã Mộng Long đã sấn lên, tay tả phóng chưởng tới mặt chàng.

Đường Chấn Anh bất ngờ trở tay không kịp, vội di chân ngang sang hai bước, nhưng Lã Mộng Long đã như bóng với hình, vung tay hữu chộp tới đầu vai của chàng.

Chàng rùn người né tránh, Lã Mộng Long chưa buông tha, tung liền ba chưởng ba quyền liên hoàn, quyền chưởng như long ngâm hổ rống, ù ù chấn nhĩ.

Đường Chấn Anh mất hết tiên cơ, đành phải né tránh và thoái lui, thầm nghĩ từng nói thanh toán Mai Chưởng Tản Nhân, ngay cả với gã tiểu tử này mình còn khó bề đối phó, còn nói gì đến việc báo cừu rửa hận cho sư môn? Thế là chàng gầm lên một tiếng, liền thi triển hai kỳ chiêu “Phất Phong Thương Nguyệt” và “Tiếu Chỉ Âm Sơn”, trên nhắm tới Ấn Đường, dưới đánh vào Đan Điền cùng một lúc, vô cùng lợi hại.

Lã Mộng Long thấy chàng trở tay phản kích, cười lạnh một tiếng, nói :

– Khá lắm!

Hai tay sử chiêu “Hoàng Hạc Hộ Tố”, tay hữu hất lên, tay tả chém xuống hóa giải thế công kích lợi hại của đối phương, tiếp đó sử chiêu “Bá Vương Thôi Sơn”, lưng hơi cúi, hai tay cùng đẩy mạnh về trước ngực Đường Chấn Anh, thần tốc dị thường.

Đường Chấn Anh thấy đối phương phá chiêu và xuất chiêu quá mau lẹ, thì thầm thán phục, cũng không tránh né, không nhường nhịn, liền dùng chiêu “Dã Mã Phân Tung”, hai cánh tay chập lại để phân khai song chưởng của đối phương, đồng thời giơ chân hữu thúc mạnh lên hạ bộ của Lã Mộng Long theo thức “Khôi Tinh Đạp Đẩu”.

Song chưởng của Lã Mộng Long bị đập vào hai cánh tay chập cứng của Đường Chấn Anh thì hơi tê dại, thầm nghĩ: “Không thể coi thường đối phương!”.

Vội phất ống tay áo bên tả, chiêu “Phi Phong Loạn Vũ” tạo nên nhiều đóa hoa sen bảo hộ thượng bàn, tay hữu thì chém xuống chân hữu của Đường Chấn Anh, thân hình đứng nguyên vị không né tránh.

Đường Chấn Anh dùng mười thành công lực vào chân hữu, không ngờ đối phương chẳng né tránh mà lại chém bàn tay xuống, tức là hắn dùng thủ pháp “Đại Lực Kim Cương chỉ”, hoàn toàn dựa vào chân lực nội gia, nếu chàng cứ thúc chân lên, ắt sẽ đứt gân gãy xương, hóa thành tàn phế, chưởng chưa đến, chưởng phong đã quạt tới hung mãnh, chàng vội rụt chân về.

Chân tuy thu về, nhưng chưa chạm đất, tay của đối phương vừa hạ xuống, chân chàng lập tức phóng tới ngực Lã Mộng Long theo chiêu “Nộ Cẩu Đăng Sơn”.

Lã Mộng Long thấy chàng ứng biến tùy ý, tiến thoái xảo diệu như vậy mới hoàn toàn hết khinh địch, song vẫn chưa chịu lùi, thấy chân hữu của chàng đá lên, thì tay hữu đang chém xuống lập tức hóa thành trảo, sử chiêu “Kim Tỏa Phọc Long” mà chộp bắt chân chàng.

Đường Chấn Anh khôn ngoan đã sớm liệu đến chiêu này của đối phương, bất quá đòn chân chỉ là hư chiêu, không chờ trảo của đối phương chộp bắt, đã di chuyển gối, đùi bất động, chân vặn chéo, lại đạp xuống hạ bàn của Lã Mộng Long, chiêu biến cực nhanh, táng đởm kinh hồn.

Nào ngờ Lã Mộng Long trong lúc trở tay hữu thì tay tả quét xuống chân trụ của chàng theo chiêu “Cổ Thụ Bổn Căn”, tưởng chàng muốn tránh cũng chẳng kịp.

Miêu tả thì dài, kỳ thực các động tác xảy ra đồng thời, khó phân trước sau, hai thiếu niên anh tuấn đều xuất kỳ chiêu công kích đối phương, đồng thời cũng bị đối phương công kích, cùng là cương mãnh thần tốc, muốn biến chiêu đã không kịp.

Đã thành thế lưỡng bại câu thương, nhưng cả hai đều là danh sư cao đồ, lâm nguy bất loạn, cả hai cùng thoái lui để hóa giải hiểm cảnh.

Đường Chấn Anh và Lã Mộng Long qua một hồi cận chiến, đều biết đối phương ngang sức với mình.

Lã Mộng Long đứng lại rồi lập tức vung hai ống tay áo lên, quát :

– Tiểu tử họ Đường kia, hãy tiếp chiêu của ta!

Lời chưa dứt, từ trong hai ống tay áo đã phóng ra hai luồng khói mỏng màu tím, cách nhau một trượng mà ám kình tiềm lực kinh người ập về phía Đường Chấn Anh.

Đây chính là tuyệt kỹ “Tử Dương Trung Khí chưởng” danh chấn võ lâm của phái Nga Mi.

“Tử Dương Trung Khí chưởng” được các phái tôn là chưởng pháp thượng thừa, song Lã Mộng Long tuổi trẻ, công lực tu dưỡng chưa đến mức hỏa hầu, nên chưởng phát ra tử quang quá yếu, mới được vài ba thành, vậy mà xem chừng đã khó bề đối phó.

Đường Chấn Anh vừa nhìn là biết ngay tuyệt học của bổn phái. May mà chàng cũng từng luyện nó, nhưng chưa hề thi triển, nay thấy Lã Mộng Long sử dụng bèn cũng thử phản kích xem sao.

Bèn đề tụ chân khí vào Đan Điền, vận hành ra hai tay, mũi xì một tiếng mạnh, hai tay cùng tống ra hai luồng tử quang, độ đậm lạt cũng như của Lã Mộng Long.

Bốn luồng tiềm lực đập vào nhau nghe “binh” một tiếng lớn, tử quang tung tóe thành những lớp sóng, từ mặt đất bốc lên cuồng phong khiến lá cây rụng lả tả.

Đôi bên bất phân thắng bại.

Lã Mộng Long thấy đối phương cũng sử dụng “Tử Dương Trung Khí chưởng” thì vô cùng ngạc nhiên, sau đôi phút sững sờ, mới quát :

– Ngươi xem đây!

Hắn vung tay hữu, ba đạo lam quang bay tới thượng, trung và hạ bàn của Đường Chấn Anh.

Đường Chấn Anh biết ngay là ám khí “Lãnh Hương Tiêu Hồn Mai” mà bọn bịt mặt đã dùng, chàng bèn phách không một chưởng, đồng thời nhún chân lướt ngang qua ba bước.

Cả ba bông lam mai đã bị chưởng của chàng đánh rớt.

Chàng cười ha hả, sang sảng nói :

– Nếu ngươi quả có chân tài thực học thì cứ việc thi triển cho bằng hết đi, chứ sử dụng mấy thứ ám khí tầm thường ấy chỉ e bị người ta chê cười.

Lã Mộng Long lạnh lùng đáp :

– Ngươi chớ ngông cuồng, để ta xem ngươi tài giỏi…

Lời chưa dứt, hai vai đã động, người sấn tới.

Đường Chấn Anh lần này không chịu mất tiên cơ như lúc đầu, vừa thấy hắn di động thì đã xuất chưởng nghênh tiếp.

Lã Mộng Long biết rằng trận này nếu không dốc hết sở học bình sinh, thực khó dự liệu được sinh tử, nên trong lúc sấn tới đã vận khí vào song chưởng, chuẩn bị phát chiêu.

Đường Chấn Anh vượt ngàn dặm đường tới đây, cốt tìm Lã Chí Viễn và Lăng Ba Nhất Yến, nhưng tình thế trước mắt nếu không đánh bại Lã Mộng Long thì làm sao đòi tìm được hai kẻ kia? Vì thế chàng nóng lòng hạ sát thủ, lúc này sử dụng liên tiếp mấy thức quyền, chưởng, chỉ, trảo.

Một cặp thiếu niên anh tuấn, thế như mãnh hổ hạ sơn, sát khí đằng đằng.

Nói thì chậm, diễn biến cực nhanh, chỉ thấy tay áo cuốn gió vù vù, quyền tung như mưa, chưởng phóng ào ào, song phương đã trao đổi hai mươi hiệp, bốn mươi lần trực diện đối đòn.

Cây cối xung quanh bị chấn động vì chưởng phong của hai người cứ chao động không ngớt, lá tùng lá trúc rơi rụng lả tả.

Một trận đấu ác liệt, cường sinh nhược tử, chân tồn giả vong.

Trận này chưa phân thắng bại thì chưa thể dừng tay, máu chưa đổ thì chưa cam nguyện.

Một bên quyết theo lệnh phụ thân, gặp kẻ nào xâm nhập thạch thất thì phải hạ sát lập tức, bất cần luận sự.

Một bên thì quyết vì sư môn chết oan mà báo cừu rửa hận. Đã đến thì không sợ, đã sợ tất chẳng đến.

Cả đôi bên đều sử dụng bình sinh tuyệt kỹ, giao đấu đã gần hết canh hai mà vẫn bất phân thắng bại. Thật là kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài.

Đường Chấn Anh càng đánh càng hăng, hỏa khí bừng bừng, chẳng những không hề mệt mỏi, mà tinh thần lại còn thêm phấn chấn, cảm thấy đại huyệt huyền quan khắp châu thân cùng kỳ kinh bát mạch như có dòng nhiệt lưu hừng hực chẳng dừng, dẻo dai dị thường.

Thân thể chàng được dòng nhiệt lưu kia thôi động tứ chi như phát xuất nguồn tiềm lực vô danh, thế như trường giang đại hải.

Kỳ tích này chính chàng cũng chẳng hiểu vì sao, bởi từ ngày luyện võ đến nay, chàng chưa từng có cảm giác như hiện tại.

Trong lúc giao đấu sinh tử, há có thể phân tâm? Chỉ trong khoảnh khắc phân tâm của chàng, Lã Mộng Long đã dùng tay tả sử chiêu “Phản Bối Đồng Tử Chưởng” giáng tới mặt, tay hữu liên tiếp búng các ngón vào các yếu huyệt Huyền Cơ, hai chiêu cùng phát vô cùng nguy hiểm.

Đường Chấn Anh giật mình, vội phất tay áo sử chiêu “Khai Sơn Đoạn Hà” trong “Bàn Cổ Khai Thiên luân pháp”.

Lã Mộng Long xuất chiêu liên hoàn, thấy sắp đắc thủ, không ngờ đối phương phất tay, giống như cánh hạc, một luồng tiềm lực cương mãnh phóng ra, khiến hắn chưa biết lộ số chiêu thức là gì, nên hắn không dám nghênh tiếp, vội thu hai tay về.

Nhưng ngay lúc đó, Đường Chấn Anh lại thi triển tuyệt chiêu “Điểm Túc Tam Thiên Chuyển”, thân hình chàng đã lượn ra phía sau lưng Lã Mộng Long, tay giơ lên nhắm đánh vào huyệt Mạng Môn, song lại không nỡ hạ độc thủ, mà nhắm hai vai của hắn để phóng nhẹ hai quyền.

Lã Mộng Long hoàn toàn không phòng vệ. Hắn đã giao chiến quá lâu, tinh thần không khỏi nao núng, chẳng thể ngờ đối phương đánh đến nửa đêm mà còn có thân pháp di chuyển thần tốc như thế, hắn hoa mắt chưa biết Đường Chấn Anh di chuyển hướng nào thì bỗng cảm thấy sau lưng có điều bất thường, “bịch, bịch” hai tiếng, hai vai đã trúng quyền đau điếng.

– Ối!

Hắn kinh sợ kêu lên, quay mình vung chưởng, nhưng Đường Chấn Anh đã đứng xa ngoài một trượng.

Chàng nắm tay, nói :

– Đường mỗ cần tìm tội phạm là phụ thân người, Mai Chưởng Tản Nhân Lã Chí Viễn cùng Lăng Ba Nhất Yến, không liên quan đến ngươi, cho nên ta không hạ độc thủ giết ngươi vô cớ. Hai ta đến đây hãy tạm dừng, mong ngươi có thể để ta gặp phụ thân ngươi.

Theo quy củ võ lâm, đối phương đã tha chết thì mình phải đáp lại thịnh tình, nhưng Lã Mộng Long vừa bị đòn vào vai, lại chưa chịu phục, chỉ cười ngạo mạn đáp lời :

– Mai Chưởng Tản Nhân là gia phụ, ngươi nói về phụ thân ta như vậy, ta há có thể dung tha cho ngươi? Huống hồ, vừa rồi chỉ là ta nhất thời sơ ý, nên ngươi mới đắc thủ như thế. Hai ta mới chỉ dùng quyền cước, muốn phân thắng bại, hãy đem binh khí ra đấu thư hùng một phen.

Hắn xoay cổ tay, tiếng kim loại siết vào nhau nghe chói tai, hai thứ binh khí từ sau lưng đã được rút ra khỏi bao, chính là Kim Mai Hạc Chưởng, mà mấy kẻ bịt mặt đã dùng lần trước.

Đường Chấn Anh thấy hắn ngang ngược như vậy thì nghĩ: “Nếu biết sớm thế này, vừa rồi chẳng nên nương tay”.

Chàng cả giận, thấy không thể có thiện ý với kẻ ác.

Chẳng thèm nói thêm, rút ngay Nhật Nguyệt song luân ra. Chỉ thấy kim quang loang loáng.

Lã Mộng Long dùng Hạc chưởng che ngực, Kim mai hộ thân, chăm chú quan sát binh khí trong tay đối phương, lộ vẻ kinh dị hỏi :

– Phải chăng trong tay ngươi là bảo vật của võ lâm, tức Nhật Nguyệt song luân?

Đường Chấn Anh đặt chéo Song luân, rành rọt nói :

– Đã biết Nhật Nguyệt song luân, ắt hiểu sự lợi hại của nó. Nếu ngươi hiểu lẽ tiến thoái, hãy đưa ta đến gặp lệnh tôn…

Lã Mộng Long gằn giọng :

– Tiểu tử họ Đường kia, muốn gặp gia phụ không khó, nhưng phải thắng được Kim Mai Hạc Chưởng của ta đã. Nếu không, chỉ e máu ngươi sẽ nhuộm đỏ Siêu Thiên phong.

Nói đoạn liền giơ Mai chưởng định xông tới, bỗng nghe từ trong rừng có tiếng nói vọng ra :

– Đại ca động thủ với ai vậy? Hèn chi không thấy đại ca quay về.

Lời chưa dứt, đã thấy một bóng đen từ trên cành cây đáp xuống trước mặt hai người.

Người này thân pháp vô cùng uyển chuyển khinh linh, chân vừa chạm đất, đã rút binh khí ra cầm tay, cũng là Kim Mai Hạc Chưởng. Chỉ trong chớp mắt đã thực hiện xong từng ấy động tác, vừa nhìn đã biết là một con quỷ khôn ngoan.

– Ngươi là ai?

Đường Chấn Anh chỉ tay hỏi Lã Mộng Long, gần như đồng thời với tiếng nói của người vừa đến.

Lã Mộng Long trả lời trước câu hỏi của đối phương :

– Là tiểu đệ của ta, Lã Mộng Giao.

Đoạn chỉ Đường Chấn Anh nói tiếp :

– Gã là Đường Chấn Anh, bế quan đệ tử của Vô Tướng thiền sư, cừu nhân không đội trời chung của phụ thân.

Đường Chấn Anh nghe kẻ kia là tiểu đệ của Lã Mộng Long thì lại càng lấy làm kỳ quái, không rõ Lã Chí Viễn có bao nhiêu nhi tử? Bất giác chàng đưa mắt nhìn Lã Mộng Giao.

Chỉ thấy gã kia có thần hình y hệt Lã Mộng Long, y phục cũng vậy, chỉ khác màu sắc, y phục của Lã Mộng Long màu lục, còn của gã này là màu hồng xen lẫn màu trắng, tuổi cũng suýt soát nhau.

Lã Mộng Giao nghe ba chữ Đường Chấn Anh, nhìn Nhật Nguyệt song luân, đột nhiên nói với đại ca của gã :

– Đệ biết hắn là ai rồi. Tứ sư huynh của chúng ta đã chết vì Song luân của hắn.

Lã Mộng Long bỗng nhớ ra, nói :

– Đệ không nhắc, huynh cũng quên đi mất. May sao hắn tự dẫn xác đến đây, ta khỏi phải tốn công đi tìm. Hôm nay phải báo cừu rửa hận cho tứ sư huynh.

Lúc này Lã Mộng Giao đã xoay người, Mai chưởng cùng giơ lên trước ngực, bước về phía Đường Chấn Anh, thần thái bình thường, bề ngoài không bộc lộ điều gì, nhưng không qua được tinh nhãn của Chấn Anh, phân minh là gã đang ngầm vận khí chuẩn bị xuất chiêu.

Đường Chấn Anh chỉ mũi luân về phía trước, hỏi :

– Ai giết tứ sư huynh của ngươi? Tứ sư huynh của ngươi tên là gì? Mạng người là trọng, chớ có ngậm máu phun người.

Lã Mộng Giao cười khẩy, nói :

– Hảo hán đã làm thì phải dám nhận, đừng đổ cho người khác. Ngươi đã sát nhân, còn chối cãi nữa ư? Tại Phong Liễu đường trên Nga Mi Kim Đỉnh, ngươi đã hạ sát tứ sư huynh của ta…

Lời lẽ rít lên chói tai, đầy vẻ căm hờn.

Nghe hắn nói, Đường Chấn Anh mới biết, thì ra tứ sư huynh chính là gã râu tím đã bị chính đồng bọn của hắn dùng “Lãnh Hương Tiêu Hồn Mai” hạ sát để diệt khẩu, sao lại đổ vấy cho chàng? Chàng định giải thích thì Lã Mộng Giáo đã đến gần.

Bốn mắt nhìn nhau, cùng ồ lên một tiếng.

Đường Chấn Anh trông rõ diện mạo của Lã Mộng Giao quá quen thuộc, tựa hồ đã gặp ở đâu, nhưng chưa nhớ ra.

Lã Mộng Giao thì thấy diện mạo của Đường Chấn Anh quá thiện lương, đồng thời có cảm giác vô cùng thân thiết.

Hai người đối diện nhau, nội tâm cùng một cảm ứng, cả hai không thốt nên lời, ý định đối kháng cũng mất đi, cùng nghĩ những chuyện đâu đâu…

Lã Mộng Long đứng cách xa hai trượng, thấy thần sắc hai người kia như vậy, chưa hiểu lý do, cứ ngỡ họ đang còn vận khí hành công, liền gằn giọng nói :

– Đệ phải cẩn thận đó, gã họ Đường kia chẳng phải hạng tầm thường.

Thanh âm rền vang như tiếng sấm, Đường Chấn Anh và Lã Mộng Giao cùng giật mình.

Lã Mộng Giao bất giác dùng chiêu “Lực Chấn Sơn Ngục” đẩy Hạc chưởng trong tay hữu tới trước ngực Đường Chấn Anh.

Cây Nguyệt luân trong tay tả của Đường Chấn Anh sử chiêu “Xảo Phong Liên Hoàn” gạt Hạc chưởng của đối phương, tay hữu xuất chiêu “Phong Tảo Hà Diệp” mà trả đòn bằng Nhật luân.

Kim mai của Lã Mộng Giao đâm chéo lên loang loáng, vừa phá chiêu vừa hoàn chiêu, trông thật ảo diệu.

Đường Chấn Anh thầm khen, Song luân bắt chéo nhau theo thế “Huy Đốn Sơ Khai”, vừa chặt vừa đâm.

Đây là chiêu kết thúc của “Bàn Cổ Khai Thiên luân pháp”, vừa nhanh vừa mạnh, vô cùng lợi hại.

Lã Mộng Giao thấy luân thế hung mãnh, vội lánh ngang né tránh, tay tả thúc Kim mai lên mặt đối phương theo chiêu “Lạc Anh Tân Phân”, tay hữu quét Hạc chưởng vào ngang sườn chàng theo chiêu “Tật Đạn Tỳ Bà”, nửa thực nửa hư, hai chiêu cùng phát, thật là nguy hiểm.

Đường Chấn Anh lùi lại, Nguyệt luân sử chiêu “Hồi Đầu Vọng Nguyệt” và “Trảm Vỹ Đoạn Kiều”. Chỉ nghe “keng” một tiếng, Nguyệt luân và Hạc chưởng đã đập vào nhau, tóe lửa như đom đóm.

Cú va đập này khá mạnh, cả hai người cùng cảm thấy hổ khẩu tê dại, công lực của đối phương chẳng phải tầm thường.

Lã Mộng Giao hét lên một tiếng, cây Hạc chưởng chọc tới mạng sườn Đường Chấn Anh, đồng thời cây Kim mai sử chiêu “Hàn Hương Thổ Nhị” giáng xuống xương bánh chè của chàng ở hạ bàn, trên dưới cùng công, cương nhu đều có.

Đường Chấn Anh thấy đối phương xuất kỳ chiêu, không dám khinh suất, nghĩ rằng nếu không thi triển tuyệt chiêu, e khó phân cao thấp, liền vung Song luân thi triển liên tiếp ba chiêu “Long Bàn Hổ Cứ”, “Kim Kê Đấu Linh” và “Đại Bàng Triển Sí”.

Ba chiêu này đánh ra liền một hơi, biến hóa kỳ ảo, chỉ thấy luân ảnh nhấp nhoáng, phong thanh ù ù như sấm rền, công lực ghê gớm, tưởng đối phương có cánh cũng khó bay thoát.

Lã Mộng Giao thấy luân như sóng cồn quây tròn lấy toàn thân gã, phong thế uy mãnh, thổi phần phật vào y phục của gã thì rùng mình sởn gáy.

Lã Mộng Long đứng ngoài quan chiến, thấy vậy thì cả kinh, định vung binh khí xông tới, nhưng Lã Mộng Giao hoàn toàn không hoảng hốt khi lâm nguy, lưng rùn xuống, hai chân dạng theo thế thái cực, cây Kim mai trong tay tả xoay mấy vòng, chỉ thấy biến hóa lưu động vun vút, chính là Kim mai hợp nhất với thân hình, cây Hạc chưởng trong tay hữu thuận thế quét lia lịa trên dưới trước sau, tạo nên bức thành đồng vách sắt, mưa không lọt, gió không thấm, chính là tuyệt chiêu thứ nhất “Mai chưởng Hợp Bích” trong “Mai Hoa Đóa Đóa Chưởng Mãn Thiên”.

Tuyệt chiêu này quả không tầm thường, lập tức hóa giải ba kỳ chiêu liên hoàn của Đường Chấn Anh.

Đường Chấn Anh thấy chiêu số vô dụng, thầm kinh ngạc, nhưng chàng không đợi đối phương phản kích, tay hữu chàng sử Nhật luân, thi triển chiêu “Luân Tảo Cửu Thiên”, tay tả dùng Nguyệt luân xuất chiêu “Ngọc Phán Hàng Không”, đồng thời thi triển thân pháp thượng thừa “Phi Phùng Điện Thuyền” nhanh như lưu tinh, nhẹ như làn gió.

Đây là hai tuyệt chiêu trong chín tuyệt chiêu cuối cùng, cộng với thân pháp khinh linh, chỉ thấy luân ảnh đầy trời, nhật nguyệt đan thành tấm lưới bạc loang loáng, luân phóng chói tai, bao vây Lã Mộng Giao.

Lã Mộng Giao sử dụng “Mai Hoa Đóa Đóa Chưởng Mãn Thiên” mà không đương nổi, thì trong lòng hoảng loạn, thấy không hóa giải được, bèn nghiến răng quét mạnh Mai chưởng một trận rồi búng mình vọt ra ngoài.

Cũng may cho hắn, ngay lúc ấy, Lã Mộng Long xuất thủ xông vào tiếp cứu. Hai huynh đệ hắn cùng kêu lên “cẩn thận!” rồi cùng tháo lui.

Đường Chấn Anh há có thể bỏ qua cơ hội, Song luân lập tức đánh về hai phía, có hai tiếng xé vải vang lên.

Huynh đệ Lã Mộng Long bị mỗi luân xé rách ống quần, toát mồ hôi lạnh.

Kỳ thực, vì Đường Chấn Anh nhân nghĩa nên hạ thủ lưu tình, nếu không thì chàng đã làm cho huynh đệ đối phương gãy chân, thành kẻ tàn phế rồi.

Lã Mộng Giao còn định tái chiến, nhưng Lã Mộng Long đã kéo áo gã, thế là cả hai bay vào trong cánh rừng mất hút.

Đường Chấn Anh thấy huynh đệ đối phương thất bại bỏ chạy, nhất định là quay vào trang viện, chàng không thể để mất tung tích, bèn phóng người đuổi theo.

Rừng rộng cây dày, cành lá đan xen, ngẩng đầu chẳng thấy trăng sao, giơ tay chẳng nhìn rõ ngón, rừng hoang u ám dị thường.

Đường Chấn Anh căn cứ vào tiếng động phía trước mà bám theo, nhưng một lát sau thì không còn nghe thấy gì nữa. Bốn phía xung quanh chàng chỉ là những hình thù cây lá kỳ dị, quái đản như ma quỷ.

Tuy không phải là kẻ nhát gan, chàng cũng bất giác rùng mình, vội dùng Song luân thi triển “Nhị Lang Đản Sơn” để bảo hộ sau lưng và trước mặt, đề phòng bất trắc.

Võ lâm có câu “vào rừng không truy đuổi, thấy đèn phải thổi tắt”, Đường Chấn Anh đã vi phạm lời dặn ấy, nay tiến chẳng được mà lùi cũng không xong, hối hận cũng đã muộn.

Chàng bèn bám vào cành cây leo lên cao để nhìn cho rõ, bỗng nghe có tiếng cười lạnh lùng :

– Chết đến nơi còn không tự kết liễu cho xong, chờ bị người khác phân thây hay sao?

Chính là giọng nói của Lã Mộng Long, song Đường Chấn Anh không biết hắn đang ẩn thân ở chỗ nào.

Chợt có thanh âm vang lên phía sau lưng chàng :

– Đừng nói hạng vô danh tiểu tốt như ngươi, ngay đến cao thủ đương kim võ lâm đã vào cánh rừng này cũng khó bề thoát chết…

Đường Chấn Anh quay phắt lại, không thấy ai, nên cả giận nói :

– Tiểu tử đã chạy trối chết, nay còn lẻn vào rừng, giấu đầu hở đuôi, sao đáng mặt anh hùng…

– Tiểu tử ngông cuồng, tiếp chiêu!

– Đại ca, đừng…

Đường Chấn Anh chưa dứt lời, đã nghe tiếng quát của Lã Mộng Long trước, tiếp đến là lời của Lã Mộng Giao, dường như có ý ngăn cản, ngẩng nhìn lên thấy một vệt đen và dài bay tới đầu, liền vung chưởng phách không đánh tới, miệng quát :

– Biến!

Mấy tiếng rắc rắc, thì ra là một tấm ván đã bị trúng chưởng của chàng gãy thành mấy đoạn rớt xuống.

Bỗng quanh chàng chợt rùng rùng nổi lên những tiếng ong bay vo ve quái đản, thanh âm càng lúc càng lớn và rộng.

Đường Chấn Anh kinh ngạc, ngầm vận chân khí, ngưng thần quan sát, chỉ thấy bốn phương tám hướng có hàng ngàn vệt đen bay lượn nháo nhào, một vệt sáng bay tới, rồi lửa bừng lên, ngay trước mặt chàng.

Cánh rừng âm u chợt bừng sáng, Đường Chấn Anh chưa đủ kinh nghiệm, không biết rằng phải dập tắt ngay đốm lửa, thành thử thân hình chàng bị lửu chiếu lồ lộ thành một hình khối màu đen.

Bầy ong trong rừng đêm lập tức phát hiện mục tiêu liền bu lấy chàng. Khi chàng nhận ra đây là loại độc phong màu vàng, thì chúng đã kéo đến công kích chàng từ bốn phía.

Đường Chấn Anh lúc này mới hối hận, lẽ ra vừa rồi chàng không nên đánh nát tấm ván do Lã Mộng Long ném tới, là tấm ván của tổ ong.

Chàng vội dùng Song luân thi triển chiêu “Phong Vân Tế Hội”, đẩy ra hai luồng kình phong mạnh như gió lốc.

Bầy độc phong bị thổi bạt đi, Đường Chấn Anh thừa cơ bước tới đạp chân xuống dập tắt đốm lửa để bầy ong không nhìn thấy mục tiêu, sau đó chàng sẽ tính cách thoát thân.

Ai ngờ đốm lửa kia được người dụng công chế tạo, hoàn toàn không phải như lửa thường, nếu không há nó chẳng đã đốt trụi cánh rừng và thiêu chết đàn ong rồi ư? Bởi vậy, khi Đường Chấn Anh vừa đạp xuống, đốm lửa lại phát quang tung tóe, chàng kinh ngạc nhấc chân lên, thì đốm lửa kia bật văng ngay ra xa một trượng, tới gốc cây đại thụ.

Trong lúc đó, hàng ngàn vạn con ong đã lại ào ào bay tới tập kích, Đường Chấn Anh gầm lên một tiếng, phóng ra “Tử Dương Trung Khí chưởng”, kình lực của nó làm cho bầy độc phong chết như rạ.

Ánh lửa đã chuyển sang phía khác, những tưởng bầy ong phải di chuyển mục tiêu tấn công, nào ngờ, đàn ong này đã được người huấn luyện, một khi đã phát hiện hơi người, tất cứ lăn xả vào mà đốt và hút máu cho đến khi người đó phải chết mới thôi.

Đường Chấn Anh vừa dùng luân, vừa phóng chưởng, hạ sát vô số độc phong, song chúng quá nhiều, cứ bâu vào chàng từ tứ phía không dừng, càng lúc càng hăng, tưởng dù Bá Vương có sống lại cũng sẽ bị chúng đốt chết.

Đường Chấn Anh đã qua nửa đêm ác chiến với huynh đệ Lã Mộng Long, nay lại phải liên tiếp dùng nội gia chân lực đối phó với bầy độc phong, sau hơn nửa giờ, người đã mệt mỏi, cảm thấy lực bất tòng tâm.

Có lúc Song luân bị vướng vào cành cây, bầy ong được thể xông tới cận thân, may mà chàng kịp thời phát giác nên mới tránh được nguy nan, nhưng cũng toát mồ hôi đầm đìa.

Độc phong trận như một tấm lưới dày, người dù có ba đầu sáu tay, tưởng cũng khó bề thoát thân.

Lát sau, Đường Chấn Anh đã kiệt sức, hiển nhiên chàng biết mình sắp tử thương trong độc phong trận giữa cánh rừng này…


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.